1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những chiến sĩ Quốc tế trong kháng chiến chống Pháp .

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Red_army_vn, 26/03/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Red_army_vn

    Red_army_vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/10/2004
    Bài viết:
    202
    Đã được thích:
    0
    Ở bài báo trên Hà Nội Mới mà em đã đưa lên phía trên , chúng ta đã biết tới tên những người Đức tiêu biểu nhất đứng trong hàng ngũ ********* là :
    Ernst Frey Nguyễn Dân
    Rudy Schroder Lê Đức Nhân
    Erwin Borchers Chiến Sĩ
    Walter Ullrich Hồ Chí Long
    Georges Wachter Hồ Chí Thọ
    Dưới đây là bài tham luận của Heinz Schütte về những con người ấy . Trong bài viết này em thấy nó có rất nhiều thông tin rất giá trị . Tuy vậy , đó cũng là cái nhìn riêng của tác giả đứng ở góc độ của mình .
    Bác do_long_khach đã ?~lo xa?T nên trước khi post lên đây tôi đã tự lược đi cũng như sửa một số đoạn nhưng không nhiều . Vì vậy đôi chỗ xuất hiện ký hiệu : (?) . Bài dài nên em chia thành nhiều phần để các bác tiện theo dõi .
    Những tiến sĩ Đứctrong *********[1]​

    Heinz Schütte

    Để tưởng nhớ Georges Boudarel,[2]
    từ trần ngày 26-12-2003

    I ?" Những trang sử chung
    Nói tới những trí thức thuộc những nước sử dụng tiếng Đức đã đi theo *********, là đụng tới lịch sử Việt Nam giai đoạn 1941-1966, và đụng tới cả lịch sử Pháp, Áo và Đức từ năm 1933 đến nay. Đó là những trang sử chung của chúng ta, nên đó cũng là đề tài chúng ta gặp nhau. Cuộc hội thảo này có mục đích soi rọi một chương đoạn còn ít được biết. Về phần tôi, chỉ có thể làm công việc truy tìm những tư liệu và từ đó, dựng lại những sự kiện. Nhưng chứng từ của những người đã quen biết họ, làm việc với họ cũng rất quý báu và đáng hoan nghênh.
    Tôi đã may mắn tìm ra những tư liệu, đôi khi cả những phông tư liệu trong thư khố của Cộng hoà Dân chủ Đức cũ (CHDCĐ), của Pháp, dưới hầm một ngôi nhà nông thôn không xa thành phố Frankfurt trên sông Main, hay trong một căn phòng chứa vật dụng phế thải ở Paris, hoặc nhờ một bà cụ già ở Vienna. Phải nói là trong các cuộc kiếm tìm năm 2003, đôi khi tôi có cảm giác mình đang làm sống lại những con người đã bị người ta bỏ quên, bỏ quên vì chuyện của họ ?ocó vấn đề?. Trên mỗi trang tư liệu, trong mỗi cuộc hỏi chuyện, tôi khám phá ra một nét mới trong cuộc đời của họ. Chúng ta hãy cùng nhau bù đắp sự quên lãng ấy, dù rằng đối với những ai đã quen biết và thương mến họ, điều này không phải lúc nào cũng dễ dàng suôn sẻ.
    II ?" Vấn đề của các ?ohàng binh? :
    (-Thực ra , phần này tác giả muốn nói tới những khó khăn của những người lính Lê dương người Đức chiến đấu cùng ********* ( với nhiều lý do khác nhau ) khi về nước- )
    Những năm 1949-1950 , trong những vùng ********* kiểm soát, xì xào tin đồn là đã xảy ra (và rất có thể đã có xảy ra) một cuộc nổi loạn của lính Âu châu đào ngũ. Đó là những người đã nghe theo tiếng gọi của Erwin Borscher, tức Chiến Sỹ, tổng biên tập những tờ báo tuyên truyền địch vận.
    Ngày 6.8.1950, cũng ở Việt Bắc, một người Đức khác, Rudy Schröder (mà người Việt Nam quen biết dưới cái tên Lê Đức Nhân), được ông bạn Trần Văn Giàu cho biết ?omột tỉ số đáng kể? hàng binh Âu-Phi ?osắp được đưa về nước?.
    Họ là ai ? Thực ra, phải phân biệt hai loại. Thứ nhất là những người sinh ra khoảng năm 1910, sau tháng giêng 1933, đã phải bỏ nước Đức hay nước Áo sang Pháp tị nạn phát xít, đến tháng 9 năm 1939, khi chiến tranh thế giới bùng nổ, Pháp đưa họ vào những trại tập trung, sau đó họ đăng kí vào các đơn vị Lê Dương. Họ được đưa sang Đông Dương và cuối cùng, họ đã gia nhập kháng chiến chống thực dân. Số người này không đông, khoảng một chục, nhưng họ là những người có lí tưởng chính trị, có văn hóa và có học. Những người lính Lê Dương ?ongoài khuôn mẫu?.
    Loại thứ nhì, cũng là đa số, năm 1945 ở lứa tuổi 17-25, là những thanh niên mất phương hướng sau khi chế độ Đức quốc xã sụp đổ. Vô học, vô gia cư nghề nghiệp, tứ cố vô thân, họ tìm thấy ở đội quân Lê Dương cơ hội giải thoát khỏi cảnh ngộ khốn cùng, một nơi chốn nương tựa. Họ đào ngũ, chạy sang theo ********* vì nhiều lí do khác nhau, trong đó chính trị là lí do ít quan trọng hơn cả. Từ 1946 đến 1954, tổng cộng có 1325 lính Lê Dương đã bỏ ngũ theo *********, trong đó 673 người bỏ ngũ trong thời gian 1946-48. [9]
    Như đã nói trên, chính phủ Việt Nam đã cho binh lính Đức trở về CHDCĐ. Trong số này, có cả tù binh lẫn ?ohàng binh?.[10] Từ tháng ba 1951 đến cuối năm 1955, tổng cộng có 761 người, đi làm 7 đợt, từ Việt Bắc, qua Bắc Kinh và Moskva, về đến Berlin. Mặt khác, Erich Frey, bí danh Nguyễn Dân, và Georges Walter, bí danh Hồ Chí Thọ, về tới Áo vào tháng năm 1951; cũng năm đó, Rudy Schröder và Walter Ullrich tức Hồ Chí Long về tới Berlin vào tháng 11. Riêng Erwin Borchers còn ở lại Hà Nội đến năm 1965. Dưới đây chủ yếu tôi sẽ nói về Schröder, Frey, và Borchers là ba người đã sống với ********* từ 1945 đến đầu thập niên 1950, để tìm hiểu những động cơ nào đã dẫn họ tới quyết định tham gia kháng chiến Việt Nam, cảnh ngộ của họ lúc ở Việt Nam cũng như khi trở về châu Âu giữa thời kì chiến tranh lạnh.

    III ?" Bối cảnh lịch sử
    Peter Scholl-Latour, nhà báo Đức từng tham gia binh chủng nhảy dù của quân đội thực dân Pháp, đã kể lại chuyến đi của ông sang Đông Dương cuối năm 1945, trên một con tầu chở quân mà Pháp mượn được của Anh. Tàu đến Hồng Hải thì ?ogặp từng đoàn tàu đi ngược chiều, trở về châu Âu, cờ chiến thắng phất phới bay trên cột buồm. Đứng chen chúc trên boong là những cựu chiến binh người Anh từ mặt trận Miến Điện trở về quê hương trong cảnh thanh bình...?. Những binh sĩ Anh hạnh phúc ấy chế nhạo toán chiến binh thuộc địa chậm chân, hét to : ?oCác cậu đi nhầm chiều rồi?[11]... Đất nước (Pháp, và cả Hà Lan nữa) vừa được giải phóng khỏi sự chiếm đóng của Đức, mà họ lại dấn thân vào con đường ngược chiều lịch sử. Sau khi bị sỉ nhục trong cuộc thế chiến, họ muốn giành lại vinh quang quá vãng ở các nước thuộc địa. Phái hữu cũng như phái tả, kể cả Đảng Cộng Sản lúc đó là đảng lớn nhất ở Pháp, đều nhất trí như vậy. Ý đồ ấy, xét trên bình diện lịch sử, là một hoài vọng, xét trên bình diện đạo lí, là phi nghĩa, nhưng đối với tướng De Gaulle, cần phải làm vậy để tạo dựng nên một huyền thoại quốc gia mới nhằm khắc phục sự chia rẽ trong quá khứ còn gần kề, để xây dựng một khối đoàn kết quốc gia mới, khả dĩ gột rửa quá khứ trong kí ức tập thể dân tộc.
    Tháng sáu 1940, nước Pháp đầu hàng Đức. Chính quyền Pháp ở Đông Dương lâm vào thế cô lập, không thể nào chống lại sự bành trướng của Nhật Bản, và từ giữa năm 1941, họ đã hợp tác với Nhật Bản. Hồ Chí Minh và những người lãnh đạo Đảng cộng sản Đông Dương, lúc đó ở Hoa Nam, theo dõi tình hình trong nước và chờ đợi thời cơ Nhật Bản thất bại để Việt Nam có thể được giải phóng khỏi sự chiếm đóng của ngoại xâm. Tháng năm 1941, họ thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh, tức là *********, một mặt trận dân tộc cứu quốc, tập hợp mọi thành phần giai cấp, dưới sự lãnh đạo của những người cộng sản.
    Năm 1940, ?ohàng ngàn người, chiến sĩ cộng hoà Tây Ban Nha vừa thất bại sau cuộc nội chiến, Do Thái Đức tị nạn chế độ Hitler, Ba Lan thất trận sau cuộc Blitzkrieg? đã gia nhập đội quân Lê Dương.[12] Đối với họ, Lê Dương vừa là nơi ẩn náu, vừa là cơ hội tiếp tục cuộc chiến đấu chống chủ nghĩa phát xít Đức-Nhật. Cũng như quân đội Pháp trong thời kì ấy, các đơn vị Lê Dương chia ra hai phe: một bộ phận nhỏ đứng về phía Kháng chiến, còn đa số quy thuận chế độ Vichy.
    Trên mặt tiền ngôi nhà chung cư của tôi ở Quận 10 Paris, có gắn hai tấm cẩm thạch mang tên hai thanh niên kháng chiến đã ngã xuống đây hồi tháng 8 năm 1944. Sau ngày giải phóng Paris, nhiều du kích thuộc FFI (Lực lượng kháng chiến quốc nội) đã hợp thành những trung đoàn để chiến đấu bên cạnh FFL (Lực lượng nước Pháp tự do, dưới quyền lãnh đạo của tướng De Gaulle). Một phần các lực lượng khởi nghĩa này ngả về phe tả, nếu không nói là cộng sản, hăng hái và quyết tâm cải tạo thế giới, không chấp nhận lập lại Nhà nước tư sản. Sau ngày Đức đầu hàng (8 tháng năm 1945), nhiều thanh niên đã đăng kí vào Đạo quân viễn chinh Pháp tại Viễn Đông (CEFEO), tưởng rằng để giải phóng châu Á khỏi ách phát xít Nhật.
    Nhật Bản đầu hàng ngày 15 tháng tám 1945. Ngày 2 tháng chín 1945, Hồ Chí Minh tuyên bố độc lập và thành lập một chính phủ đoàn kết dân tộc (dưới sự lãnh đạo của *********). Binh sĩ trẻ trong CEFEO, nhất là những thanh niên đã tham gia kháng chiến, bèn được giải thích rằng các phần tử bản xứ cuồng tín chống Pháp, tức là bọn *********, được quân Nhật bại trận tiếp sức, muốn chiếm đoạt Đông Dương, cho nên phải quét sạch những băng đảng này ở thuộc địa, cũng như trước đây đã phải giải phóng nước Pháp khỏi ách thống trị của bạo quân quốc xã : ?oỞ đây, lại xảy ra cái cảnh tượng mà các bạn đã trải nghiệm. Trước mặt các bạn là một bọn chó má, phải tận diệt chúng như các bạn đã tận diệt bọn Đức?[13].
    Chú thích :
    [1] Bài này đã được trình bày tại cuộc hội thảo về những hàng binh người Đức đi theo ********* (thập niên 1940-50) tổ chức tại Viện Goethe (Hà Nội) trong hai ngày 8 và 9 tháng giêng 2004.
    [2] Kính tặng hương hồn Georges Boudarel (GB). Cuộc đời của GB in sâu dấu ấn của Việt Nam kể từ năm 1949 khi ông 24 tuổi. Trong những năm qua, ông đã khuyến khích tôi tiếp tục nghiên cứu lịch sử Việt Nam trong tinh thần mà ông vẫn theo đuổi : đoàn kết phê phán. Militant và học giả, GB là một trong những người Pháp đầu tiên đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Mấy bài báo của tờ QĐND đã đăng phía trên chính là viết về ông .
    [3] Điện của E. Honecker gửi Nguyễn Văn Hương (?), đại diện Việt Nam ở Praha, 20 tháng hai 1950. Thư khố quốc gia Bundesarchiv (BA) : DY 24/3691
    [4] Leo Zuckermann gửi Wilhelm Pieck, Berlin 9 tháng sáu 1950. BA : NY 4182/1269
    [5] W. Ulbricht gửi Hermann Axen, 29 tháng ba 1951. BA : NY 4182/1269
    [6] Bộ trưởng Mielke gửi Tổng thanh tra Gutsche. Berlin, 5 tháng tư 1951. Bundesbeauftragter für die Unterlagen des Staatssicherheitsdienstes der ehemaligen Deutschen Demokratischen Republik (Thư khố của Bộ công an cũ Stasi) (B St U) : MfS-BdL/Dok. Nr. 003670
    [7] Verwaltung Gross-Berlin, Abtlg. II, gez. Herbst, tháng hai 1957, Arbeitsrichtlinie. B St U : MfS AS 1310/67, trang 000015
    [8] Nhật kí của R. Schröder 6 juillet, 6 tháng tám và 23 tháng chạp 1950. Fonds Maria Schröder (FMS)
    [9] Eckart Michels, Deutsche in der Fremdenlegion. Mythen und Realitäten. Paderborn 1999, tr. 160
    [10] BA: NY 4090/488
    [11] Peter Scholl-Latour, Der Tod im Reisfeld. DreiYig Jahre Krieg in Indochina. München 1988, tr. 29.
    [12] Wilhelm Reschl, Europas letzte Söldner, in : DAMALS, 2/96, tr. 69.
    [13] Jean-Luc Einaudi, Viêt-Nam! La guerre d?TIndochine (1945-1954), Paris 2001, tr. 133.
  2. Red_army_vn

