1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những chiến sĩ Quốc tế trong kháng chiến chống Pháp .

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Red_army_vn, 26/03/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. panzerlehr

    panzerlehr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2004
    Bài viết:
    935
    Đã được thích:
    0
    Lão quái này chắc lại đi lên mấy trang ?ođồng tính? của bà Phạm để đọc rồi ?. Hì hì, đã tìm ra được vàng thì phải chia sẻ cho anh em chứ. Ít ra là cái bài đã được post ở ttvn này ở đây :
    http://ttvnol.com/quansu/194394/trang-9.ttvn
    Được panzerlehr sửa chữa / chuyển vào 21:52 ngày 30/03/2005
  2. panzerlehr

    panzerlehr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2004
    Bài viết:
    935
    Đã được thích:
    0
    Cũng ở báo QĐND :
    Đầu năm 1949, cán bộ chiến sĩ đại đội 9 độc lập hoạt động ở vùng Đại Lộc, Quảng Nam tiếp nhận một lính lê dương có tên là Phrăng Đờ Bộ-en đã trốn khỏi hàng ngũ quân viễn chinh Pháp và mang súng tình nguyện về với hàng ngũ ********* để chống Pháp. Năm đó, Bô-en mới 25 tuổi, người cao to, và học tiếng Việt rất nhanh. Cuối 1950, đơn vị nhận nhiệm vụ làm nghĩa vụ quốc tế sang giúp bạn Lào và Cam-pu-chia xây dựng cơ sở, phát triển lực lượng vũ trang cùng đánh Pháp xâm lược. Chính thời gian đó, qua thử thách chiến đấu dũng cảm, Bô-en đã được đứng trong hàng ngũ Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng CS Việt Nam). Pháp coi Bô-en là ?omột phần tử rất nguy hiểm? nên tìm mọi cách theo dõi để bắt bằng được. Phrăng Đờ Bô
    Bô-en là một người Âu nhưng từng học tiếng Việt Nam rất nhanh, chiến đấu dũng cảm, nay cùng đơn vị Việt Nam sang giúp bạn Lào lại tích cực học tiếng Lào, lăn lộn với cơ sở, phụ trách một tổ công tác xây dựng lực lượng, được bà con các bộ tộc Lào rất quý mến, che chở. Nhưng không may, một lần trên đường xuống cơ sở công tác, Bô-en lọt vào ổ phục kích của địch. Anh chiến đấu cho đến khi súng hết đạn thì bị thương nặng, bất tỉnh nên lọt vào tay địch. Bọn địch rất mừng vì đã bắt sống được ?otê hành binh lê dương nay đã thành cộng sản rất nguy hiểm?. Chúng phao tin Bô-en đã chết, rồi bí mật đưa về chữa chạy các vết thương để khai thác tin tức về tình hình quân ********* ở Lào và lực lượng vũ trang cách mạng Lào. Tra tấn, không khai thác được gì, chúng đưa Bô-en về giam giữ ở khám Chí Hòa-Sài Gòn. Đồng đội mất tin tức về Bô-en, tưởng anh đã hy sinh trên đường công tác trên đất bạn Lào. Còn bọn thực dân sau đó đưa anh ra Huế, mở tòa án binh xử Bô-en, kết án chung thân, và lấy lý do Bô-en xuất xứ là một người lính trong đội quân lê dương Pháp nên chúng bí mật đưa về ?omẫu quốc? giam giữ...
    Mãi sau này mới được biết, chiến sĩ quốc tế Bô-en vẫn còn sống. Đờ Bô-en không phải người Pháp mà là người Bỉ Anh kể: ?o... Tôi sinh ra ở vùng Phờ-la-măng, Vương quốc Bỉ. Năm 1924, khi 15 tuổi, tôi đang học phổ thông thì chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra (năm 1939). Tôi vượt biên giới sang Đức để kiếm việc làm trong một nông trại...?. Cho đến năm cuối cùng của chiến tranh thế giới thứ hai (1945) thì Đờ Bô-en bị Đức bắt vào lính. Nhưng rồi phát xít Đức thua trận và Bô-en lại trở thành tù binh của Pháp. Nước Pháp thực dân lập lại đội quân lê dương viễn chinh trở lại xâm lược các thuộc địa và Bô-en lại bị động viên vào đội quân viễn chinh của Pháp, sang phục vụ ở An-giê-ri. Từng bị Pháp bắt làm tù binh, bị lính Pháp đánh đập và đối xử tồi tệ, rồi chứng kiến những hành động dã man của lính lê dương Pháp đối với nhân dân nên Đờ Bô-en rất ghét lính Pháp và nung nấu tinh thần phản kháng. Sau một thời gian ở An-giê-ni, đơn vị của Đờ Bô-en lại bị điều sang Việt Nam cuối năm 1947, khi Pháp mở rộng cuộc chiến tranh ngày càng ác liệt và đang gặp khó khăn. Khi tiếp xúc với nhân dân Việt Nam, Đờ Bô-en nhận ra người dân thuộc địa hay Việt Nam, ở đâu cũng rất cực khổ nhưng lại rất tốt bụng, có tinh thần đấu tranh bất khuất chống bọn thực dân xâm lược. Đờ Bô-en đã tìm mọi cách bí mật tiếp xúc với lực lượng kháng chiến, bắt được liên lạc với du kích của ********* và đã mang theo súng trốn khỏi đơn vị lê dương để đi theo *********, đứng về phía nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp. Bô-en nói, hôm đó là ngày 6-2-1949 ông không bao giờ có thể quên, và ông rất tự hào coi ngày đó là ngày được ?onhập ngũ? vào Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng...
    Ông kể lại: năm 1952 ông bị bọn Pháp kết tội phản quốc? với án tù chung thân rồi chúng đưa về bên Pháp giam giữ nên không liên lạc được với đồng đội, nhưng ông luôn nhớ và theo dõi tình hình cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Khi nghe tin chiến thắng ở Điện Biên Phủ, rồi Hiệp nghị Gi-ne-vơ về công nhận nền độc lập của các nước Đông Dương được ký kết, ông rất mừng. Ông đã đấu tranh đòi Pháp trả ông về Việt Nam như một số tù chính trị khác bị giam giữ trên đất Pháp nhưng chính quyền thực dân không chấp nhận. Cho mãi đến 1962 ông mới được ra khỏi trại giam của thực dân Pháp, nhưng bị trục xuất về Bỉ. Trở về quê hương, Đờ Bô-en luôn nhớ về ?~Tổ quốc thứ hai? của mình, nên những năm Việt Nam chống Mỹ ông nhiều lần xin trở lại cùng nhân dân Việt Nam cầm súng đánh Mỹ, nhưng vì nhiều ?olý do tế nhị? nguyện vọng của ông không được chính quyền Bỉ chấp nhận, lao vào các hoạt động trong phong trào tình nguyện giúp đỡ, ủng hộ Việt Nam. Ông được gia nhập Đảng Cộng sản Bỉ. Ông tích cực vận động và là một trong những người sáng lập ra Phân hội Hữu nghị Bỉ-Việt Nam nhằm đẩy mạnh các hoạt động góp công sức, tiền của và tinh thần ủng hộ Việt Nam có hiệu quả với tất cả tấm lòng hướng về Tổ quốc Việt Nam của Bác Hồ để đánh Mỹ và cả trong xây dựng tương lai đất nước sau chiến tranh...
    Đúng sau nửa thế kỷ kể từ ngày đầu tiên đặt chân đến Việt Nam trong đội quân lê dương Pháp, và sau hơn ba chục năm ra khỏi nhà tù của thực dân Pháp, đã ở tuổi ngoài 70 mới có dịp đi cùng người con trai lớn G.Đờ Bô-en làm Giám đốc đài truyền hình của thành phố Ang-ve, trở lại thăm ?oTổ quốc thứ hai? Việt Nam của ông-như ông nói. Hai cha con đã đi từ TP Hồ Chí Minh ra Hà Nội, gặp lại một số đồng đội cũ, thăm những nơi ông bị Pháp giam cầm. Khi vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh cha con ông đã khóc nức nở. Đối với ông, Bác Hồ là Nguyễn Ái Quốc mà ông đã biết và cảm phục chính Bác Hồ đã dẫn dắt ông tình nguyện đi theo ********* để cầm súng chiến đấu vì Việt Nam Bác Hồ đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam đánh bại chủ nghĩa thực dân Pháp ở Đông Dương và châu Phi, là vị lãnh tụ mà ông suốt đời kính phục nhất.
  3. panzerlehr

