1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những cây cầu ở quận Madison - Robert James Waller

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi zulu, 01/03/2003.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Những chiếc cầu của những ngày thứ ba
    Ngồi nơi tay lái chiếc xe tải con, Robert Kincaid đi ngang qua hộp thư trước nhà Richard Johnson một giờ trước khi mặt trời mọc. Ông kẹp ly cà phê giữa hai đùi cho khỏi đổ. Ông kẹp ly cà phê giữa hai đùi cho khỏi đổ. Ông đưa mắt nhìn ngôi nhà trắng dưới ánh sáng nhạt của mặt trăng sắp tàn và gật gù nghĩ đến sự ngu xuẩn của con người, của một số người, của phần lớn con người. ít ra họ cũng có thể uống brandy và đừng đóng sầm cửa lại khi đi ra chứ.
    Francesca nghe thấy tiếng máy xe. Bà đang nằm duỗi trên giường. Bà tưởng tượng Robert Kincaid, tóc bay theo gió, tay nắm vô lăng, tay kia kẹp điếu Camel.
    Bà lắng nghe tiếng máy xe trên con đường đá về phía cầu Roseman.
    Ông đậu xe khá xa cầu Roseman để tránh chiếc xe khỏi vướng vào tấm chụp. Ông lấy sau xe ra một đôi ủng thường ra và mang đôi bằng cao su vào. Đeo ba lô vào lưng, giá ảnh có dây móc vào vai trái, tay phải thì cầm chiếc ba lô thứ hai, ông theo lối dốc gồ ghề xuống dòng sông.
    Chiến thuật của ông là chụp cây cầu từ một góc độ thế nào để tạo ra tính chặt chẽ của bố cục, bằng cách lấy thêm một phần con sông và tránh lấy những hình vẽ bậy trên tường nơi lối vào cầu. Những sợi dây điện thoại phía sau cũng là một vấn đề, nhưng ông vẫn có thể giải quyết được nếu khéo xử lý.
    Ông lấy chiếc máy Nikon ra, lắp một cuộn phim Kodachrome rồi gắn máy ảnh lên giá. Ông thay ống kính 24 li bằng ống kính 105 li ông ưa chuộng hơn. Phía Đông, một làn ánh sáng xám dâng lên, ông bắt đầu tìm bố cục. Dịch chân giá ảnh một mét về phía trái, giữ thăng bằng cho cái giá nặng cắm trên đất bùn. Giữ dây treo máy ảnh cuộn nơi cổ tay trái, đó là một thói quen ông luôn làm khi chụp ảnh gần bờ nước, nhằm đề phòng giá có đổ thì cũng không hư máy ảnh.
    Vầng đỏ ối đã xuất hiện, bầu trời sáng ra. Hạ thấp máy ảnh xuống 10 phân, điều chỉnh lại giá. Chưa được. Năm mươi phân nữa về phía trái. Lại điều chỉnh giá. Xoay máy ảnh trên giá. Vặn ống kính vào cỡ f/8. Ước lượng chiều sâu của cánh đồng, lấy cự ly, gắn chốt mềm lên nút tháo. Mặt trời lên 40 phần trăm so với đường chân trời, màu sơn cũ của chiếc cầu chuyển thành mầu nâu thẫm, đúng như ý ông muốn.
    Vào lúc ông sắp sửa bấm nút, một vật gì đó thu hút sự chú ý của ông. Ông nhìn kỹ qua ống ngắm. ?Có cái gì móc nơi thành cầu vậy nhỉ??o - Ông lẩm bẩm?o - Hôm qua mình đâu có thấy?o.
    Canh lại giá đỡ. Chạy dọc theo bờ sông, trong khi mặt trời mọc lên sáng rực sau lưng. Một mảnh giấy găm cẩn thận nơi thành cầu. Nhắc mảnh giấy ra, bỏ cả giấy lẫn đinh ghim vào túi. Trở lại bờ sông, xuống dốc, lại đến sau máy ảnh. Mặt trời đã lên 60 phần trăm.
    Hổn hà hổn hển vì chạy một quãng dài. Chụp một tấm khác. Lặp lại hai lần cho chắc. Không một ngọn gió. Cỏ bất động. Chụp ba tấm độ dài ba giây và hai tấm một giây rưỡi cho chắc ăn.
    Vặn ống kính vào cỡ f/16. Lặp lại toàn bộ tiến trình. Xách giá ảnh ra giữa sông. Cắm giá xuống, bùn quậy lên đục ngầu. Chụp lại toàn cảnh. Lắp một cuộn phim khác. Thay ống kính. Gắn ống 24 li, nhét ống 105 vào túi. Lội ngược nước, tiến lại gần cầu. Lấy lại tầm ngắm, chỉnh lại ánh sáng. Lại bấm máy.
    Để máy nằm dọc, làm lại bố cục. Anh mới nhưng vẫn phương pháp cũ. Không có một điều gì lệch lạc trong từng cử động. Mọi cử động đều đã từng lặp lại hàng trăm lần, mọi cử động đều có lý do. Tất cả đều được tính toán một cách hiệu quả và chuyên nghiệp. Lại bước lên bờ, qua cầu, mang dụng cụ chạy đua với mặt trời. Nhắm vào những phần khó nuốt nhất. Lấy máy thứ hai với cuộn phim chụp nhanh ra, quàng cả hai máy vào cổ, leo lên ngọn cây phía sau chiếc cầu. Tay bám vào cành cây, càu nhàu luôn miệng. Lên đến ngọn rồi, chọn một góc độ để chụp cả chiếc cầu, nơi mà dòng sông và ánh sáng đan vào nhau. Chụp riêng mái cầu, chụp toàn cây cầu... chụp luôn chín ?pô?o. Thay máy. Chụp tốc độ nhanh. Thêm mười hai tấm nữa.
    Leo xuống cây. Xuống bờ sông. Lại cắm giá, lắp phim, lấy cảnh nhưng lần này ở phía bên kia cây cầu. Lấy máy thứ ba ra, một máy SP cũ. Bây giờ chụp đen trắng. ánh sáng trên cầu thay đổi từng giây.
    Sau hai mươi phút làm việc bằng sự tập trung cao độ mà chỉ người lính, người y sĩ giải phẫu hoặc nhiếp ảnh gia mới hiểu được, Robert Kincaid mới bỏ các ba lô vào xe, lái xe ngược lại con đường đi đến cầu Roseman. Cầu Hogback còn cách độ 15 phút và ông có thể đến đó chụp một số ảnh. Bụi bay mù. Ông châm một điếu thuốc. Xe chạy qua ngôi nhà bằng gỗ quay về phía Bắc, qua trước hộp thư của Richard Johnson. Chẳng có dấu hiệu gì có Francesca trong đó. Nhưng mà mình hy vọng cái gì mới được chứ? Bà ta có chồng, có cuộc sống của bà, còn mình có cuộc sống của mình. Cái loại tình cảm phức tạp này có ích gì? Buổi tối quyến rũ, bữa ăn quyến rũ, người đàn bà quyến rũ. Thôi dừng lại ở đó được rồi. Nhưng mà, trời ơi, bà ấy đẹp quá chừng và nơi bà ấy có một cái gì rất lạ.
    Francesca đang làm việc trong chuồng gia súc khi ông lái xe qua. Tiếng kêu của bầy gia súc át cả tiếng động cơ. Robert Kincaid phóng như bay về phía cầu Hogback, chạy đua với ánh sáng ban mai.
    Nơi cây cầu thứ hai này, công việc diễn ra tốt đẹp. Cây cầu nằm giữa một thung lũng và sương mù phủ kín khi ông đến đó. ống kính 300 li cho phép ông lấy khung hình cả mặt trời chói lọi từ một góc cao phía trái, cả con đường lót đá trắng đẫm sương dẫn lên cầu và cả cây cầu.
    Rồi qua ống ngắm, xuất hiện một nhà nông điều khiển hai con ngựa phủ khăn nâu thẫm, kéo một chiếc xe dọc con đường sỏi trắng. Một trong những người cuối cùng còn lưu giữ truyền thống, Robert Kincaid mỉm cười tự nhủ. Ông biết ông sẽ có một bức ảnh quý và chưa gì đã nghĩ đến nó nằm trên tạp chí, bên cạnh một nền xanh trên đó in tiêu đề của bài phóng sự.
    Khi ông xong việc vào lúc 8h35, ông cảm thấy rất hài lòng. Công việc buổi sáng có kết quả. Những bức ảnh điền dã, cổ điển nhưng đẹp và chặt chẽ. Bức ảnh người nông phu và hai con ngựa có thể dùng để in trang bìa cũng được lắm. Ông đã chụp thừa một khoảng trống trên để có thể ghi chữ hoặc tiêu đề trên đó. Các biên tập viên tờ tạp chí vốn thích những bức ảnh nặng tính chuyên nghiệp như vậy. Chính vì thế mà họ rất tin vào ảnh phóng sự của Robert Kincaid.
    Ông đã dùng đến hết bảy cuốn phim. Ông tháo phim ra khỏi ba máy ảnh và thọc tay vào túi định lấy thêm ra ba cuộn nữa để lắp vào máy. ?Khỉ thật!?o, ngón tay trỏ ông chích vào cây kim găm. Ông không nhớ hồi nãy đả đút tờ giấy găm trên cầu Roseman vào túi. Quả thật ông quên bẵng đi. Ông móc tờ giấy, mở ra và đọc: ?Nếu ông muốn một bữa ăn tối khác vào giờ khi ?các con **** đêm cất cánh?o, tối nay hãy đến sau khi xong công việc, bất cứ lúc nào ông muốn?o.
    Ông không ngăn được mình mỉm cười khi tưởng tượng ra cảnh Francesca Johnson lái xe phóng về cây cầu Roseman trong đêm tối với mảnh giấy và chiếc đinh ghim. Năm phút sau, ông đã về tới thành phố. Trong khi cái anh ở trạm xăng Texaco bơm xăng vào xe và đo mức dầu ("vơi một nửa"), Kincaid vào phòng điện thoại. Cuốn niên giám mỏng đen sì vì những bàn tau đầy dầu nhớt. Có tất cả hai "R.Johnson", nhưng một người thì sống ngay tại thị xã. Ông quay số điện thoại theo địa chỉ kia và đợi. Francesca đang cho chú chó xù ăn dưới mái hiên khi điện thoại réo trong nhà bếp. Bà nhấc điện thoại khi chuông reo lần thứ hai:
    - Alô.
    - Xin chào, Robert Kincaid đây.
  2. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Bụng Francesca thắt lại, y như những ngày xa xưa. Một cơn nhói bắt đầu từ ngực đi lần xuống bụng.
    "Tôi đã nhận được lời nhắn của bà. Thư với lời thơ của W.B Yeats... Tôi sẵn lòng nhưng sợ là chắc phải đến muộn. Trời hôm nay khá đẹp nên tôidự định sẽ chụp cây cầu - tên nó là gì nhỉ - cây cầu Cedar chiều này. Chắc không thể xong trước 9 giờ đâu, mặc dù tôi rất muốn xong cho sớm. Chắc phải 9 rưỡi hoặc 10 giờ tôi mới đến được. Như thế có phiền bà không?"
    Không, bà không muốn vậy. Bà không hề muốn chờ lâu đến như vậy nhưng bà chỉ nói: "Ô, được chứ, ông cứ làm cho xong việc đi, đó là điều quan trọng nhất. Tôi sẽ chuẩn bị vài món, khi ông đến sẽ hâm lại".
    Rồi ông thêm: "Còn nếu bà muốn cùng đi với tôi thực hiện các bức ảnh thì cũng chẳng có vấn đề gì đâu. Chẳng làm gì trở ngại công việc của tôi đâu. Tôi sẽ ghé lại đón bà chừng lúc 5 giờ rưỡi".
    Francesca cân nhắc vấn đề. Bà rất muốn đi. Nhưng nếu ai thấy thì sao? Bà sẽ trả lời sao nếu như Fichard biết được?
    Cầu Roseman nằm phía trên của xa lộ mới xây cách chừng 50 mét. Chắc chẳng ai thấy mình đâu. Nhưng mà nếu có thì sao? Trong chưa đầy hai giây, bà quyết định: "Vâng, tôi rất vui lòng. Nhưng ông khỏi đón. Tôi sẽ lái chiếc xe tải nhỏ và gặp ông tại đó. Vào khoảng mấy giờ?"
    - Chừng 6 giờ nhé, được không? Thôi tạm biệt.
    Phần còn lại của ngày, ông ở trong thư viện của thị xã tham khảo, các số liệu cũ. Đây là một thành phố nhỏ, đẹp với một quảng trường xinh xắn đối diện với toà án, bóng mắt với một giỏ trái cây, một tý bánh mỳ kèm một chai côca mua trong quán ăn phía bên kia đường.
    Hồi nãy khi ông bước vào quán cà phê để mua côca, lúc đó hơi quá trưa một tý. Giống như cảnh một chàng cao bồi bước vào quán rượu trong phim weterrn, quán đang ồn ào bỗng ngưng bặt lại khi thấy người lạ khó chịu nhưng biết sao được, đây là một thành phố nhỏ. Một người xứ khác, một kẻ lạ mặt! Ai vậy? Hắn làm gì ở đây nhỉ?
    Có người bảo lão ta là phó nhòm đấy. Hồi sáng sớm người ta thấy lão nơi cầu Hogback với một lô máy ảnh.
    - Bảng số xe lão cho thấy lão từ bang Washington, tít phía Tây lại.
    - Cả buổi sáng lão ngồi trong phòng đọc báo Jimmy bảo hắn thấy lão đọc báo tìm thông tin về các cây cầu có mái che.
    - ừ, đúng vậy. Cậu Fisher ở trạm xăng Texaco, kể hôm qua lão ghé trạm và hỏi đường đến các cây cầu có mái che.
    - Tại sao lão lại quan tâm đến các cây cầu đó nhỉ?
    - Và tại sao lại chụp ảnh nữa?
    - Chẳng biết, nhưng dẫu sao thì tóc lão cũng để dài trông kỳ cục quá. Trong như một tên Beatles, hay người ta gọi là gì nhỉ? à, bọn hippie, phải không nhỉ?
    Tiếng cười vang lên từ các bàn trong quán.
    Kincaid lấy coca rồi đi ra, mọi cặp mắt đều dán theo ông khi ông đẩy cửa. Có lẽ ông đã phạm sai lầm khi mời Francesca, xét theo lợi ích của bà, chứ không phải cho ông. Nếu có một ai đó thấy bà ở cầu Cedar, tin tức ấy sẽ được lan truyền ngay sáng hôm sau ở quán, lại được cái cậu Fisher nhiệt tình lặp lại cho các khách đổ xăng nghe lập tức. Hoặc có lẽ còn nhanh hơn thế nữa.
    Ông đã biết là không nên coi thường tầm quan trọng của những chuyện ngồi lê đôi mách nơi tỉnh lẻ. Nếu như hai triệu đứa trẻ ở Sudan sắp chết đói không hề làm cho họ bận tâm thì chuyện vợ của Richard Johnson đi chơi với một gã lạ mặt tóc dài là một tin tức rất quan trọng. Đó là một lại tin tức mà người ta có thể rao truyền mổ xẻ, thêm thắt, loại tin tức giật gân đối với người nghe, loại xúc cảm duy nhất mà hạng người này có được trong cuộc đời.