    Red_army_vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/10/2004
    Bài viết:
    202
    Đã được thích:
    0
    IV ?" Những người chống phát-xít tị nạn ở Paris ?" Con đường dẫn họ vào Lê Dương
    Người Đức trong đội quân Lê Dương luôn luôn chiếm một tỉ lệ cao. Họ được coi là những người lính Lê Dương gương mẫu , kỉ luật, dũng cảm, hung hãn và luôn luôn ?osẵn sàng nhận lệnh?.[14] Nhưng điều này không đúng tí nào đối với những thanh niên Đức sang Pháp tị nạn từ sau năm 1933, trong đó chỉ có một số ít gia nhập Lê Dương trong thời gian 1933-39, bởi vì ?onhững người bị chế độ nazi bức hại..., do thành phần xuất thân, trình độ học vấn... và nghề nghiệp của họ, cũng như do chính kiến và thể chất, không mấy tương ứng với mẫu lính lê dương tiêu biểu, thường xuất thân từ những giai cấp bên dưới... ít học..., tứ cố vô thân, đi làm thuê trong nông nghiệp hay công nghiệp, nay đây mai đó?[15].
    Trên cơ sở các đạo luật của nền Đệ tam Cộng hoà Pháp ban hành năm 1938 và 1939, khi chiến tranh bùng nổ, tất cả những người Áo và Đức từ 17 đến 65 tuổi đều bị đưa vào các trại tập trung, bất luận họ theo phát xít hay chống phát xít, du khách, viên chức hay doanh nhân. Đàn ông phải vào trại ngay từ tháng chín 1939, còn đàn bà bị đưa vào Vélodrome d?THiver (Trường đua xe đạp mùa đông ở Paris) vào tháng năm 1940, khi chấm dứt thời kì ?ochiến tranh kì quặc?, rồi sau đó, họ bị đưa vào các trại Milles và Gurs ở miền nam nước Pháp. Trong năm 1939, có 1171 người Đức bị tập trung đã đầu quân vào Lê Dương, và chỉ trong mấy tháng đầu năm 1940, số đầu quân đã lên gấp đôi. Người ta ước tính có khoảng 3000-3500 người Đức trong trại tập trung đã đầu quân trong thời kì 1939-40, và khoảng 5000 tù binh Đức đã gia nhập Lê Dương trong thời gian từ tháng tám 1944 đến cuối năm 1946.[16]
    Trong tự truyện của mình, nhà chính trị học và triết gia Raymond Aron (từ năm 1930 đến 1933 làm trợ lí giảng dạy Pháp văn ở Trường đại học Köln) đã viết như sau : ?oTại Cologne (tên tiếng Pháp của Köln, chú thích của N.D.) tôi được gặp một sinh viên trẻ làm tôi rất cảm mến, đó là Rudy Schröder. Cha anh buôn bán áo mưa và ô dù. Trong thời gian ở Đức, tôi đã chơi rất thân với Rudy. Anh ta tởm lợm chủ nghĩa quốc xã. Hai năm sau, anh chạy sang Paris và sống vất vưởng cho đến ngày khai chiến. Lúc đó, anh đầu quân vào Lê Dương, rồi khi chiến tranh chấm dứt, tôi được tin... ở Đông Dương anh đã chạy sang hàng ngũ của Hồ Chí Minh. Một hôm, trên tờ Le Figaro, tôi đọc thấy một bài báo... nhan đề Tên đại tá SS Rudy Schröder? Tôi có tìm cách viết thư liên lạc nhưng có lẽ anh không hề nhận được. Năm 1946, ông bà thân sinh hỏi tôi có tin tức gì không; khoảng 1960, nghe người Đức nói anh làm giáo sư Trường đại học Leipzig. Nếu anh vẫn còn sống ở Đông Đức, tôi cũng muốn gặp lại anh. (-lược bỏ-) . Song việc anh đã đào ngũ khỏi Lê Dương và từ bỏ chế độ của Pháp ở Sài Gòn hay Hà Nội không làm tôi ngạc nhiên; vả lại tôi nhân danh cái gì mà trách anh??.[17] Tuy có một vài tiểu tiết sai lệch, mấy dòng vừa trích của một người cựu kháng chiến đã tóm tắt những chương chính trong cuộc đời của Rudy Schröder, chỉ thiếu chương hồi cuối là năm 1959, ông trốn sang Tây Đức. Tiếc thay, hai người bạn thâm giao ấy đã không bao giờ gặp lại nhau.
    Ý nghĩa cuộc đời của Schröder vượt quá phạm vi cá nhân ?" và điều này cũng đúng đối với những người khác mà tôi sẽ đề cập ở đây. Như tôi đã nói ở trên, nó minh hoạ lịch sử đau khổ của nước Đức, nước Pháp và của nước Việt Nam thế kỉ XX. Schröder là người ?ođổi tuyến?. Nếu không vì hoàn cảnh chính trị đẩy đưa thì rất có thể ông đã trở thành giáo sư một trường đại học Đức, có quan hệ chặt chẽ với những đồng nghiệp người Pháp, viết dăm ba cuốn sách về xã hội học, chính trị và văn học, hay lịch sử văn hoá và viết những bài tiểu luận tuyệt vời trên các báo hay tạp chí.
    Schröder sinh năm 1911 tại Köln (Cologne), mang nặng dấu ấn của quá khứ văn minh La Mã của thành phố này ?" tính tình ông bay ****, hưởng lạc, khiếu thẩm mĩ tinh tế, đồng thời say mê tìm hiểu, truy hỏi, khám phá những mâu thuẫn của cuộc sống. Hai mặt đối ngẫu ấy có thể dẫn tới bệnh trầm cảm và bất mãn sâu sắc nếu đương sự không được trọng thị trong xã hội. Trong bản Lý lịch Đảng viên (có lẽ viết vào tháng ba 1950), Schröder khai thành phần xuất thân của mình là Tư sản.[18] Thời gian này, ông dùng bí danh Lê Đức Nhân, cũng có người chỉ biết ông dưới cái tên Đức là Kerkhof(f). Thời sinh viên, ông học xã hội học, tiếng Pháp và văn học Đức, tham gia Phái cộng sản sinh viên (KOSTUFRA).[19] Lúc đó, thầy học của ông là người Do Thái, bị bọn quốc xã cho ?ovề hưu?,[20] Schröder đã ngang nhiên mang bó hoa tới tặng thầy. Tờ báo nazi Der Stürmer đã lớn tiếng thoá mạ, coi ông là kẻ thù của chế độ, là cộng sản và thân Do Thái. Mặc dầu hoàn cảnh lúc đó, đối với chàng thanh niên Schröder, di cư sang Paris không phải là một đại hoạ, mà là cơ hội thực hiện một ước muốn sâu xa nhất. Tại trường Sorbonne, ông đỗ ngay ba, bốn chứng chỉ cử nhân, làm việc bán phần cho Viện xã hội học Frankfurt lưu vong tại Paris với cương vị trợ lí cho nhà tư tưởng lớn Walter Benjamin.[21]
    Trong một lá thư tháng mười một 1939 viết từ New York, Max Horkheimer nói tới ?oHerr Schröder (như là) một nhà bác học trẻ hết sức thông tuệ. Chúng tôi hi vọng sẽ tranh thủ để ông trở thành một đồng nghiệp khoa học xuất sắc?.[22] Về mặt vật chất, cuộc sống rất chật vật. Để có thể sống qua ngày đoạn tháng, Schröder phải đi làm thêm trong một xưởng dệt, có lúc phải vác những tấm thảm đi gõ cửa rao bán từng nhà.
    Một người bạn hồi đó, Fritz Meyer, bị giam cùng trại tập trung với Schröder. Năm 2003 ở Paris, ông Meyer kể lại cho tôi: khi tới sân vận động Colombes (ngoại ô tây bắc Paris, chú thích của ND), họ được người ta nói rõ là họ sẽ ở mãi sau hàng rào kẽm gai cho đến ngày chiến tranh kết thúc, trừ phi là họ đăng kí đầu quân vào đội Lê Dương; ai ?otình nguyện? đầu quân thì gia đình sẽ không bị đưa đi tập trung. Sau này, Schröder viết: ?oChỉ nghĩ tới việc vợ tôi và cháu bé chưa đầy một tuổi thôi nôi phải vào trại an trí là tôi thấy không tài nào chịu nổi rồi?.
    V ?" Từ Paris đến Hà Nội qua Sidi Bel Abbès
    Thật ít có khả năng Schröder và Borchers quen nhau từ Paris... Erwin Borchers sinh năm 1906 tại Strasbourg, người vùng Alsace gốc Đức. Cha ông làm thợ tiện trước khi trở thành quân nhân, là người nước Phổ. Mẹ ông quê vùng Alsace, thuộc một gia đình sống bằng nghề trồng nho. Gia đình Borchers như vậy là một gia đình sống ở vùng giáp ranh giữa hai nước, bị xâu xé giữa hai quốc gia và giữa hai chủ nghĩa quốc gia. Con người ở đây dễ bị lâm vào thảm kịch ?ocái gì của con người cũng bị chính trị hoá?, có nguy cơ ngày mai là anh hùng... (và) ngày kia biến thành tên phản quốc?[23] chỉ vì muốn bám trụ ở một vùng đất bị hai chính quyền đối nghịch tranh giành...
    Trong bản lí lịch viết năm 1966 tại Berlin, Borchers cho biết cha ông hết mực ủng hộ hoàng đế Đức khi lên đường ra trận tham gia Đại chiến thế giới lần thứ nhất, đến khi trở về đã thành người ủng hộ chế độ cộng hoà và chủ nghĩa hoà bình, điều này đã tác động sâu sắc khiến ông trở thành khuynh tả. Năm 1918, khi tỉnh Alsace-Lorrraine trở lại thành lãnh thổ Pháp, gia đình ông di cư sang Đức. Chàng Borchers ?ongay từ thời con trai, đã bị chính trị ám ảnh? (Lilo Ludwig) ?olãng mạn? dài dài (Susanne Borchers) theo học các môn Pháp văn, Đức văn và sử học, nuôi mộng trở thành nhà giáo, và tham gia nhóm xã hội chủ nghĩa. Khi Hitler lên cầm quyền, Borchers là thành viên một nhóm tuyên truyền bí mật, in và rải truyền đơn chống nazi. Bị tố cáo và bị cảnh sát thẩm vấn, Borchers lánh sang Pháp, tiếp tục theo học đại học ở Aix-en-Provence và Paris, năm 1936 tốt nghiệp cử nhân văn học và ngữ văn Đức. Ông già Borchers, một người cha độc đoán, thấy con trai bỏ nước ra đi thì không vừa lòng chút nào, vì đối với ông, đó là một hành động phản bội tổ quốc. Là công dân Đức, Erwin Borchers không được tuyển dụng vào giáo giới Pháp, phải đi làm công ở hiệu sách Biblion, phố Bréa. Xin gia nhập quân đội Pháp để chiến đấu chống Nazi thì bị từ chối, vì mẹ lấy chồng Đức , ?omẹ anh đã phản bội Tổ quốc Pháp?.[24] Erwin Borchers bị đưa vào trại tập trung Colombes ngày 3 tháng chín 1939, tại đây, anh kí giấy đầu quân vào Lê Dương. ?oĐối với tôi, trong thời kì chiến tranh, phục vụ trong hàng ngũ Lê Dương là một điều có thể chấp nhận được về mặt chính trị, vì Lê Dương nằm trong quân đội Pháp, khách quan mà nói, là một lực lượng của khối đại đồng minh chống Hitler mà Liên Xô là thành viên... Lê Dương đang đối đầu với Hitler ở Narvik, ở Monte Cassino và trên nhiều mặt tận khác...?.[25] Đúng là ở thời điểm 1939, đạo quân Lê Dương mang hào quang chống phát-xít.
    Schröder và Borchers được gửi tới Sidi-Bel-Abbès để gia nhập Trung đoàn 5 Bộ binh Ngoại quốc (R.E.I.). Schröder nghe tin vợ con phải di tản từ Paris xuống miền nam nước Pháp, cảm thấy bất lực, không làm gì giúp được gia đình, ông viết : ?ocái mà trước đây được coi là không bao giờ có thể, khi nó đổ lên đầu, từ từ từng chút, rồi ào xuống như thác lũ, thì cuối cùng cái kinh hoàng nhất bỗng trở nên tất yếu, tự nhiên?.[26] Ông còn nói tới ?osự hoàn toàn vô tích sự?, ?osự ngu xuẩn, tàn bạo và thô tục trong cuộc đời? của ?otên lính Lê Dương Schröder, nguyên là phu đào huyệt, nay làm lính dắt la kiêm ?~ông già khố đế?T? để nói rằng chỉ còn sống nhờ những bức thư của vợ con.[27] Đầu năm 1941, uỷ ban đình chiến Đức tới trại Lê Dương, yêu cầu phải dẫn độ toàn bộ lính Lê Dương người Đức. Tuy nhiên, Bộ chỉ huy Lê Dương chỉ chịu nhận dẫn độ những ai tự nguyện xin về Đức sống dưới chế độ Reich thứ III. Tướng Maxime Weygand, tổng đại diện của Pétain ở Bắc Phi, tìm cách bảo vệ những binh lính Lê Dương người Đức; theo đề nghị của ông, Biệt đội Ma, gồm ?okhoảng một trăm phần tử đối lập với chủ nghĩa quốc-xã là những người đặc biệt dễ bị truy bức... cộng thêm mấy đào binh của quân đội Wehrmacht?,[28] được đưa sang Đông Dương trước khi họ bị Uỷ ban đình chiến Đức bắt được. Điều này chứng tỏ, ngay trong nội bộ của những hệ thống tư tưởng, ?ophán đoán từng cá nhân cũng phải uyển chuyển và căn cứ vào hành xử của mỗi người?.[29]
    Ngày mồng 1 tháng tám 1941, trên tàu Cap Pandaran ghé bến Madagascar, Schröder viết cho vợ một lá thư dài, kể rằng ngày 4 tháng bảy, ông cùng khoảng một trăm người đã lên tàu ở cảng Dakar. Ông khoe đã đánh cuộc với ?oB? ?" chắc là Borchers ?" về một động từ bất quy tắc hiếm có trong tiếng Latinh, và ?oanh đã được cuộc?. Đọc Bergson và Hobbes. ?oBọn anh ở chen chúc dưới hầm tàu,... nhưng người An Nam còn ở khổ hơn thế?. Họ cập bến Sài Gòn ngày mồng 3 tháng mười một, rồi mấy ngày sau, đi xe lửa ra bắc, đến Việt Trì, cách Hà Nội 80 km về phía tây-bắc.[30]
    Chẳng mấy lúc, Borchers và Schröder mất hết ảo tưởng về phong cách chính trị - quân sự của đội quân Lê Dương. Toàn quyền Decoux ngày càng áp đặt nhãn quan ?ocách mạng quốc gia? và ?osuy tôn chiến sĩ? theo đúng đường lối của Pétain. Đó không phải là bầu không khí dân chủ và chống phát-xít họ chờ mong, mà giống như bầu không khí mà họ đã trốn tránh. Vấn đề chống Nhật không đặt ra vì Decoux đã kí kết thoả ước chấp nhận sự chiếm đóng của quân đội Nhật Bản, như Pétain đã kí kết với Đức ở bên Pháp. Lí do Decoux nêu ra là để duy trì Đông Dương cho nước Pháp. Borchers và Schröder đã nhận thức ra thực tại của chế độ thực dân và được biết người An Nam đang hoạt động kháng chiến ở vùng Đông Bắc. Tổ chức kháng chiến còn phôi thai của Pháp tại Đông Dương thì chủ trương Đông Dương phải trở về trong lòng đế quốc Pháp, do đó họ từ chối mọi sự hợp tác với ********* và dân chúng trong công cuộc kháng Nhật. Ngày 9 tháng ba 1945, Nhật đảo chính, Pháp thua... ********* kêu gọi cùng nhau kháng chiến chống Nhật, rồi kêu gọi bình đẳng và độc lập, phía Pháp không hiểu ra. Ngay cả đến năm 1946, khi Võ Nguyên Giáp, bộ trưởng nội vụ, đón chào Leclerc, tổng tư lệnh Pháp, bằng câu : ?oLà người kháng chiến Việt Nam, tôi xin chào một người Pháp kháng chiến vĩ đại...?,[31] thì cũng vẫn thế.

    Chú thích :
    [14] Jean-Pierre Hallo, Monsieur Légionnaire. L?Thomme et ses tra***ions. Paris 1994, tr. 29, trích dẫn theo Michels, sđd., tr. 190.
    [15] Michels, sđd., tr. 104
    [16] Michels, sđd., tr. 119 và 164
    [17] Raymond Aron, Mémoires, Paris, Julliard 1983, tr. 72/73
    [18] FMS
    [19] Lebenslauf des Schröder, Reiner, Josef, Rudy. Berlin 9 tháng mười một 1951, in: B St U: Ddn. AIM 808/59, tr.000058-000063
    [20] Leo Spitzer gửi Raymond Aron. Cologne 24 tháng chín 1933, trong : Thư khố riêng của Raymond Aron, hộp 209, với sự cho phép của Dominique Schnapper và Elisabeth Dutartre.
    [21] Klaus Brill gửi Max Horkheimer, New York. Paris 31 tháng ba 1936, trong: Max Horkheimer, Gesammelte Schriften, vol. 15: Briefwechsel 1913-1936. Frankfurt am Main 1995, tr. 504
    [22] Max Horkheimer gửi Raymond Aron, Paris. New York 20 tháng mười một 1936, trong: Horkheimer, sđd., tr. 729
    [23] Reinhold Schneider, Verhüllter Tag, Köln 1962, tr. 164
    [24] Bà mẹ của Erwin Borchers cũng bị ông cụ thân sinh truất quyền thừa kế vì đã lấy một ?otên Phổ bẩn thỉu? (SaupreuYe). Thông báo miệng của Lilo Ludwig, em gái Borchers, Berlin 28 tháng sáu 2003.
    [25] Lebenslauf. Berlin 14 mai 1966, trong : B St U : MfS AP 14061/73, trang 000008
    [26] S. P. 554, 6 tháng bảy 1940; trong: Fonds Philippe Delaunay (FPD)
    [27] R. Schröder gửi Hilde Schröder, 23 tháng chín 1940, Bel-Abbès 16 tháng hai 1941 và Bel-Abbès 27 tháng hai 1941
    [28] Michels, sđd, tr. 136
    [29] Raymond Aron, Lời tựa, trong: André Thérive, Essai sur les Trahisons, Calman-Lévy, Paris 1951, tr. XIV
    [30] Thư Schröder gửi vợ, 1 tháng tám 1941, trong : FPD
    [31] Jean Lacouture, Hô Chi Minh. Seuil, Paris 1967, tr. 115
  3. Red_army_vn