    panzerlehr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2004
    Bài viết:
    935
    Đã được thích:
    0
    Cũng ở báo QĐND :
    Đầu năm 1949, cán bộ chiến sĩ đại đội 9 độc lập hoạt động ở vùng Đại Lộc, Quảng Nam tiếp nhận một lính lê dương có tên là Phrăng Đờ Bộ-en đã trốn khỏi hàng ngũ quân viễn chinh Pháp và mang súng tình nguyện về với hàng ngũ ********* để chống Pháp. Năm đó, Bô-en mới 25 tuổi, người cao to, và học tiếng Việt rất nhanh. Cuối 1950, đơn vị nhận nhiệm vụ làm nghĩa vụ quốc tế sang giúp bạn Lào và Cam-pu-chia xây dựng cơ sở, phát triển lực lượng vũ trang cùng đánh Pháp xâm lược. Chính thời gian đó, qua thử thách chiến đấu dũng cảm, Bô-en đã được đứng trong hàng ngũ Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng CS Việt Nam). Pháp coi Bô-en là ?omột phần tử rất nguy hiểm? nên tìm mọi cách theo dõi để bắt bằng được. Phrăng Đờ Bô
    Bô-en là một người Âu nhưng từng học tiếng Việt Nam rất nhanh, chiến đấu dũng cảm, nay cùng đơn vị Việt Nam sang giúp bạn Lào lại tích cực học tiếng Lào, lăn lộn với cơ sở, phụ trách một tổ công tác xây dựng lực lượng, được bà con các bộ tộc Lào rất quý mến, che chở. Nhưng không may, một lần trên đường xuống cơ sở công tác, Bô-en lọt vào ổ phục kích của địch. Anh chiến đấu cho đến khi súng hết đạn thì bị thương nặng, bất tỉnh nên lọt vào tay địch. Bọn địch rất mừng vì đã bắt sống được ?otê hành binh lê dương nay đã thành cộng sản rất nguy hiểm?. Chúng phao tin Bô-en đã chết, rồi bí mật đưa về chữa chạy các vết thương để khai thác tin tức về tình hình quân ********* ở Lào và lực lượng vũ trang cách mạng Lào. Tra tấn, không khai thác được gì, chúng đưa Bô-en về giam giữ ở khám Chí Hòa-Sài Gòn. Đồng đội mất tin tức về Bô-en, tưởng anh đã hy sinh trên đường công tác trên đất bạn Lào. Còn bọn thực dân sau đó đưa anh ra Huế, mở tòa án binh xử Bô-en, kết án chung thân, và lấy lý do Bô-en xuất xứ là một người lính trong đội quân lê dương Pháp nên chúng bí mật đưa về ?omẫu quốc? giam giữ...
    Mãi sau này mới được biết, chiến sĩ quốc tế Bô-en vẫn còn sống. Đờ Bô-en không phải người Pháp mà là người Bỉ Anh kể: ?o... Tôi sinh ra ở vùng Phờ-la-măng, Vương quốc Bỉ. Năm 1924, khi 15 tuổi, tôi đang học phổ thông thì chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra (năm 1939). Tôi vượt biên giới sang Đức để kiếm việc làm trong một nông trại...?. Cho đến năm cuối cùng của chiến tranh thế giới thứ hai (1945) thì Đờ Bô-en bị Đức bắt vào lính. Nhưng rồi phát xít Đức thua trận và Bô-en lại trở thành tù binh của Pháp. Nước Pháp thực dân lập lại đội quân lê dương viễn chinh trở lại xâm lược các thuộc địa và Bô-en lại bị động viên vào đội quân viễn chinh của Pháp, sang phục vụ ở An-giê-ri. Từng bị Pháp bắt làm tù binh, bị lính Pháp đánh đập và đối xử tồi tệ, rồi chứng kiến những hành động dã man của lính lê dương Pháp đối với nhân dân nên Đờ Bô-en rất ghét lính Pháp và nung nấu tinh thần phản kháng. Sau một thời gian ở An-giê-ni, đơn vị của Đờ Bô-en lại bị điều sang Việt Nam cuối năm 1947, khi Pháp mở rộng cuộc chiến tranh ngày càng ác liệt và đang gặp khó khăn. Khi tiếp xúc với nhân dân Việt Nam, Đờ Bô-en nhận ra người dân thuộc địa hay Việt Nam, ở đâu cũng rất cực khổ nhưng lại rất tốt bụng, có tinh thần đấu tranh bất khuất chống bọn thực dân xâm lược. Đờ Bô-en đã tìm mọi cách bí mật tiếp xúc với lực lượng kháng chiến, bắt được liên lạc với du kích của ********* và đã mang theo súng trốn khỏi đơn vị lê dương để đi theo *********, đứng về phía nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp. Bô-en nói, hôm đó là ngày 6-2-1949 ông không bao giờ có thể quên, và ông rất tự hào coi ngày đó là ngày được ?onhập ngũ? vào Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng...
    Ông kể lại: năm 1952 ông bị bọn Pháp kết tội phản quốc? với án tù chung thân rồi chúng đưa về bên Pháp giam giữ nên không liên lạc được với đồng đội, nhưng ông luôn nhớ và theo dõi tình hình cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Khi nghe tin chiến thắng ở Điện Biên Phủ, rồi Hiệp nghị Gi-ne-vơ về công nhận nền độc lập của các nước Đông Dương được ký kết, ông rất mừng. Ông đã đấu tranh đòi Pháp trả ông về Việt Nam như một số tù chính trị khác bị giam giữ trên đất Pháp nhưng chính quyền thực dân không chấp nhận. Cho mãi đến 1962 ông mới được ra khỏi trại giam của thực dân Pháp, nhưng bị trục xuất về Bỉ. Trở về quê hương, Đờ Bô-en luôn nhớ về ?~Tổ quốc thứ hai? của mình, nên những năm Việt Nam chống Mỹ ông nhiều lần xin trở lại cùng nhân dân Việt Nam cầm súng đánh Mỹ, nhưng vì nhiều ?olý do tế nhị? nguyện vọng của ông không được chính quyền Bỉ chấp nhận, lao vào các hoạt động trong phong trào tình nguyện giúp đỡ, ủng hộ Việt Nam. Ông được gia nhập Đảng Cộng sản Bỉ. Ông tích cực vận động và là một trong những người sáng lập ra Phân hội Hữu nghị Bỉ-Việt Nam nhằm đẩy mạnh các hoạt động góp công sức, tiền của và tinh thần ủng hộ Việt Nam có hiệu quả với tất cả tấm lòng hướng về Tổ quốc Việt Nam của Bác Hồ để đánh Mỹ và cả trong xây dựng tương lai đất nước sau chiến tranh...
    Đúng sau nửa thế kỷ kể từ ngày đầu tiên đặt chân đến Việt Nam trong đội quân lê dương Pháp, và sau hơn ba chục năm ra khỏi nhà tù của thực dân Pháp, đã ở tuổi ngoài 70 mới có dịp đi cùng người con trai lớn G.Đờ Bô-en làm Giám đốc đài truyền hình của thành phố Ang-ve, trở lại thăm ?oTổ quốc thứ hai? Việt Nam của ông-như ông nói. Hai cha con đã đi từ TP Hồ Chí Minh ra Hà Nội, gặp lại một số đồng đội cũ, thăm những nơi ông bị Pháp giam cầm. Khi vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh cha con ông đã khóc nức nở. Đối với ông, Bác Hồ là Nguyễn Ái Quốc mà ông đã biết và cảm phục chính Bác Hồ đã dẫn dắt ông tình nguyện đi theo ********* để cầm súng chiến đấu vì Việt Nam Bác Hồ đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam đánh bại chủ nghĩa thực dân Pháp ở Đông Dương và châu Phi, là vị lãnh tụ mà ông suốt đời kính phục nhất.
  4. panzerlehr

