1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những cây cầu ở quận Madison - Robert James Waller

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi zulu, 01/03/2003.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Lá thư của Francesca
    Francesca chết vào tháng giêng năm 1989, khi đó bà 69 tuổi. Robert Kincaid nếu còn sống thì năm đó đã 75. Người ta chẩn đoán cái chết của bà là ?tự nhiên?o. Người bác sĩ bảo Michael và Carolyn: ?Đơn giản là bà chỉ ra đi. Tuy vậy chúng tôi hơi bối rối một chút. Chúng tôi không tìm thấy nguyên nhân rõ ràng của cái chết này. Một người hàng xóm thấy bà nằm gục xuống trên chiếc bàn phòng bếp?o.
    Trong một lá thư gửi cho luật sư của mình, năm 982, bà đã yêu cầu khi bà chết thân thể phải được hỏa táng và tro thì rải xuống cầu Roseman, ở quận Madison. Việc hoả thiêu thi hài là điều có một không hai - chẳng rõ đặt trên cơ sở nào, nhưng người ta vẫn xem việc hoả thiêu là một hành động bại hoại - vì thế yêu cầu này của bà gây ra nhiều bàn tán trong dân chúng ở quán nước, ở trạm xăng...
    Sau tang lễ, Michael và Carolyn đi chậm chậm đến cầu Roseman và làm theo ước nguyện cuối cùng của mẹ mình. Do chỗ chiếc cầu này cũng chẳng xa cho nên việc làm này cũng không phải là một đòi hỏi quá đáng đối với gia đình, nhưng họ tự hỏi tại sao mẹ mình, một người khá sáng suốt, lại xử sự một cách có vẻ thần bí như vậy và tại sao bà lại không đòi được chôn cất cạnh cha mình như người ta thường làm.
    Sau đó Michael và Carolyn trở về nhà thu xếp mọi chuyện. Họ nhận được những di sản trong chiếc hộp ở ngân hàng về trước sự hiện diện của một luật sư trong vùng.
    Tại nhà, hai anh em chia nhau giấy tờ mà họ sắp phải đọc. Các phong bì bằng giấy dày thuộc phần Carolyn, nằm trong một đống giấy tờ, đồ đạc khác. Cô ngạc nhiên mở và lấy ra một tập tài liệu. Cô đọc lá thư mà Robert Kincaid viết năm 1965 cho Francesca. Rồi cô đọc lướt qua lá thư năm 1978 và lá thư mà luật sư Seattle gởi năm 1982. Cuối cùng cô nghiên cứu những bài cắt trong báo.
    ?Anh Michael này?o, giọn nói mơ màng và hỗn loạn của cô làm anh ngạc nhiên và anh ngẩng đầu lên. Mắt Carolyn nhoà lệ và giọng cô run run: ?Mẹ yêu một người đàn ông tên là Robert Kincaid. Anh có nhớ số bào National Geographic về những cây cầu có mái che mà cả hai đứa mình đều phải đọc không? Chính ông ta là người đã chụp những bức ảnh này. Và anh có nhớ hồi đó bọn con trai có nói về một người lạ mặt mang máy ảnh không? Chính ông ta đấy?o.
    Michael ngồi đối diện với cô ta, cà-vạt nới rộng, cổ áo mở tung. ?Nói ại chậm chậm đi nào. Anh chẳng hiểu gì hết?o.
    Sau khi đọc mấy bức thư, Michael đứng dậy lục trong tủ nơi tầng trệt, rồi lên phòng Francesca. Trước đây anh không bao giờ thấy cái hộp bằng gỗ hồ đào này. Anh mở ra và đặt lên tên bàn phòng bếp. ?Carolyn này, đây là những chiếc máy ảnh?o.
    Trong hộp, dán vào một bên thành là một phong bì niêm kín bên ngoài tự tay Francesca viết tên của Michael và Carolyn, còn chen vào giữa mấy cái máy ảnh là ba cuốn sổ tay đóng bìa da.
    ?Anh không chắc đủ sức đọc những điều trong phong bì này - Michael bảo cô em - Đọc cao giọng lên nếu em thấy đủ can đảm?o.
    Carolyn xé phong bì và bắt đầu đọc:
    Ngày 7 tháng 1 năm 1987
    Carolyn và Michael thân yêu,
    Bởi mẹ thấy mình đang hoàn toàn khoẻ mạnh, mẹ nghĩ rằng đã đến lúc mẹ phải thu xếp mọi chuyện hậu sự của mẹ đâu vào đấy, như người ta thường nói. Có một điều, một điều rất quan trọng mà các con phải biết. Đó là lý do tại sao mẹ viết thư này cho các con.
    Khi các con nhận cái hộp này của mẹ và tìm thấy trong đó cái phong bì lớn gởi cho mẹ năm 1965, thì mẹ nghĩ rằng các con đã đọc xong lá thư này. Mẹ muốn các con nếu có thể được ngồi nơi bàn ở nhà bếp để đọc. Các con sẽ hiểu ngay tại sao mẹ lại yêu cầu như vậy.