    Red_army_vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/10/2004
    Bài viết:
    202
    Đã được thích:
    0
    IV ?" Những người chống phát-xít tị nạn ở Paris ?" Con đường dẫn họ vào Lê Dương
    Người Đức trong đội quân Lê Dương luôn luôn chiếm một tỉ lệ cao. Họ được coi là những người lính Lê Dương gương mẫu , kỉ luật, dũng cảm, hung hãn và luôn luôn ?osẵn sàng nhận lệnh?.[14] Nhưng điều này không đúng tí nào đối với những thanh niên Đức sang Pháp tị nạn từ sau năm 1933, trong đó chỉ có một số ít gia nhập Lê Dương trong thời gian 1933-39, bởi vì ?onhững người bị chế độ nazi bức hại..., do thành phần xuất thân, trình độ học vấn... và nghề nghiệp của họ, cũng như do chính kiến và thể chất, không mấy tương ứng với mẫu lính lê dương tiêu biểu, thường xuất thân từ những giai cấp bên dưới... ít học..., tứ cố vô thân, đi làm thuê trong nông nghiệp hay công nghiệp, nay đây mai đó?[15].
    Trên cơ sở các đạo luật của nền Đệ tam Cộng hoà Pháp ban hành năm 1938 và 1939, khi chiến tranh bùng nổ, tất cả những người Áo và Đức từ 17 đến 65 tuổi đều bị đưa vào các trại tập trung, bất luận họ theo phát xít hay chống phát xít, du khách, viên chức hay doanh nhân. Đàn ông phải vào trại ngay từ tháng chín 1939, còn đàn bà bị đưa vào Vélodrome d?THiver (Trường đua xe đạp mùa đông ở Paris) vào tháng năm 1940, khi chấm dứt thời kì ?ochiến tranh kì quặc?, rồi sau đó, họ bị đưa vào các trại Milles và Gurs ở miền nam nước Pháp. Trong năm 1939, có 1171 người Đức bị tập trung đã đầu quân vào Lê Dương, và chỉ trong mấy tháng đầu năm 1940, số đầu quân đã lên gấp đôi. Người ta ước tính có khoảng 3000-3500 người Đức trong trại tập trung đã đầu quân trong thời kì 1939-40, và khoảng 5000 tù binh Đức đã gia nhập Lê Dương trong thời gian từ tháng tám 1944 đến cuối năm 1946.[16]
    Trong tự truyện của mình, nhà chính trị học và triết gia Raymond Aron (từ năm 1930 đến 1933 làm trợ lí giảng dạy Pháp văn ở Trường đại học Köln) đã viết như sau : ?oTại Cologne (tên tiếng Pháp của Köln, chú thích của N.D.) tôi được gặp một sinh viên trẻ làm tôi rất cảm mến, đó là Rudy Schröder. Cha anh buôn bán áo mưa và ô dù. Trong thời gian ở Đức, tôi đã chơi rất thân với Rudy. Anh ta tởm lợm chủ nghĩa quốc xã. Hai năm sau, anh chạy sang Paris và sống vất vưởng cho đến ngày khai chiến. Lúc đó, anh đầu quân vào Lê Dương, rồi khi chiến tranh chấm dứt, tôi được tin... ở Đông Dương anh đã chạy sang hàng ngũ của Hồ Chí Minh. Một hôm, trên tờ Le Figaro, tôi đọc thấy một bài báo... nhan đề Tên đại tá SS Rudy Schröder? Tôi có tìm cách viết thư liên lạc nhưng có lẽ anh không hề nhận được. Năm 1946, ông bà thân sinh hỏi tôi có tin tức gì không; khoảng 1960, nghe người Đức nói anh làm giáo sư Trường đại học Leipzig. Nếu anh vẫn còn sống ở Đông Đức, tôi cũng muốn gặp lại anh. (-lược bỏ-) . Song việc anh đã đào ngũ khỏi Lê Dương và từ bỏ chế độ của Pháp ở Sài Gòn hay Hà Nội không làm tôi ngạc nhiên; vả lại tôi nhân danh cái gì mà trách anh??.[17] Tuy có một vài tiểu tiết sai lệch, mấy dòng vừa trích của một người cựu kháng chiến đã tóm tắt những chương chính trong cuộc đời của Rudy Schröder, chỉ thiếu chương hồi cuối là năm 1959, ông trốn sang Tây Đức. Tiếc thay, hai người bạn thâm giao ấy đã không bao giờ gặp lại nhau.
    Ý nghĩa cuộc đời của Schröder vượt quá phạm vi cá nhân ?" và điều này cũng đúng đối với những người khác mà tôi sẽ đề cập ở đây. Như tôi đã nói ở trên, nó minh hoạ lịch sử đau khổ của nước Đức, nước Pháp và của nước Việt Nam thế kỉ XX. Schröder là người ?ođổi tuyến?. Nếu không vì hoàn cảnh chính trị đẩy đưa thì rất có thể ông đã trở thành giáo sư một trường đại học Đức, có quan hệ chặt chẽ với những đồng nghiệp người Pháp, viết dăm ba cuốn sách về xã hội học, chính trị và văn học, hay lịch sử văn hoá và viết những bài tiểu luận tuyệt vời trên các báo hay tạp chí.
    Schröder sinh năm 1911 tại Köln (Cologne), mang nặng dấu ấn của quá khứ văn minh La Mã của thành phố này ?" tính tình ông bay ****, hưởng lạc, khiếu thẩm mĩ tinh tế, đồng thời say mê tìm hiểu, truy hỏi, khám phá những mâu thuẫn của cuộc sống. Hai mặt đối ngẫu ấy có thể dẫn tới bệnh trầm cảm và bất mãn sâu sắc nếu đương sự không được trọng thị trong xã hội. Trong bản Lý lịch Đảng viên (có lẽ viết vào tháng ba 1950), Schröder khai thành phần xuất thân của mình là Tư sản.[18] Thời gian này, ông dùng bí danh Lê Đức Nhân, cũng có người chỉ biết ông dưới cái tên Đức là Kerkhof(f). Thời sinh viên, ông học xã hội học, tiếng Pháp và văn học Đức, tham gia Phái cộng sản sinh viên (KOSTUFRA).[19] Lúc đó, thầy học của ông là người Do Thái, bị bọn quốc xã cho ?ovề hưu?,[20] Schröder đã ngang nhiên mang bó hoa tới tặng thầy. Tờ báo nazi Der Stürmer đã lớn tiếng thoá mạ, coi ông là kẻ thù của chế độ, là cộng sản và thân Do Thái. Mặc dầu hoàn cảnh lúc đó, đối với chàng thanh niên Schröder, di cư sang Paris không phải là một đại hoạ, mà là cơ hội thực hiện một ước muốn sâu xa nhất. Tại trường Sorbonne, ông đỗ ngay ba, bốn chứng chỉ cử nhân, làm việc bán phần cho Viện xã hội học Frankfurt lưu vong tại Paris với cương vị trợ lí cho nhà tư tưởng lớn Walter Benjamin.[21]
    Trong một lá thư tháng mười một 1939 viết từ New York, Max Horkheimer nói tới ?oHerr Schröder (như là) một nhà bác học trẻ hết sức thông tuệ. Chúng tôi hi vọng sẽ tranh thủ để ông trở thành một đồng nghiệp khoa học xuất sắc?.[22] Về mặt vật chất, cuộc sống rất chật vật. Để có thể sống qua ngày đoạn tháng, Schröder phải đi làm thêm trong một xưởng dệt, có lúc phải vác những tấm thảm đi gõ cửa rao bán từng nhà.
    Một người bạn hồi đó, Fritz Meyer, bị giam cùng trại tập trung với Schröder. Năm 2003 ở Paris, ông Meyer kể lại cho tôi: khi tới sân vận động Colombes (ngoại ô tây bắc Paris, chú thích của ND), họ được người ta nói rõ là họ sẽ ở mãi sau hàng rào kẽm gai cho đến ngày chiến tranh kết thúc, trừ phi là họ đăng kí đầu quân vào đội Lê Dương; ai ?otình nguyện? đầu quân thì gia đình sẽ không bị đưa đi tập trung. Sau này, Schröder viết: ?oChỉ nghĩ tới việc vợ tôi và cháu bé chưa đầy một tuổi thôi nôi phải vào trại an trí là tôi thấy không tài nào chịu nổi rồi?.
    V ?" Từ Paris đến Hà Nội qua Sidi Bel Abbès
    Thật ít có khả năng Schröder và Borchers quen nhau từ Paris... Erwin Borchers sinh năm 1906 tại Strasbourg, người vùng Alsace gốc Đức. Cha ông làm thợ tiện trước khi trở thành quân nhân, là người nước Phổ. Mẹ ông quê vùng Alsace, thuộc một gia đình sống bằng nghề trồng nho. Gia đình Borchers như vậy là một gia đình sống ở vùng giáp ranh giữa hai nước, bị xâu xé giữa hai quốc gia và giữa hai chủ nghĩa quốc gia. Con người ở đây dễ bị lâm vào thảm kịch ?ocái gì của con người cũng bị chính trị hoá?, có nguy cơ ngày mai là anh hùng... (và) ngày kia biến thành tên phản quốc?[23] chỉ vì muốn bám trụ ở một vùng đất bị hai chính quyền đối nghịch tranh giành...
    Trong bản lí lịch viết năm 1966 tại Berlin, Borchers cho biết cha ông hết mực ủng hộ hoàng đế Đức khi lên đường ra trận tham gia Đại chiến thế giới lần thứ nhất, đến khi trở về đã thành người ủng hộ chế độ cộng hoà và chủ nghĩa hoà bình, điều này đã tác động sâu sắc khiến ông trở thành khuynh tả. Năm 1918, khi tỉnh Alsace-Lorrraine trở lại thành lãnh thổ Pháp, gia đình ông di cư sang Đức. Chàng Borchers ?ongay từ thời con trai, đã bị chính trị ám ảnh? (Lilo Ludwig) ?olãng mạn? dài dài (Susanne Borchers) theo học các môn Pháp văn, Đức văn và sử học, nuôi mộng trở thành nhà giáo, và tham gia nhóm xã hội chủ nghĩa. Khi Hitler lên cầm quyền, Borchers là thành viên một nhóm tuyên truyền bí mật, in và rải truyền đơn chống nazi. Bị tố cáo và bị cảnh sát thẩm vấn, Borchers lánh sang Pháp, tiếp tục theo học đại học ở Aix-en-Provence và Paris, năm 1936 tốt nghiệp cử nhân văn học và ngữ văn Đức. Ông già Borchers, một người cha độc đoán, thấy con trai bỏ nước ra đi thì không vừa lòng chút nào, vì đối với ông, đó là một hành động phản bội tổ quốc. Là công dân Đức, Erwin Borchers không được tuyển dụng vào giáo giới Pháp, phải đi làm công ở hiệu sách Biblion, phố Bréa. Xin gia nhập quân đội Pháp để chiến đấu chống Nazi thì bị từ chối, vì mẹ lấy chồng Đức , ?omẹ anh đã phản bội Tổ quốc Pháp?.[24] Erwin Borchers bị đưa vào trại tập trung Colombes ngày 3 tháng chín 1939, tại đây, anh kí giấy đầu quân vào Lê Dương. ?oĐối với tôi, trong thời kì chiến tranh, phục vụ trong hàng ngũ Lê Dương là một điều có thể chấp nhận được về mặt chính trị, vì Lê Dương nằm trong quân đội Pháp, khách quan mà nói, là một lực lượng của khối đại đồng minh chống Hitler mà Liên Xô là thành viên... Lê Dương đang đối đầu với Hitler ở Narvik, ở Monte Cassino và trên nhiều mặt tận khác...?.[25] Đúng là ở thời điểm 1939, đạo quân Lê Dương mang hào quang chống phát-xít.
    Schröder và Borchers được gửi tới Sidi-Bel-Abbès để gia nhập Trung đoàn 5 Bộ binh Ngoại quốc (R.E.I.). Schröder nghe tin vợ con phải di tản từ Paris xuống miền nam nước Pháp, cảm thấy bất lực, không làm gì giúp được gia đình, ông viết : ?ocái mà trước đây được coi là không bao giờ có thể, khi nó đổ lên đầu, từ từ từng chút, rồi ào xuống như thác lũ, thì cuối cùng cái kinh hoàng nhất bỗng trở nên tất yếu, tự nhiên?.[26] Ông còn nói tới ?osự hoàn toàn vô tích sự?, ?osự ngu xuẩn, tàn bạo và thô tục trong cuộc đời? của ?otên lính Lê Dương Schröder, nguyên là phu đào huyệt, nay làm lính dắt la kiêm ?~ông già khố đế?T? để nói rằng chỉ còn sống nhờ những bức thư của vợ con.[27] Đầu năm 1941, uỷ ban đình chiến Đức tới trại Lê Dương, yêu cầu phải dẫn độ toàn bộ lính Lê Dương người Đức. Tuy nhiên, Bộ chỉ huy Lê Dương chỉ chịu nhận dẫn độ những ai tự nguyện xin về Đức sống dưới chế độ Reich thứ III. Tướng Maxime Weygand, tổng đại diện của Pétain ở Bắc Phi, tìm cách bảo vệ những binh lính Lê Dương người Đức; theo đề nghị của ông, Biệt đội Ma, gồm ?okhoảng một trăm phần tử đối lập với chủ nghĩa quốc-xã là những người đặc biệt dễ bị truy bức... cộng thêm mấy đào binh của quân đội Wehrmacht?,[28] được đưa sang Đông Dương trước khi họ bị Uỷ ban đình chiến Đức bắt được. Điều này chứng tỏ, ngay trong nội bộ của những hệ thống tư tưởng, ?ophán đoán từng cá nhân cũng phải uyển chuyển và căn cứ vào hành xử của mỗi người?.[29]
    Ngày mồng 1 tháng tám 1941, trên tàu Cap Pandaran ghé bến Madagascar, Schröder viết cho vợ một lá thư dài, kể rằng ngày 4 tháng bảy, ông cùng khoảng một trăm người đã lên tàu ở cảng Dakar. Ông khoe đã đánh cuộc với ?oB? ?" chắc là Borchers ?" về một động từ bất quy tắc hiếm có trong tiếng Latinh, và ?oanh đã được cuộc?. Đọc Bergson và Hobbes. ?oBọn anh ở chen chúc dưới hầm tàu,... nhưng người An Nam còn ở khổ hơn thế?. Họ cập bến Sài Gòn ngày mồng 3 tháng mười một, rồi mấy ngày sau, đi xe lửa ra bắc, đến Việt Trì, cách Hà Nội 80 km về phía tây-bắc.[30]
    Chẳng mấy lúc, Borchers và Schröder mất hết ảo tưởng về phong cách chính trị - quân sự của đội quân Lê Dương. Toàn quyền Decoux ngày càng áp đặt nhãn quan ?ocách mạng quốc gia? và ?osuy tôn chiến sĩ? theo đúng đường lối của Pétain. Đó không phải là bầu không khí dân chủ và chống phát-xít họ chờ mong, mà giống như bầu không khí mà họ đã trốn tránh. Vấn đề chống Nhật không đặt ra vì Decoux đã kí kết thoả ước chấp nhận sự chiếm đóng của quân đội Nhật Bản, như Pétain đã kí kết với Đức ở bên Pháp. Lí do Decoux nêu ra là để duy trì Đông Dương cho nước Pháp. Borchers và Schröder đã nhận thức ra thực tại của chế độ thực dân và được biết người An Nam đang hoạt động kháng chiến ở vùng Đông Bắc. Tổ chức kháng chiến còn phôi thai của Pháp tại Đông Dương thì chủ trương Đông Dương phải trở về trong lòng đế quốc Pháp, do đó họ từ chối mọi sự hợp tác với ********* và dân chúng trong công cuộc kháng Nhật. Ngày 9 tháng ba 1945, Nhật đảo chính, Pháp thua... ********* kêu gọi cùng nhau kháng chiến chống Nhật, rồi kêu gọi bình đẳng và độc lập, phía Pháp không hiểu ra. Ngay cả đến năm 1946, khi Võ Nguyên Giáp, bộ trưởng nội vụ, đón chào Leclerc, tổng tư lệnh Pháp, bằng câu : ?oLà người kháng chiến Việt Nam, tôi xin chào một người Pháp kháng chiến vĩ đại...?,[31] thì cũng vẫn thế.

    Chú thích :
    [14] Jean-Pierre Hallo, Monsieur Légionnaire. L?Thomme et ses tra***ions. Paris 1994, tr. 29, trích dẫn theo Michels, sđd., tr. 190.
    [15] Michels, sđd., tr. 104
    [16] Michels, sđd., tr. 119 và 164
    [17] Raymond Aron, Mémoires, Paris, Julliard 1983, tr. 72/73
    [18] FMS
    [19] Lebenslauf des Schröder, Reiner, Josef, Rudy. Berlin 9 tháng mười một 1951, in: B St U: Ddn. AIM 808/59, tr.000058-000063
    [20] Leo Spitzer gửi Raymond Aron. Cologne 24 tháng chín 1933, trong : Thư khố riêng của Raymond Aron, hộp 209, với sự cho phép của Dominique Schnapper và Elisabeth Dutartre.
    [21] Klaus Brill gửi Max Horkheimer, New York. Paris 31 tháng ba 1936, trong: Max Horkheimer, Gesammelte Schriften, vol. 15: Briefwechsel 1913-1936. Frankfurt am Main 1995, tr. 504
    [22] Max Horkheimer gửi Raymond Aron, Paris. New York 20 tháng mười một 1936, trong: Horkheimer, sđd., tr. 729
    [23] Reinhold Schneider, Verhüllter Tag, Köln 1962, tr. 164
    [24] Bà mẹ của Erwin Borchers cũng bị ông cụ thân sinh truất quyền thừa kế vì đã lấy một ?otên Phổ bẩn thỉu? (SaupreuYe). Thông báo miệng của Lilo Ludwig, em gái Borchers, Berlin 28 tháng sáu 2003.
    [25] Lebenslauf. Berlin 14 mai 1966, trong : B St U : MfS AP 14061/73, trang 000008
    [26] S. P. 554, 6 tháng bảy 1940; trong: Fonds Philippe Delaunay (FPD)
    [27] R. Schröder gửi Hilde Schröder, 23 tháng chín 1940, Bel-Abbès 16 tháng hai 1941 và Bel-Abbès 27 tháng hai 1941
    [28] Michels, sđd, tr. 136
    [29] Raymond Aron, Lời tựa, trong: André Thérive, Essai sur les Trahisons, Calman-Lévy, Paris 1951, tr. XIV
    [30] Thư Schröder gửi vợ, 1 tháng tám 1941, trong : FPD
    [31] Jean Lacouture, Hô Chi Minh. Seuil, Paris 1967, tr. 115
  4. Red_army_vn