    panzerlehr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2004
    Bài viết:
    935
    Đã được thích:
    0
    Bài điếu của anh Đại Đồng (tức GS Georges Boudarel ) :
    Như chúng tôi đã đưa tin trong số 136, Georges Boudarel đã từ trần ngày 26.12.2003. Lễ hoả táng nhà sử học đã cử hành tại nghĩa trang Père Lachaise (Paris) ngày 20.12. Ngày 1.2.2004, sau lễ cầu siêu tại Phật đường Khuông Việt (Orsay), bạn bè của anh đã quây quần gợi lại kỉ niệm về người bạn quá cố. Hai buổi lễ cũng là dịp mà nhiều người trong các bạn của « Bouda » lần đầu tiên gặp nhau và làm quen với nhau.
    Ông Aimé Palisse, tuổi 80 tráng kiện, có lẽ là người bạn thâm niên nhất : hai người gặp nhau ở Sài Gòn năm 1947 khi Bouda, giáo sư triết học đặt chân tới Việt Nam, dạy ở trường Marie Curie. Ba năm sau, Boudarel ra chiến khu, Palisse thì bị tù vì chống chiến tranh, ra tù thì bị trục xuất về Pháp. Từ đó, trong suốt nửa thế kỉ, họ vẫn giữ liên lạc với nhau. Bên cạnh những người bạn thâm niên như Palisse, chúng tôi còn gặp những bạn trẻ Việt Nam dưới tuổi 30, hay một nhà vật lí học đi 200 km về đây, tuy chưa hề gặp Boudarel bao giờ. Xa hơn, là vợ chồng anh bạn từ Đức sang, và xa hơn nữa, người bạn đã hoãn hai ngày chuyến bay trở về Mexico để có thể thắp nén hương trên bàn thờ Bouda. Cũng trên bàn thờ ấy, chúng tôi đã thắp hương thay mặt cho các nhà thơ và nhà văn Lê Đạt, Dương Tường, Châu Diên... (Hà Nội). Heinrich Schütte, nhà nghiên cứu khoa học xã hội, vừa từ Hà Nội bay về kịp buổi lễ cầu siêu, cũng cho biết, trong cuộc hội thảo tổ chức đầu tháng 1.2004 về những người Đức đã tham gia kháng chiến Việt Nam, tên tuổi của G. Boudarel đã được những người bạn kháng chiến của ông nhắc đến với tất cả sự quý mến trân trọng chen lẫn ngậm ngùi.
    Đông đảo nhất có lẽ là những đồng nghiệp và sinh viên của Bouda ở Trường đại học Paris VII và những người đã hoạt động cùng với ông trong phong trào đoàn kết với Việt Nam trong (và sau) cuộc chiến tranh chống Mĩ. Song cũng không thể quên những người chỉ quen anh từ sau khi phe cực hữu Pháp mở chiến dịch vu khống Boudarel « tội phạm chiến tranh », thi hành trên các phương tiện truyền thông bản án « tử hình vắng mặt » mà chính quyền thực dân Pháp đã tuyên xử cách đây 50 năm, khi anh ra chiến khu Đ, bản án mà năm 1967, chính quyền De Gaulle đã mặc nhiên huỷ bỏ bằng một đạo luật « ân xá » chung về hai cuộc chiến tranh Đông Dương và Algérie. Điển hình cho những người bạn « mới » này là mục sư J. C. Serex, người Thuỵ Sĩ, ở cùng một chung cư với Bouda nhưng không hề quen biết anh. Cho đến năm 1991, khi chiến dịch hận thù và vu khống kia nổ ra, cửa kính trong khu chung cư bị bắn vỡ, tường nhà bôi bác những khẩu hiệu « Boudarel sát nhân ». Mục sư Serex đã đi tìm « sát nhân » và chỉ gặp một con người chân thực, nhân hậu. Từ đó, hai người kết bạn. Mục sư Serex, cùng với những người bạn Pháp, Mĩ, Việt Nam trong hội « Les Amis de Bouda » (do cố giáo sư Laurent Schwartz làm chủ tịch danh dự, bà Janine Gillon làm chủ tịch), trong suốt 5 năm qua, đã tận tình chăm sóc Boudarel, ở bệnh viện cũng như ở nhà dưỡng lão.
    Cách đây hơn hai năm, để mừng thọ Bouda 75 tuổi, tôi đã có dịp viết bài về anh (Diễn Đàn số 112, tháng 11.2001) cốt để bày tỏ tình cảm với người bạn già trước khi tôi lên đường về nước, chừng nào tôi ngại rằng ở tuổi của anh, nhất là với sức khoẻ suy yếu, bất cứ lần gặp nào cũng có thể là lần chót, lời nào cũng có thể là lời cuối. Khi tôi trở qua, anh mỉm cười nói với tôi : « Mày tế sống tao ». Ngày nay, Bouda đã sang thế giới bên kia, tôi xin nhường lời cho bạn bè. Dưới đây, xin trích những đoạn thư nhận được từ bạn bè bốn phưong :
    Daniel Hémery, nhà sử học, là đồng nghiệp của GB trong suốt 30 năm, và cùng hoạt động trong Mặt trận Đoàn kết với Đông Dương (FSI), bức xúc nhớ lại « khổ nạn » cuối đời, « nỗi oan khổ vô lý » mà Bouda trải qua, và « sự bất lực » của bạn bè trước bi kịch ấy.
    « Georges Boudarel là một trong những người tiên phong ở phương Tây nghiên cứu về lịch sử Việt Nam. Tiên phong không những vì ông thông thạo tiếng Việt, thông hiểu văn hoá Việt Nam, mà do hành trình độc đáo và ghê gớm của mình, ông đã rút tỉa ra những đức tính quý hiếm : thích tiếp cận một cách thực tế, khiêm nhường mà vẫn biết phẫn nộ trước sự kiện, lương tri kết hợp với sự thông thái, say mê vô độ trong sự học hỏi và tìm tòi tư liệu. Có lẽ điều tôi khâm phục nhất ở con người ấy là sự nổi loạn chống lại những giáo điều. Các công trình và biên khảo của Boudarel sẽ còn đóng vai trò nền tảng trong một thời gian dài. Cố nhiên, bên cạnh những đức tính ấy, có những khuyết tật, vụng về, song không đáng kể. Trong ''cộng đồng'' giới sử học, Bouda quả là khác đời. Không ''cố ý'', nhưng thật là khác đời. Bởi vì, xét cho cùng, Bouda là một mảng của bức tranh lịch sử tập thể ác nghiệt. »
    « Georges không phải chỉ là một bộ óc bác học, một giáo sư xuất sắc, luôn luôn tìm tòi, đọc sách bốn phương tám hướng, học hỏi không ngừng nghỉ để giảng dạy, thực sự chiến đấu cho một đường hướng giáo dục mà chúng tôi muốn thực hiện. Bouda thực sự là một militant, đặt niềm tin vào một nước Việt Nam dân chủ, giải thoát khỏi bi kịch : lúc đầu thời kì « đổi mới » ông thường nói với tôi, làm sao « đẩy được cỗ xe ra khỏi hố lầy... ». Bouda đúng là công dân của hai Tổ quốc. Sở thích của ông là thảo luận, cười cợt, kể chuyện đùa. Một người đồng chí ».
    Một nhà sử học khác ở Canada, Vĩnh Sính, tác giả những công trình giá trị về Phan Bội Châu, viết cho chúng tôi : ?o Những công trình nghiên cứu của Boudarel về Phan Bội Châu (xuất bản cuối thập niên 1960 -- đầu thập niên 1970 ?) tôi đọc khá kỹ. Phải nói là rất công phu. Bản dịch Phan Bội Châu Niên Biểu của anh sang tiếng Pháp, với phần chú thích tường tận và ''đầy tâm huyết'' (vậy mới hay mới lạ chứ !), đã là mẫu mực cho các công trình nghiên cứu về PBC của các nhà nghiên cứu về PBC người VN ở Sài Gòn cũng như ở Hà Nội (hồi đó đất nước còn phân chia). Điều đáng tiếc là cho đến nay hình như vẫn chưa có bản dịch PBCNB nào sang chữ quốc ngữ đạt được chuẩn mực đàng hoàng như công trình của anh Boudarel. Nói chung, ngay cả trong nghiên cứu về PBC (một nhân vật lịch sử của VN ta đấy) ta vẫn muốn ''đi tắt đón đầu'' ! Qua công trình nghiên cứu của Boudarel về PBC, tôi cảm nhận được sự ham thích tìm hiểu và tình cảm quý mến của anh đối văn hoá và con người Việt Nam. Nội chuyện đó không cũng đã là rất đáng quý ?.
    ?o (...) Thời gian cứ thế trôi nhanh và tôi vẫn chưa có dịp gặp anh. Đầu thập niên 1990 thì phải, hồi đó sách vở trong nước vẫn còn trốn tránh, không muốn nhắc đến tên anh Boudarel. Tôi còn nhớ rõ là lúc đó tôi có viết bài gì đó để đăng trên 1 tập san trong nước và trong bài này tôi có nhắc đến công trình nghiên cứu sáng giá của Boudarel. Anh biên tập tập san có nhắc tôi hoàn cảnh tế nhị của anh Boudarel đối với một số nguời trong nước. Tôi nói là tôi xin được vô tư trong chuyện này, và anh biên tập thông cảm. Khi bài đó in ra, tôi thầm nghĩ là trong khả năng vô cùng hạn chế của tôi, tôi đã nói lên được chút ít tình cảm của tôi đối với anh và trong nỗ lực chung của những người quen biết muốn phục hồi danh dự cho anh.?
    Chị K. Ở Thuỵ Sĩ, chỉ gặp Bouda một lần : ?o Trong những năm cuối, vừa bệnh tật vừa phải đối chọi với đủ thứ vấn đề căng thẳng, ít ra ông cũng đã được an ủi rất nhiều qua sự quây quần, bảo bọc của bạn bè. Các anh chị lập ra cả một hội để lo cho ông. K. vẫn nhớ mãi cái cười hồn nhiên của ông, bữa ăn tối tại nhà anh, khi ông bị hỏi trêu về cái tên Việt của ông [Đi kháng chiến, Bouda lấy tên là Đại Đồng, nhưng anh phát âm thành... đái đồng]. Và vẫn giữ cuốn sách khổng lồ bằng tiếng romanche, tìm xin được để chụp vài trang mẫu gửi sang cho ông xem. Nước Thuỵ Sĩ đã bé tí, ít dân, tiếng romanche lại gần tuyệt chủng, chỉ còn dùng trong một vùng nhỏ, núi cao xa xôi. Ngoài Thuỵ Sĩ, có ai biết, thế mà Bouda nhắc đến, thắc mắc, muốn xem nó ra sao. Sự hiếu kì của một trí thức luôn mở rộng đối với thế giới và con người chung quanh.?
    ?o Cầu mong Bouda đã bay bổng đến thế giới Đại Đồng ông hằng mong ước ?.
    Anh H. ở Toulouse viết cho chúng tôi : ?o Riêng tôi có nhiều kỉ niệm với ông Boudarel. Lúc ông là giáo sư Pháp văn tại trường Marie Curie Sài Gòn. Ông giúp anh em học sinh kháng chiến trong thành phố rất nhiệt tình. Ra vùng giải phóng, ông đã gởi cho anh em học sinh Sàigòn một bức thư kêu gọi, mà chúng tôi phổ biến trong giới học sinh hồi ấy. Điều này tôi có nhắc lại với ông khi ông nằm an dưỡng tại Toulouse. Vì vậy, Bouda đối với riêng tôi không chỉ là người bạn, mà còn là người thầy.?
    Nhà ngôn ngữ học Nguyễn Tài Cẩn, hiện ở Moskva, nhớ lại : ?o Năm 1960, tôi có một giáo trình ở Khoa Ngữ văn Đại học tổng hợp Hà Nội, về các vấn đề đang tranh luận trong ngữ pháp tiếng Việt. Anh G. B. Đều đặn đạp xe đạp đến nghe, bất kể những ngày mưa to gió lớn hay những ngày cực nắng nóng. Anh hay hỏi về các thuật ngữ chuyên môn giới ngữ học mới dịch ra tiếng Việt. Chúng tôi trở thành quen nhau. Và sau đó là bao nhiêu lần cùng đi cùng về trên các nẻo đường Láng ?" Cầu Giấy ?" Kim Mã (..) Anh là một con người luôn luôn quan tâm đến cái mới, luôn luôn đứng về phía cái đúng ; một người bạn thẳng thắn, cởi mở.?
    N.N.G.
    Thầy Georges​
    Mùa hè 1988, thi đỗ tú tài xong, tôi ghi tên vào năm thứ nhất ban Sử trường đại học Paris VII, tôi sẽ học suốt các cấp đại học ở đây cho đến 2000 là năm tôi bảo vệ luận án tiến sĩ. Chính tại đây, ngay từ năm đầu, tôi may mắn được học Georges Boudarel, từ ấy quan hệ thầy trò trở thành quan hệ bè bạn. Năm thứ nhất, giáo sư Lịch sử Thế kỉ XX là ông Robert Bonnaud, còn G. Boudarel dạy chúng tôi thực tập. Năm dự bị thứ nhì (1990-91), tôi gặp lại ông khi tôi chọn tín chỉ « Chiến tranh và Xã hội » do ông phụ trách.
    Trong đời học sinh, sinh viên, có những ông thầy để lại dấu ấn sâu đậm hơn những người khác. Georges Boudarel là một ông thầy để lại dấu ấn rõ nét nhất đối với tôi. Qua những bài giảng của ông, tôi học được nhiều nhất, xa nhất, không phải chỉ học làm sử, mà học cả làm người.
    Hồi đó mấy đứa sinh viên chúng tôi họp thành một hạt nhân, sau mỗi giờ học nán lại trong lớp thảo luận tràng giang bất tận, nhiều khi kéo ông ra ngồi quán cà phê, hay đến quán Maubert ăn tô phở. Tình cảm tôi nói ở trên, tôi biết không chỉ riêng tôi, mà của mọi người trong nhóm. Đó không phải là sự ngưỡng mộ, bởi vì Boudarel không phải là một thứ giáo chủ, hay một diễn viên có tài mê hoặc sinh viên. Tôi kính trọng ông ở tinh thần tự do tư tưởng toát ra trong các bài giảng, ở mối quan hệ giản dị mà sâu sắc mà ông tạo ra đối với sinh viên, đồng nghiệp, bạn bè.
    Nghe Boudarel giảng bài hứng thú vô cùng. Tôi nói như vậy là nói thực chứ không phải vì bồi hồi mà xúc động nói quá. Hứng thú vì bài giảng của ông chứa đựng rất nhiều thông tin, đưa ra những đối sánh, những gợi ý suy nghĩ, tứ tung dồn dập theo nhịp điệu của một dòng tư duy ngổn ngang, cuồn cuộn, bay bổng. Ngoại hình thầy Georges của chúng tôi chẳng có gì phấn khởi : lưng thì còng còng, tứ thời đóng bộ quần áo màu xám và chiếc áo mưa bất hủ, vai đeo cái túi nặng trĩu những photocopie và sách báo. Giọng thầy trầm khàn, chậm chạp như dáng đi, với cái « ac-xăng » đặc biệt của vùng Saint Etienne. Thầy nói chậm nhưng lưu loát, ngôn ngữ đầy hình ảnh và dí dỏm khiến cho sinh viên rất khoái nghe, câu chuyện luôn luôn điểm xuyết bằng những nhận xét hóm hỉnh, nụ cười rạng rỡ, khiến người nghe bất ngờ, thích thú.
    Niên học 90-91, giáo trình của Boudarel chia làm hai phần : học kì I nói về các nhà chiến lược và các nhà lập thuyết về bạo lực, học kì II nói về những lí giải về bạo lực. Giáo trình của thầy là cả một cuốn sách mở, mở ra những cật vấn về triết học, đạo lí, tư tưởng. Những câu hỏi có tính chất nghề nghiệp, và ở thời điểm năm 1991, tôi sẽ hiểu đó cũng là những cật vấn cá nhân.
    Tôi yêu quý thầy Boudarel vì ở ông, tôi hiểu được sự đa nghĩa của con người, sự phức tạp của mỗi chọn lựa vượt ra ngoài khuôn phép của thành kiến và chuẩn tắc của thời đại, sự mảnh mai, mòn mỏi cũng như mạnh mẽ của con người. Mở đầu giáo trình về Lawrence Arabia, thầy cung cấp cho chúng những chìa khoá để giải mã những vấn đề lịch sử mà ông đặc biệt quan tâm. Điệp viên của Đế quốc Anh, lại là người mê say đất nước Arabia, Lawrence vừa là nhà quân sự vừa là nhà lí luận quân sự, nhà ngoại giao và nhà văn, khổ hạnh mà khổ dâm, nhân vật này, ngay từ lúc sinh thời, đã trở thành đối tượng tranh luận, phức tạp, độc đáo, vượt ra khỏi mọi khuôn khổ. Đối với Boudarel, Lawrence là « hiệp sĩ cuối cùng của Thời hiện đại », tâm hồn còn luyến tiếc mơ tưởng Thời Trung cổ và những chiến công cá nhân, sống ở thời điểm mà cuộc chiến tranh công nghiệp 1914 kết liễu tâm lí hiệp sĩ, thay thế nó bằng một tâm lí hoàn toàn trái ngược. Boudarel chú tâm tới chiều kích nhân học của chiến tranh mà Lawrence đã xử lí khá tinh tế, và đã trở thành một chuyên gia của « chiến lược gián tiếp ». Cách tiếp cận này mở ra những chân trời mới, giúp chúng tôi hiểu được tiến trình của các tư tưởng quân sự, ý nghĩa và cả sự vô nghĩa của các cuộc giao tranh, tâm lí học của bạo lực, óc kỉ luật phục tùng và tinh thần bất tuân, cái giá phải trả của mỗi cuộc chiến tranh và vai trò của nó trong lịch sử.
    Khi « vụ Boudarel » nổ ra, có lẽ học trò của thầy Georges có điều kiện để hiểu hơn người khác tất cả sự phức tạp trong lập trường và thế đứng quá khứ của ông. Chúng tôi không hoàn toàn tán thành, nhưng biết đặt chúng trong bối cảnh không gian và thời gian, không phán đoán theo lối suy luận đơn thuần trắng đen hay hẹp hòi cố chấp, mà phán đoán với « khoảng lùi cần thiết », theo phương cách mà ông đã dạy cho chúng tôi, và chính ông đã áp dụng một cách không khoan nhượng cho bản thân mình để xét đoán những chọn lựa và hành động của mình trong quá khứ. Và như thế, những bài giảng của Boudarel, đối với tôi, mang thêm một chiều kích mới. Tôi cảm nhận ở đó sự dằn vặt nội tâm của một con người đầy ám ảnh của những câu hỏi chưa có lời đáp. Tôi là một trong những người đầu tiên kí tên vào các bản kiến nghị ủng hộ của Uỷ ban bảo vệ Boudarel, mà không hề hối tiếc. Dường như từ ấy quan hệ thầy trò của chúng tôi trở thành sự tin cậy hai chiều, đạt tới sự đồng cảm tương tác càng sâu đậm hơn trong những năm tháng tiếp theo, khi tôi bắt đầu nghiên cứu về lịch sử Việt Nam. Lúc đó, các nhà báo đột nhập vào trường, xục xạo các hành lang để tìm ra lớp học của chúng tôi. Theo yêu cầu của thầy, tôi đánh lạc hướng các nhà báo, chỉ cho họ những hành lang và số phòng tưởng tượng, và thông báo cho bạn bè địa chỉ chính xác của từng buổi một, vì tất nhiên, lớp sử của Boudarel đã trở thành một lớp học lưu động. Trong suốt mấy tháng, không có nhà báo nào tìm ra lớp của chúng tôi, còn các bạn tôi vẫn theo học đông đủ các giờ giảng, không thiếu một ai. Với sinh viên, Georges không bao giờ giấu giếm quá khứ của ông, và ông cũng không hề, gián tiếp hay trực tiếp, yêu cầu sinh viên phải ủng hộ mình. Ông tôn trọng tự do ý kiến của sinh viên cũng như chúng tôi tôn trọng tự do ý kiến của ông.
    Là con người yêu nghề, trung thực và độ lượng, Georges Boudarel làm trọn công việc của một nhà giáo, và thực sự đã làm hơn thế rất nhiều.
    Lyon, 24 janvier 2004
    Agathe Larcher
  5. panzerlehr