    Ăn xong, ông tiến lại phòng điện thoại bên kia quảng trường. Ông quay số của Francesca. Ba nhấc máy, thở mạnh khi nghe tiếng chuông thứ ba: "Alô, vẫn là Robert Kincaid đây".
    Bụng bà thắt lại tức khắc. Bà nghĩ: ông ấy không đến được, cho nên mới gọi mình.
    "Tôi muốn thẳng thắn. Nếu việc chiều nay bà đi với tôi gây nên một vấn đề gì phiền phức, về chuyện người ta tò mò bàn tán ấy mà, tôi nghĩ bà không nên miễn cưỡng. Thật tình, tôi chẳng để ý gì điều mà người ta nói về tôi, và thế nào tôi cũng ghé lại bà. Điều tôi muốn nói với bà là cso lẽ tôi đã phạm một sai lầm khi mời bà, vì thế bà cứ tự nhiên từ chối nếu thấy không tiện. Mặc dầu tôi sẽ rất sung sướng nếu được đi cùng bà"
    Francesca đã nghĩ vấn đề này sau lần trao đổi trước nhưng bà đã quyết định. "Không, tôi rất thích xem ông làm việc. Tôi không bận tâm về chuyện người ta bàn ra tán vào đâu". Thật ra bà có bận tâm, nhưng có một cái gì đó vượt lên, có một cái gì đó khiến bà quyết liều. Giá nào đi nữa bà cũng sẽ đi đến cầu Cedar.
    "Thế thì tốt. Tôi chỉ muốn hỏi lại cho chắc thôi. Lát nữa nhé".
    "Đồng ý. Ông ấy thật tế nhị, nhưng điều này bà đã biết trước.
    Vào lúc bốn giờ, ông ghé vào quán trọ và giặt áo quần nơi lavabô. Ông mặc một chiếc áo sơmi sạch, lục sau xe lôi ra một chiếc quần kaki và đôi dép màu nâu đậm mà ông mua được ở ấn độ vào năm 1962, khi ông thực hiện một phóng sự về việc thiết lập con đường đất dẫn tới Darjeeling. Ông ghé vào quán mua hai thùng Budweiser. Tám chai ông để trong thùng lạnh, phía trên nhét mấy cuốn phim. Trời vẫn còn nóng, hết sức nóng. ánh mặt trời cuối buổi chiều ở Iowa như thiêu cháy gạch xi măng và mặt đất vốn đã bị nung nóng suốt ngày. Sức nóng từ phương Tây lại như muốn đốt cháy tất cả.
    Trong quán, thì tối nhưng hơi mát hơn nhờ cửa rộng, nhờ những chiếc quạt máy gắn trên tường và bên cạnh cửa ra vào, kêu vù vù như tiếng máy bay. Cho nên, tiếng động của quạt máy, mùi bia trộn với khói thuốc lá, tiếng gào thét của máy hát và những khuôn mặt đầy ác cảm nhìn ông từ sau quầy khiến ông có cảm tưởng ở trong này còn nóng hơn ở bên ngoài.
    Trên đường đến cầu Cedar, ánh sáng mặt trời làm nhức mắt và ông nghĩ đến rặng núi Cascades, đến những rặng cây màu xám bạc và những cơn gió nhẹ suốt dọc vịnh San Jaun de Fuca, gần mũi Kydaka.
    Nhưng Francesca Johnson thì vẫn đầy vẻ tươi mát. Bà đang đứng dựa vào thành chiếc xe Ford mà bà đậu sau bụi cây gần cầu. Bà vẫn mặc chiếc quần Jean rất phù hợp với bà, đi dép và một chiếc sơ mi bằng vải trắng làm tôn thêm vẻ đẹp của thân hình bà. Ông đưa một tay chào và đỗ xe cạnh chiếc xe của Francesca.
    "Chào. Tôi rất vui lòng khi thấy bà đến" - Ông bảo. Một câu nói thông thường bầng quơ.
    Một lần nữa, ông lại vụng về như xưa trước mặt một người đàn bà mà ông quan tâm. Ông không biết phải nói điều gì trừ những câu chuyện nghiêm chỉnh. Mặc dù ông rất có khiếu hài hước. Từ thâm sâu, ông lại thực sự là một người nghiêm nghị. Mẹ ông thường luôn luôn nói rằng ông bắt đầu trưởng thành từ lúc lên bốn. Về mặt nghề nghiệp thì điều này có lợi cho ông, nhưng theo ông, điều này chẳng giúp gì được cho ông khi ông đứng trước những người phụ nữ như Francesca Johnson.
    "Tôi muốn xem ông chụp ảnh, "kết hợp như ông thường nói".
    - Bà sẽ thấy là công việc này khá nhàm chán đấy. ít ra thì phần đông mọi người nghĩ như vậy. Nó không giống như khi ta nghe một người chơi đàn piano, khi đó người ta có thể cảm xúc để tham dự và hoạt động với người kia. Trong việc chụp ảnh thì việc sản xuất và trình diễn bị tách biệt nhau bởi một khoảng thời gian dài. Ngày hôm nay thì tôi sản xuất ra ảnh. Khi những ảnh này đăng trên báo thì lúc đó mới là trình diễn. Còn tất cả những gì bà thấy ngày hôm nay, chẳng qua chỉ là sự khéo tay. Nhưng rất mừng bà đến. Quả thật tôi rất hài lòng thấy bà có mặt ở đây.
    Francesca bám lấy lời cuối cùng đó. Đúng ra ông không cần phải nói những lời này, ông có thể ngừng ở câu trước nhưng ông đã nói. Quả thật, ông chân thành muốn gặp lại bà, điều đó rõ ràng. Francesca hy vọng rằng sự có mặt của bà nơi đây cũng đủ để cho ông có một ấn tượng vậy.
    ?Tôi có thể giúp ông được gì nào??o. Bà hỏi trong khi ông đang mang đôi ủng cao su vào chân.
    ?Bà mang dùm cái ba lô màu xanh. Còn tôi xách cái màu nâu và giá?o.
    Thế là Francesca trở thành phụ tá nhiếp ảnh. Ông ta nói sai, có quá nhiều điều để xem. Quả thật là một màn trình diễn, mặc dù ông không hề ý thức điều đó. Đây cũng chính là một điều làm ông cuốn hút bà. Vẻ dịu dàng, cái nhìn đăm đăm, những chuyển động nhịp nhàng của bắp thịt nơi cánh tay. Nhất là cách ông chuyển động. So sánh với ông thì tất cả đàn ông mà bà biết đều có vẻ nặng nề, chậm chạp.
    Không phải vì ông vội. Thật ra ông chẳng vội vã chút nào. Nơi ông như có một cái gì giống như một con hoẵng khiến bà cảm thấy sức mạnh ẩn giấu dưới sự mềm mại của ông. Có lẽ ông gần giống một con báo hơn là một con hoẵng. Đúng rồi, một con báo. Bởi ông đâu phải là con mồi, ngược lại thì đúng hơn, bà tự bảo.
    ?Francesca, đưa giùm tôi cái máy ảnh có quai màu xanh?o. Bà mở ba lô, thận trọng lấy ra chiếc máy ảnh mà ông thường nâng niu. Nhãn hiệu Nikon khắc trên nắp ông nhắm và bên trái phía trên là một chữ F.
    Ông quỳ gối nơi phía Đông Bắc cây cầu, áp mình sát chiếc giá ảnh mà ông đã hạ thấp. Tay trái ông đưa ra, mắt vẫn không rời ống nhắm, bà đưa chiếc máy Nikon cho ông, nhìn bàn tay ông sửa lại ống kính khi ông chạm chiếc máy. Ông đặt nút tháo vào đầu sợi dây mà ngày hôm trước bà đã thấy để thò ra nơi túi áo lông.
    Ông kéo tấm che lên khỏi ống kính. Lắp vào rồi lại tháo ra. Một tay giữ đầu giá ảnh, ông tháo chiếc máy ảnh trước ra và thay vào bằng máy Nikon mà bà vừa đưa. Vừa làm, ông vừa quay đầu về phía Francesca và cười. ?Cám ơn, bà là một phụ tá hạng nhất đó?o. Bà hơi đỏ mặt.
    Chúa ơi, sao ông ta lại nói thế. Tại sao mình không trả lời đơn giả: ?có gì đâu!?o. Bà tự hỏi. ?Mình cảm thấy chậm chạp bên cạnh ông ấy, mặc dầu đó không phải là lỗi tại ông. Chính là do mình, không phải do ông ấy. Mình vốn quen sống với những người không có tinh thần nhanh nhẹn như ông ấy?o.
    Ông băng qua sông, leo lên bờ kia Francesca thì đi qua cầu, mang theo chiếc ba lô xanh, tiến lại phía sau Kincaid. Bà sung sướng, sung sướng một cách lạ lùng. Ông ta có một sức mạnh, một năng lực trong phong cách làm việc. Ông không bằng lòng với việc chờ đợi thiên nhiên, ông tìm cách tự thích nghi với thiên nhiên bằng sự dịu dàng, bằng cách chuyển thiên nhiên theo cách nhìn sự vật của mình, bằng cách đo lường thiên nhiên bằng chính ý tưởng của mình.
    Ông đã đặt ý chí của mình lên thiên nhiên, chuyển dịch ánh sáng bằng cách dùng những ống kính khác nhau, những phim khác nhau, đôi khi cả kính lọc màu nữa. Ông không đối kháng, ông chỉ chế ngự thiên nhiên bằng khả năng và trí thông minh của mình. Chính những người nhà nông cũng chế ngự thiên nhiên bằng hoá chất và bằng máy cày, máy kéo. Nhưng Robert Kincaid có một cách để điều chỉnh thiên nhiên rất nhẹ nhàng và sau khi xong việc, trả lại thiên nhiên nguyên vẹn.
    Bà nhìn chiếc quần jean siết chặt lấy hai đùi ông khi ông quỳ gối xuống, chiếc sơ mi vải thô sờn căng trên lưng, mái tóc xám xoà trên cổ áo. Bà nhìn ông ngồi chụp thêm một bức và bỗng nhiên, lần đầu tiên sau nhiều năm dài, bà thấy trong người dâng lên một ham muốn, chỉ do từ việc nhìn một người khác. Rồi bà đưa mắt về bầu trời chiều, thở một hơi dài, nghe thấy tiếng ông rủa nhẹ khi tháo tấm lọc màu ra khỏi ống kính không được.
    Ông lại lội sang bên kia bờ, phía xe đậu, đôi ủng cao su rẽ làn nước. Francesca cũng về lại bên kia bằng lối chiếc cầu và khi bước ra bên kia cầu, bà thấy ông đang quỳ gối, máy ảnh chĩa thẳng về phía bà. Ông chụp một tấm, lên máy rồi chụp tấm thứ hai, thứ ba khi bà đang tiến về phía mình. Bà cười gượng, hơi bối rối.
    Ông cười, ?Bà đừng ngại. Tôi không sử dụng mấy bức ảnh này đâu trừ phi bà cho phép. Xong việc rồi, tôi nghĩ chắc phải tạt về chỗ trọ tắm táp qua loa một tý trước khi đến chỗ bà?o.
    Nhưng nếu ông muốn thì cứ đến chỗ tôi, tôi sẽ dành cho ông một chiếc khăn tắm, một vòi nước, đại loại các thứ - Bà nói bằng một giọng nghiêm chỉnh, dịu dàng.
    Được, thế thì ta đi. Tôi thu xếp đồ đạc trong chiếc Harry của tôi rồi tôi sẽ đến liền.
  3. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Francesca lái chiếc xe Ford mới tinh của Richard ra khỏi lùm cây, theo lộ chính rời cầu Cedar, rẽ phải theo đường đến Winterset rồi rẽ hướng Đông Nam về nhà. Sau lưng bụi mù đến nỗi bà không biết có theo liền sau không, cho đến một lúc, khi qua khúc cua, bà thoáng thấy ánh đền phía sau chừng trăm thước. Chắc là ông ấy rồi, và bà nghe cả tiếng xe rú khi họ lên lối rẽ vào nhà bà. Jack đứng sẵn trước sân chờ sủa, nhưng im ngay lập tức như muốn nói:
    ?Đây là cái ông ngày qua mà, không có gì lạ?o. Kincai ngừng lại một lúc vỗ về chú chó.
    Francesca đứng lại trước hiên: ?Tắm chứ??o.
    Nhất rồi. Bà dẫn đường cho tôi.
    Bà dẫn Robert vào phòng tắm ở lầu một. Cái phòng tắm mà bà đòi dùng riêng khi bọn trẻ đã lớn. Đó là một trong số rất ít điều bà nói riêng cho mình. Bà thường muốn tắm lâu buổi chiều, và bà không muốn bọn nhỏ giành phòng tắm riêng của bà. Richard thì dùng phòng tắm khác. ?ở đây nhiều đồ đàn bà lung tung quá?o. Ông bảo vậy.
    Để đi vào phòng tắm, Robert phải đi ngang qua phòng ngủ. Francesca mở cửa, lấy từ phía trên bồn rửa ra nhiều khăn tắm, găng chà lưng...
    ?Ông muốn lấy gì tuỳ thích?o. Bà cười và hơi cắn nhẹ môi dưới.
    ?Bà cho tôi mượn chai gội đầu, nếu không phiền lắm. Chai của tôi để lại chỗ trọ rồi?o.
    Tất nhiên, ông chọn đi - Bà lấy ra ba chai đặt trên bàn nhỏ, tất cả đều còn mới.
    ?Cảm ơn?o. Ông ném áo quần mới lên giường, Francesca để ý thấy chiếc quần kaki, áo sơ mi trắng và đôi xăng - đan. Đàn ông vùng này không mang xăng - đan. Cũng có một số bắt đầu mặc quần đùi chơi gôn, nhưng xăng-đan... không bao giờ.
    Bà đi xuống dưới nhà và nghe tiếng vòi... nước chảy. ?Ông ta bây giờ đang tắm?o, bà nghĩ, và thấy một cảm giác lạ ở phía dưới bụng.
    Hồi sáng, sau khi ông gọi điện thoại, bà đã lái xe hai chục kilomet đến Des Moines mua rượu. Không có kinh nghiệm, bà nhờ người bán chọn giùm. Hoá ra ông ta cũng như bà, nghĩa là chẳng rành gì ráo. Thế là bà loay hoay chọn một lúc rồi tình cờ thấy chai mang nhãn ?Valpolicella?o. Cái tên này gợi cho bà những kỷ niệm xa xưa. Một loại rượu vang đỏ của ý. Bà mua luôn hai chai và thêm một chai brandy nữa. Rồi bà ghé một cửa hiệu cuối phố để mua ít chiếc áo dài mùa hạ. Bà chọn một chiếc màu hồng nhạt có dây treo, hở lưng và một chiếc khác hở ngực, hồng, buộc bằng một dây nịt nhỏ. Bà cũng mua vài đôi xăng-đan trắng, kiểu khá đắt, gót bằng, có quai da may bằng tay khéo léo.
    Chiều, bà chuẩn bị món ớt nhồi, xốt cà chua với gạo đỏ, phô mai ngò băm nhỏ. Rồi món xà lách, rau mồng tơi, bánh làm bằng bắp và táo chiên phồng làm món tráng miệng. Bà để tất cả, trừ táo chiên, vào tủ lạnh.