    Thật cũng khó cho mẹ khi phải viết tất cả những điều này cho các con mình, nhưng mẹ phải làm. Có một điều quá mạnh mẽ, quá đẹp nên không thể để nó chết theo mẹ được. Và nếu các con bắt buộc phải biết mẹ các con là ai, với những sai lầm và với những tính chất như thế nào, thì các con cần phải biết những điều mà mẹ sắp nói đây. Vậy các con hãy can đảm lên.
    Chắc các con đã biết, ông ấy tên là Robert Kincaid. Còn "L" là tên giữa nhưng mẹ cũng chẳng biết nó là chữ tắt của tên gì. Ông ấy là nhiếp ảnh gia và ông đến đây năm 1965 để chụp những chiếc cầu mái che.
    Chắc các con còn nhớ, cả thành phố mình náo động lên khi các bức ảnh này xuất hiện trên tờ National Geographic. Có lẽ các con cũng còn nhớ mẹ đã đặt mua dài hạn tờ tạp chí này kể từ lúc đó. Bây giờ hẳn các con hiểu lý do vì sao mẹ đã quan tâm đặc biệt như vậy. Cũng nên nói cho các con biết là mẹ đã ở cùng ông ấy (mẹ mang xách cho ông) khi ông chụp ảnh chiếc cầu Cedar.
    Các con nên hiểu rằng, mẹ yêu quý cha các con trước đây và bây giờ nữa. Mẹ biết cha các con là người tốt và ông đã cho mẹ hai đứa con mà mẹ yêu dấu.
    Nhưng Robert Kincaid là một con người hoàn toàn khác, không giống như bất cứ người nào trên đời mẹ đã gặp hoặc người nào mẹ đã từng nghe nói, dầu là qua sách vở. Mẹ khó có thể làm cho các con không phải là mẹ. Sau nữa các con không hề tiếp xúc với ông ấy, các con không nhìn thấy ông ấy đi hay nghe ông ấy kể lại việc ông ấy đã tìm ra cái điểm chung cục của dòng tiến hoá như thế nào. Có lẽ những cuốn sổ nhật ký và những bài cắt ra từ báo sẽ giúp các con hiểu hơn, nhưng như thế chắc cũng không đủ.
    Theo một nghĩa nào đó, ông ấy không thuộc về trái đất này. Mẹ không thể nào diễn đạt tốt hơn. Mẹ luôn nghĩ rằng ông ấy giống như một con báo đi phiêu du trên đuôi của một sao chổi. Ông đúng là có thân thể và cách chuyển động của con báo. Ông có thể tập trung một sức mạnh không ngờ với một tính tình vừa sôi bỏng vừa dịu dàng cũng như nơi ông có một ý thức sâu xa về điều bi thảm. Ông cảm thấy không còn có lý do để hiện hữu trong một thế giới của máy tính và robot, một thế giới được tổ chức quá hoàn hảo. Ông ấy tự xem mình như là một trong những chàng cao bồi cuối cùng - chữ của ông ấy - và ông cũng em mình như là một người duy - quá - khứ.
    Lần đầu tiên mẹ thấy ông là lúc ông đang dừng lại để hỏi thăm đường đến cầu Roseman. Khi đó ba cha con đang đi dự chợ phiên ở Illinois. Các con hãy tin rằng không phải mẹ đi tìm một cuộc phiêu lưu đâu. Đó là điều cuối cùng mà mẹ nghĩ đến. Nhưng mẹ đã nhìn ông ấy chưa đầy nưam phút và mẹ biết rằng mẹ đã ham muốn ông ấy, dẫu rằng sau đó mẹ còn ham muốn ông ấy nhiều hơn nữa.
    Và mẹ van các con, các con đừng hình dung ra một gã Casanova chuyên chạy theo tán tỉnh các cô gái quê. Ông ấy không hề giống loại người đó chút nào. Thật ra ông ấy khá nhút nhát và mẹ cũng chịu trách nhiệm như ông ấy về những điều gì đã xảy ra. Còn hơn nữa. Mẹ đã móc tờ giấy nhắn - hiện đang nằm cùng với chiếc vòng tay trong hộp - nơi cầu Roseman để nhắn ông gặp lại buổi sáng sau lần gặp gỡ đầu tiên. Không kể những bức ảnh mà ông đã chụp mẹ, tờ giấy này là bằng chứng duy nhất về sự hiện diện của mẹ mà ông đã giữ suốt bao nhiêu năm trời.
    Mẹ biết rằng con cái thì thường hay có khuynh hướng nghĩ rằng cha mẹ chúng không có dục tình gì hết, bởi vậy mẹ hy vọng rằng những điều mẹ sắp nói với các con đây không làm các con chấn động và nhất là mẹ hy vọng rằng điều đó không phá huỷ những ký ức mà các con đã có về mẹ.