    panzerlehr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2004
    Bài viết:
    935
    Đã được thích:
    0
    Bài điếu của anh Đại Đồng (tức GS Georges Boudarel ) :
    Như chúng tôi đã đưa tin trong số 136, Georges Boudarel đã từ trần ngày 26.12.2003. Lễ hoả táng nhà sử học đã cử hành tại nghĩa trang Père Lachaise (Paris) ngày 20.12. Ngày 1.2.2004, sau lễ cầu siêu tại Phật đường Khuông Việt (Orsay), bạn bè của anh đã quây quần gợi lại kỉ niệm về người bạn quá cố. Hai buổi lễ cũng là dịp mà nhiều người trong các bạn của « Bouda » lần đầu tiên gặp nhau và làm quen với nhau.
    Ông Aimé Palisse, tuổi 80 tráng kiện, có lẽ là người bạn thâm niên nhất : hai người gặp nhau ở Sài Gòn năm 1947 khi Bouda, giáo sư triết học đặt chân tới Việt Nam, dạy ở trường Marie Curie. Ba năm sau, Boudarel ra chiến khu, Palisse thì bị tù vì chống chiến tranh, ra tù thì bị trục xuất về Pháp. Từ đó, trong suốt nửa thế kỉ, họ vẫn giữ liên lạc với nhau. Bên cạnh những người bạn thâm niên như Palisse, chúng tôi còn gặp những bạn trẻ Việt Nam dưới tuổi 30, hay một nhà vật lí học đi 200 km về đây, tuy chưa hề gặp Boudarel bao giờ. Xa hơn, là vợ chồng anh bạn từ Đức sang, và xa hơn nữa, người bạn đã hoãn hai ngày chuyến bay trở về Mexico để có thể thắp nén hương trên bàn thờ Bouda. Cũng trên bàn thờ ấy, chúng tôi đã thắp hương thay mặt cho các nhà thơ và nhà văn Lê Đạt, Dương Tường, Châu Diên... (Hà Nội). Heinrich Schütte, nhà nghiên cứu khoa học xã hội, vừa từ Hà Nội bay về kịp buổi lễ cầu siêu, cũng cho biết, trong cuộc hội thảo tổ chức đầu tháng 1.2004 về những người Đức đã tham gia kháng chiến Việt Nam, tên tuổi của G. Boudarel đã được những người bạn kháng chiến của ông nhắc đến với tất cả sự quý mến trân trọng chen lẫn ngậm ngùi.
    Đông đảo nhất có lẽ là những đồng nghiệp và sinh viên của Bouda ở Trường đại học Paris VII và những người đã hoạt động cùng với ông trong phong trào đoàn kết với Việt Nam trong (và sau) cuộc chiến tranh chống Mĩ. Song cũng không thể quên những người chỉ quen anh từ sau khi phe cực hữu Pháp mở chiến dịch vu khống Boudarel « tội phạm chiến tranh », thi hành trên các phương tiện truyền thông bản án « tử hình vắng mặt » mà chính quyền thực dân Pháp đã tuyên xử cách đây 50 năm, khi anh ra chiến khu Đ, bản án mà năm 1967, chính quyền De Gaulle đã mặc nhiên huỷ bỏ bằng một đạo luật « ân xá » chung về hai cuộc chiến tranh Đông Dương và Algérie. Điển hình cho những người bạn « mới » này là mục sư J. C. Serex, người Thuỵ Sĩ, ở cùng một chung cư với Bouda nhưng không hề quen biết anh. Cho đến năm 1991, khi chiến dịch hận thù và vu khống kia nổ ra, cửa kính trong khu chung cư bị bắn vỡ, tường nhà bôi bác những khẩu hiệu « Boudarel sát nhân ». Mục sư Serex đã đi tìm « sát nhân » và chỉ gặp một con người chân thực, nhân hậu. Từ đó, hai người kết bạn. Mục sư Serex, cùng với những người bạn Pháp, Mĩ, Việt Nam trong hội « Les Amis de Bouda » (do cố giáo sư Laurent Schwartz làm chủ tịch danh dự, bà Janine Gillon làm chủ tịch), trong suốt 5 năm qua, đã tận tình chăm sóc Boudarel, ở bệnh viện cũng như ở nhà dưỡng lão.
    Cách đây hơn hai năm, để mừng thọ Bouda 75 tuổi, tôi đã có dịp viết bài về anh (Diễn Đàn số 112, tháng 11.2001) cốt để bày tỏ tình cảm với người bạn già trước khi tôi lên đường về nước, chừng nào tôi ngại rằng ở tuổi của anh, nhất là với sức khoẻ suy yếu, bất cứ lần gặp nào cũng có thể là lần chót, lời nào cũng có thể là lời cuối. Khi tôi trở qua, anh mỉm cười nói với tôi : « Mày tế sống tao ». Ngày nay, Bouda đã sang thế giới bên kia, tôi xin nhường lời cho bạn bè. Dưới đây, xin trích những đoạn thư nhận được từ bạn bè bốn phưong :
    Daniel Hémery, nhà sử học, là đồng nghiệp của GB trong suốt 30 năm, và cùng hoạt động trong Mặt trận Đoàn kết với Đông Dương (FSI), bức xúc nhớ lại « khổ nạn » cuối đời, « nỗi oan khổ vô lý » mà Bouda trải qua, và « sự bất lực » của bạn bè trước bi kịch ấy.
    « Georges Boudarel là một trong những người tiên phong ở phương Tây nghiên cứu về lịch sử Việt Nam. Tiên phong không những vì ông thông thạo tiếng Việt, thông hiểu văn hoá Việt Nam, mà do hành trình độc đáo và ghê gớm của mình, ông đã rút tỉa ra những đức tính quý hiếm : thích tiếp cận một cách thực tế, khiêm nhường mà vẫn biết phẫn nộ trước sự kiện, lương tri kết hợp với sự thông thái, say mê vô độ trong sự học hỏi và tìm tòi tư liệu. Có lẽ điều tôi khâm phục nhất ở con người ấy là sự nổi loạn chống lại những giáo điều. Các công trình và biên khảo của Boudarel sẽ còn đóng vai trò nền tảng trong một thời gian dài. Cố nhiên, bên cạnh những đức tính ấy, có những khuyết tật, vụng về, song không đáng kể. Trong ''cộng đồng'' giới sử học, Bouda quả là khác đời. Không ''cố ý'', nhưng thật là khác đời. Bởi vì, xét cho cùng, Bouda là một mảng của bức tranh lịch sử tập thể ác nghiệt. »
    « Georges không phải chỉ là một bộ óc bác học, một giáo sư xuất sắc, luôn luôn tìm tòi, đọc sách bốn phương tám hướng, học hỏi không ngừng nghỉ để giảng dạy, thực sự chiến đấu cho một đường hướng giáo dục mà chúng tôi muốn thực hiện. Bouda thực sự là một militant, đặt niềm tin vào một nước Việt Nam dân chủ, giải thoát khỏi bi kịch : lúc đầu thời kì « đổi mới » ông thường nói với tôi, làm sao « đẩy được cỗ xe ra khỏi hố lầy... ». Bouda đúng là công dân của hai Tổ quốc. Sở thích của ông là thảo luận, cười cợt, kể chuyện đùa. Một người đồng chí ».
    Một nhà sử học khác ở Canada, Vĩnh Sính, tác giả những công trình giá trị về Phan Bội Châu, viết cho chúng tôi : ?o Những công trình nghiên cứu của Boudarel về Phan Bội Châu (xuất bản cuối thập niên 1960 -- đầu thập niên 1970 ?) tôi đọc khá kỹ. Phải nói là rất công phu. Bản dịch Phan Bội Châu Niên Biểu của anh sang tiếng Pháp, với phần chú thích tường tận và ''đầy tâm huyết'' (vậy mới hay mới lạ chứ !), đã là mẫu mực cho các công trình nghiên cứu về PBC của các nhà nghiên cứu về PBC người VN ở Sài Gòn cũng như ở Hà Nội (hồi đó đất nước còn phân chia). Điều đáng tiếc là cho đến nay hình như vẫn chưa có bản dịch PBCNB nào sang chữ quốc ngữ đạt được chuẩn mực đàng hoàng như công trình của anh Boudarel. Nói chung, ngay cả trong nghiên cứu về PBC (một nhân vật lịch sử của VN ta đấy) ta vẫn muốn ''đi tắt đón đầu'' ! Qua công trình nghiên cứu của Boudarel về PBC, tôi cảm nhận được sự ham thích tìm hiểu và tình cảm quý mến của anh đối văn hoá và con người Việt Nam. Nội chuyện đó không cũng đã là rất đáng quý ?.
    ?o (...) Thời gian cứ thế trôi nhanh và tôi vẫn chưa có dịp gặp anh. Đầu thập niên 1990 thì phải, hồi đó sách vở trong nước vẫn còn trốn tránh, không muốn nhắc đến tên anh Boudarel. Tôi còn nhớ rõ là lúc đó tôi có viết bài gì đó để đăng trên 1 tập san trong nước và trong bài này tôi có nhắc đến công trình nghiên cứu sáng giá của Boudarel. Anh biên tập tập san có nhắc tôi hoàn cảnh tế nhị của anh Boudarel đối với một số nguời trong nước. Tôi nói là tôi xin được vô tư trong chuyện này, và anh biên tập thông cảm. Khi bài đó in ra, tôi thầm nghĩ là trong khả năng vô cùng hạn chế của tôi, tôi đã nói lên được chút ít tình cảm của tôi đối với anh và trong nỗ lực chung của những người quen biết muốn phục hồi danh dự cho anh.?
    Chị K. Ở Thuỵ Sĩ, chỉ gặp Bouda một lần : ?o Trong những năm cuối, vừa bệnh tật vừa phải đối chọi với đủ thứ vấn đề căng thẳng, ít ra ông cũng đã được an ủi rất nhiều qua sự quây quần, bảo bọc của bạn bè. Các anh chị lập ra cả một hội để lo cho ông. K. vẫn nhớ mãi cái cười hồn nhiên của ông, bữa ăn tối tại nhà anh, khi ông bị hỏi trêu về cái tên Việt của ông [Đi kháng chiến, Bouda lấy tên là Đại Đồng, nhưng anh phát âm thành... đái đồng]. Và vẫn giữ cuốn sách khổng lồ bằng tiếng romanche, tìm xin được để chụp vài trang mẫu gửi sang cho ông xem. Nước Thuỵ Sĩ đã bé tí, ít dân, tiếng romanche lại gần tuyệt chủng, chỉ còn dùng trong một vùng nhỏ, núi cao xa xôi. Ngoài Thuỵ Sĩ, có ai biết, thế mà Bouda nhắc đến, thắc mắc, muốn xem nó ra sao. Sự hiếu kì của một trí thức luôn mở rộng đối với thế giới và con người chung quanh.?
