1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những chiến sĩ Quốc tế trong kháng chiến chống Pháp .

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Red_army_vn, 26/03/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Red_army_vn

    Red_army_vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/10/2004
    Bài viết:
    202
    Đã được thích:
    0
    Dưới đây là tâm sự của con gái Erwin Borchers , một người Đức đã nói ở trên , kèm theo là lời bình của trang web giới thiệu bài viết này , trước khi post tôi đã lược một số đoạn nhưng không nhiều :
    "
    Trong dòng xoáy của lịch sử Việt Nam thế kỉ vừa rồi có những số phận là tụ điểm của mọi xung đột và vận động của thời đại, song thời đại dường như không muốn nhớ đến. Erwin Borchers, một người Đức, mang tên Việt do Hồ Chủ Tịch đặt là Chiến Sĩ, thuộc về số ấy.
    Sinh năm 1906 tại StraYburg (ElsaY) khi ấy còn thuộc Đức, theo học văn chương Đức và Pháp, ông sớm gia nhập Đảng Dân Chủ Xã Hội Đức và tham gia các hoạt động chống phát-xít, để cuối cùng phải sang Pháp, trốn sự truy bức của chính quyền Quốc Xã. Tại Pháp, lại bị quản chế vì bị tình nghi là gián điệp Đức, năm 1939 ông chọn con đường gia nhập quân đoàn lê dương của Pháp để thoát tù đầy và hi vọng đứng dưới ngọn cờ Pháp chống lại Đức phát-xít. Nhưng sau 2 năm ở Algérie rồi sang Đông Dương, thất vọng về mục tiêu tái chiếm Việt Nam làm thuộc địa của Pháp, ông cùng Rudolf Schröder, một trí thức cánh tả Đức, và Ernst Frey, một người Áo, đảng viên Cộng sản, thành lập một chi bộ Cộng sản trong quân đoàn lê dương của Pháp và bắt liên lạc với *********. Khi Nhật hất cẳng Pháp tại Đông Dương, ông bị Nhật giam giữ một số tháng. Năm 1945, cùng 2 người đồng chí kể trên, ông được một chiếc xe hơi Mĩ của ********* đón về đại bản doanh của lực lượng kháng chiến, và được Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng và Trường Chinh đích thân đón nhận vào hàng ngũ kháng chiến. Trong suốt 9 năm kháng chiến, Erwin Borchers giữ nhiều trọng trách trong hoạt động tuyên huấn và địch vận, ra tờ báo đầu tiên của ********* bằng tiếng Pháp, kêu gọi lính Pháp và lính lê dương trong quân đội Pháp bỏ hàng ngũ, về với chính nghĩa của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam, giáo dục hàng binh và tù binh Pháp, ... và có mặt trong trận Điện Biên Phủ lịch sử.
    Khác với Ernst Frey và Rudolf Schröder - cả hai đều trở về châu Âu khi ảnh hưởng của Trung Hoa từ đầu những năm 50 ngày càng lớn và những cuộc chỉnh huấn dưới sức ép theo mô hình Mao ngày càng gia tăng- Erwin Borchers ở lại Việt Nam với gia đình, người vợ Việt Nam và ba đứa con, làm việc cho thông tấn xã Cộng hoà dân chủ Đức ADN tại Hà Nội. Trong thời kì Nhân văn-Giai phẩm, ông có bị nghi ngờ . Năm 1965, ông cùng gia đình rời khỏi Việt Nam, về sống tại Đông Berlin thuộc CHDC Đức, làm phóng viên đài phát thanh. Năm 1968, vì bày tỏ thái độ đón chào Mùa Xuân Praha, ông gặp rắc rối với "cấp trên", và một lần nữa đi tìm một quê hương mới: Erwin Borchers sang Tây Berlin. Ông rất muốn trở về Strasbourg nay đã thuộc Pháp, nhưng không thể, vì tại đó ông sẽ bị bắt giam và truy tố vì tội đào ngũ và phản quốc. Năm 1984, 5 năm trước ngày bức tường Berlin sụp đổ, Erwin Borchers mất ở Tây Berlin, sau nhiều năm cô đơn và trầm cảm.
    Đầu năm 2004, Viện Goethe tại Hà Nội đã tổ chức một hội nghị về những người Đức phục vụ trong quân đội Pháp, bỏ hàng ngũ sang phía ********* trong chiến tranh Đông Dương. Bài phát biểu sau đây của Claudia Việt-Đức Borchers, con gái Erwin Borchers, được đọc trong hội nghị này. Claudia Việt-Đức Borchers, hoạ sĩ, hiện sống ở Berlin.