    Trong căn nhà bếp cũ kỹ của chúng ta, Robert Kincaid và mẹ đã trải qua những giờ bên nhau, mẹ và ông ấy đã nói chuyện, đã khiêu vũ dưới ánh sáng của ngọn đèn cầy. Và rồi, đúng vậy, mẹ và ông ấy đã yêu nhau trong căn phòng này, trong phòng ngủ, trên cỏ và hầu như trên khắp mọi nơi mà các con có thể hình dung ra được. Đó là một mối quan hệ ******** phát xuất từ sức mạnh lạ lùng siêu việt kéo dài trong nhiều ngày không hề gián đoạn. Trước đây mẹ luôn luôn dùng từ "sức mạnh" khi nghĩ về ông ấy. Và đó cũng chính là cái ấn tượng mà ông ấy toát ra khi bọn mẹ gặp nhau lần đầu tiên.
    Ông ấy có tiềm lực như một mũi tên. Đơn giản là mẹ mất hết sức tự vệ khi ông ấy yêu mẹ. Mẹ không hề cho mình là yếu đuối. Nhưng mẹ như bị chìm lỉm bởi cái sức mạnh thể chất và cảm xúc thuần tuý đó. Lúc mà mẹ thốt lên điều ấy với ông, ông chỉ trả lời mẹ: "Tôi là con đường, là kẻ lữ hành à là tất cả những cánh buồm dẫn về biển cả".
    Sau đó mẹ đã kiểm tra lại từ này trong từ điển. Người ở đây khi nghe đến từ "Lữ hành" (peregrine), trước hết họ nghĩ về một con diều. Nhưng từ này có rất nhiều nghĩa là "kẻ lạ, không chốn ở". Một nghĩa khác là "kẻ lang thang lạc loài hay người di trú". Từ này xuất phát từ tiếng La tinh "peregrinus", có nghĩa là kẻ lạ. Ông ta đồng thời là tất cả những thứ đó - một kẻ lạ theo cái nghĩa chung nhất của từ này, một kẻ lang thang và bây giờ mẹ nhớ lại ông cũng rất giống một con diều nữa. Các con nên hiểu rằng điều mẹ cố diễn đạt không thể nói ra hết bằng một vài từ nghữ. Mẹ chỉ mong muốn rằng cả hai chúng con đều trải qua những kinh nghiệm như mẹ, dẫu rằng hiện nay điều đó khó có thể được. Mẹ biết rằng cái quan niệm như thế không phù hợp trong thời đại chúng ta, và mẹ không nghĩ rằng một người đàn bà có thể có được một sức mạnh đặc biệt như Robert Kincaid. Vậy thì Michael, dành cho con đấy. Còn về Carolyn, điều bất hạnh là trên đời này chỉ có một Robert Kincaid duy nhất và sau ông ấy không còn ai nữa.
  2. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Nếu ngày đó không có cha con và các con thì mẹ đã đi theo ông ấy ngay, bất cứ đi đâu. Ông ấy có yêu cầu mẹ cùng đi, ông van nài mẹ. Nhưng mẹ đã không nghe lời và đó là một con người quá nhạy cảm và quá tốt nên ông ấy không bao giờ có ý định làm đảo lộn cuộc đời của chúng ta. Tuy vậy, ở đây có một điều nghịch lý: Nếu không do ở Robert Kincaid thì không chắc mẹ có ở lại nơi trang trại này nữa không. Trong bốn ngày, ông ấy đã cho mẹ một cuộc đời toàn diện, một vũ trụ và đã kết hợp những phần khác nhau của mẹ lại thành một thực thể duy nhất. Mẹ không bao giờ ngừng mơ tưởng về ông ấy. Ngay cả khi mẹ không nghĩ một cách có ý thức, mẹ vẫn cảm thấy ông, ông luôn luôn có mặt ở đó. Điều này không làm sứt mẻ đi chút nào tình cảm mà mẹ dành cho các con và cho cha các con. Nếu trong một khoảnh khắc nào đó mẹ chỉ nghĩ về mình thì mẹ không còn chắc là mẹ đã quyết định đúng.
    Nhưng nếu mẹ nghĩ về gia đình chúng ta thì mẹ gần như chắc chắn rằng mẹ đã hành động đúng.
    Tuy vậy, để thành thật với các con, mẹ phải nói rằng, ngay từ đầu, Robert Kincaid đã hiểu hơn mẹ về cái mà mẹ cùng ông ấy hợp thành. Mẹ nghĩ rằng mẹ chỉ bắt đầu hiểu lần lần điều đó với thời gian. Nếu mẹ đã hiểu một cách rõ ràng khi đó thì có lẽ mẹ đã ra đi cùng với ông.
    Robert nghĩ rằng thế giới này đã trở nên quá duy lý, đã thôi tin vào khả năng huyền bí của sự vật. Và mẹ thường tự hỏi có phải mẹ đã quá duy lý khi quyết định như vậy không.