    Bà vội vã thâu ngắn chiếc áo cho ngang với đầu gối. Một bài báo ở Des Moines ra hồi đầu mùa hè có viết rằng đó là kiểu thời trang của năm nay. Xưa nay thật ra bà vẫn thường cho chuyện chạy theo thời trang này nọ là điều kỳ quặc. Nhưng bà thấy chiều dài của váy như vậy hợp với mình, làm nổi bật dáng người bà.
    Còn rượu thì là cả một vấn đề. ở đây người ta để rượu vào tủ lạnh, còn bên ý thì lại không làm vậy. Nhưng hôm nay trời quá nóng, không thể để ngoài bàn được. Rồi bà nhớ đến cái lều bên cạnh hồ nước. ở đó mùa hè cũng chỉ độ 16 độ, tiếng vòi sen trên lầu ngừng lại đúng lúc bà nghe chuông điện thoại reo. Đó là Richard từ Illinois gọi về.
    ở nhà ổn cả chứ em?
    ừ ổn cả.
    Con bê của Carolyn đến thứ tư mới dự thi. Ngày mai tụi anh có vô số thứ để xem. Ba cha con anh sẽ về tối thứ sáu.
    Được rồi vui vẻ nhé. Nhờ lái xe cẩn thận.
    Francesca, em có chắc là mọi chuyện ổn cả không? Giọng em hơi là lạ đấy.
    Không, em khoẻ mà. Chỉ hơi nóng thôi. Tắm một cái là dễ chịu ngay.
    Tốt. Vuốt ve con Jack giùm anh nhé.
    Nghe rồi. Bà đưa mắt nhìn con chó đang nằm thượt trên nền bê tông dưới mái hiên.
    Robert Kincaid bước xuống cầu thang và vào nhà bếp. Chiếc áo sơ me trắng cổ có nút, tay áo xắn lên cùi. Dép nâu thẫm, vòng bạc ở cổ tay, hai nút áo trên mở để lộ ra chiếc dây chuyền bạc. Tóc còn ướt và được chải cẩn thận rẽ giữa. Bà thú vị nhìn đôi dép dưới chân ông.
    ?Tôi phải ném bộ quần áo làm việc vào xe và ngâm rửa mấy cuốn phim một chút?o.
    Ông cứ đi, tôi cũng phải tắm một cái
    Bà có muốn uống bia trong lúc tắm không?
    Nếu ông có thừa một chai.
    Thùng lạnh ông đã đem vào nhà hồi nãy, ông lấy ra một chai bia và mở trong khi bà lấy hai cái ly lớn. Khi ông đi ra ngoài sửa soạn dụng cụ, bà cầm chai bia lên lầu, chú ý thấy ông đã đổ đầy nước vào bồn. Bà dội sơ người, đặt chai bia xuống đất rồi xát xà phòng khắp người. Chỉ vài phút trước thôi, ông ta ở đây, bà nằm xuống ở nơi mà nước vừa mới bao phủ khắp người ông. ý tưởng đó làm bà hết sức bị kích thích. Hầu như mọi thứ liên hệ đến Robert Kincaid đều mang vẻ kích thích dục tình. Cả một điều đơn giản như một ly bia lạnh trong lúc tắm đối với bà cũng thật tuyệt vời. Tại sao Richard và bà không sống kiểu như vậy? Bà biết, điều đó một phần do thói quen, do quán tính. Cuộc sống vợ chồng thường hay gặp phải nguy cơ này. Thói quen khuyến khích cái tầm thường và cái tầm thường cũng có điều dễ chịu của nó, bà biết điều đó.
    Với lại, còn trang trại nữa. Như một đứa con dại, nó đòi hỏi người ta phải chăm sóc thường xuyên, mặc dù bây giờ máy móc tân tiến đã làm cho công việc không còn nặng nhọc nhiều như trước nữa. Nhưng vẫn còn có một điều gì khác nữa. Sự tầm thường, tẻ nhạt là một chuyện, lòng sợ hãi, sự thay đổi lại là một việc khác. Và Richard sợ hãi sự thay đổi như thế nào đi nữa. Nói chung, ông không bao giờ muốn nói về chuyện dục tình. ******** là một chuyện nguy hiểm xa lạ với nếp nghĩ của ông.
    Nhưng không phải chỉ một mình ông như vậy và cũng không phải ông thật sự chịu trách nhiệm về chuyện này. Vậy thì cái rào cản nào đã chắn ngang giữa họ và tự do? Không phải chỉ trong đời sống của họ ở trang trại, mà trong sinh hoạt nông thôn? Tại sao lại làm trở ngại họ trong những quan hệ đơn giản, tự nhiên giữa đàn ông và đàn bà? Tại sao lại mất đi sự gần gũi, tại sao có sự thiếu vắng dục tình?
    Các tạp chí phụ nữ đã nói về những vấn đề như vậy, và phụ nữ càng ngày càng mong muốn dóng một vai trò khác trong trật tự xã hội, cũng như trong phòng ngủ. Những người như Richard - chắc là phần lớn đàn ông, bà đoán thế - lo sợ những mong muốn như vậy. Theo một cách nào đó, phụ nữ luôn luôn đòi hỏi đàn ông là một thi sĩ đồng thời là một người tình đam mê, mạnh mẽ.
    Và phụ nữ không hề thấy đó là một mâu thuẫn, nhưng các ông thì thấy. Những cuộc hội họp, những buổi chơi bi-da, những sinh hoạt thuần nam giới như bao gồm những tính chất chung, trong đó thi ca, hay những gì tinh tế khác không có chỗ đứng. Vậy thì, vì rằng ******** là một cái gì tinh tế, một hình thức nghệ thuật, nó không thể có chỗ đứng trong cuộc sống của họ. Và thế là đàn ông vẫn tiếp tục những trò chơi, những hoạt động càng lúc càng dẫn họ đi xa khỏi cái tinh tế của đời sống vợ chồng, trong khi ở quận Madison, những người vợ vẫn thở dài quay mặt vào tường trằn trọc suốt đêm.
    Hình như có một cái gì đó trong người Robert Kincaid khiến ông ngầm hiểu tất cả điều đó. Francesca chắc chắn như vậy.
    Bà vừa lau người vừa đi qua phòng ngủ và thấy đã hơn mười giờ. Trời vẫn nóng nực, nhưng tắm xong làm bà thấy mát cả người. Bà với tay lấy chiếc áo dài mới trong tủ.
    Bà vuốt mái tóc đen ra sau rồi buộc bằng một cái kẹp tóc bằng bạc. Đôi bông tai cũng bằng bạc, đôi vòng bạc và một chiếc xuyến bạc bà mới mua sáng nay ở Des Moines.
    Nước hoa hiệu Chant de vent. Một tý phấn hồng trên đôi gò má, màu còn nhạt hơn cả màu áo. Làn da đẹp. Đôi chân thon hoàn hảo dưới chiều dài của váy. Bà quay mình sang bên này rồi bên kia, quan sát mình trong gương. ?Trông cũng được rồi nhỉ?o. Bà tự nhủ. Và rồi, hài lòng bà nói thầm: ?Mình khá đẹp đấy chứ?o. Dưới nhà, Robert Kincaid uống chai bia thứ hai và sắp xếp các máy ảnh. Bà bước xuống, vào bếp. Ông nhướng mắt lên ngắm bà.
    ?Chúa ơi!?o Ông thốt dịu dàng. Tất cả cảm xúc, suy tư và tìm kiếm của ông, một cuộc sống đầy cảm xúc, suy tư và tìm kiếm đều hội tụ lại ở giây phút ấy. Và ông bỗng yêu Francesca, vợ của một trại chủ ở quận Madison, bang Iowa, từ thành phố Napoli đến đây từ nhiều, rất nhiều năm về trước.
    ?Tôi muốn nói... - giọng ông hơi run, hơi khàn - xin lỗi vì tôi bạo gan... nhưng mà bà đẹp tuyệt vời. Tuyệt vời đến nỗi dục vọng con người phải kêu thét lên. Tôi nói nghiêm chỉnh đấy, Francesca ạ, bà đẹp tuyệt, theo nghĩa thuần khiết nhất của từ này?o.
    Bà biết, ông ngưỡng mộ thật tình, chân thành. Bằng tất cả những phân tử của thân thể mình, bà đã tắm, đã vùng vẫy, đã lặn xuống như từ chất dầu thơm dịu dàng từ bàn tay của một vị thần đã bỏ quên bà từ bao lâu nay và giờ đây đang quay trở về. Và, vào chính lúc đó, bà yêu Robert Kincaid, nhà văn, nhiếp ảnh gia ở Bellingham, bang Washington, người lái chiếc xe tải cũ kỹ màu xanh nước biển.
  4. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Một không gian nơi đó người ta lại nhảy múa
    Tối thứ ba, tháng Tám 1965, Robert Kincaid đăm đăm nhìn Francesca Johnson. Bà nhìn trả lại ông. Cách nhau ba mét qua chiếc bàn mi-ca trong nhà bếp, họ đã ràng buộc với nhau một cách thâm sâu toàn vẹn và mãi mãi. Điện thoại reo. Francesca vẫn nhìn ông và không hề cử động khi nghe tiếng chuông thứ nhất rồi thứ hai. Cả một khoảng im lặng dài rồi trước khi tiếng chuông thứ ba reo, mắt ông rời bà nhìn về phía mấy chiếc ba lô đựng máy ảnh. Điều đó cho phép Francesca đi ngang qua nhà bếp đến máy điện thoại đặt gần tường ở lối ra vào, ngay đằng sau ghế ông ngồi.
    ?Alô chào Marge. ừ mình khoẻ. Tối thứ năm hả? Bà tính nhanh ?ông có nói ông định ở lại một tuần, ông đến ngày hôm qua và hôm nay là Thứ ba?o. Bà quyết định nói dối không do dự.
    Đến gần cửa ra hiệu, điện thoại nơi tay, bà thấy đằng sau lưng ông ngồi rất sát mình. Bà nhẹ nhàng đặt bà tay không cầm điện thoại lên vai ông một cách tự nhiên như những người đàn bà khác vẫn làm với những người đàn ông thuộc về mình, chỉ sau 24 giờ quen biết.
    ?ồ, Marge, chắc không được đâu. Mình có việc phải đi Des Moines. Bởi Richard và bọn nhỏ vắng nhà, mình lợi dụng thời gian rảnh để làm vài việc mà ngày thường bận quá không làm được?o.
    Tay bà vẫn đặt nhẹ nhàng lên vai của Robert Kincaid. Bà có thể cảm thấy bắp thịt cổ và vai ông căng lại ngay ở chỗ xương quai xanh. Bà nhìn mớ tóc xám dày được chải cẩn thận. Tóc ông dài phủ cả cổ áo Marge thì nói huyên thuyên.
    ?ờ, Richard có gọi về cách đây vài phút... Không, Thứ tư, ngày mai ấy giải thưởng mới trao. Richard có bảo mình đến tối Thứ sáu ba cha con mới về nhà được. Ngày thứ năm họ còn khối việc để xem. Đường thì xa mà chiếc xe tải chở gia súc ấy thì... ơ không, việc huấn luyện chỉ bắt đầu vào tuần sau. ấy là mình nghe Michael nói vậy?o.
    Qua lần áo sơ mi, bà cảm thấy sức nóng toát ra từ người ông. Sức nóng ấy lần theo bàn tay bà đi dọc cánh tay và nhẹ nhàng toả ra khắp người bà. Robert Kincaid vẫn ngồi bất động, cố không gây một tiếng động gì gợi ra sự nghi ngờ của Marge. Francesca đoán vậy.
    ?à có, đó là một người ghé hỏi thăm đường ấy mà?o. Đúng như bà đoán, Floyd Clark, hôm qua về nhà đã kể liền cho bà vợ nghe là anh ta có thấy một số chiếc xe tải nhỏ màu xanh nước biển trong sân nhà Johnson.
    ?Một tay phó nhòm à? Chúa ơi mình cũng không biết nữa. Mình cũng không chú ý kỹ. Chắc vậy?o. Bà nói dối càng lúc càng dễ dàng.
    ?Ông ta tìm cây cầu Roseman hả? Chụp ảnh mấy cây cầu cũ à? ờ thế thì cũng chẳng hại gì?o.
    ?Một chàng hip-pi hả??o.
    Francesca phá lên cười và đưa mắt nhìn Robert Kincaid đang chậm rãi lắc đầu. ?Này, mà thật ra mì cũng không hề biết một gã hip-pi như thế nào. Còn cái ông này thì lễ phép lắm. Ông ta chỉ dừng lại hỏi thăm đường một hai phút rồi đi... mình cũng chả biết ở ý có bọn hip-pi không Marge ạ. Từ tám năm rồi mình có đặt chân về bên ấy đâu. Và như mình đã nói với bạn đó, mình không chắc là mình còn nhận được ai bên ấy không nếu mình có gặp đi nữa?o.
    Marge kể cho Francesca nghe điều bà ta đã đọc đâu đó trên báo về tình yêu tự do, về đời sống cộng đồng và ma tuý.
    ?Marge, mình đang sửa soạn tắm thì bạn gọi. Mình phải vội không thì nước nguội mất... được rồi mình sẽ gọi lại sớm?o.
    Bà không muốn rời tay khỏi vai ông nhưng vì chẳng còn có lý do gì để làm như vậy. Bà bước qua bên bếp và vặn radio. Vẫn còn mục trồng trọt. Bà vặn qua đài khác cho đến khi máy vang lên một bản hoà tấu.
    Tangerine - ông nói.
    Sao?
    Bài hát ấy mà. Bà Tangerine. Câu chuyện về một người phụ nữ Achentina.
    Một lần nữa, ông lại nói chuyện chung chung, vô thưởng vô phạt. Nói bất cứ điều gì cho có và để tìm lại cái lý do - dường như để nghe từ cái phần nào đó trong tâm hồn ông tiếng động không thể nhận ra nơi cánh cửa đang khép lại trên hai con người, trong một ăn phòng bếp ở Iowa.
    Bà mỉm cười dịu dàng nhìn ông.
    Ông đói chưa? Bữa ăn đã sẵn rồi đó.
    Hôm nay là cả một ngày dài tốt đẹp. Tôi muốn uống một chai bia trước khi ăn. Bà có muốn uống với tôi không?.
    Bà đồng ý. Ông đứng dậy, lấy thăng bằng rồi mở hai chai bia, đặt một chai trên bàn.
    Francesca hài lòng vì dáng vẻ của mình và hài lòng về điều bà cảm thấy. Bà thấy mình đầy nữ tính. Dịu dàng, say đắm và nữ tính. Bà ngồi xuống ghế, chéo chân và vuốt làn váy. Kincaid đứng dựa vào tủ lạnh, khoanh tay, cầm chai Budweiser. Francesca hài lòng vì đứng như thế, ông có thể thấy đôi chân đẹp của bà, và quả thật ông đang ngắm nhìn đôi chân ấy.
    Ông thấy tất cả. Lẽ ra ông nên đi thì hơn, vẫn còn thì giờ để ra đi. Lý trí ông gào lên. ?Bỏ đi Kincaid, lên đường của mày đi. Hãy đi chụp những chiếc cầu của mày, hãy đi ấn Độ đi. Rồi mày dừng lại trên đường ở Bangkok và gặp một cô gái bán tơ lụa rất rành những phương pháp ái ân của tổ tiên truyền lại để làm mày lên đến đỉnh điểm của khoái lạc. Rồi lúc bình minh, mày có thể trần truồng bơi lội với cô ta trong những con sông chảy qua các cánh rừng nhiệt đới, và rồi khi mày đi vào cô ta, nghe tiếng cô ta kêu thét vang động cả hoàng hôn. Hãy bỏ đi - tiếng nói trở nên thúc bách - sự tình đã vượt xa khỏi mày rồi đó?!