    ?o Cầu mong Bouda đã bay bổng đến thế giới Đại Đồng ông hằng mong ước ?.
    Anh H. ở Toulouse viết cho chúng tôi : ?o Riêng tôi có nhiều kỉ niệm với ông Boudarel. Lúc ông là giáo sư Pháp văn tại trường Marie Curie Sài Gòn. Ông giúp anh em học sinh kháng chiến trong thành phố rất nhiệt tình. Ra vùng giải phóng, ông đã gởi cho anh em học sinh Sàigòn một bức thư kêu gọi, mà chúng tôi phổ biến trong giới học sinh hồi ấy. Điều này tôi có nhắc lại với ông khi ông nằm an dưỡng tại Toulouse. Vì vậy, Bouda đối với riêng tôi không chỉ là người bạn, mà còn là người thầy.?
    Nhà ngôn ngữ học Nguyễn Tài Cẩn, hiện ở Moskva, nhớ lại : ?o Năm 1960, tôi có một giáo trình ở Khoa Ngữ văn Đại học tổng hợp Hà Nội, về các vấn đề đang tranh luận trong ngữ pháp tiếng Việt. Anh G. B. Đều đặn đạp xe đạp đến nghe, bất kể những ngày mưa to gió lớn hay những ngày cực nắng nóng. Anh hay hỏi về các thuật ngữ chuyên môn giới ngữ học mới dịch ra tiếng Việt. Chúng tôi trở thành quen nhau. Và sau đó là bao nhiêu lần cùng đi cùng về trên các nẻo đường Láng ?" Cầu Giấy ?" Kim Mã (..) Anh là một con người luôn luôn quan tâm đến cái mới, luôn luôn đứng về phía cái đúng ; một người bạn thẳng thắn, cởi mở.?
    N.N.G.
    Thầy Georges​
    Mùa hè 1988, thi đỗ tú tài xong, tôi ghi tên vào năm thứ nhất ban Sử trường đại học Paris VII, tôi sẽ học suốt các cấp đại học ở đây cho đến 2000 là năm tôi bảo vệ luận án tiến sĩ. Chính tại đây, ngay từ năm đầu, tôi may mắn được học Georges Boudarel, từ ấy quan hệ thầy trò trở thành quan hệ bè bạn. Năm thứ nhất, giáo sư Lịch sử Thế kỉ XX là ông Robert Bonnaud, còn G. Boudarel dạy chúng tôi thực tập. Năm dự bị thứ nhì (1990-91), tôi gặp lại ông khi tôi chọn tín chỉ « Chiến tranh và Xã hội » do ông phụ trách.
    Trong đời học sinh, sinh viên, có những ông thầy để lại dấu ấn sâu đậm hơn những người khác. Georges Boudarel là một ông thầy để lại dấu ấn rõ nét nhất đối với tôi. Qua những bài giảng của ông, tôi học được nhiều nhất, xa nhất, không phải chỉ học làm sử, mà học cả làm người.
    Hồi đó mấy đứa sinh viên chúng tôi họp thành một hạt nhân, sau mỗi giờ học nán lại trong lớp thảo luận tràng giang bất tận, nhiều khi kéo ông ra ngồi quán cà phê, hay đến quán Maubert ăn tô phở. Tình cảm tôi nói ở trên, tôi biết không chỉ riêng tôi, mà của mọi người trong nhóm. Đó không phải là sự ngưỡng mộ, bởi vì Boudarel không phải là một thứ giáo chủ, hay một diễn viên có tài mê hoặc sinh viên. Tôi kính trọng ông ở tinh thần tự do tư tưởng toát ra trong các bài giảng, ở mối quan hệ giản dị mà sâu sắc mà ông tạo ra đối với sinh viên, đồng nghiệp, bạn bè.
    Nghe Boudarel giảng bài hứng thú vô cùng. Tôi nói như vậy là nói thực chứ không phải vì bồi hồi mà xúc động nói quá. Hứng thú vì bài giảng của ông chứa đựng rất nhiều thông tin, đưa ra những đối sánh, những gợi ý suy nghĩ, tứ tung dồn dập theo nhịp điệu của một dòng tư duy ngổn ngang, cuồn cuộn, bay bổng. Ngoại hình thầy Georges của chúng tôi chẳng có gì phấn khởi : lưng thì còng còng, tứ thời đóng bộ quần áo màu xám và chiếc áo mưa bất hủ, vai đeo cái túi nặng trĩu những photocopie và sách báo. Giọng thầy trầm khàn, chậm chạp như dáng đi, với cái « ac-xăng » đặc biệt của vùng Saint Etienne. Thầy nói chậm nhưng lưu loát, ngôn ngữ đầy hình ảnh và dí dỏm khiến cho sinh viên rất khoái nghe, câu chuyện luôn luôn điểm xuyết bằng những nhận xét hóm hỉnh, nụ cười rạng rỡ, khiến người nghe bất ngờ, thích thú.
    Niên học 90-91, giáo trình của Boudarel chia làm hai phần : học kì I nói về các nhà chiến lược và các nhà lập thuyết về bạo lực, học kì II nói về những lí giải về bạo lực. Giáo trình của thầy là cả một cuốn sách mở, mở ra những cật vấn về triết học, đạo lí, tư tưởng. Những câu hỏi có tính chất nghề nghiệp, và ở thời điểm năm 1991, tôi sẽ hiểu đó cũng là những cật vấn cá nhân.
    Tôi yêu quý thầy Boudarel vì ở ông, tôi hiểu được sự đa nghĩa của con người, sự phức tạp của mỗi chọn lựa vượt ra ngoài khuôn phép của thành kiến và chuẩn tắc của thời đại, sự mảnh mai, mòn mỏi cũng như mạnh mẽ của con người. Mở đầu giáo trình về Lawrence Arabia, thầy cung cấp cho chúng những chìa khoá để giải mã những vấn đề lịch sử mà ông đặc biệt quan tâm. Điệp viên của Đế quốc Anh, lại là người mê say đất nước Arabia, Lawrence vừa là nhà quân sự vừa là nhà lí luận quân sự, nhà ngoại giao và nhà văn, khổ hạnh mà khổ dâm, nhân vật này, ngay từ lúc sinh thời, đã trở thành đối tượng tranh luận, phức tạp, độc đáo, vượt ra khỏi mọi khuôn khổ. Đối với Boudarel, Lawrence là « hiệp sĩ cuối cùng của Thời hiện đại », tâm hồn còn luyến tiếc mơ tưởng Thời Trung cổ và những chiến công cá nhân, sống ở thời điểm mà cuộc chiến tranh công nghiệp 1914 kết liễu tâm lí hiệp sĩ, thay thế nó bằng một tâm lí hoàn toàn trái ngược. Boudarel chú tâm tới chiều kích nhân học của chiến tranh mà Lawrence đã xử lí khá tinh tế, và đã trở thành một chuyên gia của « chiến lược gián tiếp ». Cách tiếp cận này mở ra những chân trời mới, giúp chúng tôi hiểu được tiến trình của các tư tưởng quân sự, ý nghĩa và cả sự vô nghĩa của các cuộc giao tranh, tâm lí học của bạo lực, óc kỉ luật phục tùng và tinh thần bất tuân, cái giá phải trả của mỗi cuộc chiến tranh và vai trò của nó trong lịch sử.
    Khi « vụ Boudarel » nổ ra, có lẽ học trò của thầy Georges có điều kiện để hiểu hơn người khác tất cả sự phức tạp trong lập trường và thế đứng quá khứ của ông. Chúng tôi không hoàn toàn tán thành, nhưng biết đặt chúng trong bối cảnh không gian và thời gian, không phán đoán theo lối suy luận đơn thuần trắng đen hay hẹp hòi cố chấp, mà phán đoán với « khoảng lùi cần thiết », theo phương cách mà ông đã dạy cho chúng tôi, và chính ông đã áp dụng một cách không khoan nhượng cho bản thân mình để xét đoán những chọn lựa và hành động của mình trong quá khứ. Và như thế, những bài giảng của Boudarel, đối với tôi, mang thêm một chiều kích mới. Tôi cảm nhận ở đó sự dằn vặt nội tâm của một con người đầy ám ảnh của những câu hỏi chưa có lời đáp. Tôi là một trong những người đầu tiên kí tên vào các bản kiến nghị ủng hộ của Uỷ ban bảo vệ Boudarel, mà không hề hối tiếc. Dường như từ ấy quan hệ thầy trò của chúng tôi trở thành sự tin cậy hai chiều, đạt tới sự đồng cảm tương tác càng sâu đậm hơn trong những năm tháng tiếp theo, khi tôi bắt đầu nghiên cứu về lịch sử Việt Nam. Lúc đó, các nhà báo đột nhập vào trường, xục xạo các hành lang để tìm ra lớp học của chúng tôi. Theo yêu cầu của thầy, tôi đánh lạc hướng các nhà báo, chỉ cho họ những hành lang và số phòng tưởng tượng, và thông báo cho bạn bè địa chỉ chính xác của từng buổi một, vì tất nhiên, lớp sử của Boudarel đã trở thành một lớp học lưu động. Trong suốt mấy tháng, không có nhà báo nào tìm ra lớp của chúng tôi, còn các bạn tôi vẫn theo học đông đủ các giờ giảng, không thiếu một ai. Với sinh viên, Georges không bao giờ giấu giếm quá khứ của ông, và ông cũng không hề, gián tiếp hay trực tiếp, yêu cầu sinh viên phải ủng hộ mình. Ông tôn trọng tự do ý kiến của sinh viên cũng như chúng tôi tôn trọng tự do ý kiến của ông.
    Là con người yêu nghề, trung thực và độ lượng, Georges Boudarel làm trọn công việc của một nhà giáo, và thực sự đã làm hơn thế rất nhiều.
    Lyon, 24 janvier 2004
    Agathe Larcher
  6. Red_army_vn