    Mẹ chắc rằng các con thấy những ý nguyện cuối cùng của mẹ là khó hiểu hoặc nghĩ rằng mẹ hơi lẩn thẩn vì tuổi già. Khi các con đã đọc lá thư mà người luật sư ở Seattle gởi cho mẹ năm 1982 và những cuốn sổ tay của mẹ, các con sẽ hiểu vì sao. Mẹ đã trao cuộc đời mẹ cho gia đình, và mẹ trao cho Robert Kincaid những gì còn lại của mẹ. Mẹ nghĩ rằng cha các con biết có một cái gì đó nơi mẹ mà ông không thể đạt tới, cũng như đôi khi mẹ tự hỏi có thật ông không mở cái phong bì mà vào lúc đó mẹ còn để trong tủ áo trong nhà. Ngay trước khi chết, lúc mẹ ngồi sát cạnh ông trong bệnh viện ở Des Moines, ông đã bảo mẹ: "Francesca, anh biết rằng em giữ nơi người em những giấc mơ. Anh rất buồn đã không thể thực hiện được những giấc mơ đó". Đó là cái khoảnh khắc xúc động nhất trong đời sống chung của mẹ và cha các con.
    Mẹ cũng không muốn các con bày tỏ sự quy trách, òng thương hại hay những tình cảm đại loại như vậy. Mẹ không hề có ý định đó. Mẹ chỉ muốn rằng các con biết mẹ đã yêu Robert Kincaid đến mức nào. Mẹ đã sống với cái tình yêu ấy suốt mọi ngày mọi năm và ông ấy cũng vậy.
    Dẫu rằng sau đó ông ấy và mẹ không bao giờ còn được nói với nhau nữa thì mẹ và ông ấy vẫn bị buộc chặt lấy nhau như hai con người trong cuộc đời này có thể buộc chặt với nhau. Mẹ không thể tìm ra từ để diễn đạt cho đúng. Chính ông ấy là người đã diễn tả tỏ tường hơn khi nói rằng mẹ và ông ấy đã thôi là hai cá thể riêng biệt để trở thành một con người thứ ba tạo thành bởi chính hai người kia. Kể từ đó, cả ông ấy và cả mẹ không bao giờ hiện hữu mà không có cái con người thứ ba kia. Và cái con người đó đã bị đày ải phải lang ********* đến phút cuối cùng.
    Carolyn, con còn nhớ lần mẹ con mình cãi vã khủng khiếp về chuyện chiếc áo màu hồng nhạt móc ở trong tủ mẹ không? Con tìm thấy và con muốn mặc. Con có nói con nhớ rằng mẹ không bao giờ mặc cáo áo đó cả, vậy tại sao không cho con. Thì chính đó là chiếc áo mẹ đã mặc lần đầu tiên khi Robert Kincaid và mẹ yêu nhau. Mẹ chưa bao giờ đẹp như trong đêm ấy. Đó là lý do tại sao mẹ không bao giờ mặc nữa và mẹ cũng không chịu đem cho con.
    Sau khi Robert Kincaid đi khỏi đây vào năm 1965, mẹ mới thấy là mình biết rất ít về ông ấy cũng như về chuyện gia đình ông ấy. Nhưng mẹ nghĩ rằng mẹ đã biết tất cả những điều còn lại - những điều thật sự quan trọng - trong những ngày ngắn ngủi đó. Ông là đứa con duy nhất, cha mẹ ông đã chết và ông sinh ra tại thành phố nhỏ ở bang Ohio.
    Mẹ không biết chắc là ông ta có học đại học không, ngay cả trung học nữa, nhưng ông có một trí tuệ sắc bén, trực giác, nguyên thuỷ, gần như thần bí. Ông đã cùng đi với thuỷ quân lục chiến với tư cách là phóng viên nhiếp ảnh ở Nam Thái Bình Dương trong thế chiến thứ hai.
    Ông đã kết hôn và ly dị, rất lâu trước khi gặp mẹ. Ông không có con. Vợ cũ ông ta là một nhạc công, một ca sĩ hát dân ca. Theo chỗ mẹ biết, việc ông vắng mặt dài để đi làm phóng sự đã làm hôn nhân của họ tan vỡ. Ông chịu trách nhiệm về cuộc chia tay này. Ngoài điều nói trên, Robert Kincaid không còn có gia đình theo như mẹ biết. Mẹ mong muốn các con dành cho ông một chỗ trong gia đình chúng ta, dẫu mẹ biết điều đó thật khó khăn cho các con lúc đầu. ít ra thì mẹ cũng có một gia đình, một cuộc sống để chia sẻ với người khác. Robert thì chỉ có một mình. Đó là một điều bất công và mẹ biết điều đó.
    Mẹ muốn, ít ra mẹ tin rằng tất cả những điều này các con sẽ giữ riêng trong gia đình chúng ta để giữ lòng tôn kính về cha các con và để cho các con quyết định. Trong trường hợp nào đi nữa, mẹ cũng không bao giờ hổ thẹn về những gì mà Richard và mẹ đã chia sẻ. Ngược lại, dẫu mẹ đã yêu ông ấy một cách tuyệt vọng trong suốt ngần ấy năm trời, nhưng vì những lý do của riêng mẹ, mẹ chỉ tìm cách liên lạc với ông ấy một lần duy nhất. Đó là sau cái chết của cha các con. Nhưng mẹ không tìm được và mẹ đã sợ rằng có điều gì đó xảy đến với ông ấy. Chính vì sợ như thế mà mẹ đã không dám tìm thêm nữa. Chẳng qua là mẹ sợ chạm trán với sự thật. Vậy thì các con có thể tưởng tượng ra mẹ đã cảm thấy như thế nào khi nhận được gói hàng có lá thư của người luật sư vào năm 1982.