    Nhưng từ xa, đâu đó, đã vọng lên một bản tango chậm buồn. Ông nghe tiếng một cây đàn phong cầm cũ kỹ. Từ xa hay ngay trước nhà, ông cũng không biết rõ nữa. Dẫu sao thì tiếng nhạc đã đến gần ông, dứt khoát. Tiếng nhạc làm ông bối rối và dần dần đưa ông trở về với một tình cảm đồng nhất rõ rệt. Một cách nghiêm khắc, tiếng nhạc khiến ông không còn một nơi nào để tiến đến, ngoại trừ về phía Francesca Johnson.
    ?Nếu bà muốn, chúng ta có thể nhảy. Bản nhạc này rất thích hợp để khiêu vũ?o. Ông nói giọng nghiêm trang và bẽn lẽ. ?Tôi cũng chẳng phải nhảy giỏi gì đâu, nhưng cũng có thể xoay xở trong phòng bếp này được?o.
    Jack cào cào cửa tỏ ý muốn vào. Không được, lúc này thì chú mày phải đứng ngoài thôi.
    Francesca thoáng đỏ mặt. ?Đồng ý. Nhưng chính tôi cũng rất ít nhảy... sau này. Vâng, hồi trước ở ý, lúc tôi còn trẻ, còn ở đây tôi chỉ có dịp khiêu vũ vào ngày Tết thôi, mà cũng không nhảy lâu?o.
    Ông mỉm cười và đặt ly bia xuống bàn bếp bên cạnh. Francesca đứng và bước lại bên cạnh ông. ?Bạn đang trải qua buổi dạ tiệc khiêu vũ ở Chicago - một giọng trầm cất lên. Chúng tôi ngưng một lát rồi sẽ trở lại ngay sau phần quảng cáo?o.
    Họ phá lên cười. Điện thoại, quảng cáo. Những thứ như cứ ngoan cố chen vào giữa hai người. Họ biết mà không hề nói ra.
    Nhưng ông đã đưa tay ra nắm lấy bàn tay Francesca. Ông vẫn còn đứng dựa lưng hờ hững vào bàn bếp, tréo chân. Francesa thì đứng cạnh ông, tựa vào bồn rửa chén, nhìn ra cửa sổ bên ngoài, cảm thấy những ngón tay thon dài của ông xiết chặt tay mình.
    Bên ngoài không một làn gió nhẹ. Cánh đồng bắp đứng kim sững.
    ?ồ khoan, một tý đã?o. Bà miễn cưỡng rút tay khỏi ông, mở ngăn kéo tủ, lấy ra hai cây đèn cầy trắng mua hồi sáng ở Des Moines cùng với hai giá nến bằng đồng. Bà đặt lên bàn. Ông tiến lại, chỉnh cây nến rồi thắp lửa trong khi bà tắt ngọn đèn trần. Căn phòng bây giờ chìm trong bóng tối, ngoại trừ ánh lửa của hai cây bạch lạp toả thẳng, không hề dao động trong một đêm hè lặng gió. Căn phòng bếp tầm thường như sang trọng hẳn lên.
    Nhạc lại trỗi. Rất may, lần này là bản Lá úa, chơi chậm.
    Francesca hơi lúng túng. Ông cũng vậy. Nhưng ông đã cầm lấy tay bà, tay kia ôm qua người, bà bước tới sát một bước và sự lúng túng mất đi. Mọi thứ tự nhiên đâu vào đấy. Ông ôm bà chặt hơn vào người mình.
    Francesca cảm nhận mùi nơi ông, mùi của áo sạch, mùi xà phòng và sức nóng. Mùi thơm đơn giản của một người văn minh, đồng thời một phần nơi con người đó vẫn có một cái gì của một con người nguyên thuỷ.
    ?Tôi thích mùi thơm của bà?o. Ông nói, tay đặt nhẹ lên ngực bà, chỗ gần vai.
    Cám ơn.
    Họ nhảy thật chậm, gần như bất động. Bà cảm thấy chân mình chạm chân ông và bụng họ thỉnh thoảng sát vào nhau.
    Bài hát đã chấm dứt, nhưng ông vẫn giữ lấy người bà, vẫn lẩm nhẩm điệu buồn của bài hát mà ông vừa nghe và họ vẫn giữ nguyên cho đến khi bắt đầu bài há tiếp.
    Ông bước một cách máy móc và cuộc khiêu vũ tiếp tục trong khi bên ngoài, tiếng dế kêu vang báo hiệu cho tháng Chín sắp tới.
    Bà cảm thấy rõ bắp thịt ở vai ông qua làn vải áo sơ mi. Ông có thật, có thật hơn hết thảy những gì bà từng biết. Ông hơi chồm người tới trước để áp má bà vào má mình.
  5. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Sau này, trong một lần hai người cùng đi dạo chơi, ông từng nói rằng ông là một trong những người cao bồi cuối cùng. Khi đó họ đang ngồi trên bãi cỏ, gần chiếc má bơm phía sau nhà. Bà không hiểu và hỏi ông muốn gì.
    ?Có một loài nào đó trong nhân loại không còn lý do để tồn tại. Hay gần như không còn - Ông trả lời - Thế giớ đã có tổ chức và tổ chức quá chặt chẽ đối với những người như tôi. Mọi thứ đều có chỗ của nó. Được, tôi cũng thích thế. Em thấy đấy, đồ đạc của tôi sắp đặt ngăn nắp. Nhưng điều đó đã đi quá xa. Các quy tắc, luật lệ và những quy ước xã hội... Hệ thống thứ bậc, sự điều khiển, sự tiên đoán, ngân sách. Quyền lực của các xí nghiệp, vị thượng đế trong kinh doanh. Một thế giới của y phục đồng loạt và của những tên tuổi có nhãn hiệu rõ ràng.
    Con người ta không giống nhau. Một số cố gắng để thích nghi với cái thế giới sắp đến, một số khác, có thể ngay trong số chúng ta thì không thể. Người ta quan tâm đến máy tính, rôbôt và ý nghĩa của chúng. Trong các nền văn minh trước đây, chúng ta có những nhiệm vụ phải làm tròn, những nhiệm vụ cần thiết mà không ai dùng máy móc để thay thế được. Chúng ta chạy nhanh, chúng ta có sức mạnh, hung hãn và bền lâu. Can đảm. Chúng ta ném lao và chiến đấu bằng đôi chân tay trần.
    Cùng với thời gian, máy tính và rô-bốt chiếm lấy quyền hành. Còn người quan tâm đến máy móc của mình, nhưng điều đó không đòi hỏi một sự can đảm, một sức mạnh, một tính chất nào cả. Thực ra, con người tồn tại bằng tính đồng nhất. Các ngân hàng tinh trùng giúp bảo đảm sự tồn tại của giống nòi, hiện giờ đã bắt đầu phát triển. Phần lớn người ta đều là những tình nhân tồi, phụ nữ nói như vậy, cho nên người ta không mất mát nhiều lắm khi thay thế dục tính bằng khoa học.
    Chúng ta đã khước từ tự do hành động, chúng ta được tổ chức, chúng ta đã dìm chết cảm xúc của chúng ta. Thế giới đầy sự sản xuất, sự hữu hiệu và những khái niệm nhân tạo khác. Và anh cao bồi cuối cùng cũng như sự tự do hành động đã biến mất, cùng lúc với sự biến mất của loài báo núi và sói xám. Bởi đâu còn nhiều chỗ để di chuyển nữa.
    Tôi là một trong những gã cao bồi cuối cùng đó. Công việc của tôi cho tôi một ít tự do. Trong giới hạn mà xã hội cho phép. Tôi không phàn nàn gì. Tôi chỉ là điều cần thiết, đó là cách duy nhất để bảo vệ chúng ta khỏi sự huỷ hoại. Theo tôi, chính những hoóc-môn nam là nguyên nhân chính của những nhiễu loạn của hành tinh chúng ta. Đó chính là cái khiến người ta đi chinh phục một bộ lạc khác, một xứ khác. Đó là cái khiến người ta chế tạo tên lửa, hay huỷ hoại thiên nhiên như người ta đã làm. Rachel Carson có lý. John Muir và Aldo Leopold cũng thế.
    Lời nguyền rủa lên nền văn minh hiện đại của chúng ta, chính là cái ưu thế của hóc-môn nam khiến nó có thể tạo ra những tàn phá vô phương cứu chữa. Chưa nói đến chiến tranh giữa các quốc gia hay sự phá hoại thiên nhiên, luôn luôn có sự xâm lược làm chia rẽ con người, gây nên những xung đột phải giải quyết. Chúng ta phải tìm cách thế nào để làm cao cả cái chất kích thích tố nam ấy, hoặc là, trong mọi trường hợp, chế ngự nó.
    Có lẽ đến lúc chúng ta phải khước từ những ảo tưởng trẻ con để lớn lên. Thì tôi biết thế, tôi chấp nhận: tôi chỉ chụp những bức ảnh đẹp của cuộc sống trước khi nó mất lý do tồn tại hoặc bị tàn phá nghiêm trọng vô phương cứu chữa!?o.
    Cùng với năm tháng sau này, bà thường suy nghĩ về điều ông nói. Một mặt nào đó, rõ ràng ông nói đúng. Tuy rằng quan niệm của ông mâu thuẫn với con người ông. Nơi ông tiềm tàng một sức mạnh xâm lược, có điều ông có vẻ như điều khiển được nó, sử dụng hoặc vất bỏ nó theo ý muốn. Và đó là lý do tại sao nơi ông luôn luôn có một cái khiến người ta bối rối hoặc bị thu hút - chính là cái sức mạnh không ngờ, nhưng là một sức mạnh được chế ngự, đo lường và căng thẳng như một mũi tên, tuy nồng nhiệt nhưng không hề dữ tợn.
    Tối hôm đó, một cách dần dần và không ý thức, họ đã tiến lại gần nhau khi khiêu vũ trong nhà bếp. Francesca áp sát vào người ông, tự hỏi ông có cảm thấy đôi vú mình qua làn áo mỏng không, và bà chắc là có.
    Bà thích áp sát người ông như thế này. Bà muốn cái giây phút này không bao giờ ngừng lại, muốn nghe những bài hát cũ, muốn nhảy, muốn cảm thấy thân thể mình chạm thân thể ông, muốn nữa và muốn mãi mãi. Bà lại trở thành người phụ nữ đích thực. Vẫn còn không gian để người ta khiêu vũ một lần nữa. Chậm rãi, vĩnh viễn, bà đã trở lại nơi chốn đích thực của bà, nơi mà bà chưa bao giờ rời bỏ. Trời vẫn nóng. Hơi ẩm ướt bốc lên và có tiếng sấm xa xa về phía Tây Nam. Loài **** đêm bị ánh nến thu hút, lao vào đốm lửa.
    Ông đã trở thành một với bà. Và bà thành một với ông. Bà xích má mình khỏi má ông và nhìn ông bằng cặp mắt đen láy. Ông hôn bà. Bà hôn trả lại, một cái hôn dài, dịu dàng, như một dòng sông vô tận.
    Họ như không còn khiêu vũ nữa và cánh tay Francesca quàng chặt qua cổ ông. Bàn tay trái của Kincaid ôm lấy hông bà, tay kia ông ve vuốt cổ, gò má, làn tóc đen của bà. Thomas Wolfe đã gọi đó là ?bóng ma cổ xưa của dục vọng?o. Cái bóng ma đó đã thức dậy nơi Francesca Johnson, nơi cả hai người.
    Ngồi cạnh cửa sổ vào ngày sinh nhật lần thứ 67 trong đời, Francesca ngắm nhìn cơn mưa và nhớ lại. Bà đã mang theo chai brandy từ nhà bếp lên và dừng lại một lúc để ngắm nhìn đúng cái nơi ngày xưa họ đã yêu nhau. Như bao giờ, một cảm giác tràn ngập khắp người bà, không cưỡng lại được. Qua bao năm tháng, cái cảm giác ấy vẫn mạnh mẽ đến nỗi bà không thể gợi ra được. Qua bao năm tháng, cái cảm giác ấy vẫn mạnh mẽ đến nỗi bà không thể gợi ra được từng chi tiết một lần bởi thần trí của bà bị chế ngự dưới sức mạnh của một xúc cảm tinh thuần.
    Làm sống lại những kỷ niệm là một cách của bà để tồn tại. Những năm sau này, các chi tiết càng trỗi dậy trong tâm trí bà thường xuyên hơn. Bà không còn cố xua đuổi hình ảnh Robert Kincaid trở lại với bà nữa. Hình ảnh càng lúc càng chính xác, càng lúc càng thật trong hiện tại, nhưng những hình ảnh đó lại đến từ một nơi thật xa vời. Đã 22 năm rồi nhưng dần dần chúng trở thành thực tại của bà, cái thực tại duy nhất mà bà sống.
    Bà biết rằng bà đã 67 tuổi và chấp nhận điều đó, nhưng bà không thể hình dung được rằng lúc này Robert Kincaid hẳn cũng xấp xỉ 75. Bà không thể nghĩ tới hoặc tưởng tượng ra điều đó. Ông ấy vẫn ở đây thật sát gần bà trong chiếc sơ mi trắng, mớ tóc xám dài, cai quần kaki, đôi dép màu nâu thẫm, chiếc vòng đeo tay và sợi dây chuyền bạc quanh cổ. Ông vẫn ở nơi đây, ôm bà trong vòng tay. Cuối cùng bà lách khỏi ông, khỏi nơi họ đang đứng trong phòng bếp và cầm tay ông dẫn về phía cầu thang, bước lên những bậc thang, xuyên qua phòng Carolyn rồi phòng Michael trước khi đế phòng bà. Bà bật ngọn đè nhỏ nơi đầu giường.
    Ngày hôm nay, sau ngần ấy năm trời, Francesca cầm ly brandy ở tay, vẫn chậm rãi bước lên cầu thang, đưa tay phải ra phía sau như để hướng dẫn cái kỷ niệm mà bà có được với ông khi bước lên bậc thang, bước dọc hành lang và bước vào phòng.
    Những hình ảnh đó in trong ký ức bà rõ rệt đến nỗi chúng như là những bức ảnh chụp sắc nét của Robert Kincaid. Bà nhớ lại cái lúc như trong một giấc mơ, họ cởi bỏ áo xống và nằm dài trên giường. Bà nhớ lại ông nằm trên người bà và chậm rãi vuốt nhẹ trên ngực, trên bụng bà. Ông vuốt đi vuốt lại mãi, như thể thực hiện một nghi thức gợi tình mà con đực dành cho con cái tự ngàn xưa. Đè chặt lên bà, ông đưa miệng hôn lên môi, lên tai hay dùng lưỡi lướt dọc cổ Francesca, liếm bà như một con báo đực thường làm như thế trong đồng cỏ Phi Châu. Thì ông cũng là một con thú. Một con thú đực khoẻ mạnh và uyển chuyển không làm gì rõ rệt để chế ngự bà, thế mà đã chế ngự bà hoàn toàn, đúng như lúc đó bà muốn.