    Red_army_vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/10/2004
    Bài viết:
    202
    Đã được thích:
    0
    To bác do_long_khach , em đoán bài bác đã đọc là bài nào rồi . Lát nữa em post lên sau khi đã lược bớt một số đoạn . Thực ra thì bài viết này cũng chỉ là góc nhìn cá nhân của tác giả thôi nên không thể trách nó quá ...(ngược với màu hồng là màu gì nhỉ ? ) được .
    Em thì thấy nó nói chung là khách quan và thực sự là quá hay nên không thể không đưa lên được .
    Hì , còn em thì chắc cũng Hồng không kém ai ở đây đâu , nhìn nick là thấy , hehehe .
  7. Red_army_vn

    Red_army_vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/10/2004
    Bài viết:
    202
    Đã được thích:
    0
    To bác do_long_khach , em đoán bài bác đã đọc là bài nào rồi . Lát nữa em post lên sau khi đã lược bớt một số đoạn . Thực ra thì bài viết này cũng chỉ là góc nhìn cá nhân của tác giả thôi nên không thể trách nó quá ...(ngược với màu hồng là màu gì nhỉ ? ) được .
    Em thì thấy nó nói chung là khách quan và thực sự là quá hay nên không thể không đưa lên được .
    Hì , còn em thì chắc cũng Hồng không kém ai ở đây đâu , nhìn nick là thấy , hehehe .
  8. Red_army_vn

    Red_army_vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/10/2004
    Bài viết:
    202
    Đã được thích:
    0
    Cảm ơn bác panzerlehr với mấy bài báo . Khi tập hợp thông tin về chủ đề này , không ngờ có nhiều bài viết lại có quan hệ khá gần gũi với nhau . Em cũng tìm thấy một bài viết về GS Georges Boudarel trên báo Quân đội nhân dân .
    Ăn tết với ông ?oĐại tá Tây *********? ​
    Đại đức THÍCH ĐỨC THIỆN
    Trong kháng chiến lần thứ nhất, Quân đội nhân dân Việt Nam đã có rất nhiều cán bộ, chiến sĩ người nước ngoài sát cánh cùng đồng bào ta đánh đuổi thực dân Pháp. Họ thuộc đủ các quốc tịch: Á (như Nhật, Trung Quốc), Âu (Áo, Ba Lan, Bỉ, Đức, Hy Lạp, Hung-ga-ri, Pháp, Tây Ban Nha, I-ta-li-a...), Phi (An-giê-ri, Ma-rốc, Xê-nê-gan...). Dân mình thường gọi họ là ?oNgười Việt Nam mới? hoặc vui vẻ hơn, ?oTây *********?. Năm 1993, tôi sang Pháp tu nghiệp tại Học viện Phật giáo Mê-rắc cách thủ đô Pa-ri chừng 700km về phía tây nam. Trước ngày tôi lên đường, ông tổng biên tập (nay đã nghỉ hưu) của báo X mà tôi là cộng tác viên, nhờ tôi hỏi thăm địa chỉ một đồng chí ?oĐại tá Tây *********? chiến hữu của ông trong đội biệt động công an Hà Nội ?othời oanh liệt? xưa. Theo nguyên tắc tình báo, ông không được biết tên thật của bạn. Tôi đoán ông này chính là Giáo sư Bu-đa-ren người Pháp, tên Việt Nam là Đại Đồng mà tôi quen từ một hội thảo về dịch thuật Việt-Pháp tổ chức năm 1980 tại Nhà xuất bản Ngoại văn (nay là NXB Thế giới) ở Hà Nội. Khác với phần đông các đồng chí ?oViệt Nam mới? đã từ bỏ quân đội thực dân để về với chính nghĩa, Bu-đa-ren trực tiếp gia nhập bộ đội ta chứ không phải là ?ohàng binh? như có báo đã thông tin sai. Bố mẹ ông đều là đảng viên cộng sản Pháp, bản thân ông đã cùng cả nhà tham gia du kích chống phát xít Hít-le, nên họ đều nhiệt liệt ủng hộ Cách mạng Tháng Tám của nhân dân ta. Năm 1946, vừa tròn 20 tuổi (ông sinh năm 1926), ông sang dạy học ở Sài Gòn. Ông mau chóng bắt liên lạc với lực lượng kháng chiến và được ta đưa ra vùng tự do. Ngay sau đó, ông ?ovạn lý trường chinh? ra Bắc nhận công tác địch vận do Bộ Tổng tư lệnh giao phó. ?oĐại Đồng? là tên ***** đặt cho. Nhưng anh em đồng đội vẫn gọi ông là ?oBu-đa? (nói tắt ?oBu-đa-ren?) đồng âm với Buddha, danh từ tiếng Phạn cổ Ấn Độ nghĩa là ?oPhật? (tiếng Việt phiên âm là Bụt). Thật đúng với tính nết ông: hiền như Phật. Ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1948 và tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ 1954. Sau hòa bình, ông chuyển ngành về NXB Ngoại văn. Ông lấy vợ Việt Nam tên là Nga, người Hà Nội. Ông dịch sang tiếng Pháp nhiều tác phẩm văn học Việt Nam như Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, v.v.. Khi đế quốc Mỹ gây ?oSự kiện Vịnh Bắc bộ?, Nhà nước ta thu xếp cho ông và vợ con hồi hương về Pháp. Gia đình ông cư trú tại một thị xã nhỏ ngoại ô Pa-ri. Bởi trình độ uyên bác, am hiểu ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, ông được mời giảng dạy ở một trường đại học danh tiếng của thủ đô. Ông viết nhiều sách về cách mạng Việt Nam và Hồ Chí Minh mà ông ví như ?oLê-nin mặc áo Khổng Tử?. Năm 1980, nhà trường cử ông đi công cán ở Việt Nam như trên đã nói. Trở về Pa-ri, ông bị một ?otai họa chính trị khủng khiếp? (nhận định của báo chí Pháp), tôi không nhớ đích xác năm nào. Để bôi nhọ cánh tả (gồm Đảng Cộng sản và Đảng Xã hội) hòng tranh giành cử tri bầu Quốc hội, phe cực hữu ********* giật dây tên Bơ-cơ-le, nguyên trung úy quân xâm lược đã bị giam trong trại tù binh do Bu-đa-ren quản giáo, tố giác ông tra tấn tù binh, có cả y. Ông phải ra tòa với tội danh ?ovi phạm quyền con người?. Nhờ bạn bè, đồng chí và quần chúng có lương tri tận tình cứu giúp, ông được trắng án.
    Đầu năm 1994, thiền viện Mê-rắc tổ chức một khóa Phật học ngắn hạn ở Pa-ri, tôi được Hòa thượng Viện trưởng cho đi dự thính, nhân thể tham quan thủ đô. Ngày nghỉ cuối tuần, tôi tra danh bạ điện thoại, bắt chuyện được với Bu-đa-ren. Nhận ra giọng bạn cũ, ông mừng rỡ nói:
    - Bạch thầy, tôi không dám mời thầy đến nhà vì trần nhà tôi sắp sập, thợ đang chữa, tôi sợ ngói rơi trúng đầu thầy. Vậy xin được gặp thầy giờ G, ngày N ở tiệm Bánh cuốn Thanh Trì, phố P, quận Q.
    Đúng hẹn, tôi vừa đến nơi thì gặp Bu-đa-ren chống gậy lững thững đi bộ tới. Tay bắt mặt mừng, tôi hỏi:
    - Ô tô của ông đâu mà phải cuốc bộ? (dân Pháp xài ô tô như ta đi xe đạp).
    - Bạch thầy, tôi đã bán xe để sửa nhà và bồi dưỡng các bạn luật sư bào chữa cho tôi trong ?oVụ án Bơ-cơ-le?. Họ bảo không lấy tiền nhưng tôi không muốn họ ?oăn cơm nhà vác ngà voi? (ông nói tiếng Việt như thế). Song vẫn dư tiền mời thầy mừng Xuân Giáp Tuất, tuy vừa mới hết Tết.
    Bu-đa-ren thết tôi bánh cuốn nhân chay. Được biết ông thường xuyên đến tiệm Bánh cuốn Thanh Trì này để đỡ nhớ Việt Nam, quê hương thứ hai của ông. Bà chủ, dân Thanh Trì ?othứ thiệt 100%?, là người Việt Nam duy nhất ở đây. Ông chồng người Pháp kiêm bếp trưởng. Hầu hết nhân công là dân bản xứ, thêm mấy anh thanh niên da đen người châu Phi nhập cư.
    Tôi chuyển lời tổng biên tập báo X hỏi thăm Bu-đa-ren. Ông nói:
    - Rất cảm ơn ông ấy. Có lẽ ông ta lầm tôi với đại tá Boóc-se người Đức cùng ở Cục Địch vận với tôi, được ***** đặt tên Việt Nam là Chiến sĩ. Boóc-se hoạt động bí mật trong hàng quân ?olê-dương?. Sau ông ra chiến khu. Rất giỏi ngoại ngữ, ông đã biên soạn truyền đơn địch vận bằng nhiều thứ tiếng như Đức, Pháp, Tây Ban Nha, I-ta-li-a... Tôi chưa bao giờ được vinh dự ******** báo nên chẳng dám nhận vơ.
    - Ông Chiến Sĩ bây giờ ở đâu?
    - Đang vui thú điền viên ở Béc-lin. Tôi chưa thể hưởng thái bình như ông ấy. Với riêng tôi, chiến tranh Đông Dương vẫn chưa kết thúc vì tôi còn phải chiến đấu quyết liệt ?ochống chống Cộng?.
    Trước lúc chia tay, Bu-đa-ren tặng tôi bản photocopy một bài báo nhan đề Bị vùi dập, bị làm nhục nhưng vẫn chiến thắng! (nguyên văn tiếng Pháp: Démoli, humilié mais vainqueur!). Nhà báo ca ngợi Bu-đa-ren đã ?odũng cảm giải nguy cho danh dự của những người cộng sản?.
    Kể từ ngày ấy vừa vặn 10 năm trôi qua. Tôi không rõ hiện thời Bu-đa-ren ra sao? Tết này kém một tuổi đầy 80 xuân xanh, ông vẫn mạnh khỏe hay đã về cõi Cực Lạc? Nay tôi già yếu lại hay quên, chuyện vừa kể có thể còn nhiều thiếu sót, mong quí vị lão thành đã từng là đồng đội của Bu-đa-ren lượng thứ!
  9. Red_army_vn