    Mẹ đã nói mẹ hy vọng rằng các con hiểu và không phê phán mẹ. Nếu các con yêu thương mẹ, các con phải yêu thương những gì mẹ đã làm.
    Robert Kincai đã mang lại cho mẹ cái điều mà một người đàn bà, rất ít hoặc có lẽ không một ai, có thể có được. Ông ấy rất người và rất nhiệt thành, ông ấy xứng đáng với lòng kính trọng và có lẽ cả lòng yêu thương nữa, của các con. Mẹ hy vọng rằng các con cho ông ấy cả hai thứ. Qua mẹ, và theo cách của mình, ông ấy đã tỏ ra tốt với các con. Mẹ luôn luôn ở bên các con.
    Mẹ
    Hai anh em im lặng ngồi trong căn phòng bếp cũ kỹ. Michael cố định thần và nhìn ra cửa sổ. Carolyn tẩn mẩn quan sát căn phòng, bồn rửa chén, nền, bàn... tất cả những gì quanh cô.
    Khi cô mở miệng được thì chỉ là một lời thì thầm: ?Anh Michael, hãy nghĩ về họ, yêu nhau đến thế trong ngần ấy năm trời. Mẹ đã từ khước không đi với ông ấy vì cha và vì chúng ta. Còn Robert Kincaid thì xa mẹ do kính trọng tình cảm của mẹ. Anh Michael, đó là ý tưởng mà em khó chịu đựng. Chính một phần vì chúng ta mà mối tình lạ thường ấy phải đứt đoạn.
    Mẹ và ông ta đã sống với nhau bốn ngày. Chỉ bốn ngày, cho tất cả cuộc đời. Chuyện đó xảy ra khi chúng ta đang đi dự cái chợ phiên ngốc nghếch ở Itilinois. Anh hãy nhìn ảnh mẹ này. Em chưa bao giờ thấy mẹ như vậy. Đó là do tác động của ông ấy. Anh xem đây, mẹ trông kiêu sa và duyên dáng biết chừng nào với mái tóc bay trog gió và khuôn mặt tràn đầy sức sống. Mẹ tuyệt vời quá?o.
    Chúa ơi - Đó là tất cả những gì Michael có thể thốt ra và anh lấy khăn tay lau trán, kín đáo quệt nước mắt trước Carolyn.
    Carolyn tiếp: ?Rõ ràng là ông ấy không hề cố liên lạc trong suốt những năm đó. Hẳn ông ấy đã chết một mình, đó là lý do ông gởi lại tất cả đồ đạc cho mẹ. Em còn nhớ chuyện em cãi lộn với mẹ về cái áo đó. Nhiều ngày. Em giả đò tức tưởi và đòi mẹ giải thích. Rồi em lẫy không nói chuyện với mẹ nữa. Nhưng mẹ chỉ nói: ?Không, Carolyn, cái áo này thì không được?o.
    Michael nhớ đến cái bàn cũ xì mà hiện họ đang ngồi. Thế ra đó là lý do tại sao mẹ anh lại bảo anh mang lại vào phòng bếp sau khi cha anh mất.
    Carolyn lấy tay mở cái phong bì cồm cộm:
    ?Đây là vòng, dây chuyền bằng bạc có gắn hình trái tim. Và cả cái mảnh giấy nhắn mà mẹ có nhắc đến trong thư, mảnh giấy mẹ đã móc lên cầu Roseman. Vì thế mà trên tấm ảnh ông ta gởi, mình thấy một mảnh giấy nhỏ gắn trên cầu.
    Anh Michael, thế chúng mình sẽ làm gì đây? Anh cứ suy nghĩ đi. Em xuống ngay?o.
    Cô chạy lên cầu thang rồi ít phút sau chạy xuống với chiếc áo dài màu hồng bọc cẩn thận trong bao ni lông.
    Cô lấy ra và chỉ cho Michael.
    ?Anh hãy hình dung mẹ trong chiếc áo này, khiêu vũ với ông ta trong nhà bếp. Anh hãy nghĩ đến suốt thời gian họ ở đây và về hình ảnh mẹ, phải thấy khi mẹ đang nấu ăn và khi mẹ ngồi ở bàn này thảo luận về chuyện anh em mình, về việc chọn lựa trường học và về những khó khăn mà anh em mình phải vượt trong cuộc hôn nhân sau này của chúng mình. Chúa ơi, so với mẹ, chúng mình hiện nay còn ngây thơ và kém trưởng thành quá đi mất?o.