    Red_army_vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/10/2004
    Bài viết:
    202
    Đã được thích:
    0
    VI ?" Vượt khỏi sự dấn thân dân tộc...
    Đến đây, tôi muốn dành đôi dòng để nêu câu hỏi này: Vì sao Schröder và Borchers đã sẵn sàng hợp tác với cuộc kháng chiến của ********* và đã tham gia ********* với ?olương tâm yên ổn và hăng hái tin tưởng? [32] ? Đối với những người yêu nước và dân tộc chủ nghĩa (câu hỏi này đặt ra cho người Đức và người Áo trong hai cuộc thế chiến, và cho người Pháp trong các cuộc chiến tranh thuộc địa), câu hỏi đặt ra là: làm sao tưởng tượng nổi là người ta rời bỏ cái nôi quốc gia tự nhiên và đứng sang hàng ngũ địch? Cần phải nhấn mạnh là Schröder cũng như Borchers đều không phải là những người cộng sản chính thống, họ không coi cách mạng là mục tiêu tối thượng.
    Vậy thì cái gì đã thúc đẩy họ rời bỏ hàng ngũ? Ban đầu, như ta thấy, quyết định đầu quân Lê Dương là do hoàn cảnh đưa đẩy. Đối với Schröder, thế giới ?othiếu sự nhất quán?, ?ochẳng có cách nào thoát khỏi phi lí?.[33] Nhưng bước sau, gia nhập *********, là một quyết định gay go hơn nhiều, bởi vì đi với ********* là qua sông đốt cầu với Tây Âu. Cảm tưởng của tôi là đối với người trí thức ?" nhưng không riêng gì trí thức ?" có một sự ?ogiác ngộ?, một ước vọng về một thế giới ?~tự nhiên?T, thì ý muốn tham gia vào một chính nghĩa vừa có tính chất chính trị vừa có tính chất đạo lí... Sự giác ngộ ấy được thể hiện trong tập chuyện tranh nhan đề Les Oubliés d?TAnnam (Những người bị quên lãng ở An Nam): sau ngày Paris giải phóng, một thanh niên kháng chiến Pháp đầu quân vào Lê Dương để tiếp tục chiến đấu chống chủ nghĩa phát xít, và phải đối mặt với một biến cố làm anh phải nhìn thế giới với một con mắt khác. Một tên lính Lê Dương cũng người Pháp cãi nhau với người phu xich lô về giá cả chuyến xe, rồi rút dao đâm chết anh xích lô. Anh thanh niên Pháp khởi tố tên lính Lê Dương, tên này chỉ bị 15 ngày tù. Anh viết thư cho mẹ: ?oCon không những tham gia vào một cuộc chiến tranh bẩn thỉu, mà còn ở trong một quân đội gồm những tên sát nhân. Ô nhục quá...?. Và ?ocàng ô nhục hơn nữa, vài ngày sau, người đầu bếp trại lính vốn khoái thịt chó đã bị kết án một tháng tù vì tội làm thịt con chó của đại uý?[34]. Claudia Borscher, con gái của Erwin, xác nhận với tôi là cha cô thường hay kể lại câu chuyện đã khắc sâu vào tâm khảm của ông. Câu chuyện ấy biểu hiện cấu trúc xã hội của chủ nghĩa thực dân, nó làm lộ rõ những mâu thuẫn của thế giới chúng ta đang sống. Và giúp chúng ta nhìn nó với một khoảng cách.
    Điều đó rất đúng đối với Ernst Frey, sinh năm 1915 trong một gia đình Do Thái Hung-ga-ri không còn sùng đạo. Cha là một đảng viên dân chủ xã hội khát khao trau giồi văn hoá. Thế giới của gia đình này gói gọn trong biên giới quốc gia, ngôn ngữ và tôn giáo của đế chế Áo-Hung. Truyền thống Do Thái trở thành chủ đạo từ khi bọn Nazi giam hãm họ trong truyền thống ấy. Sau một thời tuổi trẻ say mê sùng đạo Công giáo, chàng trai Ernst đã tìm thấy con đường cộng sản chủ nghĩa thông qua giai đoạn dân chủ xã hội và hoạt động trong VSM (Hội học sinh xã hội chủ nghĩa). Phải nói thêm là hành trình của Ernst mang nặng dấu ấn kinh nghiệm cá nhân về chủ nghĩa bài Do Thái và chủ nghĩa quốc xã. Ernst Frey đã tìm thấy ở chủ nghĩa Marx một phản mô hình cung cấp cho anh những công cụ cần thiết để đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít.
    Năm 1934, ?ogia nhập Liên đoàn cộng sản thanh niên?, Frey viết, ?otôi đã trao hiến toàn bộ con người tôi cho đảng?. Câu tiếp theo rất có ý nghĩa vì nó giúp ta hiểu nhiều khúc quay ngoắt trong cuộc đời phong ba của Ernest Frey: ?oSự quy phục toàn diện của tôi là tự nguyện, không một chút do dự, tôi đặt Đảng lên trên mọi giá trị?. Con người ông bị ám bởi một thứ chủ nghĩa Mêsia nửa chính trị nửa tôn giáo, bởi mặc cảm cứu rỗi được biện minh bởi sự bức hại của chế độ Nazi. Do ?ohoạt động trong một hội kín (VSM) và bị lên án phản quốc?, Frey đã bị bỏ tù và ?ovĩnh viễn khai trừ? khỏi các trường đại học trên toàn nước Áo.[35] Ngày 15 tháng ba 1938, ?ocả thành phố Vienna bị thất điên bát đảo ?" Führer tiến vào thành phố?. Mẹ của cậu Ernst ?ogiữa ban ngày ban mặt bị đánh đập, phết sơn lên khắp người, nhục mạ, phỉ nhổ và nhạo báng hàng giờ liền?. Cuối cùng, trước tối hậu thư, ?ophải chọn lựa giữa tù đày hay lưu vong?, Frey quyết định xung phong vào Lữ đoàn quốc tế ở Tây Ban Nha. Trên đường đào vong, ông bị bọn SS bắt được, giam cầm trong tù ba tháng rồi bị đại đế chế Đức truất tịch. Sang Paris, ông đi gõ cửa từng nhà để chào bán bút chì. Khi chi bộ đảng quyết định không cho phép sang Tây Ban Nha, Frey đăng kí đầu quân 5 năm vào Lê Dương để chống Hitler; đói meo, không một xu dính túi. Ngày 17 tháng ba, ông lên tàu Dupleix ở hải cảng Casablanca; ngày 1 tháng bảy 1941 cặp bến Sài Gòn. Cuối năm ấy, cùng với Schröder, Borchers và mấy người khác, Frey thành lập một chi bộ cộng sản trong đội quân Lê Dương đồn trú ở Việt Trì.[36]
    Công phẫn trước sự hợp tác Pháp-Nhật và sự móc ngoặc với các nước phe trục, họ tìm cách bắt liên lạc với những đảng viên xã hội Pháp ở Hà Nội. Họ cũng tìm cách bắt chuyện với những người An nam mít ở Việt Trì, nhưng quả là xôi hỏng bỏng không vì dường như người bản xứ không thể nào tưởng tượng được là có những người Âu quan tâm tới họ, muốn thảo luận với họ. Trong các buổi họp bí mật của chi bộ, lúc đầu họ còn bàn tới chiến tranh và mổ xẻ chủ nghĩa phát xít, nhưng chẳng mấy lúc, đề tài chủ nghĩa thực dân đã trở thành chủ đạo.[37] Họ muốn thống nhất chi bộ của họ và bộ phận địa phương của kháng chiến Pháp thành một mặt trận thống nhất để bắt liên lạc với Đảng cộng sản Đông Dương hay *********. Tháng mười một 1943, ở trung tâm Hà Nội, gần hồ Hoàn Kiếm, Frey gặp một đại diện cấp cao của ĐCSĐD. Cuộc gặp do Georges Walter dàn xếp qua sự trung gian của Louis Caput, bí thư Đảng bộ Bắc Kì của Đảng xã hội Pháp.[38] Đầu năm 1944, Borchers gặp tổng bí thư đảng, Trường Chinh, ?otrên một cánh đồng ruộng gần Hà Nội?,[39] tuy lúc đó Trường Chinh không nói mình là ai. Tôi có cảm tưởng chi bộ Lê Dương đã được sáp nhập vào ĐCSĐD vào đầu mùa hè 1944, [40] và đó là mối liên hệ duy nhất thực sự giữa ********* và nước Pháp tự do trước ngày Nhật đảo chính 9 tháng ba 1945. Trường Chinh đã đề nghị các phần tử người Âu chống phát xít hãy cộng tác với ********* song không nhóm nào, phe De Gaulle hay Đảng xã hội, muốn chấp nhận ý tưởng một nước Việt Nam độc lập. Viễn cảnh liên minh quân sự Âu-Việt chống Nhật với mục tiêu Việt Nam độc lập đã tan biến.
    VII - ?tiến tới đoàn kết cộng hoà & chống thực dân
    Sau ngày 9 tháng ba, một vài người Pháp quy phục ********* vì muốn trốn tránh sự đàn áp của quân Nhật. Borchers, Frey và Schröder cùng mấy ngàn binh sĩ bị Nhật bắt làm tù binh, lúc đầu bị giam trong thành Hà Nội, sau đó bị đưa lên trại ?otận diệt? gần Hoà Bình.[41] Họ bị lao đao vì bệnh kiết lị và thương hàn. Nhật Bản đầu hàng ngày 15 tháng tám, ********* tiến hành Cách mạng tháng Tám như một dòng thác lũ dân tộc chủ nghĩa. Schröder ghi : ?oNgười an-nam-mít đã trở thành người Việt Nam?.[42] Ngày 2 tháng 9, Hồ chủ tịch tuyên bố độc lập với mục đích xây dựng một quốc gia đoàn kết thành một khối thống nhất và thuần nhất.
    Các tù binh được trả tự do ngày 16 tháng 9. Frey-Schröder đã có nhiều cuộc họp với các đảng viên xã hội tập hợp chung quanh Louis Caput, có lẽ với sự thoả thuận ngầm của Jean Sainteny, với mục đích dùng các đảng viên chi bộ làm trung gian nhằm đưa chính phủ Hồ Chí Minh nhận thương lượng với các đại diện của Pháp có mặt tại chỗ, nhưng đại diện Pháp không chấp nhận độc lập là điều kiện tiên quyết ?" tối cùng, họ chỉ chấp nhận thảo luận về những phương thức đưa tới một nền độc lập trong tương lai. ?oHọ vẫn dùng chữ An-na-mít?, Frey nhận xét, ?ocòn chúng tôi nói: Người Việt Nam?.[43]
    Frey thu xếp với Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp để ông và hai bạn Walter Ullrich và Georges Wächter chuyển sang hàng ngũ Việt Nam, vì như lời Borchers, ?onơi đây, triết học sắp trở thành thực tiễn, và tôi có cảm tưởng họ sẽ cần tới chúng ta?.[44] Cuộc đào ngũ của họ được nguỵ trang thành một công tác gián điệp cho chính quyền Pháp (như Schröder viết) hay một công tác do Caput-Sainteny giao cho nhằm thuyết phục những người lãnh đạo ********* chịu thương lượng với Uỷ viên Cộng hoà Pháp ở Bắc Kì. Nhóm đồng chí đi ra khỏi Thành cổ Hà Nội trong một chiêc xe Buick cũ. Tôi mường tượng công cuộc mới này quyến rũ và kích động họ tới mức nào. Họ vừa sống sót sau một cuộc đại chiến, họ còn trẻ tuổi, và chắc mẩm đã tìm ra chính nghĩa...
    Đầu mùa thu 1945, Nhật đầu hàng và Việt Nam tuyên bố độc lập, người Pháp không còn có thể nói họ ở Đông Dương để đánh các lực lượng phát xít phương Đông như trước đó họ chiến đấu chống Đức quốc xã và chính quyền Quốc gia Pháp cô-la-bô. Nói như vậy chẳng ai tin. Từ nay, rõ ràng người Pháp là kẻ xâm lăng, chống lại những người yêu nước, những người quốc gia đang bảo vệ nền độc lập của đất nước; một cách nào đó, họ đã trở thành bọn Nazi của người Việt Nam và *********. Quân lính Pháp ngày càng thắc mắc, nghi hoặc : ?oTrước mặt họ, người ta nói thế, là Cộng sản; nhưng Cộng sản là như thế nào? Ở Pháp, chính đảng số 1 không phải là Cộng sản sao?... Có thể nào tin vào lời nói cửa miệng của bọn lãnh đạo tồi tệ như vậy không?... Có một điều họ chắc chắn : trước mặt họ, là những người Việt Nam chiến đấu cho độc lập của đất nước họ?.[45]
    Vì thế mà có một số, với những động cơ khác nhau, đã quyết định bước sang hàng ngũ ?obên kia?, trong đó có những quân nhân Nhật và những người trong lực lượng võ trang Pháp (trong đó phải kể những người Maroc, người Algérie) và một số dân sự. Họ mang tới cho ********* những tri thức quân sự và kĩ thuật. Frey có viết về những người lính Nhật đào ngũ mà Ban chấp hành Trung ương ĐCS Việt Nam sử dụng rất thận trọng vì nghi họ có thể làm gián điệp... Stefan Kubiak, một người Ba Lan táo bạo, tỏ ra là một người thợ máy cừ khôi, có biệt tài là ?ocái thú sửa chữa các vũ khí bị hư hỏng hay mới chiếm được của địch như đại bác, súng cối...?[46]. Tài sửa chữa thần thông của Kubiak rất có ích cho Việt Nam trong những năm đầu.
    Trong những người đổi hàng ngũ nói trên, có những người đã làm vì tinh thần đoàn kết xuyên quốc gia, họ ?ođã chọn một tổ quốc mới, tin tưởng vào nhân sinh quan và đường lối chính trị của tổ quốc mới ?" họ nói tới tổ quốc cũ như là nói tới một đất nước thù địch?.[47] Sau khi những người ?ophản quốc vì lí tưởng? ấy đã bước sang ?obên kia?, họ được tổng bí thư Trường Chinh phân công vào cơ quan tuyên truyền (riêng Walter Ullrich công tác trong quân đội, sau được phong hàm trung tá, dưới bí danh Hồ Chí Long; còn Georges Wächter tức Hồ Chí Thọ trước khi làm báo đã theo học trường kĩ sư ở Vienna, nên được sắp xếp làm công tác kĩ thuật và tổ chức). Schröder làm bình luận viên Đài phát thanh Tiếng Nói Việt Nam, còn Frey làm việc dưới quyền tướng Giáp, nghiên cứu quân sự và tổ chức những lớp học quân sự đầu tiên cho Quân đội Nhân dân. Borchers mang quân hàm trung tá, làm chính uỷ phụ trách tuyên truyền địch vận; ông có nhiệm vụ biên tập các tài liệu tuyên truyền tiếng Pháp và tiếng Đức, và từ năm 1951 trở đi, phụ trách tuyên huấn cho khối tù binh Lê Dương người Đức. Bộ ba Borchers, Frey và Schröder chuẩn bị xuất bản tuần báo La République (Cộng hoà), rồi Le Peuple (Nhân Dân) ?onhằm làm cho người Pháp thấy chính phủ Việt Nam và ********* không phải là phiến loạn mà là những tổ chức hợp pháp, dân chủ. Mọi mưu toan dùng võ lực tái chiếm sẽ được coi là vi phạm nhân quyền?.[48] Có lẽ những tờ báo này cũng nhắm cả giới độc giả thượng lưu Việt Nam biết tiếng Pháp.
    Báo Le Peuple ra từ ngày 7 tháng tư đến 26 tháng chín 1946; nó kêu gọi tất cả những người thiện chí hảy ủng hộ nền độc lập, sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, nghĩa là phản đối việc tách Nam Kì ra khỏi chủ quyền Việt Nam như Truman, Stalin và Churchill đã quyết định hồi tháng bảy-tám 1945 ở Potsdam. Các tiến sĩ người Đức (Jacques Doyon[49] đã gọi họ như vậy) viết báo dưới những bút hiệu: Frey thì kí tên là Nguyễn Dân, Borchers trở thành Chiến Sỹ, Schröder kí Lê Đức Nhân hay Walter R. Stephen; còn một người Đức nữa, Siegfried Wenzel, thì lấy bút hiệu Đức Việt. Họ trở thành những người Việt mới: ?onơi ấy từ nay là tương lai, là tiền đồ của tôi, tôi tin chắc ở điều đó?, sau này Frey đã viết như vậy, còn Schröder thì khẳng định: ?ocả ba chúng tôi đều coi Việt Nam là tưong lai của chúng tôi, và thật sự đã là đất nước của chúng tôi rồi?.[50]
    Chú thích :
    [32] Bản thảo đánh máy của Schröder 260 trang không tựa đề (MS), FMS, tr. 58
    [33] MS, p. 174
    [34] Lax-Giroud, Les Oubliés d?TAnnam, é***ion intégrale, Aire Libre, Dupuis (1990 et 1991) 2000, tr. 54-55
    [35] Ernst Frey, Vietnam mon amour. Ein Wiener Jude im Dienst von Hô Chi Minh, nhà xuất bản Doris Sottopietra, Vienne 22002, tr. 64 et 94. Frey muốn theo học hoá học kĩ thuật
    [36] như trên., tr. 118/119, 121, 170
    [37] Ferry Stern, Und ist es auch Wahnsinn, tr. 655. ?" Đây nguyên thuỷ là bản thảo 1216 tranh đánh máy của Frey, được FS biên tập và xuất bản..
    [38] Stern, sđd., tr. 692-726
    [39] Borchers, Lebenslauf, tr. 000010/11
    [40] Stern, sđd., tr. 704
    [41] Schröder, MS, tr. 113
    [42] như trên, tr. 117
    [43] Stern, sđd, tr. 793
    [44] Schröder, MS, tr. 58
    [45] Gérard Tongas, J?Tai vécu dans l?Tenfer communiste au Nord Viêt-Nam. Les nouvelles é***ions Debresse, Paris 1960, tr. 173
    [46] Arkady Fiedler, Im Lande der wilden Bananen, VEB F.A. Brockhaus Verlag, Leipzig 1959, tr. 170
    [47] Margret Boveri, Verrat im 2o. Jahrhundert, I ?" Für und gegen die Nation, Rowohlt, Hamburg 1956, tr.111
    [48] Frey, sđd., tr. 206
    [49] Jacques Doyon, Les Soldats Blancs de Hô Chi Minh, Fayard, Paris 1973
    [50] Frey, sđd., tr. 206; Schröder, MS, tr. 60
  5. Red_army_vn