    Điều đó như vượt ra khỏi mối dây thể xác, mặc dầu chính cái khả năng ******** kéo dài và không mệt mỏi của ông là một phần quan trọng. Việc ******** đối với bà hiện nay chỉ có nghĩa như một cái gì tầm thường, khi mà những năm sau này người ta nói rất nhiều về chuyện đó, nhưng ******** với ông là cả một hành động tinh thần. Đó là một hành vi tâm linh, chẳng tầm thường chút nào cả.
    Ngay khi mới gặp ông, bà đã chờ đợi một cảm giác dễ chịu, phá bỏ sự tầm thường, đơn điệu trong đời sống của bà. Bà không ngờ rằng nó có một sức mạnh kỳ lạ đến như vậy.
    Bởi gần như ông chiếm đoạt mọi hướng, mọi phần của đời sống bà. Điều đó làm bà sợ hãi. Bà vẫn luôn luôn tưởng rằng yêu ông, một phần nơi con người bà vẫn còn giữ lại. Đó là phần thuộc về gia đình bà, về cuộc sống của bà ở cái quận Madison này.
    áp mặt vào cổ ông, da chạm vào da ông, Francesca mơ thấy những dòng sông, những bếp than hồng, nghe thấy tiếng đầu máy xe hoả rời nhà ga từ mùa đông của những đêm khao khát, bà thấy những người lữ hành trang phục đen vội vã đi dọc những bờ sông mượt cỏ hay băng ngang qua cánh đồng mùa hạ, theo đuổi con đường mình để đi đến nơi tận cùng thế giới.
    Đêm trôi đi, và cuộc khiêu vũ lớn lao vẫn tiếp tục. Robert Kincaid thường từ khước những suy tư duy lý và ông thường chìm đắm vào hình thể, âm thanh và bóng tối. Ông theo những lối đi quanh co trong vương quốc của tiềm thức xa xưa để tự dẫn mình lần về phía sáng của làn sương phản chiếu ánh mặt trời, nơi lớp cỏ mùa hạ hay nơi những chiếc lá úa đỏ rực của mùa thu.
    Và ông nghe thấy tiếng nói của Francesca rót vào tai ông, lạ như giọng của một ai khác. Những lời trong một bài thơ của Rilke. ?Dọc theo tầng tháp xưa... Tôi đã lạc lối nghìn năm?o. Lời một bài thơ ca tụng mặt trời ở Navaho. Và ông thì thào thốt ra hình ảnh mà Francesca lúc này gợi lên - những làn cát xoáy, những ngọn gió nguyên sơ, những con chim bồ nông cỡi trên mình cá heo lướt sóng về phương Bắc dọc bờ biển Phi châu. Và như một người thợ săn lớn, sau nhiều năm dài băng qua những con đường xa tắp, đột nhiên thấy ánh lửa trại nơi ngôi làng quê mình, niềm cô đơn bao lâu chợt rời bỏ ông. Cuối cùng, cuối cùng ông đã đến nơi. Đã đến từ một nơi xa, rất xa. Thế là ông nằm nghỉ bên cạnh Francesca, trong một sự độc nhất vô nhị của tình yêu ông dành cho bà.
    Sáng sớm, ông sửa soạn y phục và nhìn vào mắt Francesca, nói: ?Đó chính là lý do tại sao anh ở trên hành tinh này, Francesca. Không phải để đi du lịch hay đi thực hiện các bức ảnh, mà để yêu em. Ngay hôm nay anh đã biết rõ, anh rơi xuống từ một nơi chốn rất cao, rất lớn rộng từ rất lâu rồi, rất nhiều năm trước khi sống cuộc sống này. Và trong suốt những năm dài đó, là anh rơi về phía em?o.
    Họ bước xuống nhà, hoá ra máy phát thanh vẫn còn mở, từ hồi đêm. Bình minh đã hiện nhưng mặt trời vẫn còn ẩn mình sau những lớp mây dày.
    ?Francesca, anh muốn xin em một đặc ân?o, ông nói khi bà đang pha cà phê.
    ?Sao??o. Bà ngước mắt lên. Rồi bà nghĩ: ?Ôi, trời ơi, sao em yêu anh thế không biết?o, bà run rẩy, muốn ông nhiều hơn nữa, muốn rằng không bao giờ ngừng lại.
    ?Em mặc chiếc quần jean và chiếc áo sơ mi trắng hôm qua vào, mang đôi xăng-đan. Không có gì khác. Anh muốn chụp em một bức ảnh. Một bức ảnh cho chỉ hai chúng ta?o.
    Francesca bước lên thang lầu. Bà mặc áo quần và đi ra đồng với ông. Chính lúc đó ông chụp bà bức ảnh mà bà vẫn ngắm nhìn hàng năm sau này.
  6. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Con đường và người lữ hành
    Những ngày sau đó, Robert Kincaid bỏ luôn chuyện đi chụp ảnh. Phần Francesca, bà cũng bỏ luôn công việc trang trại, ngoại trừ những công việc tối thiểu bà phải làm. Họ dùng tất cả thời gian để ở bên nhau, nói chuyện và ********. Hai lần, theo yêu cầu của Francesca, ông dạo đàn ghi-ta và hát cho bà nghe. Giọng hát khá hơn mức trung bình, nhưng ông hơi bối rối bảo rằng bà là thính giả đầu tiên của ông trong đời. Nghe thế bà bật cười và ôm hôn ông rồi cố nén tình cảm lại, bà lắng nghe ông hát những bài hát của dân đánh cá voi và về gió trong sa mạc.
    Bà leo lên chiếc xe Harry cùng đi với ông đến phi trường Des Moines để ông gởi những cuốn phim về New York. Khi nào có thể được, ông đều gởi phim về trước để ban biên tập có thể biết về công việc ông đang làm và để các chuyên viên kỹ thuật biết được dụng cụ nhiếp ảnh của ông có hoạt động tốt không.
    Sau khi gởi xong, ông thường dẫn bà đi ăn ở trong một hiệu ăn sang trọng. Ông nắm tay bà và nhìn nét mặt chăm chú của bà. Còn anh phục vụ thì mỉm cười khi thấy động tác của họ với hy vọng rằng một ngày nào đó anh ta cũng có thể làm như vậy.
    Bà sung sướng thấy bà hiểu về điều mà Robert Kincaid nói về sự biến mất sắp tới của những phong cách tồn tại như là ý tưởng của chính bà. Ông đã có thể dễ dàng gợi lên hình ảnh của những chàng cao bồi cuối cùng và những loại tương tự trong đó có ông. Và bà bắt đầu hiểu điều ông muốn nói khi ông giải thích rằng ông đang ở tại điểm tối hậu của một nhánh của dòng tiến hoá và rằng đó là một con đường không kết quả. Có lúc, khi đang nói về cái mà ông gọi là ?những điều cuối cùng?o, ông đã thầm thì ?Không bao giờ nữa, đó là tiếng kêu của Đấng Tối cao trong sa mạc. Không bao giờ, không bao giờ nữa?o. Ông không thấy ai ở trước mặt nơi đầu nhánh tiến hoá đó. Giống loài ông không còn lý do để tồn tại nữa. Đến ngày Thứ năm, hai người có một cuộc tranh luận với nhau sau khi đã ân ái suốt buổi chiều.
    Cả hai đều biết rằng cuộc đối thoại này thế nào cũng xảy ra, nhưng cả hai đều cố tình né cho đến lúc đó.
    ?Chúng ta phải làm gì bây giờ??o.
    Bà im lặng, một sự im lặng nát lòng. Rồi bà nói dịu dàng: ?Em không biết?o.
    ?Em nghe đây, anh có thể ở lại đây nếu em muốn hoặc tại thành phố, hoặc bất cứ đâu. Khi gia đình em trở về, anh sẽ nói chuyện với chồng em và anh sẽ giải thích cho ông ấy hiểu hoàn cảnh của chúng mình. Thật không dễ dàng gì đâu nhưng anh sẽ làm?o.
    Francesca lắc đầu: ?Richard không bao giờ hiểu được đâu, anh ấy không suy tính theo cách suy nghĩ của mình. Anh ấy không thể thấy được điều huyền ảo cũng như niềm dam mê và tất cả những điều mà chúng ta đã nói chuyện với nhau cũng như chúng ta đã sống qua. Anh ấy cũng không bao giờ chấp nhận, không phải vì anh ấy là một người thấp hèn đâu. Đơn giản chỉ là vì tất cả những điều đó quá xa vời những gì anh ấy cảm thấy hoặc suy nghĩ. Anh ấy không có cách gì để tiếp cận với vấn đề cả?o.
    Thế thì chúng ta đành phải bỏ cuộc sao?
    Ông nói nghiêm trang không cười nữa.
    Em cũng không biết nữa. Em thuộc về anh, Robert ạ. Trước đây em không hề muốn ai chiếm đoạt em, em không cần điều đó và em biết rằng anh cũng không hề có ý định, nhưng điều này đã xảy ra. Bây giờ em không còn ngồi trên cỏ ở cạnh anh nữa. Em ở trong anh, người tù nhân hạnh phúc của anh?o.
    Ông trả lời: ?Anh không thể biết có phải em ở trong anh hay anh ở nơi em, hoặc em có thuộc về anh không. Nhưng một điều chắc chắn, anh không hề muốn chiếm đoạt em. Anh nghĩ rằng chúng ta là hai người nằm bên trong một thực thể khác do chúng ta tạo ra và tên nó là ?chúng mình?o.
    Thật ra chúng ta không ở bên trong của thực thể đó. Chúng ta chính là thực thể đó. Cả hai chúng ta đều đã mất đi và chúng ta tạo ra một cái khác, một sự sống chỉ hiện hữu với tư cách là một hợp chất của hai chúng ta. Chúng ta yêu nhau, yêu say đắm, yêu đến tận cùng như con người có thể yêu nhau.
    Hãy đi với anh Francesca. Điều này không gây ra nhiều vấn đề lắm đâu. Chúng ta sẽ yêu nhau trên cát sa mạc, chúng ta sẽ uống brandy trên những mái hiên nhà ở Mombasa để ngắm nhìn những con diều vùng sa mạc ả Rập lướt cánh trong ngọn gió đầu tiên của buổi ban mai. Anh sẽ chỉ cho em xem chỗ trú ngụ của sư tử, ta sẽ đến một thành phố kiểu Pháp xưa cũ nằm trong vịnh Bengal với một quán ăn tuyệt vời đặt trên nóc nhà, những đoàn tàu hoả dẫn đến những con đường khuất nẻo trên núi cũng như những quán ăn nhỏ vùng Pyresnees. Còn nữa, ở phía Nam ấn Độ có một hòn đảo nằm giữa một cái hồ mênh mông, nơi đó người ta dành để nuôi cọp... Còn nếu em không muốn đi du lịch, anh sẽ mở một cửa tiệm đâu đó và anh sẽ trở thành thợ chụp ảnh địa phương, anh sẽ chụp chân dung hay bất cứ cái gì để chúng ta sống.
    Robert, tối hôm qua khi chúng ta ân ái với nhau, anh đã nói một điều làm em nhớ mãi. Em nói với anh về năng lực của anh và anh đã trả lời: ?Anh chính là con đường, là kẻ lữ hành và là những cánh buồm dẫn về biển cả?o. Anh nói đúng. Đó chính là điều anh cảm thấy, anh cảm thấy cuộc du hành trong anh. Không, còn hơn thế nữa, điều mà em không chắc là có thể giải thích được, nhưng anh chính là cuộc hành trình. Anh là kẻ ở nơi lằn ranh chỗ ảo ảnh gặp gỡ thực tại, ở nơi con đường và anh chính là con đường.
    ?Anh chính là chiếc ba lô cũ kỹ anh mang sau lưng, chính là chiếc xe tải Harry cà tàng, chính là những chuyến phản lực bay đến á châu. Và đó chính là điều em muốn về anh. Nếu như nhánh dòng tiến hoá của anh không còn hậu quả, như anh từng nói, thì em muốn anh sống mạnh mẽ cho hết cái đích cuối cùng đó. Em không chắc là anh có thể làm điều đó khi em bên cạnh. Chắc anh không hiểu đâu, em yêu anh vô cùng, đến nỗi em không thể làm hạn chế đời sống của anh. Bởi nếu em làm thế, em sẽ giết chết cái con thú hoang dã phi thường nơi anh, và cả cái sức mạnh kia cũng cùng chết với anh?o.
    Ông muốn nói, nhưng Francesca đã chặn lời.
    ?Robert, em chưa nói hết. Nếu anh ôm em trong tay, mang em ra xe và bắt em đi theo anh, em sẽ không nói gì hết. Và anh cũng không cần làm thế, anh chỉ bảo em đi theo thì em cũng đi. Nhưng em nghĩ rằng anh sẽ không làm như vậy. Anh quá nhạy cảm, quá ý thức về tình cảm của em. Và em có một tình cảm về trách nhiệm của em ở đây.
    ?Vâng, về một mặt nào đó, cuộc sống của em ở đây nhàm chán. Cuộc sống thiếu lãng mạn, thiếu dục tình, thiếu cuộc khiêu vũ trong căn phòng bếp được ánh nến soi sáng, thiếu cái cảm giác tuyệt vời được gần người đàn ông biết cách yêu một người đàn bà. Và nhất là, anh cũng thiếu. Nhưng em còn có những tình cảm thiêng liêng về trách nhiệm. Đối với Richard, đối với con em. Nếu em ra đi, nếu em vắng mặt thì đó sẽ là một điều khó chịu đựng nổi cho Richard. Chừng đó đủ để huỷ hoại anh ấy.
    ?Ngoài ra, còn tệ hơn nữa, anh ấy phải sống cuộc đời còn lại để nghe những lời đàm tiếu của người ở đây. ?Richard Johnson đó. Cái con vợ người ý bốc lửa của lão đã bỏ đi với một tay nhiếp ảnh tóc dài vài năm trước đây?o. Richard phải chịu đựng điều đó và con cái em phải nghe những lời ngồi lê đôi mách chừng nào chúng còn sống. Tất cả chúng cũng phải chịu đựng. Và chúng sẽ ghét em vì điều ấy.
    ?Ngay cả khi em muốn ở với anh, muốn là một phần của anh, em cũng không thể tách rời khỏi bổn phận. Nếu anh ép em, dẫu bằng thể chất hay tinh thần, để đi với anh, thì như em đã nói, em sẽ không kháng cự lại đâu. Em không có cái sức mạnh như sức mạnh mà em cảm thấy nơi anh. Em đã nói là em không muốn lấy đi cuộc hành trình của anh, nhưng em rất muốn đi theo anh chỉ bởi để thoả mãn nhu cầu vị kỷ của em là được ở bên anh.
    ?Cho nên, em van anh, đừng ép buộc em. Đừng ép buộc em từ bỏ trách nhiệm. Em không thể làm vậy để rồi sống với cái ý tưởng đó. Nếu hôm nay em ra đi với anh, ý tưởng đó sẽ biến em thành con người khác với người đàn bà mà anh đã yêu dấu?o.
    Robert Kincaid im lặng. Ông hiểu điều bà nói về con đường, về trách nhiệm và về cái mặc cảm tội lỗi có thể làm thay đổi con người bà. Ông biết bà có lý, về một mặt nào đó. Ông ngó ra cửa sổ và tự tranh đấu với mình, tranh đấu với mình để hiểu những tình cảm của Francesca. Bà bật khóc.