    Red_army_vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/10/2004
    Bài viết:
    202
    Đã được thích:
    0
    Cảm ơn bác panzerlehr với mấy bài báo . Khi tập hợp thông tin về chủ đề này , không ngờ có nhiều bài viết lại có quan hệ khá gần gũi với nhau . Em cũng tìm thấy một bài viết về GS Georges Boudarel trên báo Quân đội nhân dân .
    Ăn tết với ông ?oĐại tá Tây *********? ​
    Đại đức THÍCH ĐỨC THIỆN
    Trong kháng chiến lần thứ nhất, Quân đội nhân dân Việt Nam đã có rất nhiều cán bộ, chiến sĩ người nước ngoài sát cánh cùng đồng bào ta đánh đuổi thực dân Pháp. Họ thuộc đủ các quốc tịch: Á (như Nhật, Trung Quốc), Âu (Áo, Ba Lan, Bỉ, Đức, Hy Lạp, Hung-ga-ri, Pháp, Tây Ban Nha, I-ta-li-a...), Phi (An-giê-ri, Ma-rốc, Xê-nê-gan...). Dân mình thường gọi họ là ?oNgười Việt Nam mới? hoặc vui vẻ hơn, ?oTây *********?. Năm 1993, tôi sang Pháp tu nghiệp tại Học viện Phật giáo Mê-rắc cách thủ đô Pa-ri chừng 700km về phía tây nam. Trước ngày tôi lên đường, ông tổng biên tập (nay đã nghỉ hưu) của báo X mà tôi là cộng tác viên, nhờ tôi hỏi thăm địa chỉ một đồng chí ?oĐại tá Tây *********? chiến hữu của ông trong đội biệt động công an Hà Nội ?othời oanh liệt? xưa. Theo nguyên tắc tình báo, ông không được biết tên thật của bạn. Tôi đoán ông này chính là Giáo sư Bu-đa-ren người Pháp, tên Việt Nam là Đại Đồng mà tôi quen từ một hội thảo về dịch thuật Việt-Pháp tổ chức năm 1980 tại Nhà xuất bản Ngoại văn (nay là NXB Thế giới) ở Hà Nội. Khác với phần đông các đồng chí ?oViệt Nam mới? đã từ bỏ quân đội thực dân để về với chính nghĩa, Bu-đa-ren trực tiếp gia nhập bộ đội ta chứ không phải là ?ohàng binh? như có báo đã thông tin sai. Bố mẹ ông đều là đảng viên cộng sản Pháp, bản thân ông đã cùng cả nhà tham gia du kích chống phát xít Hít-le, nên họ đều nhiệt liệt ủng hộ Cách mạng Tháng Tám của nhân dân ta. Năm 1946, vừa tròn 20 tuổi (ông sinh năm 1926), ông sang dạy học ở Sài Gòn. Ông mau chóng bắt liên lạc với lực lượng kháng chiến và được ta đưa ra vùng tự do. Ngay sau đó, ông ?ovạn lý trường chinh? ra Bắc nhận công tác địch vận do Bộ Tổng tư lệnh giao phó. ?oĐại Đồng? là tên ***** đặt cho. Nhưng anh em đồng đội vẫn gọi ông là ?oBu-đa? (nói tắt ?oBu-đa-ren?) đồng âm với Buddha, danh từ tiếng Phạn cổ Ấn Độ nghĩa là ?oPhật? (tiếng Việt phiên âm là Bụt). Thật đúng với tính nết ông: hiền như Phật. Ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1948 và tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ 1954. Sau hòa bình, ông chuyển ngành về NXB Ngoại văn. Ông lấy vợ Việt Nam tên là Nga, người Hà Nội. Ông dịch sang tiếng Pháp nhiều tác phẩm văn học Việt Nam như Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, v.v.. Khi đế quốc Mỹ gây ?oSự kiện Vịnh Bắc bộ?, Nhà nước ta thu xếp cho ông và vợ con hồi hương về Pháp. Gia đình ông cư trú tại một thị xã nhỏ ngoại ô Pa-ri. Bởi trình độ uyên bác, am hiểu ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, ông được mời giảng dạy ở một trường đại học danh tiếng của thủ đô. Ông viết nhiều sách về cách mạng Việt Nam và Hồ Chí Minh mà ông ví như ?oLê-nin mặc áo Khổng Tử?. Năm 1980, nhà trường cử ông đi công cán ở Việt Nam như trên đã nói. Trở về Pa-ri, ông bị một ?otai họa chính trị khủng khiếp? (nhận định của báo chí Pháp), tôi không nhớ đích xác năm nào. Để bôi nhọ cánh tả (gồm Đảng Cộng sản và Đảng Xã hội) hòng tranh giành cử tri bầu Quốc hội, phe cực hữu ********* giật dây tên Bơ-cơ-le, nguyên trung úy quân xâm lược đã bị giam trong trại tù binh do Bu-đa-ren quản giáo, tố giác ông tra tấn tù binh, có cả y. Ông phải ra tòa với tội danh ?ovi phạm quyền con người?. Nhờ bạn bè, đồng chí và quần chúng có lương tri tận tình cứu giúp, ông được trắng án.
    Đầu năm 1994, thiền viện Mê-rắc tổ chức một khóa Phật học ngắn hạn ở Pa-ri, tôi được Hòa thượng Viện trưởng cho đi dự thính, nhân thể tham quan thủ đô. Ngày nghỉ cuối tuần, tôi tra danh bạ điện thoại, bắt chuyện được với Bu-đa-ren. Nhận ra giọng bạn cũ, ông mừng rỡ nói:
    - Bạch thầy, tôi không dám mời thầy đến nhà vì trần nhà tôi sắp sập, thợ đang chữa, tôi sợ ngói rơi trúng đầu thầy. Vậy xin được gặp thầy giờ G, ngày N ở tiệm Bánh cuốn Thanh Trì, phố P, quận Q.
    Đúng hẹn, tôi vừa đến nơi thì gặp Bu-đa-ren chống gậy lững thững đi bộ tới. Tay bắt mặt mừng, tôi hỏi:
    - Ô tô của ông đâu mà phải cuốc bộ? (dân Pháp xài ô tô như ta đi xe đạp).
    - Bạch thầy, tôi đã bán xe để sửa nhà và bồi dưỡng các bạn luật sư bào chữa cho tôi trong ?oVụ án Bơ-cơ-le?. Họ bảo không lấy tiền nhưng tôi không muốn họ ?oăn cơm nhà vác ngà voi? (ông nói tiếng Việt như thế). Song vẫn dư tiền mời thầy mừng Xuân Giáp Tuất, tuy vừa mới hết Tết.
    Bu-đa-ren thết tôi bánh cuốn nhân chay. Được biết ông thường xuyên đến tiệm Bánh cuốn Thanh Trì này để đỡ nhớ Việt Nam, quê hương thứ hai của ông. Bà chủ, dân Thanh Trì ?othứ thiệt 100%?, là người Việt Nam duy nhất ở đây. Ông chồng người Pháp kiêm bếp trưởng. Hầu hết nhân công là dân bản xứ, thêm mấy anh thanh niên da đen người châu Phi nhập cư.
    Tôi chuyển lời tổng biên tập báo X hỏi thăm Bu-đa-ren. Ông nói:
    - Rất cảm ơn ông ấy. Có lẽ ông ta lầm tôi với đại tá Boóc-se người Đức cùng ở Cục Địch vận với tôi, được ***** đặt tên Việt Nam là Chiến sĩ. Boóc-se hoạt động bí mật trong hàng quân ?olê-dương?. Sau ông ra chiến khu. Rất giỏi ngoại ngữ, ông đã biên soạn truyền đơn địch vận bằng nhiều thứ tiếng như Đức, Pháp, Tây Ban Nha, I-ta-li-a... Tôi chưa bao giờ được vinh dự ******** báo nên chẳng dám nhận vơ.
    - Ông Chiến Sĩ bây giờ ở đâu?
    - Đang vui thú điền viên ở Béc-lin. Tôi chưa thể hưởng thái bình như ông ấy. Với riêng tôi, chiến tranh Đông Dương vẫn chưa kết thúc vì tôi còn phải chiến đấu quyết liệt ?ochống chống Cộng?.
    Trước lúc chia tay, Bu-đa-ren tặng tôi bản photocopy một bài báo nhan đề Bị vùi dập, bị làm nhục nhưng vẫn chiến thắng! (nguyên văn tiếng Pháp: Démoli, humilié mais vainqueur!). Nhà báo ca ngợi Bu-đa-ren đã ?odũng cảm giải nguy cho danh dự của những người cộng sản?.
    Kể từ ngày ấy vừa vặn 10 năm trôi qua. Tôi không rõ hiện thời Bu-đa-ren ra sao? Tết này kém một tuổi đầy 80 xuân xanh, ông vẫn mạnh khỏe hay đã về cõi Cực Lạc? Nay tôi già yếu lại hay quên, chuyện vừa kể có thể còn nhiều thiếu sót, mong quí vị lão thành đã từng là đồng đội của Bu-đa-ren lượng thứ!
  10. Red_army_vn

    Red_army_vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/10/2004
    Bài viết:
    202
    Đã được thích:
    0
    Ở bài báo trên Hà Nội Mới mà em đã đưa lên phía trên , chúng ta đã biết tới tên những người Đức tiêu biểu nhất đứng trong hàng ngũ ********* là :
    Ernst Frey Nguyễn Dân
    Rudy Schroder Lê Đức Nhân
    Erwin Borchers Chiến Sĩ
    Walter Ullrich Hồ Chí Long
    Georges Wachter Hồ Chí Thọ
    Dưới đây là bài tham luận của Heinz Schütte về những con người ấy . Trong bài viết này em thấy nó có rất nhiều thông tin rất giá trị . Tuy vậy , đó cũng là cái nhìn riêng của tác giả đứng ở góc độ của mình .
    Bác do_long_khach đã ?~lo xa?T nên trước khi post lên đây tôi đã tự lược đi cũng như sửa một số đoạn nhưng không nhiều . Vì vậy đôi chỗ xuất hiện ký hiệu : (?) . Bài dài nên em chia thành nhiều phần để các bác tiện theo dõi .
    Những tiến sĩ Đứctrong *********[1]​