    Red_army_vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/10/2004
    Bài viết:
    202
    Đã được thích:
    0
    VI ?" Vượt khỏi sự dấn thân dân tộc...
    Đến đây, tôi muốn dành đôi dòng để nêu câu hỏi này: Vì sao Schröder và Borchers đã sẵn sàng hợp tác với cuộc kháng chiến của ********* và đã tham gia ********* với ?olương tâm yên ổn và hăng hái tin tưởng? [32] ? Đối với những người yêu nước và dân tộc chủ nghĩa (câu hỏi này đặt ra cho người Đức và người Áo trong hai cuộc thế chiến, và cho người Pháp trong các cuộc chiến tranh thuộc địa), câu hỏi đặt ra là: làm sao tưởng tượng nổi là người ta rời bỏ cái nôi quốc gia tự nhiên và đứng sang hàng ngũ địch? Cần phải nhấn mạnh là Schröder cũng như Borchers đều không phải là những người cộng sản chính thống, họ không coi cách mạng là mục tiêu tối thượng.
    Vậy thì cái gì đã thúc đẩy họ rời bỏ hàng ngũ? Ban đầu, như ta thấy, quyết định đầu quân Lê Dương là do hoàn cảnh đưa đẩy. Đối với Schröder, thế giới ?othiếu sự nhất quán?, ?ochẳng có cách nào thoát khỏi phi lí?.[33] Nhưng bước sau, gia nhập *********, là một quyết định gay go hơn nhiều, bởi vì đi với ********* là qua sông đốt cầu với Tây Âu. Cảm tưởng của tôi là đối với người trí thức ?" nhưng không riêng gì trí thức ?" có một sự ?ogiác ngộ?, một ước vọng về một thế giới ?~tự nhiên?T, thì ý muốn tham gia vào một chính nghĩa vừa có tính chất chính trị vừa có tính chất đạo lí... Sự giác ngộ ấy được thể hiện trong tập chuyện tranh nhan đề Les Oubliés d?TAnnam (Những người bị quên lãng ở An Nam): sau ngày Paris giải phóng, một thanh niên kháng chiến Pháp đầu quân vào Lê Dương để tiếp tục chiến đấu chống chủ nghĩa phát xít, và phải đối mặt với một biến cố làm anh phải nhìn thế giới với một con mắt khác. Một tên lính Lê Dương cũng người Pháp cãi nhau với người phu xich lô về giá cả chuyến xe, rồi rút dao đâm chết anh xích lô. Anh thanh niên Pháp khởi tố tên lính Lê Dương, tên này chỉ bị 15 ngày tù. Anh viết thư cho mẹ: ?oCon không những tham gia vào một cuộc chiến tranh bẩn thỉu, mà còn ở trong một quân đội gồm những tên sát nhân. Ô nhục quá...?. Và ?ocàng ô nhục hơn nữa, vài ngày sau, người đầu bếp trại lính vốn khoái thịt chó đã bị kết án một tháng tù vì tội làm thịt con chó của đại uý?[34]. Claudia Borscher, con gái của Erwin, xác nhận với tôi là cha cô thường hay kể lại câu chuyện đã khắc sâu vào tâm khảm của ông. Câu chuyện ấy biểu hiện cấu trúc xã hội của chủ nghĩa thực dân, nó làm lộ rõ những mâu thuẫn của thế giới chúng ta đang sống. Và giúp chúng ta nhìn nó với một khoảng cách.
    Điều đó rất đúng đối với Ernst Frey, sinh năm 1915 trong một gia đình Do Thái Hung-ga-ri không còn sùng đạo. Cha là một đảng viên dân chủ xã hội khát khao trau giồi văn hoá. Thế giới của gia đình này gói gọn trong biên giới quốc gia, ngôn ngữ và tôn giáo của đế chế Áo-Hung. Truyền thống Do Thái trở thành chủ đạo từ khi bọn Nazi giam hãm họ trong truyền thống ấy. Sau một thời tuổi trẻ say mê sùng đạo Công giáo, chàng trai Ernst đã tìm thấy con đường cộng sản chủ nghĩa thông qua giai đoạn dân chủ xã hội và hoạt động trong VSM (Hội học sinh xã hội chủ nghĩa). Phải nói thêm là hành trình của Ernst mang nặng dấu ấn kinh nghiệm cá nhân về chủ nghĩa bài Do Thái và chủ nghĩa quốc xã. Ernst Frey đã tìm thấy ở chủ nghĩa Marx một phản mô hình cung cấp cho anh những công cụ cần thiết để đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít.
    Năm 1934, ?ogia nhập Liên đoàn cộng sản thanh niên?, Frey viết, ?otôi đã trao hiến toàn bộ con người tôi cho đảng?. Câu tiếp theo rất có ý nghĩa vì nó giúp ta hiểu nhiều khúc quay ngoắt trong cuộc đời phong ba của Ernest Frey: ?oSự quy phục toàn diện của tôi là tự nguyện, không một chút do dự, tôi đặt Đảng lên trên mọi giá trị?. Con người ông bị ám bởi một thứ chủ nghĩa Mêsia nửa chính trị nửa tôn giáo, bởi mặc cảm cứu rỗi được biện minh bởi sự bức hại của chế độ Nazi. Do ?ohoạt động trong một hội kín (VSM) và bị lên án phản quốc?, Frey đã bị bỏ tù và ?ovĩnh viễn khai trừ? khỏi các trường đại học trên toàn nước Áo.[35] Ngày 15 tháng ba 1938, ?ocả thành phố Vienna bị thất điên bát đảo ?" Führer tiến vào thành phố?. Mẹ của cậu Ernst ?ogiữa ban ngày ban mặt bị đánh đập, phết sơn lên khắp người, nhục mạ, phỉ nhổ và nhạo báng hàng giờ liền?. Cuối cùng, trước tối hậu thư, ?ophải chọn lựa giữa tù đày hay lưu vong?, Frey quyết định xung phong vào Lữ đoàn quốc tế ở Tây Ban Nha. Trên đường đào vong, ông bị bọn SS bắt được, giam cầm trong tù ba tháng rồi bị đại đế chế Đức truất tịch. Sang Paris, ông đi gõ cửa từng nhà để chào bán bút chì. Khi chi bộ đảng quyết định không cho phép sang Tây Ban Nha, Frey đăng kí đầu quân 5 năm vào Lê Dương để chống Hitler; đói meo, không một xu dính túi. Ngày 17 tháng ba, ông lên tàu Dupleix ở hải cảng Casablanca; ngày 1 tháng bảy 1941 cặp bến Sài Gòn. Cuối năm ấy, cùng với Schröder, Borchers và mấy người khác, Frey thành lập một chi bộ cộng sản trong đội quân Lê Dương đồn trú ở Việt Trì.[36]
    Công phẫn trước sự hợp tác Pháp-Nhật và sự móc ngoặc với các nước phe trục, họ tìm cách bắt liên lạc với những đảng viên xã hội Pháp ở Hà Nội. Họ cũng tìm cách bắt chuyện với những người An nam mít ở Việt Trì, nhưng quả là xôi hỏng bỏng không vì dường như người bản xứ không thể nào tưởng tượng được là có những người Âu quan tâm tới họ, muốn thảo luận với họ. Trong các buổi họp bí mật của chi bộ, lúc đầu họ còn bàn tới chiến tranh và mổ xẻ chủ nghĩa phát xít, nhưng chẳng mấy lúc, đề tài chủ nghĩa thực dân đã trở thành chủ đạo.[37] Họ muốn thống nhất chi bộ của họ và bộ phận địa phương của kháng chiến Pháp thành một mặt trận thống nhất để bắt liên lạc với Đảng cộng sản Đông Dương hay *********. Tháng mười một 1943, ở trung tâm Hà Nội, gần hồ Hoàn Kiếm, Frey gặp một đại diện cấp cao của ĐCSĐD. Cuộc gặp do Georges Walter dàn xếp qua sự trung gian của Louis Caput, bí thư Đảng bộ Bắc Kì của Đảng xã hội Pháp.[38] Đầu năm 1944, Borchers gặp tổng bí thư đảng, Trường Chinh, ?otrên một cánh đồng ruộng gần Hà Nội?,[39] tuy lúc đó Trường Chinh không nói mình là ai. Tôi có cảm tưởng chi bộ Lê Dương đã được sáp nhập vào ĐCSĐD vào đầu mùa hè 1944, [40] và đó là mối liên hệ duy nhất thực sự giữa ********* và nước Pháp tự do trước ngày Nhật đảo chính 9 tháng ba 1945. Trường Chinh đã đề nghị các phần tử người Âu chống phát xít hãy cộng tác với ********* song không nhóm nào, phe De Gaulle hay Đảng xã hội, muốn chấp nhận ý tưởng một nước Việt Nam độc lập. Viễn cảnh liên minh quân sự Âu-Việt chống Nhật với mục tiêu Việt Nam độc lập đã tan biến.
    VII - ?tiến tới đoàn kết cộng hoà & chống thực dân
    Sau ngày 9 tháng ba, một vài người Pháp quy phục ********* vì muốn trốn tránh sự đàn áp của quân Nhật. Borchers, Frey và Schröder cùng mấy ngàn binh sĩ bị Nhật bắt làm tù binh, lúc đầu bị giam trong thành Hà Nội, sau đó bị đưa lên trại ?otận diệt? gần Hoà Bình.[41] Họ bị lao đao vì bệnh kiết lị và thương hàn. Nhật Bản đầu hàng ngày 15 tháng tám, ********* tiến hành Cách mạng tháng Tám như một dòng thác lũ dân tộc chủ nghĩa. Schröder ghi : ?oNgười an-nam-mít đã trở thành người Việt Nam?.[42] Ngày 2 tháng 9, Hồ chủ tịch tuyên bố độc lập với mục đích xây dựng một quốc gia đoàn kết thành một khối thống nhất và thuần nhất.
    Các tù binh được trả tự do ngày 16 tháng 9. Frey-Schröder đã có nhiều cuộc họp với các đảng viên xã hội tập hợp chung quanh Louis Caput, có lẽ với sự thoả thuận ngầm của Jean Sainteny, với mục đích dùng các đảng viên chi bộ làm trung gian nhằm đưa chính phủ Hồ Chí Minh nhận thương lượng với các đại diện của Pháp có mặt tại chỗ, nhưng đại diện Pháp không chấp nhận độc lập là điều kiện tiên quyết ?" tối cùng, họ chỉ chấp nhận thảo luận về những phương thức đưa tới một nền độc lập trong tương lai. ?oHọ vẫn dùng chữ An-na-mít?, Frey nhận xét, ?ocòn chúng tôi nói: Người Việt Nam?.[43]
    Frey thu xếp với Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp để ông và hai bạn Walter Ullrich và Georges Wächter chuyển sang hàng ngũ Việt Nam, vì như lời Borchers, ?onơi đây, triết học sắp trở thành thực tiễn, và tôi có cảm tưởng họ sẽ cần tới chúng ta?.[44] Cuộc đào ngũ của họ được nguỵ trang thành một công tác gián điệp cho chính quyền Pháp (như Schröder viết) hay một công tác do Caput-Sainteny giao cho nhằm thuyết phục những người lãnh đạo ********* chịu thương lượng với Uỷ viên Cộng hoà Pháp ở Bắc Kì. Nhóm đồng chí đi ra khỏi Thành cổ Hà Nội trong một chiêc xe Buick cũ. Tôi mường tượng công cuộc mới này quyến rũ và kích động họ tới mức nào. Họ vừa sống sót sau một cuộc đại chiến, họ còn trẻ tuổi, và chắc mẩm đã tìm ra chính nghĩa...
    Đầu mùa thu 1945, Nhật đầu hàng và Việt Nam tuyên bố độc lập, người Pháp không còn có thể nói họ ở Đông Dương để đánh các lực lượng phát xít phương Đông như trước đó họ chiến đấu chống Đức quốc xã và chính quyền Quốc gia Pháp cô-la-bô. Nói như vậy chẳng ai tin. Từ nay, rõ ràng người Pháp là kẻ xâm lăng, chống lại những người yêu nước, những người quốc gia đang bảo vệ nền độc lập của đất nước; một cách nào đó, họ đã trở thành bọn Nazi của người Việt Nam và *********. Quân lính Pháp ngày càng thắc mắc, nghi hoặc : ?oTrước mặt họ, người ta nói thế, là Cộng sản; nhưng Cộng sản là như thế nào? Ở Pháp, chính đảng số 1 không phải là Cộng sản sao?... Có thể nào tin vào lời nói cửa miệng của bọn lãnh đạo tồi tệ như vậy không?... Có một điều họ chắc chắn : trước mặt họ, là những người Việt Nam chiến đấu cho độc lập của đất nước họ?.[45]
    Vì thế mà có một số, với những động cơ khác nhau, đã quyết định bước sang hàng ngũ ?obên kia?, trong đó có những quân nhân Nhật và những người trong lực lượng võ trang Pháp (trong đó phải kể những người Maroc, người Algérie) và một số dân sự. Họ mang tới cho ********* những tri thức quân sự và kĩ thuật. Frey có viết về những người lính Nhật đào ngũ mà Ban chấp hành Trung ương ĐCS Việt Nam sử dụng rất thận trọng vì nghi họ có thể làm gián điệp... Stefan Kubiak, một người Ba Lan táo bạo, tỏ ra là một người thợ máy cừ khôi, có biệt tài là ?ocái thú sửa chữa các vũ khí bị hư hỏng hay mới chiếm được của địch như đại bác, súng cối...?[46]. Tài sửa chữa thần thông của Kubiak rất có ích cho Việt Nam trong những năm đầu.
    Trong những người đổi hàng ngũ nói trên, có những người đã làm vì tinh thần đoàn kết xuyên quốc gia, họ ?ođã chọn một tổ quốc mới, tin tưởng vào nhân sinh quan và đường lối chính trị của tổ quốc mới ?" họ nói tới tổ quốc cũ như là nói tới một đất nước thù địch?.[47] Sau khi những người ?ophản quốc vì lí tưởng? ấy đã bước sang ?obên kia?, họ được tổng bí thư Trường Chinh phân công vào cơ quan tuyên truyền (riêng Walter Ullrich công tác trong quân đội, sau được phong hàm trung tá, dưới bí danh Hồ Chí Long; còn Georges Wächter tức Hồ Chí Thọ trước khi làm báo đã theo học trường kĩ sư ở Vienna, nên được sắp xếp làm công tác kĩ thuật và tổ chức). Schröder làm bình luận viên Đài phát thanh Tiếng Nói Việt Nam, còn Frey làm việc dưới quyền tướng Giáp, nghiên cứu quân sự và tổ chức những lớp học quân sự đầu tiên cho Quân đội Nhân dân. Borchers mang quân hàm trung tá, làm chính uỷ phụ trách tuyên truyền địch vận; ông có nhiệm vụ biên tập các tài liệu tuyên truyền tiếng Pháp và tiếng Đức, và từ năm 1951 trở đi, phụ trách tuyên huấn cho khối tù binh Lê Dương người Đức. Bộ ba Borchers, Frey và Schröder chuẩn bị xuất bản tuần báo La République (Cộng hoà), rồi Le Peuple (Nhân Dân) ?onhằm làm cho người Pháp thấy chính phủ Việt Nam và ********* không phải là phiến loạn mà là những tổ chức hợp pháp, dân chủ. Mọi mưu toan dùng võ lực tái chiếm sẽ được coi là vi phạm nhân quyền?.[48] Có lẽ những tờ báo này cũng nhắm cả giới độc giả thượng lưu Việt Nam biết tiếng Pháp.
    Báo Le Peuple ra từ ngày 7 tháng tư đến 26 tháng chín 1946; nó kêu gọi tất cả những người thiện chí hảy ủng hộ nền độc lập, sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, nghĩa là phản đối việc tách Nam Kì ra khỏi chủ quyền Việt Nam như Truman, Stalin và Churchill đã quyết định hồi tháng bảy-tám 1945 ở Potsdam. Các tiến sĩ người Đức (Jacques Doyon[49] đã gọi họ như vậy) viết báo dưới những bút hiệu: Frey thì kí tên là Nguyễn Dân, Borchers trở thành Chiến Sỹ, Schröder kí Lê Đức Nhân hay Walter R. Stephen; còn một người Đức nữa, Siegfried Wenzel, thì lấy bút hiệu Đức Việt. Họ trở thành những người Việt mới: ?onơi ấy từ nay là tương lai, là tiền đồ của tôi, tôi tin chắc ở điều đó?, sau này Frey đã viết như vậy, còn Schröder thì khẳng định: ?ocả ba chúng tôi đều coi Việt Nam là tưong lai của chúng tôi, và thật sự đã là đất nước của chúng tôi rồi?.[50]
    Chú thích :
    [32] Bản thảo đánh máy của Schröder 260 trang không tựa đề (MS), FMS, tr. 58
    [33] MS, p. 174
    [34] Lax-Giroud, Les Oubliés d?TAnnam, é***ion intégrale, Aire Libre, Dupuis (1990 et 1991) 2000, tr. 54-55
    [35] Ernst Frey, Vietnam mon amour. Ein Wiener Jude im Dienst von Hô Chi Minh, nhà xuất bản Doris Sottopietra, Vienne 22002, tr. 64 et 94. Frey muốn theo học hoá học kĩ thuật
    [36] như trên., tr. 118/119, 121, 170
    [37] Ferry Stern, Und ist es auch Wahnsinn, tr. 655. ?" Đây nguyên thuỷ là bản thảo 1216 tranh đánh máy của Frey, được FS biên tập và xuất bản..
    [38] Stern, sđd., tr. 692-726
    [39] Borchers, Lebenslauf, tr. 000010/11
    [40] Stern, sđd., tr. 704
    [41] Schröder, MS, tr. 113
    [42] như trên, tr. 117
    [43] Stern, sđd, tr. 793
    [44] Schröder, MS, tr. 58
    [45] Gérard Tongas, J?Tai vécu dans l?Tenfer communiste au Nord Viêt-Nam. Les nouvelles é***ions Debresse, Paris 1960, tr. 173
    [46] Arkady Fiedler, Im Lande der wilden Bananen, VEB F.A. Brockhaus Verlag, Leipzig 1959, tr. 170
    [47] Margret Boveri, Verrat im 2o. Jahrhundert, I ?" Für und gegen die Nation, Rowohlt, Hamburg 1956, tr.111
    [48] Frey, sđd., tr. 206
    [49] Jacques Doyon, Les Soldats Blancs de Hô Chi Minh, Fayard, Paris 1973
    [50] Frey, sđd., tr. 206; Schröder, MS, tr. 60
  6. Red_army_vn