    Rồi họ ôm lấy nhau im lặng một lúc lâu. Và ông thì thầm vào tai bà: ?Anh có một điều muốn nói, chỉ một điều thôi, anh chưa hề nói điều này cho ai bao giờ, và anh muốn em nhớ lấy: trong một vũ trụ hàm hồ, loại xác tín như thế này chỉ đến với em một lần, không bao giờ có lại, cho dù ta có trải qua bao nhiêu cuộc đời đi nữa?o.
    Đêm đó, đêm Thứ năm, họ lại ân ái với nhau, rồi nằm dài áp sát vào nhau, vuốt ve và thủ thỉ với nhau cho đến rạng sáng. Francesca ngủ thiếp đi một lúc và khi thức dậy, nghe mặt trời đã lên cao và nóng bức. Bà nghe tiếng cửa xe tải đập và vội vã dậy mặc quần áo.
    Ông đã pha cà phê và ngồi nơi ghế hút thuốc khi bà xuống nhà bếp. Ông mỉm cười với bà. Bà bước ngang qua phòng đến úp mặt vào cổ ông, luồn tay vào mái tóc ông. Ông ôm lấy hông bà, kéo sát lại gần, đặt ngồi trên đầu gối và vuốt ve bà.
    Cuối cùng, ông đứng dậy. Ông mặc chiếc quần Jean, có dây treo, áo sơ mi kaki giặt sạch, mang đôi ủng hiệu Red Wing và con dao quân đội bên hông. Chiếc áo phóng viên mặc ngoài thì còn móc nơi lưng ghế, tấm che ống kính thòi ra trên túi áo. Chàng cao bồi đã sẵn sàng lên yên.
  7. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    ?Đến lúc anh phải đi?o.
    Francesca lắc đầu và bật khóc. Bà thấy giòng nước mắt lăn trên má ông nhưng ông vẫn cố cười, nụ cười nhếch mép của ông.
    ?Thỉnh thoảng anh viết cho em ít chữ có được không? Anh muốn ít ra cũng gởi cho em một hai bức ảnh?o.
    Được. Francesca vừa nói vừa lấy cái khăn móc nơi tủ bếp chùi mặt. ?Em sẽ kiếm một cớ nào đó để nhận của một anh nhiếp ảnh hip-pi, với điều kiện là không thường xuyên lắm?o.
    Em có địa chỉ và số điện thoại của tôi ở Washington rồi chứ? Bà lắc đầu. ?Còn nếu tôi không có ở đó, cứ gọi cho văn phòng của tờ National Geographic. Tôi sẽ ghi cho em số điện thoại?o. Ông viết lên cuốn sổ để gần máy điện thoại, xé rồi đưa cho bà.
    ?Hoặc em có thể tìm trên tờ tạp chí cũng được. Cứ hỏi phòng biên tập. Phần lớn thời gian họ biết anh ở đâu. Đừng do dự nếu em muốn gặp anh hoặc chỉ để nói với anh. Hãy gọi bên tổng đài P.C.V, như thế việc liên lạc với anh sẽ không có trong bảng liệt kê lần gọi điện thoại của em. Anh cũng còn ở lại nơi đây vài ngày nữa, hãy nghĩ về những điều anh đã nói. Anh cũng có thể trở lại đây và thu xếp nhanh chóng để chúng ta có thể cùng nhau đi về Tây Bắc?o.
    Francesca không trả lời. Bà biết quả thật ông có thể thu xếp mọi sự một cách nhanh chóng. Richard trẻ hơn ông năm tuổi, nhưng Richard không có sức mạnh về mặt thể chất và tinh thần như Robert Kincaid.
    Ông mặc áo ngoài vào. Tâm hồn Francesca giờ đây thẫn thờ, trống rỗng, xa vắng. ?Đừng đi Robert Kincaid?o, bà nói và nghe tiếng mình khóc trong lòng. Nắm tay bà, ông bước qua cửa và tiến lại gần chiếc xe tải. Ông mở cửa xe phía tay lái, đặt một chân lên bục xe rồi quay lại và ôm lấy bà vài phút. Chẳng ai mở miệng nói một lời, họ chỉ đứng đó, yên lặng đón nhận, ghi sâu trong lòng mình cảm xúc của người kia, những cảm xúc không bao giờ xoá được. Họ tái xác nhận sự hiện hữu của cái thực thể đồng nhất mà ông đã nói, rồi cuối cùng ông buông bà ra, bước lên xe tải, ngồi xuống nhưng vẫn để cửa mở, dòng nước mắt chảy dọc theo gò má Francesca. Chậm rãi, ông đóng cửa xe. Bản lề kêu rít. Như thường lệ, chiếc xe tải Harry chừng như không muốn mở máy, nhưng rồi Francesca nghe thấy tiếng Robert ấn trên bộ gia tốc và chiếc xe tải cuối cùng cũng chịu khuất phục. Ông cho xe lùi và dừng tay một lúc cười, ông đưa ngón tay chỉ con đường hẹp. ?Em biết đó, con đường tháng sau anh đi sang phía Nam ấn Độ. Em có muốn anh gởi một tấm thiếp không??o. Francesca không thể thốt nổi ra một lời mà chỉ lúc lắc đầu. Bà không thể liều để cho Richard có thể tìm thấy tấm thiếp trong hộp thư. Bà biết rằng Robert Kincaid hiểu được. Ông nhè nhẹ lắc đầu. Chiếc xe tải lùi ngang qua sân nghiến lào xào trên lớp sỏi làm đàn gà chạy nháo nhác. Chú chó Jack đang đuổi theo một con gà trong kho chứa máy.
    Qua cửa xe, Robert Kincaid ra dấu chào tạm biệt. Bà có thể thấy ánh mặt trời phản chiếu nơi chiếc vòng bạc trong tay ông cũng như thấy hai chiếc cúc trên chiếc áo sơm mi mở rộng.
    Ông lái xe ra ngõ và xuống đường. Francesca dụi mắt, cố gắng nhìn theo ông. ánh sáng mặt trời phản chiếu qua làn nước mắt tạo thành những lăn kính lạ lùng. Cũng giống như bà đã làm lần đầu tiên khi họ gặp nhau, Francesca rảo bước về phía con ngõ và nhìn theo chiếc xe tải già nua nhấp nhô trên lối đi ghồ ghề.
    Khi ra đến đườn lộ, xe dừng lại, cửa xe mở ra và ông lại xuất hiện nơi bục xe. Ông nhìn thấy Francesca từ trăm mét trên cao, trông nhỏ xíu vì khoảng cách đó. Ông đứng yên đó trong khi chiếc xe tải nổ máy mọt cách bồn chồn trong ánh nắng mặt trời. Ông nhìn về phía Francesca. Không người nào phát một cử chỉ. Họ đã nói lời giã biệt rồi - người vợ của một trại chủ Iowa và một sinh vật ở điểm tối hậu trên một nhánh của dòng tiến hoá, chàng cao bồi cuối cùng. Trong ba mươi giây ông đứng yên đó, cặp mắt chuyên nghiệp của một nhiếp ảnh gia không bỏ sót một chi tiết nào, cố gắng tạo ra một hình ảnh riêng tư mà ông sẽ không bao giờ quên.
    Rồi ông đóng cửa xe và bắt đầu tăng tốc độ. Khi rẽ trái tiến về Winterset, ông ngoái người lui, ngay trước chỗ một lùm cây ở phía Tây Bắc của trang trại, nơi không bị khuất mắt và thấy bà đang ngồi bệt ở đầu ngõ, chân bắt chéo trong làn bụi mù, đầu gục xuống hai bàn tay.
    Richard và hai con về nhà lúc xế chiều, huyên thuyên đủ chuyện về hội chợ và về chiếc "ruy băng" mà con bê của họ đã giành được trước khi nó vào lò thịt. Về đến nhà là Carolyn lập tức ùa vào máy điện thoại. Hôm đó là thứ sáu nên Michael lái xe lên phố liền để vui đùa như bọn trẻ vẫn làm vào chiều cuối tuần, nhất là để lân la nơi các quán ở quảng trờng, ngồi tán gẫu hoặc bình luận về các cô gái lái xe đi ngang qua trước mặt. Richard thì bật ti vi và bảo Francesca là bánh bắp ngon tuyệt khi ngồm ngoàm một miếng lớn với bơ và xi-rô.
    Francesca ngồi trên ghế xích đu trước hiện. Richard bước ra khi chương trình phát hình chấm dứt vào lúc 10 giờ. Ông vươn vai và nói: "Đi xa về lại nhà thật thích". Rồi nhìn bà ông hỏi: "Frennie, mọi chuyện tốt chứ em? Trông em có vẻ hơi mệt".
    - ờ, mọi chuyện tốt cả Richard ạ. Em mừng thấy anh trở về mà không có chuyện gì.
    - ừ, hội chợ dài quá và anh mệt muốn chết. Em vào nhà chứ, Frennie?
    - Lát nữa đã. Ngoài này dễ chịu và em muốn ngồi thêm một lúc nữa. Bà cảm thấy mệt mỏi và bà cũng sợ rằng Richard muốn yêu bà. Tối nay bà không thể chịu đựng nổi điều đó.
    Bà có thể nghe thấy tiếng chân ông bước trên phòng ngủ, ngay phía trên đầu chỗ ghế xích đu bà đang ngồi, đôi chân trần giẫm trên nền dưới mái hiên. Từ phía sau nhà, bà nghe tiếng máy thu thanh của Carolyn. Những nhà tiếp đó bà tránh không lên phố, ở đâu đó chỉ cách vài cây số. Thật tình bà nghĩ mình không thể chủ động được nếu gặp ông. Bà dám chạy ào về phía ông và la lên: "Nhanh lên! Chúng ta phải đi ngay tức khắc". Trước đây bà dám liều, mặc dù có thể bị người ta thấy ở cầu Cedar, nhưng bây giờ gặp lại ông thì quá liều lĩnh.
    Vào ngày thứ ba, lương thực trong nhà cạn và Richard cũng cần mua một bộ phận cho máy xát bắp. Đó là một ngày nặng nề, mưa nhiều, hơi có sương mù và khá lạnh đối với một ngày tháng Tám.
    Richard tìm mua được vài thiết bị ông cần và ngồi uống cà phê với mấy người quen trong quán khi Francesca đi mua lương thực. Uống xong, ông đến đón bà trước cửa siêu thị. Ông leo lên xe vặn máy cát-xét và giúp bà để xách, giỏ vào chiếc xe tải hiệu Ford, trên chỗ ngồi và quanh cả đầu gối ông. Francesca thì nghĩ đến những chiếc giá ảnh và ba lô.
    "Có lẽ anh phải quay lại bên chỗ bán máy một tí, anh còn quên mua một thiết bị có lẽ sẽ cần".
    Họ lái xe về phía Bắc trên lộ 169, con đường chính của thị trấn Winterset. ở góc phía Nam của trạm bơm xăng Texaco, bà thấy Harry đang rời khỏi vòi bơm, đôi cần gạt nước quay liên tục và lùi ra lộ ngay trước xe họ.
    Xe họ đi theo sau chiếc xe tải già nua màu xanh nước biển và từ nơi chiếc xe Ford của mình, bà có thể thấy một mảnh vải nhựa đen thẫm loé lên dưới ánh sáng đèn, trên đó có những chiếc va li và một bao đựng đàn ghi-ta buộc vào chiếc bánh xơ-cua. Tấm kính sau phủ đầy nước mưa nhưng bà vẫn trông thấy một phần cái đầu người lái. Ông hơi chúi người về phía trước như thể để lấy một vật gì trong cái hộp. Tám ngày trước đây ông cũng đã làm cử chỉ đó và cánh tay ông đã chạm nhự vào đùi Francesca. Rồi bảy ngày trước đây bà đã đi mua một chiếc áo màu hồng ở Des Moines.
    ?Chà, chiếc xe tải này đi xa nhà quá, Richard nhận xét. Bang Washington. Người ta dám tưởng người lái xe là một người đàn bà lắm vì tóc hắn dài thòng. à anh nhớ lại mà người ta bàn tán trong quán cà phê hồi nãy?o.
    Họ theo sau xe Robert Kincaid khoảng vài trăm mét theo hướng Bắc cho đến chỗ giao lộ của đường 169 với đường 92. Đường này đi từ Đông sang Tây, đó là một ngã tư xe cộ dày đặc chạy đủ mọi hướng mà sương mù và cơn mưa nặng hạt làm cho việc lưu thông khó khăn thêm. Xe họ dừng lại chừng hai mươi giây ở ngã tư. Robert Kincaid chỉ cách bà chừng ba mươi mét. Bà vẫn còn có thể làm: chạy ra khỏi xe, chạy về phía cửa xe của chiếc Harry và leo lên ngồi trên đống ba lô, giá ảnh.
    Kể từ khi Robert Kincaid xa bà từ Thứ Sáu vừa rồi, bà mới nhận ra rằng mặc dầu biết mình yêu thương Kincaid, bà vẫn còn đánh giá thấp tình cảm của mình, điều đó có vẻ như không thể được nhưng mà đúng như vậy, bây giờ bà mới bắt đầu hiểu đúng cái điều mà ông đã biết từ trước.
    Nhưng bà không động đậy, như hoá đá vì trách nhiệm, đăm đăm nhìn kính sau của xe ông như bà chưa từng nhìn một cái gì như thế trong đời. Đèn hiệu bên trái xe ông nhấp nháy. Trong một lúc, ông biến mất. Richard đưa tay tắt máy thu thanh.
    Francesca bắt đầu thấy mọi thứ chậm lại như trong một đoạn phim quay chậm. Đến phiên xe ông và chầm chậm... chầm chậm, ông dấn vào khúc quẹo. Bà có thể tưởng tượng ra đôi chân dài của ông đạp trên cần thắng hoặc nhấn ga, cánh tay phải của ông nơi cần số - ông rẽ trái vào đường 92 về Council Bluffs, Hắc Sơn và Tây Bắc... chầm chậm, bà quay đầu theo, chĩa mặt về hướng Tây, phía xe ông.
    Nhoè nhoẹt vì nước mắt, mưa và sương mù, bà phải khó nhọc lắm mới nhận ra hàng chữ đỏ trên cửa xe: ?Kincaid, nhiếp ảnh gia - Bellingham, Washington?o.
    Khi quẹo xe, để nhìn cho rõ, ông đã hạ kính xe xuống, vì thế bây giờ bà có thể thấy mái tóc ông tung bay khi ông nhấn ga dọc đường 92, phóng về hướng Tây và quay cửa kính xe lên.
    ?Ô, lạy Chúa toàn năng... ô, không!?o.
    Lời nói thốt ra trên miệng bà. ?Em có lỗi, Robert, em có lỗi vì đã ở lại... nhưng em không thể ra đi được... Hãy để em nói lại với anh một lần nữa tại sao em không thể ra đi... và anh, nói lại cho em biết em phải làm gì?o.
    Và bà nghe thấy tiếng Kincaid, như vọng lại từ con đường dài: ?Trong một vũ trụ hàm hồ, loại xác tín như thế này chỉ đến với em một lần, không bao giờ có lại, cho dù ta có trải qua bao nhiêu cuộc đời đi nữa?o.