    Michael lắc đầu bước về phía tủ bếp. ?Em có nghĩ rằng mẹ có để một ít rượu nào ở đây không? Anh thấy cần uống một chút quá. à, lúc nãy em hỏi, anh thật không biết chúng ta phải làm gì??o.
    Anh lục tủ và tìm được một chai brandy đã gần cạn. ?Còn đủ cho hai người. Em muốn uống không??o.
    Có, cho em một chút.
    Michael lấy ra hai ly rượu dùng để uống brandy và để lên bàn. Anh rót hết phần rượu còn lại trong chai ra ly trong khi Carolyn bắt đầu lặng lẽ đọc cuốn nhật ký đầu tiên: ?Robert Kincaid đến với mình ngày Thứ hai, 16 tháng 8 năm 1965. Ông ta đi tìm cây cầu Roseman. Đó là một buổi chiều nóng nực và ông lái một chiếc xe tải nhỏ tên là Harry...?o.
  3. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Tái bút
    Con ó đêm ở Tacoma
    Trong thời gian tôi viết về câu chuyện của Robert Kincaid và Francesca Johnson, tôi càng muốn tìm hiểu chi tiết về cuộc đời của Kincaid thì tôi càng ít biết về ông và cuộc sống của ông.
    Chỉ một vài tuần trước khi cuốn sách này được in ra, tôi đáp máy bay đi Seattle. Một lần nữa, tôi cố gắng tìm những thông tin bổ túc về Robert Kincaid.
    ý tưởng này chợt đến với tôi khi tôi nghĩ rằng là một người yêu nhạc và bản thân ông ta cũng là một người chơi ghi-ta, Robert Kincaid hẳn phải quen biết với một ai đó trong giới âm nhạc và nghệ sĩ ở Puget Soud. Người có trách nhiệm ở Tiểu ban Nghệ thuật và Sân khấu của tờ Seattle Times đã giúp tôi nhiều. Ông ta chưa hề nghe nói về Robert Kincaid, nhưng ông để cho tôi tham khảo tất cả danh mục của tờ báo từ năm 1975 đến 1982, giai đoạn mà tôi quan tâm.
    Khi lật qua những số in vào năm 1980, tôi gặp một bức hình chụp một người da đen chơi nhạc nhạc Jazz, một tay thổi saxo có biệt danh là John ?ó đêm?o Cummings và bức ảnh ký tên Robert Kincaid. Nghiệp đoàn nhạc công địa phương đưa tôi địa chỉ của Cummings, cũng cho tôi biết thêm là ông ta không còn chơi nhạc với tư cách chuyên nghiệp nữa đã năm năm nay. Ông ta ở một con phố nhỏ nơi khu công nghiệp ở Tacoma, chỗ xa lộ 5 dẫn đến Seattle.
    Tôi đã phải lui tới nhiều lần nơi căn hộ Cummings mới gặp được ông ta. Lúc đầu, ông ta có vẻ không muốn nói, nhưng khi thấy rằng tôi thành thật quan tâm đến Robert Kincaid, ông trở nên nhiệt tình và nói huyên thuyên. Những trang sau đây là lời nói của Cummings do tôi ghi lại - có sửa đôi chút chữ nghĩa - khi đó ông này đã bảy mươi tuổi. Tôi chỉ mở máy ghi âm và nghe ông kể về Robert Kincaid.
    Bài phỏng vấn "ó đêm" Cumming
    Khi đó tôi chơi cho một ban nhạc ở Seattle và tôi cần một tấm ảnh đen trắng để quảng cáo. Tay chơi bass trong ban nhạc có nói với tôi về một gã sống trên một hòn đảo gần đấy chụp coi bộ được lắm. Y ta chẳng có điện thoại nên tôi phải viết nhắn vài chữ.
    Y ta đến, té ra là một lão trông tàng lắm, mặc quần jean, đi ủng và dây đeo quần màu cam. Y ta lôi ra mấy cái máy ảnh cũ xì đến phát khiếp, côi bộ không còn dùng được khiến tôi phải la lên: Ô là là!
    Y bảo tôi đứng dựa vào bức tường sáng cầm cây saxo và yêu cầu tôi chơi chứ đừng ngừng lại. ừ chơi thì chơi, trong chừng ba phút gì đó. Nhìn kỹ, tôi thấy y ta trông cũng được, có cặp mắt xanh lạnh buồn mà tôi chưa hề thấy trước đó bao giờ.
    Một lúc, y ta bắt đầu chụp. Rồi y hỏi tôi có thể chơi bài ?Lá úa?o không. ừ chơi thì chơi. Tôi chơi chừng mươi phút trong khi y thay hết máy ảnh này đến máy ảnh khác và chụp. Rồi y bảo: ?Tốt rồi, mai ông có ảnh?o.
    Ngày sau, y mang anh lại cho tôi và tôi té ngửa. Người ta đã chụp tôi hàng tá nhưng chưa có bức nào sánh được với những tấm này. Y bảo tôi trả y 50 đôla, với tôi số tiền đó không đắt lắm. Y ta cám ơn tôi và khi đi ra, y hỏi tôi chơi ở đâu. Tôi trả lời: ?ở quán Shorty?o.