    Red_army_vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/10/2004
    Bài viết:
    202
    Đã được thích:
    0
    VIII ?"Trở về
    Các nhà lãnh đạo của nước Việt Nam mới chủ yếu là những trí thức hay những nhà cách mạng chuyên nghiệp, phần đông đã học trường trung học Pháp-Việt và thạo tiếng Pháp, nhưng họ chưa bao giờ ( ở đây chỉ nói là chưa từng làm chứ không phải là không làm được các bác nhá ) là những nhà chiến lược quân sự, kĩ thuật viên, kinh tế gia hay những người tổ chức bộ máy hành chính. Vì vậy những người ngoại quốc từ bỏ hàng ngũ để đi theo kháng chiến, quân nhân cũng như dân sự, học cao và có khả năng kĩ thuật, trung thành với sự nghiệp kháng chiến và sẵn sàng hi sinh, đã được hoan nghênh tích cực, một số đã giữ những vị trí cao.
    Borchers, như đã nói trên, được cử làm chính uỷ, với quân hàm trung tá trong quân đội, phụ trách địch vận. Hữu Ngọc, nhà báo và nhà văn nổi tiếng, phụ trách khối ?ohàng binh? người Âu trong thời kì chiến tranh (dưới quyền chỉ huy của tướng Nguyễn Chí Thanh). Từ năm 1947, cùng với bạn là Borchers, đã ấn hành các tờ báo Waffenbrüder ?" Kampforgan der Deutschen im Dienste Viet-Nams và Frères d?Tarmes ?" Organe de Combat des Amis du Viet-Nam (Chiến hữu -- Cơ quan ngôn luận của những người Bạn của Việt Nam). Đến năm 1950, hai tờ này đổi tên thành Heimkehr và Retour (Trở về). Chiến Sỹ còn dạy tiếng Đức cho Hữu Ngọc, và ?onhất là văn hoá Đức!? (theo yêu cầu của Hữu Ngọc). Giữa thập niên 1950, Hữu Ngọc đã dịch các chuyện kể của anh em họ Grimm ra tiếng Việt ?" âu cũng là hệ quả thứ yếu của một cuộc chiến tranh ghê gớm từ đó đã nảy sinh những gì anh hùng, cao đẹp nhất cũng như những gì thú tính và tàn bạo nhất của con người.
    Sau trận Điện Biên Phủ, Borchers về Hà Nội công tác ở Bộ thông tin. Cuối thập niên 1950, làm thông tín viên cho ADN (Thông tấn xã Đông Đức), đồng thời cung cấp ?otin tức nội bộ? cho đại sứ quán CHDCĐ. Cho đến ngày nay, tên tuổi Chiến Sỹ vẫn còn là một huyền thoại, song, cũng như mọi huyền thoại, đương nhiên nó đã được gạn lọc, mọi ?othực tế phũ phàng? đều bị gạt ra để phục vụ lợi ích cách mạng... Georges Boudarel, bạn thâm giao của Borchers, đã kể lại cho tôi rằng Chiến Sỹ cũng đồng tình với ông trong thái độ phê phán ngày càng mạnh . Đúng là Borchers đã tiêm nhiễm tư tưởng xét lại từ năm 1956 lan truyền trong Đảng ?" Borchers và Boudarel đều bị quy kết là thành phần xét lại. Mặt khác, đối với các đại diện Đông Đức ở Hà Nội thì Borchers bị coi là quá Việt Nam, còn đối với người Việt Nam, tôi ngờ rằng Borchers vẫn bị coi như người nước ngoài. Tất cả những yếu tố ấy gộp lại đã góp phần đưa tới ý định trở về Âu châu, song những cuộc ném bom Mĩ bắt đầu ở miền Bắc mới là nguyên nhân quyết định: Borchers ngán sợ chiến tranh, ông nói thẳng với vợ con là ông không kham nổi thêm một cuộc chiến tranh nào nữa. Ứơc muốn của Borchers là về sống ở sinh quán là thành phố Strasbourg, nhưng Strasbourg thuộc lãnh thổ Pháp, mà đối với chính quyền Pháp ông là đào ngũ và phản quốc. Vì vậy, năm 1966, cùng với bà vợ và sáu trong số bảy người con, Borchers về sống ở Cộng hoà Dân chủ Đức. Tại đây, ông được xếp vào làm việc ở Ban Phi châu của Đài phát thanh quốc tế Berlin. Về mặt chính thức, Borchers được coi là một chiến sĩ chống phát xít và quốc tế chủ nghĩa, nhưng năm 1968, ông bị Đảng kỉ luật vì đã biểu lộ cảm tình với phong trào Mùa Xuân Praha. Một báo cáo của cơ quan Stasi hồi tháng tám 1968 ghi rằng Borchers thường tỏ ra ?okhông quán triệt đường lối của Đảng ta?, liên tục ?othắc mắc hoài nghi những mục tiêu? mà Đảng ( Đảng Cộng sản Đức ) đề ra.[51] Năm 1985, Borchers sang Tây Berlin ở đó cho đến ngày ông chết (bốn năm sau). Còn người vợ cũ của ông, thì cách đây (9-2004) vài tuần, đã từ trần tại Berlin.
    Ernst Frey tham gia *********, được cử làm cố vấn quân sự cho tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp (các bạn của Frey, trong các thư từ trao đổi, thường gọi ông là Gottöberst, tức là người ở bên cạnh Thượng đế) và cho một nhân vật huyền thoại là tướng Nguyễn Sơn . Khi được trao nhiệm vụ phụ trách Khu IX là khu vực bảo vệ ATK (An toàn khu, cơ sở của các cơ quan trung ương Đảng và Chính phủ), Frey trở thành uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng. Là một người ham thích quyền lực, đến năm 1949-50, khi các cố vấn Trung Quốc xuất hiện, Frey không thể không nhận ra rằng mình không còn cần thiết đối với ********* như hồi 1945. Trong bản thảo để lại, Frey kể lại nỗi tuyệt vọng của mình trước bầu không khí ấy. Cũng cần nói thêm: chính Frey đã ra lệnh (cho Walter Ullrich tức Hồ Chí Long) xử tử hai cựu binh lê dương bị tình nghi. Nhưng, như tôi đã nhấn mạnh ở phần trên, Frey mang nặng mặc cảm ?ocứu thế? ?" ông toàn tâm toàn ý hiến thân cho giấc mộng ý thức hệ là cải tạo thế giới, một thế giới mà ông cho là ?otính bản ác?. Căn bệnh cuồng loạn hưng phấn (hystérie enthousiaste) ấy ở Frey là do di truyền từ bà mẹ. Frey là một thứ tu sĩ thừa sai, tin tưởng ở ngày Tận thế gần kề, thậm chí, như ông đã kể lại cuộc đấu tranh với quỷ dữ cho Pierre Sergent : ?oTôi nhìn thấy mình đang vật lộn với bọn ác quỷ ngự trị để giải thoát nhân loại, như chúa Jesus vậy... Tôi biết, tôi ngộ?.[52] Ông tự nhiên thấy những ảo ảnh hiển linh, bị mặc cảm tội lỗi dằn vặt, trong lòng như bị quỷ ám, và quyết tâm đi tìm sự cứu rỗi ?" cứu mình thoát khỏi chính mình, hay thoát khỏi một tình cảnh không lối thoát ? ?" trong sự tân tòng Công giáo. Tại Việt Nam, tôi được nghe kể là Frey trở thành vĩ cuồng, rồi phát điên. Tháng năm 1951, ông lên đường về Áo. Vài năm sau, trở thành con chiên sùng đạo. Vốn là người nhiệt tâm, tất nhiên ông phục vụ say sưa cho Giáo hội công giáo, ?ongoài Giáo hội, không thể có cứu rỗi?.
    Như vậy là khi nhận thấy trong hàng ngũ *********, mình đã mất dần ảnh hưởng và trở thành vô dụng, Frey đã ?ophát điên?. Để tìm ra đáp án cho một thực tế quá đớn đau, ông đã chọn giải pháp tín ngưỡng. Đó cũng là cách giải quyết cùng một lúc hai vấn đề: rời Việt Nam và trở về nước. Thật vậy, tôi tự hỏi, muốn trở về và được chấp nhận, trong tình cảnh của E. Frey, phải chăng chỉ có một cách là trở về như một người ?okhác? ?" ?okhác? con người trước kia phải ra đi vì bị ruồng bỏ ?" cụ thể là trở về như một tín đồ Công giáo sùng đạo. ?~Giải pháp?T này có ưu điểm là nó thoả mãn truyền thống văn hoá thống trị của nước Áo. Bằng sự ?~tái sinh?T trong niềm tin Công giáo, Frey có thể tìm ra chỗ đứng trong xã hội Vienna. Ở một cấp độ khác, theo đạo còn là cách tiếp tục cuộc thánh chiến thường trực mà ông đeo đuổi là giải thoát thế gian khỏi sự ngự trị của cái Ác.
    Về tới Vienna năm 1951, Frey đến trụ sở Đảng cộng sản để báo cáo về các hoạt động và chiến tích của mình từ năm 1938. Rồi ông lấy vợ, sinh được hai đứa con gái, sống bằng nghề đi chào hàng may dệt. Tại Vienna, quây quần chung quanh Frey là cả một lứa thanh niên say mê nghe ông kể chuyện quá khứ, coi ông là cha đẻ tinh thần, là mẫu mực chính trị. Chưa hết. Công việc chào hàng nay đây mai đó, đưa ông đi khắp các miền nước Áo và nước Đức, cũng là cơ may để ông thoát ra khỏi kiếp sống tiểu tư sản và thân phận một người kể chuyện. Thật ra, Frey có máu cờ bạc, đi chào hàng cũng là dịp đi khắp các sòng bạc. Trên thảm xanh của sòng bạc, chẳng hạn như sòng bạc Baden-Baden, nửa say nửa tỉnh, ông muốn tìm lại những cảm giác mạnh của những cuộc phiêu lưu mạo hiểm đã lùi vào quá vãng, mà nay ông muốn tái tạo trên chiếu bạc dưới con mắt dò xét của hồ lì. Vào những năm cuối đời, Frey bỏ đạo để hoạt động bảo vệ môi trường, rồi lại đùng đùng bỏ đảng xanh, về làm đầu bếp tại xứ đạo của một người bạn là linh mục Faust, làm việc quần quật để trang trải những món nợ sòng bạc. Ông từ trần năm 1994 tại Vienna, với lời trối trăng để lại cho hai người con gái: ?oCác con phải xuất bản cho được cuốn sách của bố?.
    Còn đối với Rudy Schröder, xác tín duy nhất của ông là sự phi lí của cuộc sống: không phải tình cờ mà ông đã nghiền ngẫm tác phẩm L?TÊtre et le Néant (*). Trong thư viết ngày 29 tháng năm 1946 cho vợ, ông đề cập tới khả năng hai vợ chồng sẽ sinh sống ở Việt Nam. Tháng chạp 1946, khi chiến tranh bùng nổ, Schröder được phong trung tá, và tình nguyện xin ra tiền tuyến. Ngày 9 tháng tư 1948, tướng Giáp (bí danh Văn) viết thư mừng chiến công của Schröder : ?oJ?Tapprends avec joie ton retour. Et avec beaucoup de plaisir le joli coup de main que tu as dirigé contre les Tho Phi? Cordialement ton Van.?[53] (dịch từ nguyên bản tiếng Pháp : ?oTôi vui mừng được tin anh trở về [từ tiền tuyến]. Và rất thú vị thấy anh đã giáng cho bọn thổ phỉ một cú ngoạn mục... Thân mến, Văn?). Sau đó, ông được phân công làm địch vận. Tham gia mặt trận Lạng Sơn, ông được trao nhiệm vụ chỉ huy Biệt đội Tell, một thứ quân Lê Dương của Việt Nam, gồm những tù binh đã tình nguyện thành hàng binh. Khuôn khổ bài này không cho phép tôi đề cập tới các vấn đề liên quan tới đơn vị này ?" vả lại nó không được vũ trang đầy đủ, ăn mặc thiếu thốn, nhiệm vụ vạch ra không rõ ràng, nên chẳng mấy lúc đã thất vọng... một chứng nhân của thời kì này, hoạ sĩ kiêm nhà văn Trần Duy, cho tôi biết những người lính lê dương cũ này đã trở thành mối hoạ cho dân chúng địa phương, cưỡng hiếp đàn bà con gái, giết cả trâu cày của nông dân.[54] Schröder tin chắc là đã xảy ra một cuộc bạo loạn và âm mưu quay về phía Pháp, nên đã thành lập toà án quân sự và cho xử tử hình sáu người mặc dầu trong bản khai lí lịch tháng mười một 1951, ông thừa nhận rằng ?oquyết định này vượt quá quyền hạn sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam của tôi?.[55] Ông bị Đảng phê bình .
    Các cuốn nhật kí viết ở Việt Bắc của Schröder là nguồn tư liệu quý giá giúp ta hiểu nhiều điều, đặc biệt là mối quan hệ giữa hàng binh người Âu và các đồng chí Việt Nam của họ. Tháng tám 1951 ông rời Việt Nam, tháng mười một về tới Cộng hoà Dân chủ Đức, dạy Đức văn và lịch sử trong một trường trung học ở thành phố Dresden. Năm 1953, ông kí hợp đồng làm việt cho cơ quan mật vụ Stasi.[56] Nhiệm vụ của ông là báo cáo về ?onhững phần tử tiêu biểu trong giới trí thức?, nghĩa là về những đồng nghiệp và học trò của mình, cũng như về bạn bè cũ trong đội quân Lê Dương. Tôi đã được đọc những bản báo cáo này và có thể kết luận Schröder không hề tố cáo ai cả.(?) Vào cuối thập niên 1950, ông bị ?okhó khăn chính trị? và mất việc. Sau đó ông làm thợ tiện trong nhà máy; cuối năm 1959 cùng với người vợ trẻ, sang Tây Đức. Hi vọng làm báo không thành, cuối cùng Schröder phải nhận một chỗ dạy Pháp văn tại một trường tư ở Frankfurt trên sông Main với đồng lương bạc bẽo. Tháng giêng 1977, ông chết trong cô đơn, tuyệt vọng, nhưng đến giờ phút cuối cùng, Schröder vẫn tiếp tục viết.
    Tình cảnh của Frey, Borchers và Schröder của con người sống giữa hai trận tuyến, Zwischenfrontmensch.
    (?)Cuối cùng, cái gọi là mối mâu thuần ?ohiện sinh? giữa những người dân thuộc địa và những người da trắng khiến cho người ta không thể tín nhiệm người Âu[57] bởi vì họ sống ?okhông hài hoà? với quê hương hay với bản sắc của họ; trong con mắt Việt Nam, họ sẽ không bao giờ vượt qua được mâu thuẫn cơ bản đó, đơn giản vì họ không phải là người Việt !
    (?)Trong cuộc gặp ở Ban chấp hành Trung ương ngày 15 tháng tám 1950, anh Thận (tức là Trường Chinh) đánh giá họ là ?othiếu bồi dưỡng về mặt tư tưởng, và có biểu hiện... chủ nghĩa sô-vanh?. Schröder coi câu nói đó là một lời Hinauswurf, cho ?ovề chơi xơi nước?.[58] Phải nói là ở thời điểm ấy, nhiệt tình cách mạng của mùa thu 1945 nhờ đó họ (những người nước ngoài ) gắn bó khắng khít với nhau trong mấy năm trời nay đã nguội lạnh. Cuối năm 1950, Frey, Schröder, Borchers, Wächter và Ullrich ăn mừng Lễ giáng sinh với nhau và từ năm 1954 trở về sau, chỉ vài ba người Âu còn ở lại Việt Nam...
    Nói theo hình tượng của Adorno, Frey Schröder và Borchers xuất thân từ ?ocuộc đời thương tổn?. Họ là những con người bị bầm giập, mang đầy thương tích, bị bứt khỏi những ước vọng gia đình, sự nghiệp, dân tộc, bị ném vào một thế giới thù nghịch và phi lí. Trong cơ ngũ Lê Dương, cái không khí ?ođại đồng?, những ?otận tâm, tình đồng đội, cảm giác mạnh mẽ?[59] chỉ có trong những tờ rơi tuyên truyền tuyển mộ, và hoàn toàn vắng bóng trong thực tế hàng ngày làm bằng sự tuân phục, bạo hành và đơn điệu ?" vả lại, họ là những người lính ở ngoài mọi khuôn mẫu. Cách mạng ********* hiện ra trong mắt những con người đang thèm khát hành động vì chính nghĩa ấy như một dự phóng về tiến bộ thuận chiều lịch sử, đồng thời hứa hẹn mang lại cho họ một quê hương, tổ quốc. Họ sẵn sàng thuần phục cá tính vì giấc mơ kiến tạo một xã hội nhân bản hơn .(?)
    Song họ vẫn ở ?ogiữa hai trận tuyến?. Schröder, Frey và Borchers là những người tranh đấu và những trí thức. Tranh đấu và chiến đấu ngoài mặt trận không phải do tạng người hay tâm tính, mà là do hoàn cảnh lịch sử đưa đẩy. Dẫu sao, hành trình của họ cũng phù hợp với truyền thống nho sĩ / tráng sĩ Việt Nam mà tiêu biểu là Nguyễn Trãi (1380-1442), ?~ bên trung bên hiếu, đã chọn chữ trung ?~. Qua trải nghiệm thực tiễn, họ phân tích nghĩa quốc gia (xã hội) và từ đó dấn thân vào cuộc đấu tranh chống thực dân.
    Heinz Schütte
    Paris, 24 décembre 2003
    Chú thích :
    (*) Hiện hữu và Hư vô, tác phẩm triết học của Jean-Paul Sartre (công bố năm 1943). Theo Heinz Schütte, một thành viên của phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sang Pháp dự Hội nghị Fontainebleau (mùa hè 1946), bạn của Rudy Schröder, đã mang về Hà Nội cho ông một bản (chú thích của N.D.)
    [51] B St U : MfS FV 2/71, tr. 000011
    [52] Pierre Sergent, Un Étrange Monsieur Frey, Fayard, Paris 1982, tr. 305, 309
    [53] FMS
    [54] Hỏi chuyện Trần Duy, Hà Nội, ngày 18 tháng mười 2002
    [55] Lebenslauf, tr. 000062. ?" Trong các hồ sơ của Stasi, có nhiều lính Lê Dương cũ tố cáo Schröder? Trong một cuốn sổ nhật kí nhỏ tí, S ghi trong khi thi hành kỉ luật, biệt đội ?~T?T không có biểu hiện hoảng loạn , và hôm sau : Từ 7g đến 4g chiều, viết ?~tự bạch?T và thư gửi TW , 11 và 12 tháng sáu 1949.
    [56] B St U: Ddn. AIM 808/59 ?" Personalakte
    [57] Hỏi chuyện Hữu Ngọc, Hà Nội, ngày 18 tháng năm 1999.
    [58] Nhật kí Schröder ngày 18 tháng tám 1950
    [59] Boveri, I, sđd., tr. 35
  7. Red_army_vn