    Heinz Schütte

    Để tưởng nhớ Georges Boudarel,[2]
    từ trần ngày 26-12-2003

    I ?" Những trang sử chung
    Nói tới những trí thức thuộc những nước sử dụng tiếng Đức đã đi theo *********, là đụng tới lịch sử Việt Nam giai đoạn 1941-1966, và đụng tới cả lịch sử Pháp, Áo và Đức từ năm 1933 đến nay. Đó là những trang sử chung của chúng ta, nên đó cũng là đề tài chúng ta gặp nhau. Cuộc hội thảo này có mục đích soi rọi một chương đoạn còn ít được biết. Về phần tôi, chỉ có thể làm công việc truy tìm những tư liệu và từ đó, dựng lại những sự kiện. Nhưng chứng từ của những người đã quen biết họ, làm việc với họ cũng rất quý báu và đáng hoan nghênh.
    Tôi đã may mắn tìm ra những tư liệu, đôi khi cả những phông tư liệu trong thư khố của Cộng hoà Dân chủ Đức cũ (CHDCĐ), của Pháp, dưới hầm một ngôi nhà nông thôn không xa thành phố Frankfurt trên sông Main, hay trong một căn phòng chứa vật dụng phế thải ở Paris, hoặc nhờ một bà cụ già ở Vienna. Phải nói là trong các cuộc kiếm tìm năm 2003, đôi khi tôi có cảm giác mình đang làm sống lại những con người đã bị người ta bỏ quên, bỏ quên vì chuyện của họ ?ocó vấn đề?. Trên mỗi trang tư liệu, trong mỗi cuộc hỏi chuyện, tôi khám phá ra một nét mới trong cuộc đời của họ. Chúng ta hãy cùng nhau bù đắp sự quên lãng ấy, dù rằng đối với những ai đã quen biết và thương mến họ, điều này không phải lúc nào cũng dễ dàng suôn sẻ.
    II ?" Vấn đề của các ?ohàng binh? :
    (-Thực ra , phần này tác giả muốn nói tới những khó khăn của những người lính Lê dương người Đức chiến đấu cùng ********* ( với nhiều lý do khác nhau ) khi về nước- )
    Những năm 1949-1950 , trong những vùng ********* kiểm soát, xì xào tin đồn là đã xảy ra (và rất có thể đã có xảy ra) một cuộc nổi loạn của lính Âu châu đào ngũ. Đó là những người đã nghe theo tiếng gọi của Erwin Borscher, tức Chiến Sỹ, tổng biên tập những tờ báo tuyên truyền địch vận.
    Ngày 6.8.1950, cũng ở Việt Bắc, một người Đức khác, Rudy Schröder (mà người Việt Nam quen biết dưới cái tên Lê Đức Nhân), được ông bạn Trần Văn Giàu cho biết ?omột tỉ số đáng kể? hàng binh Âu-Phi ?osắp được đưa về nước?.
    Họ là ai ? Thực ra, phải phân biệt hai loại. Thứ nhất là những người sinh ra khoảng năm 1910, sau tháng giêng 1933, đã phải bỏ nước Đức hay nước Áo sang Pháp tị nạn phát xít, đến tháng 9 năm 1939, khi chiến tranh thế giới bùng nổ, Pháp đưa họ vào những trại tập trung, sau đó họ đăng kí vào các đơn vị Lê Dương. Họ được đưa sang Đông Dương và cuối cùng, họ đã gia nhập kháng chiến chống thực dân. Số người này không đông, khoảng một chục, nhưng họ là những người có lí tưởng chính trị, có văn hóa và có học. Những người lính Lê Dương ?ongoài khuôn mẫu?.
    Loại thứ nhì, cũng là đa số, năm 1945 ở lứa tuổi 17-25, là những thanh niên mất phương hướng sau khi chế độ Đức quốc xã sụp đổ. Vô học, vô gia cư nghề nghiệp, tứ cố vô thân, họ tìm thấy ở đội quân Lê Dương cơ hội giải thoát khỏi cảnh ngộ khốn cùng, một nơi chốn nương tựa. Họ đào ngũ, chạy sang theo ********* vì nhiều lí do khác nhau, trong đó chính trị là lí do ít quan trọng hơn cả. Từ 1946 đến 1954, tổng cộng có 1325 lính Lê Dương đã bỏ ngũ theo *********, trong đó 673 người bỏ ngũ trong thời gian 1946-48. [9]
    Như đã nói trên, chính phủ Việt Nam đã cho binh lính Đức trở về CHDCĐ. Trong số này, có cả tù binh lẫn ?ohàng binh?.[10] Từ tháng ba 1951 đến cuối năm 1955, tổng cộng có 761 người, đi làm 7 đợt, từ Việt Bắc, qua Bắc Kinh và Moskva, về đến Berlin. Mặt khác, Erich Frey, bí danh Nguyễn Dân, và Georges Walter, bí danh Hồ Chí Thọ, về tới Áo vào tháng năm 1951; cũng năm đó, Rudy Schröder và Walter Ullrich tức Hồ Chí Long về tới Berlin vào tháng 11. Riêng Erwin Borchers còn ở lại Hà Nội đến năm 1965. Dưới đây chủ yếu tôi sẽ nói về Schröder, Frey, và Borchers là ba người đã sống với ********* từ 1945 đến đầu thập niên 1950, để tìm hiểu những động cơ nào đã dẫn họ tới quyết định tham gia kháng chiến Việt Nam, cảnh ngộ của họ lúc ở Việt Nam cũng như khi trở về châu Âu giữa thời kì chiến tranh lạnh.

    III ?" Bối cảnh lịch sử
    Peter Scholl-Latour, nhà báo Đức từng tham gia binh chủng nhảy dù của quân đội thực dân Pháp, đã kể lại chuyến đi của ông sang Đông Dương cuối năm 1945, trên một con tầu chở quân mà Pháp mượn được của Anh. Tàu đến Hồng Hải thì ?ogặp từng đoàn tàu đi ngược chiều, trở về châu Âu, cờ chiến thắng phất phới bay trên cột buồm. Đứng chen chúc trên boong là những cựu chiến binh người Anh từ mặt trận Miến Điện trở về quê hương trong cảnh thanh bình...?. Những binh sĩ Anh hạnh phúc ấy chế nhạo toán chiến binh thuộc địa chậm chân, hét to : ?oCác cậu đi nhầm chiều rồi?[11]... Đất nước (Pháp, và cả Hà Lan nữa) vừa được giải phóng khỏi sự chiếm đóng của Đức, mà họ lại dấn thân vào con đường ngược chiều lịch sử. Sau khi bị sỉ nhục trong cuộc thế chiến, họ muốn giành lại vinh quang quá vãng ở các nước thuộc địa. Phái hữu cũng như phái tả, kể cả Đảng Cộng Sản lúc đó là đảng lớn nhất ở Pháp, đều nhất trí như vậy. Ý đồ ấy, xét trên bình diện lịch sử, là một hoài vọng, xét trên bình diện đạo lí, là phi nghĩa, nhưng đối với tướng De Gaulle, cần phải làm vậy để tạo dựng nên một huyền thoại quốc gia mới nhằm khắc phục sự chia rẽ trong quá khứ còn gần kề, để xây dựng một khối đoàn kết quốc gia mới, khả dĩ gột rửa quá khứ trong kí ức tập thể dân tộc.
    Tháng sáu 1940, nước Pháp đầu hàng Đức. Chính quyền Pháp ở Đông Dương lâm vào thế cô lập, không thể nào chống lại sự bành trướng của Nhật Bản, và từ giữa năm 1941, họ đã hợp tác với Nhật Bản. Hồ Chí Minh và những người lãnh đạo Đảng cộng sản Đông Dương, lúc đó ở Hoa Nam, theo dõi tình hình trong nước và chờ đợi thời cơ Nhật Bản thất bại để Việt Nam có thể được giải phóng khỏi sự chiếm đóng của ngoại xâm. Tháng năm 1941, họ thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh, tức là *********, một mặt trận dân tộc cứu quốc, tập hợp mọi thành phần giai cấp, dưới sự lãnh đạo của những người cộng sản.
    Năm 1940, ?ohàng ngàn người, chiến sĩ cộng hoà Tây Ban Nha vừa thất bại sau cuộc nội chiến, Do Thái Đức tị nạn chế độ Hitler, Ba Lan thất trận sau cuộc Blitzkrieg? đã gia nhập đội quân Lê Dương.[12] Đối với họ, Lê Dương vừa là nơi ẩn náu, vừa là cơ hội tiếp tục cuộc chiến đấu chống chủ nghĩa phát xít Đức-Nhật. Cũng như quân đội Pháp trong thời kì ấy, các đơn vị Lê Dương chia ra hai phe: một bộ phận nhỏ đứng về phía Kháng chiến, còn đa số quy thuận chế độ Vichy.
    Trên mặt tiền ngôi nhà chung cư của tôi ở Quận 10 Paris, có gắn hai tấm cẩm thạch mang tên hai thanh niên kháng chiến đã ngã xuống đây hồi tháng 8 năm 1944. Sau ngày giải phóng Paris, nhiều du kích thuộc FFI (Lực lượng kháng chiến quốc nội) đã hợp thành những trung đoàn để chiến đấu bên cạnh FFL (Lực lượng nước Pháp tự do, dưới quyền lãnh đạo của tướng De Gaulle). Một phần các lực lượng khởi nghĩa này ngả về phe tả, nếu không nói là cộng sản, hăng hái và quyết tâm cải tạo thế giới, không chấp nhận lập lại Nhà nước tư sản. Sau ngày Đức đầu hàng (8 tháng năm 1945), nhiều thanh niên đã đăng kí vào Đạo quân viễn chinh Pháp tại Viễn Đông (CEFEO), tưởng rằng để giải phóng châu Á khỏi ách phát xít Nhật.
    Nhật Bản đầu hàng ngày 15 tháng tám 1945. Ngày 2 tháng chín 1945, Hồ Chí Minh tuyên bố độc lập và thành lập một chính phủ đoàn kết dân tộc (dưới sự lãnh đạo của *********). Binh sĩ trẻ trong CEFEO, nhất là những thanh niên đã tham gia kháng chiến, bèn được giải thích rằng các phần tử bản xứ cuồng tín chống Pháp, tức là bọn *********, được quân Nhật bại trận tiếp sức, muốn chiếm đoạt Đông Dương, cho nên phải quét sạch những băng đảng này ở thuộc địa, cũng như trước đây đã phải giải phóng nước Pháp khỏi ách thống trị của bạo quân quốc xã : ?oỞ đây, lại xảy ra cái cảnh tượng mà các bạn đã trải nghiệm. Trước mặt các bạn là một bọn chó má, phải tận diệt chúng như các bạn đã tận diệt bọn Đức?[13].
    Chú thích :
    [1] Bài này đã được trình bày tại cuộc hội thảo về những hàng binh người Đức đi theo ********* (thập niên 1940-50) tổ chức tại Viện Goethe (Hà Nội) trong hai ngày 8 và 9 tháng giêng 2004.
    [2] Kính tặng hương hồn Georges Boudarel (GB). Cuộc đời của GB in sâu dấu ấn của Việt Nam kể từ năm 1949 khi ông 24 tuổi. Trong những năm qua, ông đã khuyến khích tôi tiếp tục nghiên cứu lịch sử Việt Nam trong tinh thần mà ông vẫn theo đuổi : đoàn kết phê phán. Militant và học giả, GB là một trong những người Pháp đầu tiên đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Mấy bài báo của tờ QĐND đã đăng phía trên chính là viết về ông .
    [3] Điện của E. Honecker gửi Nguyễn Văn Hương (?), đại diện Việt Nam ở Praha, 20 tháng hai 1950. Thư khố quốc gia Bundesarchiv (BA) : DY 24/3691
    [4] Leo Zuckermann gửi Wilhelm Pieck, Berlin 9 tháng sáu 1950. BA : NY 4182/1269
    [5] W. Ulbricht gửi Hermann Axen, 29 tháng ba 1951. BA : NY 4182/1269
    [6] Bộ trưởng Mielke gửi Tổng thanh tra Gutsche. Berlin, 5 tháng tư 1951. Bundesbeauftragter für die Unterlagen des Staatssicherheitsdienstes der ehemaligen Deutschen Demokratischen Republik (Thư khố của Bộ công an cũ Stasi) (B St U) : MfS-BdL/Dok. Nr. 003670
    [7] Verwaltung Gross-Berlin, Abtlg. II, gez. Herbst, tháng hai 1957, Arbeitsrichtlinie. B St U : MfS AS 1310/67, trang 000015
    [8] Nhật kí của R. Schröder 6 juillet, 6 tháng tám và 23 tháng chạp 1950. Fonds Maria Schröder (FMS)
    [9] Eckart Michels, Deutsche in der Fremdenlegion. Mythen und Realitäten. Paderborn 1999, tr. 160
    [10] BA: NY 4090/488
    [11] Peter Scholl-Latour, Der Tod im Reisfeld. DreiYig Jahre Krieg in Indochina. München 1988, tr. 29.
    [12] Wilhelm Reschl, Europas letzte Söldner, in : DAMALS, 2/96, tr. 69.
    [13] Jean-Luc Einaudi, Viêt-Nam! La guerre d?TIndochine (1945-1954), Paris 2001, tr. 133.

Chia sẻ trang này