    Hôm sau, khi ở trên bục, tôi nhìn xuống thính giả và thấy nơi một bàn khuất trong góc, y đang ngồi lặng lẽ lắng nghe. Từ đó y thường đến quán mỗi tuần một lần, luôn luôn vào ngày Thứ ba, luôn luôn uống bia, nhưng không uống nhiều.
  4. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Đôi khi lúc ngừng chơi, tôi ghé lại bàn y và nói chuyện ít phút. Y trầm lặng, không nói gì nhiều nhưng rất dễ thương. Y luôn luôn nhã nhặn yêu cầu tôi chơi bài ?Lá úa?o.
    Biết nhau một ít, người ta dễ thân nhau. Tôi rất thích đi dọc hải cảng ngắm nhìn những chiếc tàu, té ra y cũng vậy. Vì thế chúng tôi hay ngồi trên ghế đá chuyện vãn suốt buổi chiều. ừ thì chuyện lẩm cẩm của hai lão già cảm thấy mình hết còn hữu dụng, đã ở bên lề cuộc đời.
    Thường y hay dắt theo con chó. Trông khá đẹp. Y gọi nó là ?Con Đường?o.
    Y có biết về ma thuật. Những tay chơi nhạc jazz cũng vậy. Cho nên chúng tôi hợp nhau. Anh bạn biết đấy, anh bạn chơi một khúc đã chơi hàng ngàn lần mà nay đột nhiên hàng tá ý tưởng mới mẻ vọt ra từ cây ?xắc?o của anh bạn thì không phải chúng có được từ bộ óc của anh bạn đâu. Y nói với tôi rằng nhiếp ảnh và đời sống nói chung cũng thường như vậy. Và y thêm: ?******** với người đàn bà mình yêu cũng vậy?o.
    Y đang nghiên cứu một kỹ xảo để tạo ra hình ảnh từ âm nhạc. Một ngày nọ, y bảo tôi: ?John, anh thấy cái điệp khúc mà anh luôn chơi trong nhịp thứ bốn của bài ?Người đàn bà kiêu kỳ?o? Tôi nghĩ là tôi đã bắt được cái này vào ảnh sáng nay. ánh sáng chiếu trên nước đúng hệt như ý toi muốn và con hạc xanh bay một vòng trong ống ngắm của tôi, tất cả đều cùng một lúc. Chính là tôi đã thật sự nghe và thấy điệp khúc của anh. Tôi đã dựa vào đó để đưa vào máy ảnh?o.
    Y dùng tất cả thời gian để nghiên cứu việc chuyển âm nhạc thành hình ảnh. Côi bộ điều này ám ảnh y dữ lắm. Tôi cũng chẳng biết y sống bằng gì nữa. Y cũng chẳng nói gì nhiều về mình. Tôi chỉ biết là y từng đi nhiều nơi để chụp ảnh chứ không biết gì khác hơn. Một ngày nọ, tôi hỏi y về cái miếng bạc gắn nơi sợi dây chuyền y đeo ở cổ. Nhìn gần, tôi thấy trên đó có khắc chữ ?Francesca?o. Tôi mới hỏi y: ?Chắc là một cái gì đặc biệt lắm??o.
    Y không nói gì một lúc, chỉ nhìn làn nước. Rồi y hỏi: ?Anh có rảnh không??o. Có chứ, hôm đó ngày Thứ hai, tôi được nghỉ, nên tôi bảo y tôi có đủ thì giờ.
    Thế là y bắt đầu nói, như thể người ta mở một cái vòi nước vậy. Y nói suốt cả buổi chiều rồi gần như suốt buổi tối luôn. Tôi có cảm giác như y giữ tất cả những điều đó sâu trong lòng từ quá lâu rồi.
    Y chẳng bao giờ giờ nói cho tôi họ của người đàn bà, cũng như câu chuyện xảy ra ở đâu. Nhưng mà, anh bạn ạ, cái lão Kincaid này quả là một nhà thơ khi y nói về bà ta. Bà này hẳn phải là một cái gì đáng kể, một cái gì linh thiêng lắm. Y cũng đọc cho tôi đoạn đầu của một bài viết về bà ấy - cái gì về chiều vô tận, nếu tôi nhớ không lầm. Tôi nhớ là khi đó tôi nghĩ nó giống những bài sáng tác ngẫu hứng của Ornette Coleman vậy.
    Và anh bạn ơi, y vừa nói vừa khóc. Y khóc, những giọt nước mắt to bự, cái loại nước mắt mà phải già người ta mới có thể khóc thế được, cái điệu khóc mà một tay saxo có thể chơi. Sau đó tôi mới hiểu tại sao y bao giờ cũng muốn tôi thổi bài ?Lá úa?o. Ông bạn ạ, tôi bắt đầu thấy yêu cái lão này. Một con người có những tình cảm như thế đối với một người đàn bà thì đáng cho ta yêu lắm chứ.