    Red_army_vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/10/2004
    Bài viết:
    202
    Đã được thích:
    0
    VIII ?"Trở về
    Các nhà lãnh đạo của nước Việt Nam mới chủ yếu là những trí thức hay những nhà cách mạng chuyên nghiệp, phần đông đã học trường trung học Pháp-Việt và thạo tiếng Pháp, nhưng họ chưa bao giờ ( ở đây chỉ nói là chưa từng làm chứ không phải là không làm được các bác nhá ) là những nhà chiến lược quân sự, kĩ thuật viên, kinh tế gia hay những người tổ chức bộ máy hành chính. Vì vậy những người ngoại quốc từ bỏ hàng ngũ để đi theo kháng chiến, quân nhân cũng như dân sự, học cao và có khả năng kĩ thuật, trung thành với sự nghiệp kháng chiến và sẵn sàng hi sinh, đã được hoan nghênh tích cực, một số đã giữ những vị trí cao.
    Borchers, như đã nói trên, được cử làm chính uỷ, với quân hàm trung tá trong quân đội, phụ trách địch vận. Hữu Ngọc, nhà báo và nhà văn nổi tiếng, phụ trách khối ?ohàng binh? người Âu trong thời kì chiến tranh (dưới quyền chỉ huy của tướng Nguyễn Chí Thanh). Từ năm 1947, cùng với bạn là Borchers, đã ấn hành các tờ báo Waffenbrüder ?" Kampforgan der Deutschen im Dienste Viet-Nams và Frères d?Tarmes ?" Organe de Combat des Amis du Viet-Nam (Chiến hữu -- Cơ quan ngôn luận của những người Bạn của Việt Nam). Đến năm 1950, hai tờ này đổi tên thành Heimkehr và Retour (Trở về). Chiến Sỹ còn dạy tiếng Đức cho Hữu Ngọc, và ?onhất là văn hoá Đức!? (theo yêu cầu của Hữu Ngọc). Giữa thập niên 1950, Hữu Ngọc đã dịch các chuyện kể của anh em họ Grimm ra tiếng Việt ?" âu cũng là hệ quả thứ yếu của một cuộc chiến tranh ghê gớm từ đó đã nảy sinh những gì anh hùng, cao đẹp nhất cũng như những gì thú tính và tàn bạo nhất của con người.
    Sau trận Điện Biên Phủ, Borchers về Hà Nội công tác ở Bộ thông tin. Cuối thập niên 1950, làm thông tín viên cho ADN (Thông tấn xã Đông Đức), đồng thời cung cấp ?otin tức nội bộ? cho đại sứ quán CHDCĐ. Cho đến ngày nay, tên tuổi Chiến Sỹ vẫn còn là một huyền thoại, song, cũng như mọi huyền thoại, đương nhiên nó đã được gạn lọc, mọi ?othực tế phũ phàng? đều bị gạt ra để phục vụ lợi ích cách mạng... Georges Boudarel, bạn thâm giao của Borchers, đã kể lại cho tôi rằng Chiến Sỹ cũng đồng tình với ông trong thái độ phê phán ngày càng mạnh . Đúng là Borchers đã tiêm nhiễm tư tưởng xét lại từ năm 1956 lan truyền trong Đảng ?" Borchers và Boudarel đều bị quy kết là thành phần xét lại. Mặt khác, đối với các đại diện Đông Đức ở Hà Nội thì Borchers bị coi là quá Việt Nam, còn đối với người Việt Nam, tôi ngờ rằng Borchers vẫn bị coi như người nước ngoài. Tất cả những yếu tố ấy gộp lại đã góp phần đưa tới ý định trở về Âu châu, song những cuộc ném bom Mĩ bắt đầu ở miền Bắc mới là nguyên nhân quyết định: Borchers ngán sợ chiến tranh, ông nói thẳng với vợ con là ông không kham nổi thêm một cuộc chiến tranh nào nữa. Ứơc muốn của Borchers là về sống ở sinh quán là thành phố Strasbourg, nhưng Strasbourg thuộc lãnh thổ Pháp, mà đối với chính quyền Pháp ông là đào ngũ và phản quốc. Vì vậy, năm 1966, cùng với bà vợ và sáu trong số bảy người con, Borchers về sống ở Cộng hoà Dân chủ Đức. Tại đây, ông được xếp vào làm việc ở Ban Phi châu của Đài phát thanh quốc tế Berlin. Về mặt chính thức, Borchers được coi là một chiến sĩ chống phát xít và quốc tế chủ nghĩa, nhưng năm 1968, ông bị Đảng kỉ luật vì đã biểu lộ cảm tình với phong trào Mùa Xuân Praha. Một báo cáo của cơ quan Stasi hồi tháng tám 1968 ghi rằng Borchers thường tỏ ra ?okhông quán triệt đường lối của Đảng ta?, liên tục ?othắc mắc hoài nghi những mục tiêu? mà Đảng ( Đảng Cộng sản Đức ) đề ra.[51] Năm 1985, Borchers sang Tây Berlin ở đó cho đến ngày ông chết (bốn năm sau). Còn người vợ cũ của ông, thì cách đây (9-2004) vài tuần, đã từ trần tại Berlin.
    Ernst Frey tham gia *********, được cử làm cố vấn quân sự cho tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp (các bạn của Frey, trong các thư từ trao đổi, thường gọi ông là Gottöberst, tức là người ở bên cạnh Thượng đế) và cho một nhân vật huyền thoại là tướng Nguyễn Sơn . Khi được trao nhiệm vụ phụ trách Khu IX là khu vực bảo vệ ATK (An toàn khu, cơ sở của các cơ quan trung ương Đảng và Chính phủ), Frey trở thành uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng. Là một người ham thích quyền lực, đến năm 1949-50, khi các cố vấn Trung Quốc xuất hiện, Frey không thể không nhận ra rằng mình không còn cần thiết đối với ********* như hồi 1945. Trong bản thảo để lại, Frey kể lại nỗi tuyệt vọng của mình trước bầu không khí ấy. Cũng cần nói thêm: chính Frey đã ra lệnh (cho Walter Ullrich tức Hồ Chí Long) xử tử hai cựu binh lê dương bị tình nghi. Nhưng, như tôi đã nhấn mạnh ở phần trên, Frey mang nặng mặc cảm ?ocứu thế? ?" ông toàn tâm toàn ý hiến thân cho giấc mộng ý thức hệ là cải tạo thế giới, một thế giới mà ông cho là ?otính bản ác?. Căn bệnh cuồng loạn hưng phấn (hystérie enthousiaste) ấy ở Frey là do di truyền từ bà mẹ. Frey là một thứ tu sĩ thừa sai, tin tưởng ở ngày Tận thế gần kề, thậm chí, như ông đã kể lại cuộc đấu tranh với quỷ dữ cho Pierre Sergent : ?oTôi nhìn thấy mình đang vật lộn với bọn ác quỷ ngự trị để giải thoát nhân loại, như chúa Jesus vậy... Tôi biết, tôi ngộ?.[52] Ông tự nhiên thấy những ảo ảnh hiển linh, bị mặc cảm tội lỗi dằn vặt, trong lòng như bị quỷ ám, và quyết tâm đi tìm sự cứu rỗi ?" cứu mình thoát khỏi chính mình, hay thoát khỏi một tình cảnh không lối thoát ? ?" trong sự tân tòng Công giáo. Tại Việt Nam, tôi được nghe kể là Frey trở thành vĩ cuồng, rồi phát điên. Tháng năm 1951, ông lên đường về Áo. Vài năm sau, trở thành con chiên sùng đạo. Vốn là người nhiệt tâm, tất nhiên ông phục vụ say sưa cho Giáo hội công giáo, ?ongoài Giáo hội, không thể có cứu rỗi?.
    Như vậy là khi nhận thấy trong hàng ngũ *********, mình đã mất dần ảnh hưởng và trở thành vô dụng, Frey đã ?ophát điên?. Để tìm ra đáp án cho một thực tế quá đớn đau, ông đã chọn giải pháp tín ngưỡng. Đó cũng là cách giải quyết cùng một lúc hai vấn đề: rời Việt Nam và trở về nước. Thật vậy, tôi tự hỏi, muốn trở về và được chấp nhận, trong tình cảnh của E. Frey, phải chăng chỉ có một cách là trở về như một người ?okhác? ?" ?okhác? con người trước kia phải ra đi vì bị ruồng bỏ ?" cụ thể là trở về như một tín đồ Công giáo sùng đạo. ?~Giải pháp?T này có ưu điểm là nó thoả mãn truyền thống văn hoá thống trị của nước Áo. Bằng sự ?~tái sinh?T trong niềm tin Công giáo, Frey có thể tìm ra chỗ đứng trong xã hội Vienna. Ở một cấp độ khác, theo đạo còn là cách tiếp tục cuộc thánh chiến thường trực mà ông đeo đuổi là giải thoát thế gian khỏi sự ngự trị của cái Ác.
    Về tới Vienna năm 1951, Frey đến trụ sở Đảng cộng sản để báo cáo về các hoạt động và chiến tích của mình từ năm 1938. Rồi ông lấy vợ, sinh được hai đứa con gái, sống bằng nghề đi chào hàng may dệt. Tại Vienna, quây quần chung quanh Frey là cả một lứa thanh niên say mê nghe ông kể chuyện quá khứ, coi ông là cha đẻ tinh thần, là mẫu mực chính trị. Chưa hết. Công việc chào hàng nay đây mai đó, đưa ông đi khắp các miền nước Áo và nước Đức, cũng là cơ may để ông thoát ra khỏi kiếp sống tiểu tư sản và thân phận một người kể chuyện. Thật ra, Frey có máu cờ bạc, đi chào hàng cũng là dịp đi khắp các sòng bạc. Trên thảm xanh của sòng bạc, chẳng hạn như sòng bạc Baden-Baden, nửa say nửa tỉnh, ông muốn tìm lại những cảm giác mạnh của những cuộc phiêu lưu mạo hiểm đã lùi vào quá vãng, mà nay ông muốn tái tạo trên chiếu bạc dưới con mắt dò xét của hồ lì. Vào những năm cuối đời, Frey bỏ đạo để hoạt động bảo vệ môi trường, rồi lại đùng đùng bỏ đảng xanh, về làm đầu bếp tại xứ đạo của một người bạn là linh mục Faust, làm việc quần quật để trang trải những món nợ sòng bạc. Ông từ trần năm 1994 tại Vienna, với lời trối trăng để lại cho hai người con gái: ?oCác con phải xuất bản cho được cuốn sách của bố?.
    Còn đối với Rudy Schröder, xác tín duy nhất của ông là sự phi lí của cuộc sống: không phải tình cờ mà ông đã nghiền ngẫm tác phẩm L?TÊtre et le Néant (*). Trong thư viết ngày 29 tháng năm 1946 cho vợ, ông đề cập tới khả năng hai vợ chồng sẽ sinh sống ở Việt Nam. Tháng chạp 1946, khi chiến tranh bùng nổ, Schröder được phong trung tá, và tình nguyện xin ra tiền tuyến. Ngày 9 tháng tư 1948, tướng Giáp (bí danh Văn) viết thư mừng chiến công của Schröder : ?oJ?Tapprends avec joie ton retour. Et avec beaucoup de plaisir le joli coup de main que tu as dirigé contre les Tho Phi? Cordialement ton Van.?[53] (dịch từ nguyên bản tiếng Pháp : ?oTôi vui mừng được tin anh trở về [từ tiền tuyến]. Và rất thú vị thấy anh đã giáng cho bọn thổ phỉ một cú ngoạn mục... Thân mến, Văn?). Sau đó, ông được phân công làm địch vận. Tham gia mặt trận Lạng Sơn, ông được trao nhiệm vụ chỉ huy Biệt đội Tell, một thứ quân Lê Dương của Việt Nam, gồm những tù binh đã tình nguyện thành hàng binh. Khuôn khổ bài này không cho phép tôi đề cập tới các vấn đề liên quan tới đơn vị này ?" vả lại nó không được vũ trang đầy đủ, ăn mặc thiếu thốn, nhiệm vụ vạch ra không rõ ràng, nên chẳng mấy lúc đã thất vọng... một chứng nhân của thời kì này, hoạ sĩ kiêm nhà văn Trần Duy, cho tôi biết những người lính lê dương cũ này đã trở thành mối hoạ cho dân chúng địa phương, cưỡng hiếp đàn bà con gái, giết cả trâu cày của nông dân.[54] Schröder tin chắc là đã xảy ra một cuộc bạo loạn và âm mưu quay về phía Pháp, nên đã thành lập toà án quân sự và cho xử tử hình sáu người mặc dầu trong bản khai lí lịch tháng mười một 1951, ông thừa nhận rằng ?oquyết định này vượt quá quyền hạn sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam của tôi?.[55] Ông bị Đảng phê bình .
    Các cuốn nhật kí viết ở Việt Bắc của Schröder là nguồn tư liệu quý giá giúp ta hiểu nhiều điều, đặc biệt là mối quan hệ giữa hàng binh người Âu và các đồng chí Việt Nam của họ. Tháng tám 1951 ông rời Việt Nam, tháng mười một về tới Cộng hoà Dân chủ Đức, dạy Đức văn và lịch sử trong một trường trung học ở thành phố Dresden. Năm 1953, ông kí hợp đồng làm việt cho cơ quan mật vụ Stasi.[56] Nhiệm vụ của ông là báo cáo về ?onhững phần tử tiêu biểu trong giới trí thức?, nghĩa là về những đồng nghiệp và học trò của mình, cũng như về bạn bè cũ trong đội quân Lê Dương. Tôi đã được đọc những bản báo cáo này và có thể kết luận Schröder không hề tố cáo ai cả.(?) Vào cuối thập niên 1950, ông bị ?okhó khăn chính trị? và mất việc. Sau đó ông làm thợ tiện trong nhà máy; cuối năm 1959 cùng với người vợ trẻ, sang Tây Đức. Hi vọng làm báo không thành, cuối cùng Schröder phải nhận một chỗ dạy Pháp văn tại một trường tư ở Frankfurt trên sông Main với đồng lương bạc bẽo. Tháng giêng 1977, ông chết trong cô đơn, tuyệt vọng, nhưng đến giờ phút cuối cùng, Schröder vẫn tiếp tục viết.
    Tình cảnh của Frey, Borchers và Schröder của con người sống giữa hai trận tuyến, Zwischenfrontmensch.
    (?)Cuối cùng, cái gọi là mối mâu thuần ?ohiện sinh? giữa những người dân thuộc địa và những người da trắng khiến cho người ta không thể tín nhiệm người Âu[57] bởi vì họ sống ?okhông hài hoà? với quê hương hay với bản sắc của họ; trong con mắt Việt Nam, họ sẽ không bao giờ vượt qua được mâu thuẫn cơ bản đó, đơn giản vì họ không phải là người Việt !
    (?)Trong cuộc gặp ở Ban chấp hành Trung ương ngày 15 tháng tám 1950, anh Thận (tức là Trường Chinh) đánh giá họ là ?othiếu bồi dưỡng về mặt tư tưởng, và có biểu hiện... chủ nghĩa sô-vanh?. Schröder coi câu nói đó là một lời Hinauswurf, cho ?ovề chơi xơi nước?.[58] Phải nói là ở thời điểm ấy, nhiệt tình cách mạng của mùa thu 1945 nhờ đó họ (những người nước ngoài ) gắn bó khắng khít với nhau trong mấy năm trời nay đã nguội lạnh. Cuối năm 1950, Frey, Schröder, Borchers, Wächter và Ullrich ăn mừng Lễ giáng sinh với nhau và từ năm 1954 trở về sau, chỉ vài ba người Âu còn ở lại Việt Nam...
    Nói theo hình tượng của Adorno, Frey Schröder và Borchers xuất thân từ ?ocuộc đời thương tổn?. Họ là những con người bị bầm giập, mang đầy thương tích, bị bứt khỏi những ước vọng gia đình, sự nghiệp, dân tộc, bị ném vào một thế giới thù nghịch và phi lí. Trong cơ ngũ Lê Dương, cái không khí ?ođại đồng?, những ?otận tâm, tình đồng đội, cảm giác mạnh mẽ?[59] chỉ có trong những tờ rơi tuyên truyền tuyển mộ, và hoàn toàn vắng bóng trong thực tế hàng ngày làm bằng sự tuân phục, bạo hành và đơn điệu ?" vả lại, họ là những người lính ở ngoài mọi khuôn mẫu. Cách mạng ********* hiện ra trong mắt những con người đang thèm khát hành động vì chính nghĩa ấy như một dự phóng về tiến bộ thuận chiều lịch sử, đồng thời hứa hẹn mang lại cho họ một quê hương, tổ quốc. Họ sẵn sàng thuần phục cá tính vì giấc mơ kiến tạo một xã hội nhân bản hơn .(?)
    Song họ vẫn ở ?ogiữa hai trận tuyến?. Schröder, Frey và Borchers là những người tranh đấu và những trí thức. Tranh đấu và chiến đấu ngoài mặt trận không phải do tạng người hay tâm tính, mà là do hoàn cảnh lịch sử đưa đẩy. Dẫu sao, hành trình của họ cũng phù hợp với truyền thống nho sĩ / tráng sĩ Việt Nam mà tiêu biểu là Nguyễn Trãi (1380-1442), ?~ bên trung bên hiếu, đã chọn chữ trung ?~. Qua trải nghiệm thực tiễn, họ phân tích nghĩa quốc gia (xã hội) và từ đó dấn thân vào cuộc đấu tranh chống thực dân.
    Heinz Schütte
    Paris, 24 décembre 2003
    Chú thích :
    (*) Hiện hữu và Hư vô, tác phẩm triết học của Jean-Paul Sartre (công bố năm 1943). Theo Heinz Schütte, một thành viên của phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sang Pháp dự Hội nghị Fontainebleau (mùa hè 1946), bạn của Rudy Schröder, đã mang về Hà Nội cho ông một bản (chú thích của N.D.)
    [51] B St U : MfS FV 2/71, tr. 000011
    [52] Pierre Sergent, Un Étrange Monsieur Frey, Fayard, Paris 1982, tr. 305, 309
    [53] FMS
    [54] Hỏi chuyện Trần Duy, Hà Nội, ngày 18 tháng mười 2002
    [55] Lebenslauf, tr. 000062. ?" Trong các hồ sơ của Stasi, có nhiều lính Lê Dương cũ tố cáo Schröder? Trong một cuốn sổ nhật kí nhỏ tí, S ghi trong khi thi hành kỉ luật, biệt đội ?~T?T không có biểu hiện hoảng loạn , và hôm sau : Từ 7g đến 4g chiều, viết ?~tự bạch?T và thư gửi TW , 11 và 12 tháng sáu 1949.
    [56] B St U: Ddn. AIM 808/59 ?" Personalakte
    [57] Hỏi chuyện Hữu Ngọc, Hà Nội, ngày 18 tháng năm 1999.
    [58] Nhật kí Schröder ngày 18 tháng tám 1950
    [59] Boveri, I, sđd., tr. 35
  8. Red_army_vn