    Richard lái xe về hướng Bắc. Bà nhìn ngang qua Richard trong một lúc để thấy ánh đèn sau của chiếc Harry trong mưa và sương mù. Chiếc xe cũ kỹ của Harry bị một chiếc rờ móc chắn ngang, che khuất hình ảnh chàng cao bồi cuối cùng.
    ?Vĩnh biệt, Robert Kincaid?o, bà thì thầm và bật khóc, không giấu diếm.
    Richard quay về phía bà: ?Có chuyện gì xảy ra vậy Frannie? Em vui lòng cho anh biết có chuyện gì vậy??o
    Richard, em chỉ hơi mệt một tý. Vài phút là khỏe lại ngay thôi mà. Richard bật máy thu thanh tìm đài, vừa đưa mắt nhìn bà, và khẽ lắc đầu.
  8. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Tro tàn
    Đêm đã phủ xuống quận Madison. Sinh nhật lần thứ 67, năm 1987. Từ hai tiếng đồng hồ, Francesca vẫn nằm dài trên giường, bà vẫn có thể thấy, sờ hay cảm thấy tất cả những gì bà trải qua hai mươi hai năm về trước.
    Bà còn nhớ, nhớ mãi. Hình ảnh ánh đỏ của đèn sau xe hơi ông khuất dần về phía Tây dọc đường 92, trong sương mù và trong làn mưa, vẫn theo bà từ hơn hai mươi năm rồi. Bà sờ nhẹ lên vú và cảm thấy bắp thịt ở ngực mình săn chạm vào tay bà. Chúa ơi, bà yêu ông ấy biết chừng nào. Bà yêu ông ấy hơn là bà có thể tưởng, bà càng yêu ông ấy hơn nữa trong giờ phút này, qua ngần ấy năm. Bà đã có thể làm bất cứ điều gì cho ông, ngoại trừ huỷ hoại gia đình bà và có lẽ, huỷ hoại cả chính ông nữa. Bà bước xuống cầu thang và ngồi xuống bên chiếc bàn cũ kỹ bằng mi-ca vàng trong nhà bếp. Trước đây Richard đòi mua một chiếc mới cho bằng được. Bà đành chìu nhưng khăng khăng đòi phải đem chiếc bàn cũ vào cất trong xưởng và bà chăm chút bọc lại trước khi khiêng đi.
    ?Anh thật chẳng hiểu tại sao em lại quá gắn bó với cái bàn cũ mèm nảy như vậy?o. Richard nhận xét khi giúp bà mang bàn vào xưởng. Sau khi Richard chết, bà bảo Michael mang lại vào trong nhà. Michael không bao giờ hỏi mẹ tại sao lại muốn thay cái bàn mới bằng cái cũ này. Cậu chỉ đưa mắt nhìn dò hỏi và Francesca không nói gì cả.
    Bây giờ thì bà ngồi vào chính chiếc bàn ấy. Rồi bà lấy từ tủ ra hai ngọn nến trắng cắm trên giá bằng đồng. Bà châm nến và mở máy thu thanh, đổi kênh cho đến khi máy phát ra một ban nhạc dịu dàng.
    Bà đứng yên trước bồn rửa chén một lúc lâu, nhẹ ngẩng đầu như nhìn ông, lẩm bẩm: ?Em nhớ anh, Robert Kincaid. Có lẽ Đấng Tối cao trong sa mạc có lý. Có lẽ anh là người cuối cùng. Có lẽ tất cả những chàng cao bồi ngày nay đều đang biến mất?o.
    Trước khi Richard chết, bà không bao giờ thử gọi điện hay viết cho Richard, mặc dù suốt chừng ấy năm, ngày nào bà cũng thôi thúc muốn làm như vậy, bởi nếu ông còn bảo bà một lần nữa, hẳn bà sẽ ra đi với ông. Nếu bà viết thư, bà biết chắc chắn ông sẽ bay ngay đến tìm bà. Trong suốt chừng ấy năm, ông không hề gọi điện hoặc viết thư, sau khi gởi cho bà một bưu phẩm nhỏ gồm mấy tấm ảnh và một bản thảo. Bà biết rằng ông hiểu điều bà cảm nhận và hiểu những phức tạp mà ông có thể gây ra cho cuộc đời bà.
    Bắt đầu từ năm 1965, bà đặt mua dài hạn tờ National Geographic. Bài phóg sự về những chiếc cầu có mái che xuất hiện năm sau và người ta thấy trên tạp chí hình chiếc cầu Roseman trong ánh sáng đầu tiên của bình minh, cái ngày mà ông nhận mẩu giấy nhắn của bà gắn trên cầu. Bìa cũng đăng một trong những tấm hình ông chụp: đó là ảnh hai con ngựa kéo chiếc xe về phía cầu Hogback. Bài viết cũng ký tên ông.
    Phía sau tờ tạp chí, người ta thường giới thiệu các phóng viên và các nhà nhiếp ảnh, đôi khi còn đăng hình họ nữa. Thỉnh thoảng cũng có đăng hình ông. Vẫn mái tóc xám bạc, chiếc vòng, quần jean hoặc kaki, máy ảnh đeo vai, đường gân hằn rõ nơi cánh tay. Khi thì ở Kalahari, trước bức tường đền jaipar ở ấn Độ, trong chiếc xuồng ở Guatemala, khi ở phía Bắc Canada. Con đường và chàng lãng tử. Bà cắt ảnh và bài của ông cùng cả số báo có bài về cây cầu, bản thảo và ảnh bà cùng mẫu giấy nhắn bà viết, tất cả vào một phong bì giấy dày và để vào ngăn tủ quần áo, lẫn lộn với mớ đồ lót, chỗ mà Richard không bao giờ sờ tới.
    Nhìn những bức ảnh chụp Robert Kincaid, theo dấu ông qua bao nhiêu năm, bà nhận thấy ông già đi nhiều. Vẫn luôn luôn nụ cười đó. Vẫn cái thân hình dong dỏng, mềm mại và đầy bắp thịt. Nhưng bà có thể nhìn thấy những nếp nhăn nơi khéo mắt, khuôn mặt hơi trĩu nặng. Bà có thể đọc thấy tất cả điều đó. Bà đã từng quan sát chăm chú thân thể ông trước đây. Và bây giờ thấy ông già đi, bà lại thấy ham muốn ông hơn. Bà đoán - không, bà chắc chắn ông đang sống một mình. Và quả như vậy.
    Giờ đây, hai mươi hai năm sau, ngồi bên bàn, bà lặng lẽ ngắm nghía những tấm hình cắt ra từ tờ tạp chí. Từ những miền xa xôi, ông nhìn lại bà. Bà lần giở bức ảnh trên số tạp chí năm 1967. Ông đứng gần một dòng sông ở Tây Phi, cận cảnh, mắt nhìn thẳng vào ống kính, cặp mày hơi nhíu lại, như đang nhắm vào một điểm nào đó.
    Nhiều năm trước đây, khi nhìn bức ảnh này lần đầu, bà đã để ý thấy nơi sợi dây chuyền bạc ông đeo ở cổ có gắn thêm một hình trái tim nhỏ. Richard và Carolyn thì đã đi ngủ, bà bèn lấy cái kính lúp mà hồi bé Michael vẫn dùng để xem bộ sưu tập tem và đưa lại gần tấm ảnh.
    ?Chúa ơi?o - bà kêu lên. Trên hình trái tim có khắc chữ: ?Francesca?o. Bà mỉm cười tha thứ cho hành động thiếu kín đáo duy nhất đó của ông. Trong những bức ảnh chụp sau đó, luôn luôn vẫn có hình trái tim nơi dây chuyền bạc của ông.
    Từ sau năm 1975, ảnh của ông không còn xuất hiện trên tờ tạp chí nữa. Cả tên cũng không. Bà kiểm tra từng số nhưng không thấy. Năm đó ông hẳn đã sáu mươi hai tuổi.
    Khi Richard chết vào năm 1979, sau tang lễ và sau khi các con đã đi, bà mới nghĩ đến việc gọi điện cho Robert Kincaid. Ông lúc đó đã sáu sáu, còn bà năm chín. Vẫn còn thời gian trước mặt hai người, dẫu cho là họ đã đánh mất đi mười bốn năm trời. Bà suy nghĩ thật lâu về điều này trong cả tuần lễ, rồi cuối cùng tìm số điện thoại ghi nơi thư ông và gọi ông.
    Tim bà ngừng đập khi nghe chuông reo. Bà nghe tiếng trả lời, một giọng đàn bà:
    ?Bảo hiểm Mc Gregor đây?o. Francesca choáng váng nhưng cố trấn tĩnh để hỏi lại xem có phải đúng số đó không. Đúng. Bà cám ơn và buông máy. Sau đó bà cố thử gọi tổng đài ở Bellingham, ở bang Washington để hỏi. Chẳng ai có tên này trong danh mục. Bà thử hỏi ở Seattle. Cũng không. Rồi các phòng thương mại ở Bellington và Seattle nữa. Cũng không nốt. Bà cũng yêu cầu người ta kiểm tra lại nơi các cuốn niên gím của thành phố. Họ kiểm tra lại và không tìm thấy ai có tên này cả.
    ?Anh ấy có thể ở bất cứ nơi nào?o - Bà tự nhủ.
    Bà nhớ đến tờ tạp chí, ông có dặn nếu cần thì gọi nơi đó. Bà liền gọi thử. Cô tiếp khách trả lời nhã nhặn nhưng cho biết hỏi người khác mới trả lời được, vì cô ta là nhân viên mới. Bà phải gọi qua ba người nữa rồi mới được nói chuyện với người phó tổng biên tập, là người đã làm ở đây từ hai mươi năm. Bà hỏi về Robert Kincaid.
  9. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Rõ ràng cái ông phó tổng biên tập này còn nhớ Kincaid. ?Bà muốn tìm lão ta hả? Cái lão nhiếp ảnh gia chết tiệt đó, ơ, xin lỗi bà. Lão khó chịu lắm, rất bướng bỉnh. Lão cứ nhất định nghệ thuật vị nghệ thuật, mà điều đó thì không ?ăn?o với độc giả của chúng tôi rồi. Họ muốn có những bức ảnh đẹp, chụp khéo nhưng không lập dị, vô lý cơ.
    ?Chúng tôi luôn luôn là Kincaid hơi khác thường, lão cũng chẳng biết nhĩn xa trong công việc. Nhưng đó là một tay chuyên nghiệp thật sự. Người ta có thể gởi lão đến bất cứ nơi đâu lão cũng làm việc ra trò, kể cả khi lão không đồng ý với quyết định của ban biên tập. Còn về địa chỉ của lão, thì tôi đang xem lại để cho bà biết đây. Lão thôi làm ở tạp chí này từ năm 1975. Tôi có giữ địa chỉ và số điện thoại sau đây...?o. Ông ta cho bà những địa chỉ, số điện thoại mà bà đã biết. Sau lần đó bà thôi không cố tìm nữa, dường như bà sợ những điều có thể phát hiện.
    Bà tiếp tục sống, cho phép mình nghĩ đến Robert Kincaid thường xuyên hơn. Thường nhiều lần trong năm, bà đến Des Moines để ăn trong cái quán ăn họ đã từng ăn với nhau. Một trong những dịp đó, bà mua một cuốn sổ bìa da. Và trên những trang giấy trắng tinh, bằng một nét chữ trau chuốt, bà bắt đầu kể lại đầy đủ chi tiết về cuộc tình của họ và về những tư tưởng mà ông đã gợi ra cho bà. Bà phải dùng hết ba cuốn sổ như vậy mới có cảm giác là mình đã hoàn tất xong nhiệm vụ. Winterset bây giờ đã tân tiến nhiều. Thị xã có một hội đồng nghệ thuật tích cực, phần lớn do các bà đảm trách. Người ta bàn đến việc sửa chữa, tân trang các cây cầu cũ kỹ bị bỏ quên nhiều năm. Tâm lý dân chúng cũng thay đổi nhiều, những mái tóc dài của đàn ông không còn làm cho người ta xì xào bàn tán nữa, dẫu vẫn có ít người đi xăng-đan và hầu như không có thi sĩ ở đây.
    Dẫu sao thì Francesca cũng đã hoàn toàn rút lui ra khỏi cộng đồng, ngoại từ mối liên hệ với một ít người bạn thân. Người ta hơi chú ý đến điểm này và còn kể là thường thấy bà đi đến cây cầu Roseman và đôi khi, đến cầu Cedar nữa. Khi đã già người ta hay lẩn thẩn lạ lùng vậy đó, họ bình luận như thế và bằng lòng về cách giải thích này.
    Ngày 2 tháng 2 năm 1982, một chiếc xe tải của Công ty giao hàng rẽ lên ngõ nhà bà. Francesca không nhớ là mình có đặt mua hàng gì không. Ngạc nhiên, bà ký nhận và nhìn địa chỉ ghi ngoài kiện hàng: ?Francesca Johnson RR2, Winterset, Iowa, 50273?o. Gói hàng đó do một hãng luật ở Seattle gởi.
    Gói hàng được bọc cẩn thận và gởi bảo đảm. Bà đặt lên bàn bếp và cẩn thận mở ra. Phía trong cuộc sống ba cái hộp, chèn giữa bằng những miếng xốp, trên một trong ba hộp đó là một phong bì dán kín. Trên một hộp khác là một phong bì ghi tên bà trong có lá thư của hãng luật.
    Bà tháo phong bì đó và run run mở ra.
    ?25 tháng giêng 1982
    Kính gởi bà Francesca Johnson
    RR2 Winterset Iowa 50273
    Kính bà Johnson,
    Chúng tôi xin thay mặt cho ông Robert L. Kincaid vưà mới từ trần...
    Francesca đặt phong thư lên bàn. Bên ngoài tuyết đang phủ cánh đồng mùa đông. Bà nhìn tuyết bay phấp phới trên những cuốn rạ, và cuốn theo những vỏ bắp bay tung toé rồi dồn vào trong một góc rào kẽm gai. Bà đọc lại câu đầu trong lá thư.
    Chúng tôi xin thay mặt cho ông Robert L Kincaid vừa mới từ trần...
    ?Ôi, Robert... Robert... không...?o. Bà thốt lên dịu dàng, đầu gục xuống ngực.
    Mãi một giờ sau bà mới có thể đọc tiếp bức thư. Hình thức hành chánh, giọng văn vô hồn của nó khiến bà phẫn nộ.
    ?Chúng tôi xin thay mặt cho...
    Hẳn là một luật sư tận tuỵ.
    Thế còn con báo của vùng hoang vu, còn kẻ đu vào đuôi sao chổi, còn gã phù thuỷ đi tìm cây cầu Roseman vào một ngày nóng nực tháng Tám, còn cái con người đứng trên bục chiếc xe Harry cố quay lại nhìn bà, cái con người đau đớn trong làn bụi mờ nơi một ngõ hẹp ở Iowa, tất cả những cái đó ở đâu nơi những dòng chữ lạnh lùng này?
    Lá thư đúng ra phải dài dòng nghìn trang. Đúng ra nó phải nói về điểm tối hậu một dây chuyền tiến hoá về sự cáo chung của tự do hành động, về những chàng cao bồi đang vùng vẫy nơi góc rào kẽm gai, như những vỏ bắp mùa đông kia. Thế mà nó chỉ có vài dòng:
    Chúc thư duy nhất của ông ta ghi ngày 8 tháng 7 năm 1967. Ông đã để lại những chỉ dẫn rõ ràng rằng những vật kèm theo đây phải được đưa đến tay bà. Trong trường hợp người ta không thể tìm ra bà, các vật đó phải được thiêu huỷ.