    Thế là tôi bắt đầu nghĩ về y và người đàn bà của y. Nghĩ về cái mà y gọi là ?những phong cách của tiền nhân?o. Tôi tự nói: ?Mình sẽ chơi về cái sức mạnh ấy, về cái tình yêu ấy, những cái ?phong cách của tiền nhân?o ấy phải phát ra từ cây kèn của mình?o. Cái ấy thật trữ tình.
    Thế là tôi viết cái bản nhạc này. Tôi muốn sử dụng một thủ pháp đơn giản, sắc sảo. Viết những cái phức tạp thì rất dễ. Cái khó là đơn giản. Tôi hì hục suốt ngày cho đến khi thành công. Rồi tôi viết lại và soạn luôn hoà âm cho dương cầm và thụ cầm. Rồi một tối nọ, tôi chơi bài đó trên sân khấu.
    Y có mặt, tối Thứ ba, như mọi lần. Được, tối hôm đó quán yên tĩnh, chỉ có chừng hai mươi khác, người ta cũng chẳng thật chú ý chúng tôi cho lắm.
    Y ngồi im, chăm chú nghe như bao giờ, tôi tuyên bố trong mi-crô: ?Tôi sẽ chơi một bản nhạc do chính tôi viết tặng một người bạn. Bài đó tên là ?Francesca?o.
    Vừa nói tôi vừa nhìn y. Y đang quan sát chai bia nhưng khi nghe tôi nói ?Francesca?o y từ từ ngẩng đầu lên, đưa hai tay lùa vào mái tóc bạc xám, thắp một điếu camel và đôi mắt xanh của y đăm đăm nhìn tôi.
    Cây ?xắc?o của tôi chưa bao giờ chơi hay đến như vậy. Tôi làm cho nó khóc than cho cả ngàn cây số và cho những năm dài cách biệt. Có một khúc buồn trong khổ đầu của bài lặp theo tên của người đàn bà ấy: ?Fran...ces...ca?o.
    Khi tôi chơi xong, y đứng thẳng lên, mỉm cười rồi lắc nhẹ đầu, trả tiền và bước ra. Sau đó, tôi luôn luôn chơi bài này khi thấy y đến. Y có đóng khung một bức ảnh chụp chiếc cầu có mái che cũ kỹ đem tặng tôi để cám ơn. Bức ảnh treo kia kìa. Y chẳng bao giờ nói y chụp ở đâu, nhưng dưới chỗ y ký tên có ghi ?Cầu Roseman?o.
    Một chiều Thứ ba nọ, cách đây bảy hay tám năm, không thấy y đến. Tuần tiếp theo cũng vậy. Tôi nghĩ y bị bệnh hay gặp chuyện gì đó. Tôi bắt đầu lo ngại. Tôi xuống cảng, hỏi thăm. Chẳng ai biết y cả. Cuối cùng, tôi phải đáp tàu đi qua hòn đảo chỗ y ở. Đó là một túp lều cũ kỹ nằm gần bờ nước.
    Tôi đang đi quanh lều thì một người hàng xóm bước ra hỏi tôi tìm gì. Tôi trả lời. Người hàng xóm bảo rằng y đã chết cách đây khoảng mười ngày. Anh bạn ơi, nghe thế tôi hết sức đau lòng. Cho đến bây giờ cũng vậy. Tôi thực sự yêu mến y ta. Có một cái gì lạ nơi con người y. Tôi cho rằng y biết những điều mà chúng ta không hiểu được.
    Tôi hỏi người hàng xóm về con chó. Ông ta không biết. Ông ta cũng không biết cả tên Robert Kincaid nữa. Thế là, tôi bèn gọi bên chỗ ?phú de?o để hỏi cho chắc và quả họ đang giữ con chó. Tôi bèn đến lãnh về và đem cho thằng cháu. Lần cuối cùng tôi thấy, thằng cháu tôi và ?Con Đường?o thích nhau lắm. Điều đó làm tôi vui.
    Thế là gần hết chuyện. Không lâu sau khi tôi biết chuyện xảy ra cho Kincaid, cánh tay trái của tôi bị tê khi chơi kèn quá hai mươi phút. Có chuyện không ổn ở cột sống của tôi. Thế là tôi thôi việc.
    Nhưng mà ông bạn ạ, tôi bị ám ảnh bởi câu chuyện y kể, về y và về người đàn bà. Thế là, vào tất cả những tối Thứ ba, tôi đều lấy cây saxo ra và chơi bản nhạc tôi đã viết tặng y. Tôi chơi ở đây và chỉ để cho chính tôi nghe.
    Tôi cũng chẳng hiểu tại sao, khi chơi, tôi luôn luôn nhìn vào tấm ảnh y tặng. Tôi không biết rõ, nhưng có một cái gì đó khiến tôi không thể rời mắt khỏi bức ảnh khi chơi bản nhạc này.
    Tôi còn ở đây, trong hoàng hôn của cuộc đời. Tôi làm cho cây kèn già nua khóc lên. Tôi chơi bản nhạc dành cho một người đàn ông tên là Robert Kincaid và một người đàn bà mà y gọi là Francesca.
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này