    Red_army_vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/10/2004
    Bài viết:
    202
    Đã được thích:
    0

    Từ trái qua phải:
    Ngồi: Phạm Văn Đồng, Erwin Borchers / Chiến Sỹ, Ernst Frey / Nguyễn Dân, Võ Nguyên Giáp, Đặng Bích Hà (vợ tướng Giáp) ; Đứng : Lưu Văn Lợi, X, X, Rudy Schröder / Lê Đức Nhân (Bộ ảnh sưu tầm của H. Schütte)​
    Từ trái sang phải:
    Dương Bạch Mai, Ernst Frey / Nguyễn Dân, Trường Chinh, X,
    Georges Wächter / Hồ Chí Thọ, Rudy Schröder / Lê Đức Nhân
    (Bộ ảnh sưu tầm của H. Schütte)​
  9. Red_army_vn

    Red_army_vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/10/2004
    Bài viết:
    202
    Đã được thích:
    0

    Từ trái qua phải:
    Ngồi: Phạm Văn Đồng, Erwin Borchers / Chiến Sỹ, Ernst Frey / Nguyễn Dân, Võ Nguyên Giáp, Đặng Bích Hà (vợ tướng Giáp) ; Đứng : Lưu Văn Lợi, X, X, Rudy Schröder / Lê Đức Nhân (Bộ ảnh sưu tầm của H. Schütte)​
    Từ trái sang phải:
    Dương Bạch Mai, Ernst Frey / Nguyễn Dân, Trường Chinh, X,
    Georges Wächter / Hồ Chí Thọ, Rudy Schröder / Lê Đức Nhân
    (Bộ ảnh sưu tầm của H. Schütte)​
  10. Red_army_vn

    Red_army_vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/10/2004
    Bài viết:
    202
    Đã được thích:
    0
    Dưới đây là tâm sự của con gái Erwin Borchers , một người Đức đã nói ở trên , kèm theo là lời bình của trang web giới thiệu bài viết này , trước khi post tôi đã lược một số đoạn nhưng không nhiều :
    "
    Trong dòng xoáy của lịch sử Việt Nam thế kỉ vừa rồi có những số phận là tụ điểm của mọi xung đột và vận động của thời đại, song thời đại dường như không muốn nhớ đến. Erwin Borchers, một người Đức, mang tên Việt do Hồ Chủ Tịch đặt là Chiến Sĩ, thuộc về số ấy.
    Sinh năm 1906 tại StraYburg (ElsaY) khi ấy còn thuộc Đức, theo học văn chương Đức và Pháp, ông sớm gia nhập Đảng Dân Chủ Xã Hội Đức và tham gia các hoạt động chống phát-xít, để cuối cùng phải sang Pháp, trốn sự truy bức của chính quyền Quốc Xã. Tại Pháp, lại bị quản chế vì bị tình nghi là gián điệp Đức, năm 1939 ông chọn con đường gia nhập quân đoàn lê dương của Pháp để thoát tù đầy và hi vọng đứng dưới ngọn cờ Pháp chống lại Đức phát-xít. Nhưng sau 2 năm ở Algérie rồi sang Đông Dương, thất vọng về mục tiêu tái chiếm Việt Nam làm thuộc địa của Pháp, ông cùng Rudolf Schröder, một trí thức cánh tả Đức, và Ernst Frey, một người Áo, đảng viên Cộng sản, thành lập một chi bộ Cộng sản trong quân đoàn lê dương của Pháp và bắt liên lạc với *********. Khi Nhật hất cẳng Pháp tại Đông Dương, ông bị Nhật giam giữ một số tháng. Năm 1945, cùng 2 người đồng chí kể trên, ông được một chiếc xe hơi Mĩ của ********* đón về đại bản doanh của lực lượng kháng chiến, và được Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng và Trường Chinh đích thân đón nhận vào hàng ngũ kháng chiến. Trong suốt 9 năm kháng chiến, Erwin Borchers giữ nhiều trọng trách trong hoạt động tuyên huấn và địch vận, ra tờ báo đầu tiên của ********* bằng tiếng Pháp, kêu gọi lính Pháp và lính lê dương trong quân đội Pháp bỏ hàng ngũ, về với chính nghĩa của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam, giáo dục hàng binh và tù binh Pháp, ... và có mặt trong trận Điện Biên Phủ lịch sử.
    Khác với Ernst Frey và Rudolf Schröder - cả hai đều trở về châu Âu khi ảnh hưởng của Trung Hoa từ đầu những năm 50 ngày càng lớn và những cuộc chỉnh huấn dưới sức ép theo mô hình Mao ngày càng gia tăng- Erwin Borchers ở lại Việt Nam với gia đình, người vợ Việt Nam và ba đứa con, làm việc cho thông tấn xã Cộng hoà dân chủ Đức ADN tại Hà Nội. Trong thời kì Nhân văn-Giai phẩm, ông có bị nghi ngờ . Năm 1965, ông cùng gia đình rời khỏi Việt Nam, về sống tại Đông Berlin thuộc CHDC Đức, làm phóng viên đài phát thanh. Năm 1968, vì bày tỏ thái độ đón chào Mùa Xuân Praha, ông gặp rắc rối với "cấp trên", và một lần nữa đi tìm một quê hương mới: Erwin Borchers sang Tây Berlin. Ông rất muốn trở về Strasbourg nay đã thuộc Pháp, nhưng không thể, vì tại đó ông sẽ bị bắt giam và truy tố vì tội đào ngũ và phản quốc. Năm 1984, 5 năm trước ngày bức tường Berlin sụp đổ, Erwin Borchers mất ở Tây Berlin, sau nhiều năm cô đơn và trầm cảm.
    Đầu năm 2004, Viện Goethe tại Hà Nội đã tổ chức một hội nghị về những người Đức phục vụ trong quân đội Pháp, bỏ hàng ngũ sang phía ********* trong chiến tranh Đông Dương. Bài phát biểu sau đây của Claudia Việt-Đức Borchers, con gái Erwin Borchers, được đọc trong hội nghị này. Claudia Việt-Đức Borchers, hoạ sĩ, hiện sống ở Berlin.
    Cha tôi, giữa những quê hương​
    Kính thưa các cô các bác, các vị khách quý cùng người chị gái, anh rể, cả con trai tôi cùng đi từ Berlin tới đây khiến lòng tôi vui mừng khôn xiết !
    Ngày hôm nay và chính tại đây trên thành phố Hà Nội thân yêu, nơi tôi lớn lên, tôi coi việc được nói chút ít về người cha của mình là một điều vinh hạnh.
    Hẳn không là ngẫu nhiên, sau 36 năm tôi lại lại có duyên với ông già Goethe, như người Đức thường gọi. Lần đầu tiên biết đọc và hiểu bài thơ ?oChào và Giã biệt? của Goethe, tôi đã thật tự hào. Có lẽ khi đó tôi thuộc về số ít người nhiệt thành tìm hiểu tác phẩm của thi hào được giới thiệu như vậy ở nhà trường chăng ?
    Khi ông Heinz Schütte mời tôi nói về cha tôi, tôi đã nghĩ rất nhiều. Trước hết là câu hỏi: người đàn ông ấy có ý nghĩa gì trong tôi, đứa con gái của ông, vì với chúng tôi, các con ông, ông mang vẻ gì xa lạ. Ông là người Âu, có chiếc mũi dài, một người "mũi lõ", trắng trẻo và sáng sủa. Ðôi khi tôi sợ hãi vẻ xa lạ của ông. Ðó là một cảm giác pha trộn giữa yêu và sợ. Ông là một người cha dịu dàng: khi tôi khóc, ông bế tôi vào lòng và dỗ dành. Có lần mẹ kể rằng ngày giải phóng, khi chúng tôi từ rừng núi trở về Hà Nội, cha bế tôi trên tay vì sợ có sự gì xảy ra với tôi, suốt dọc đường hành quân dài 20 km mới tới trạm nối tiếp. Khi đó tôi mới 4 tuổi. Tôi được đặt tên là Việt-Ðức, hàm nghĩa Việt Nam và Ðức, nhờ trận đánh Ðiện Biên Phủ. Tôi sinh ra dưới một lán lều tre - nên mới đầu mẹ gọi tôi là con bé Mai. Dạo ấy cha tôi đi suốt ngày, một bữa về nhà nói với chúng tôi rằng ông phải đi Ðiện Biên Phủ, vậy nên đứa bé phải mang một cái tên gì gợi nhớ tới ông, nếu chẳng may ông không trở về từ mặt trận này. Và thế là tôi nhận cái tên Việt Ðức, một cái tên đã khiến tôi khá khổ sở. Tôi không ưa cái tên này vì nó đặc chất đàn ông. Trong trường học, chúng bạn coi tôi là cậu bé và điều đó khiến tôi giận dỗi. Còn ở Ðức, các bạn Ðức phát âm cái tên này cứng như "vịt đúc bằng sắt" vậy. Ngoài ra tôi biết quá ít về cha tôi. Những gì lọt vào tai tôi là những điều ta thán của mẹ như "bố con chẳng thấy mặt mũi đâu", "bố con chỉ ưa đám đàn ông tụ họp, chẳng chăm lo gì cho gia đình". Nhưng ông đi đâu? Chẳng lẽ ông luôn đi vắng? Tôi chỉ lờ mờ dự cảm rằng ông ở sâu trong rừng rậm. Trong lời kể của mẹ, cha tôi luôn vắng nhà. Suốt thời quân Nhật chiếm đóng Hà Nội, mẹ tôi nuôi giấu cha tôi một nơi, chăm bẵm ông, lo cháo cơm và thuốc lá. Hẳn bà phải rất yêu ông, vì dạo đó ai nuôi giấu một người Tây sẽ chịu tội tử hình.
    Cha tôi có là một trí thức cao ngạo không? Gì thì gì, trong số người Đức rời bỏ hàng ngũ, ông bị nhiều kẻ luôn ganh tị. Tuy vậy cha thường nói với tôi rằng những năm tháng chiến tranh Ðông Dương là quãng thời gian bổ ích nhất của đời ông, cả khi trong rừng sâu đầy thiếu thốn. Nhiều khi không có gì mà ăn. Nhưng sự đồng cam cộng khổ của con người dạo đó, tình yêu của người Việt Nam dành cho ông đã xóa nhòa gốc gác Âu châu của ông. Cũng vì vậy, với chúng tôi, cha tôi có chút gì đặc biệt. Nếu cha và mẹ nói tiếng Pháp với nhau thì các con ngồi chầu rìa vì chúng tôi không hiểu tiếng Pháp. Căn nhà của chúng tôi là điểm gặp gỡ của người Ðức. Cha tôi là người thích quây quần.
    Cách đây vài năm, ở một làng vùng Mecklenburg, do một sự tình cờ tôi gặp được một người Ðức xưa đi lính lê dương. Dạo ấy người đàn ông này bị bắt làm tù binh. Ông ta kể cho tôi nghe về cha tôi rằng, thay vì việc phải tẩy não người ta về mặt chính trị bố tôi lại thích trò chuyện về những chủ đề phi chính trị và còn uống bia với họ.
    (?) Cha tôi có nhiều mối giao du với các trí thức ở Hà Nội. Ông có học và hiểu biết rộng. Chẳng ai ngạc nhiên là ông được nhiều phụ nữ bám quanh và ông cũng ?ogặp rắc rốI? với vấn đề này . Có thể nói là người ta đã bỏ rơi ông, coi ông là "quá tư sản", không đủ lòng "trung thành với đường lối" thời ấy. Cha tôi luôn chống đối mọi giáo điều, nhưng trong thẳm sâu con tim ông vốn nguyên là một người Cộng sản. (?)Ông quyết định trở về quê hương, nước Đức. Chuyện đó xảy ra năm 1966.
    Về đến Cộng hoà dân chủ Ðức, lúc đầu cha tôi hào hứng bởi ý tưởng một nước Ðức mới. Sự bẽ bàng đã tới cùng với ?oMùa xuân Praha 1968?. Ông đã thẳng thừng nói tuột ý nghĩ của mình để rồi sống lặng lẽ, rút sâu mãi vào nội tâm. Nhưng càng vậy ông càng chăm lo hơn tới những đứa con đang học đại học của mình. Mười năm trước khi bức tường Berlin sụp đổ, ông nói với tôi: "Bố cứ cho nhà nước này giỏi lắm là 10 năm nữa. Nếu cứ tiếp như vậy thì sụp đổ hết mà thôi."
    Cha tôi là một con người tốt bụng. Tôi cho rằng, dòng máu miền đất sông Rhein đã bảo tồn con người ông trải qua nhiều tháng năm rối ren và tàn tệ trong đời. Có lần ông nói với tôi rằng ông muốn được rắc nắm tro của mình vào một nơi nào đó trên đất Việt Nam. Việc đó chẳng bao giờ thực hiện được. Lúc tuổi đã cao, bởi chua chát và thất vọng: ông sang Tây Berlin. Tuy vậy sau này tôi được biết, trước khi mất, hàng năm ròng ông rơi vào trạng thái u uất trầm cảm. Trong tôi còn lại một người cha, thế nào đó, như thể một người không có quê hương.
    Ðôi khi tôi ước rằng cha tôi còn sống, để được nghe ý kiến của người về thời thế hôm nay. Người ta hay hỏi tôi: tôi suy nghĩ trong tiếng Ðức hay trong tiếng Việt. Ðiều ấy thật không mấy quan trọng nữa. Với người Ðức, tôi nghĩ bằng tiếng Ðức và bên bè bạn Việt Nam, tôi nghĩ bằng tiếng Việt. Tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ của tôi. Tôi tự hào làm người con của mẹ cha khác biệt hai dòng máu. Hoàn cảnh đó đã làm cuộc đời tôi phong phú hơn.
    Xin chân thành cảm ơn mọi người đã dành chút thời gian lắng nghe.
    8.5.2004
    Claudia Việt-Đức Borchers
    "

Chia sẻ trang này