    Cũng kèm theo đây là một hộp có ghi "Thư", chứa một lời nhắn của bà mà ông gởi đến cho chúng tôi vào năm 1978, còn thư kia thì ông ta niêm kín và chúng tôi không hề mở ra.
    Thi hài ông Kincaid đã được hoả táng. Theo yêu cầu của ông, không một vật gì được khắc tên ông. Cũng theo yêu cầu của ông, tro tàn được rắc ở một nơi gần nhà bà, theo chỗ tôi biết, nơi đó gọi là cầu Roseman.
    Nếu bà cần thêm tin tức gì, xin bà cứ liên lạc với chúng tôi, đừng ngần ngại.
    Xin bà nhận cho ở đây lời chào trân trọng của chúng tôi.
    Allen B Quippen, luật sư.
    Bà lấy lại hơi thở, dụi mắt rồi tiếp tục xem xét bên trong kiện hàng.
    Bà biết cái gì nằm bên trong phong bì nhỏ dày cộm đó. Bà biết như bà biết mùa xuân sẽ trở lại sang năm vậy. Bà thận trọng mở và lấy ra một sợi dây chuyền đã cũ và có khắc chữ ?Francesca?o. Phía sau lưng là một dòng chữ rất nhỏ viết bằng mực: ?Trong trường hợp người đeo bị chết, xin đưa lại cho Francesca John, RR2, Winterset, Iowa, USA?o
    Chiếc vòng deo tay bằng bạc thì được gói trong giấy lục nhét cuối phong bì. Cùng chiếc vòng là một mảnh giấy. Chính chữ của Francesca.
    Chính là tờ thư nhắn của bà gắn trên cầu Roseman. Ông đã giữ làm kỷ niệm. Tờ giấy nhàu bẩn và đầy lằn gấp, chắc ông đã cất lâu ngày trong ví.
    Bà tự hỏi ông đã đọc đi đọc lại tờ giấy bao nhiêu lần trong suốt những năm dài đó, từ những nơi rất xa con sông Middle, rất xa quận Madison. Bà hình dung thấy ông đang nhướng mắt đọc lại dưới ngọn đèn nhỏ trên chiếc máy bay phản lực đang bay về những xứ sở vô tận. Hoặc đang ngồi bệt trên đất cạnh một túp lều tre tại một vùng dành riêng cho cọp và đọc dưới ánh sáng cây đèn bấm, hoặc xếp lại và cất cẩn thận trong ví da trong những đêm mưa tầm tã ở Bellingham, rồi lại ngắm nhìn bức ảnh chụp một người đàn bà đang dựa lưng vào hàng rào một buổi sáng mùa hạ, hay đang bước ra khỏi một chiếc cầu có mái che vào lúc mặt trời lặn.
    Cả ba cái hộp trong kiện hàng này đều đựng máy ảnh và các ống kính. Tất cả đều nứt nẻ, hư cũ. Nơi lưng một ống kính, bà thấy khắc chữ ?Nikon?o và phía bên trái nhãn hiệu là một chữ ?F?o. Đó là cái máy bà đã đưa cho ông nơi cầu Cedar.
    Cuối cùng, bà mở lá thư niêm kín của ông. Lá thư viết bằng tay trên giấy viết thư, ghi ngày 16 tháng Tám năm 1978.
    Francesca thân yêu,
    Tôi hy vọng rằng lá thư này đến với em khi em còn khoẻ mạnh. Tôi cũng không biết khi nào thì lá thư này gởi đến em, sau khi tôi chết. Tôi bây giờ đã 65, và như thế hôm nay là đã 13 năm kể từ khi chúng ta gặp nhau, lúc tôi lái xe lên ngõ hẻm nhà em để hỏi thăm đường.
    Tôi đành liều nếu thư và những đồ vật này có thể làm xáo trộn đời sống của em theo một cách nào đó. Đơn giản chỉ là vì tôi không thể chịu nổi cái ý tưởng rằng cuối cùng những đồ đạc của tôi tình cờ nằm trong một cửa hiệu hay trong tay một kẻ xa lạ nào đó. Khi em nhận những đồ này thì chắc là chúng đã ở tình trạng cũ nát tồi tệ, nhưng tôi không còn có ai khác trên đời để giao lại và tôi đành liều gởi đến cho em. Suốt thời gian từ 1965 đến 1975, tôi đã dùng hầu hết thì giờ để ở trên đường. Để cưỡng lại cái ý định gọi điện hoặc đến tìm em, cái ý định đã theo đuổi tôi hầu như suốt cuộc đời còn lại của tôi, tôi chấp nhận đi là tất cả những phóng sự bên kia Đại Tây Dương mà người ta đề nghị với tôi. Đôi khi rất thường khi, tôi tự nhủ: Kệ xác. Mình sẽ đến Winterset. Iowa, giá nào đi nữa mình cũng phải dẫn Francesca theo mình". Nhưng rồi tôi nhớ điều mà em nói với tôi và tôi tôn trọng những tình cảm của em. Có lẽ em có lý. Tôi cũng không biết nữa. Tôi biết rằng việc tôi rời bỏ con hẻm trước nhà em vào buổi sáng Thứ sáu nóng nực đó là hành động khó khăn nhất mà tôi đã làm trong đời. Và thật tôi cho là không có một ai trong đời lại phải làm một việc khó khăn hơn thế.
    Tôi đã thôi việc ở tạp chí National Geographic từ năm 1975 và tôi dùng những năm tháng sau đó để chụp những gì tôi thích, bằng cách nhận làm những việc lặt vặt như làm phóng sự địa phương, những công việc chỉ chiếm mất vài ba ngày. Như thế tất nhiên là có khó khăn về mặt tài chính, nhưng tôi đã quyết rút lui. Thì tôi luôn rút lui mà.
  10. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Công việc lớn nhất của tôi liên hệ đến Puget Sound. Việc này làm tôi vui. Tôi có cảm giác là càng về già, người ta hay quay về với nước.
    à, hiện giờ tôi có nuôi một con chó, một loại lông xù màu vàng. Tôi gọi nó là "Con Đường" và nó đi theo tôi phần lớn khắp mọi nơi, mũi luôn luôn dán vào cửa xe, chắc để đánh hơi những phong cảnh đẹp.
    Năm 1972, tôi bị té nơi một bờ dốc ở Công viên Quốc gia Acadia, Maine, bị bể mắt cá chân. Sợi dây chuyền và hình trái tim văng ra khi tôi té. May mắn là rơi không xa lắm. Tôi đã tìm lại được và nhờ một người thợ kim hoàn sửa lại.
    Đã có những người đàn bà đến với tôi trước em, một số người, nhưng không có ai sau em. Tôi đã tự chọn cuộc sống độc thân, tôi không còn thích thú cuộc sống gia đình. Một ngày nọ, ở Canada, tôi nhìn thấy một con ngỗng đực mà con ngỗng cái của nó đã bị thợ săn giết chết. Em biết đó, ngỗng là loài sống với nhau suốt đời. Thế là con ngỗng đực đó giờ suốt ngày bay trên ao hò, lần cuối cùng tôi thấy, nó đang rúc vào những đám lúa dại để tìm kiếm con cái một cách vô vọng. Chắc cái ẩn dục như thế này, về mặt văn chương, không được hay lắm. Nhưng đó là những gì mà tôi cảm thấy.
    Trong những buổi sáng mù sương hay trong những buổi chiều khi ánh sáng mặt trời phản chiếu lên làn nước của vùng Tây Bắc, tôi cứ nghĩ đến em và cố hình dung ra em đang ở đâu, em đang làm gì trong cuộc đời này. Chắc cũng chẳng có gì đặc biệt em đi ra vườn, ngồi trên chiếc xích đu dưới mái hiên hay em đang đứng nơi bồn rửa chén ở nhà bếp. Đại loại như vậy.
    Tôi nhớ rõ tất cả. Nhớ mùi hương của em, nhớ cái hương vị của em, giống như hương vị mùa hè. Nhớ cái cảm giác khi thân thể em chạm thân thể tôi và những lời em thốt ra khi tôi đang yêu em. Ngày nọ, Robert Penn Warren có nói về ?một thế giới dường như bị Thượng đế bỏ quên. Tuyệt vời, tất cả những gì mà tôi cảm thấy. Nhưng tôi không thể cứ mãi sống theo cách ấy. Khi tình cảm quá mạnh mẽ, tôi phải mở máy cheíec Harry đi đâu đó với "Con Đường" vài ngày.
    Tôi không thích làm ra vẻ tự thương xót mình. Đó không phải là tính cách của tôi. Thường khi tôi không có như vậy đâu. Ngược lại, tôi ý thức rằng cuối cùng, tôi cũng sẽ tìm lại được em. Chúng ta rồi sẽ gặp lại nhau như hai hạt bụi của vũ trụ.
    Thượng đế, hay vũ trụ, hay ta gọi tên gì đi nữa, đã tạo ra cái hệ thống lớn của sự thăng bằng và trật tự này, không thể nào nhân ra nỗi kiếp người. Đối với vũ trụ thì bốn ngày cũng chẳng kém gì hơn bốn tỷ năm ánh sáng. Tôi luôn luôn nhớ điều đó trong tâm trí.
    Thế nhưng, dẫu sao, tôi cũng chỉ là một con người. Tôi có thể trích dẫn ra đủ lời lẽ duy lý triết học, nhưng điều đó cũng không ngăn cản nổi tôi thèm muốn em từng ngày, từng phút, từng giây. Tận cùng nơi tôi là một lời than khóc tàn nhẫn về thời gian, cái thời gian mà tôi không thể cùng sống với em.
    Tôi yêu em đến tận cùng và toàn diện. Và tôi yêu em mãi mãi.
    Người cao bồi cuối cùng.
    Robert
    TB. Hè vừa rồi tôi đã thay động cơ của chiếc Harry và giờ nó chạy rất tốt.
    Kiện hàng này đã đến sớm năm năm. Và việc bà ngồi mân mê, ngắm nghía những vật bên trong gói hàng đã là một phần của nghi thức trong ngày sinh nhật hàng năm của bà. Bà để những máy ảnh, sợi dây chuyền với hình trái tim, chiếc vòng vào trong một hộp nhỏ đặt vào tủ áo quần. Bà đã đặt và chỉ dẫn cho bác thợ mộc ở Madison đóng chiếc hộp này, với đủ ngăn, ô cầu kỳ. Khi giao chiếc hộp, bác nói: ?Hộp đóng chi li rối rắm quá?o, nhưng Francesca hài lòng và mỉm cười.
    Đọc bản thảo của Kincaid là phần cuối cùng của nghi thức. Bà luôn luôn đọc dưới ngọn nến cuối ngày. Bà thận trọng đặt bản thảo lên chiếc bàn mi ca vàng cạnh ngọn nến, đốt điếu thuốc duy nhất trong năm, một điếu Camel, nhấp một ngum brandy và bắt đầu đọc:
    Rơi từ chiều vô tận
    Robert Kincaid
    Có những ngọn gió hằng trăm năm mà tôi chưa hề biết đến bao giờ, nhưng ngay cả vậy, luôn luôn tôi vẫn có cảm giác như là mình đã cỡi trên lưng chúng bay đi. Tôi đang chuyển vào chiều vô tận, là cái thế giới hiện hữu bên kia, nơi cái phần kia của sự vật, song song với cái thế giới của tôi. Như thế này, tay đút vào túi, hơi khom người, tôi nhìn thế giới đó xuyên qua khung kính của một cửa hiệu lớn. ở trong chiều vô tận, có những khoảnh khắc lạ thường. Như khi tôi đang lái xe đi dưới cơn mưa từ New - Mixico đến phía Tây của Magdalena, xa lộ bỗng biến thành đường rừng và đường rừng biến thành lối mòn. Rồi chiếc cần gạt nước gạt qua, lối mòn bỗng biến thành một góc rừng chưa ai đặt chân đến. Rồi một cái gạt nữa, thì là một không lùi xa. Lần này đầy sương móc. Tôi bước trên cỏ mịn, mặc áo lông thú, tóc bù xù, tay cầm cây giáo ngắn, mảnh khảnh và rắn rỏi như một tảng băng, người đầy bắp thịt và lòng đầy quỷ kế. Đằng sau tảng băng, xa hơn tầm hiện hữu của sự vật, nước biển sâu thẳm trong đó toi bơi lội tung tăng, người đầy vảy, thở bằng mang. Tôi không thể nhìn xa hơn nữa, nhưng sau cái giống phiêu sinh ấy thì là độ không, là vô tận.
    Euclide không phải bao giờ cũng đúng. Ông giả định rằng có đường song song vĩnh viễn, cho đến tận cùng sự vật, nhưng người ta vẫn có thể hình dung một viễn cảnh phi Euclide, nơi đó các đường gặp nhau ở tít phía xa. Một điểm khuất. Một ảo ảnh của sự hội tụ. Dẫu sao, tôi biết đó không gì khác hơn là một ảo ảnh. Đôi khi có một sự gặp gỡ tự sinh, khi đó hai thực thể hoà tan làm một. Một mối ràng buộc êm đềm. Không hề có một chỗ giao ngang được vạch nên bởi một thế giới của lý tính chính xác. Không một tiếng động của sự vãng lai. Chỉ làmột hơi thở. Vâng, đúng, đó là cách thế và có lẽ cả cảm xúc của nó nữa.
    Và tôi chậm rãi đi về cái thực tại khác đó, đi mấp mé bên nó, lướt qua nó, luôn luôn với tất cả sức mạnh, nhưng luôn luôn với tấm lòng thành. Và cái con người kia biết điều đó, nó tiến lại gần bằng cái sức mạnh của nó và đến lượt nó, biến thành chính tôi.
    Đâu đó, trong luồng hơi thở này, hiện lên một điều nhạc và một vũ điệu kỳ lạ bắt đầu theo một nhịp bước kỳ ảo làm dịu lòng con người của băng giá với ngọn lao và bộ tóc bù xù. Và chầm chậm - luôn luôn quay chậm, quay chậm - con người của băng giá ngã xuống... rơi ra ngoài chiều vô tận... rơi đến nơi nàng.
    Và thế là chấm dứt ngày sinh nhật thứ sáu mươi bảy, Francesca sắp xếp lại phong bì vào nơi ngăn trên của tủ. Sau cái chết của Richard, bà quyết định cất các di vật đó vào két sắt nhà băng, nhưng cứ vào giai đoạn này trong năm, bà lại đem về để ở nhà vài ngày, đặt trong tủ áo trong phòng bà.
    Hồi chiều, bà đã đến cầu Roseman. Còn bây giờ bà bước ra hiên, lấy khăn lau chiếc xích đu rồi ngồi xuống đó. Trời lạnh nhưng bà luôn luôn ngồi lại đó vài phút, sau đó đi về phía hàng rào nơi cánh đồng, đứng yên một lúc, rồi đi đến lối vào ngõ nhà. Hai mươi hai năm sau, bà vẫn còn thấy hình ảnh ông bước xuống khỏi chiếc xe tải để hỏi đường, bà vẫn còn thấy hình ảnh chiếc Harry nhấp nhô trên đường quê và thấy Robert Kincaid đứng trên bục xe, ngước mắt nhìn lên phía ngõ.
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này