    Cha tôi, giữa những quê hương​
    Kính thưa các cô các bác, các vị khách quý cùng người chị gái, anh rể, cả con trai tôi cùng đi từ Berlin tới đây khiến lòng tôi vui mừng khôn xiết !
    Ngày hôm nay và chính tại đây trên thành phố Hà Nội thân yêu, nơi tôi lớn lên, tôi coi việc được nói chút ít về người cha của mình là một điều vinh hạnh.
    Hẳn không là ngẫu nhiên, sau 36 năm tôi lại lại có duyên với ông già Goethe, như người Đức thường gọi. Lần đầu tiên biết đọc và hiểu bài thơ ?oChào và Giã biệt? của Goethe, tôi đã thật tự hào. Có lẽ khi đó tôi thuộc về số ít người nhiệt thành tìm hiểu tác phẩm của thi hào được giới thiệu như vậy ở nhà trường chăng ?
    Khi ông Heinz Schütte mời tôi nói về cha tôi, tôi đã nghĩ rất nhiều. Trước hết là câu hỏi: người đàn ông ấy có ý nghĩa gì trong tôi, đứa con gái của ông, vì với chúng tôi, các con ông, ông mang vẻ gì xa lạ. Ông là người Âu, có chiếc mũi dài, một người "mũi lõ", trắng trẻo và sáng sủa. Ðôi khi tôi sợ hãi vẻ xa lạ của ông. Ðó là một cảm giác pha trộn giữa yêu và sợ. Ông là một người cha dịu dàng: khi tôi khóc, ông bế tôi vào lòng và dỗ dành. Có lần mẹ kể rằng ngày giải phóng, khi chúng tôi từ rừng núi trở về Hà Nội, cha bế tôi trên tay vì sợ có sự gì xảy ra với tôi, suốt dọc đường hành quân dài 20 km mới tới trạm nối tiếp. Khi đó tôi mới 4 tuổi. Tôi được đặt tên là Việt-Ðức, hàm nghĩa Việt Nam và Ðức, nhờ trận đánh Ðiện Biên Phủ. Tôi sinh ra dưới một lán lều tre - nên mới đầu mẹ gọi tôi là con bé Mai. Dạo ấy cha tôi đi suốt ngày, một bữa về nhà nói với chúng tôi rằng ông phải đi Ðiện Biên Phủ, vậy nên đứa bé phải mang một cái tên gì gợi nhớ tới ông, nếu chẳng may ông không trở về từ mặt trận này. Và thế là tôi nhận cái tên Việt Ðức, một cái tên đã khiến tôi khá khổ sở. Tôi không ưa cái tên này vì nó đặc chất đàn ông. Trong trường học, chúng bạn coi tôi là cậu bé và điều đó khiến tôi giận dỗi. Còn ở Ðức, các bạn Ðức phát âm cái tên này cứng như "vịt đúc bằng sắt" vậy. Ngoài ra tôi biết quá ít về cha tôi. Những gì lọt vào tai tôi là những điều ta thán của mẹ như "bố con chẳng thấy mặt mũi đâu", "bố con chỉ ưa đám đàn ông tụ họp, chẳng chăm lo gì cho gia đình". Nhưng ông đi đâu? Chẳng lẽ ông luôn đi vắng? Tôi chỉ lờ mờ dự cảm rằng ông ở sâu trong rừng rậm. Trong lời kể của mẹ, cha tôi luôn vắng nhà. Suốt thời quân Nhật chiếm đóng Hà Nội, mẹ tôi nuôi giấu cha tôi một nơi, chăm bẵm ông, lo cháo cơm và thuốc lá. Hẳn bà phải rất yêu ông, vì dạo đó ai nuôi giấu một người Tây sẽ chịu tội tử hình.
    Cha tôi có là một trí thức cao ngạo không? Gì thì gì, trong số người Đức rời bỏ hàng ngũ, ông bị nhiều kẻ luôn ganh tị. Tuy vậy cha thường nói với tôi rằng những năm tháng chiến tranh Ðông Dương là quãng thời gian bổ ích nhất của đời ông, cả khi trong rừng sâu đầy thiếu thốn. Nhiều khi không có gì mà ăn. Nhưng sự đồng cam cộng khổ của con người dạo đó, tình yêu của người Việt Nam dành cho ông đã xóa nhòa gốc gác Âu châu của ông. Cũng vì vậy, với chúng tôi, cha tôi có chút gì đặc biệt. Nếu cha và mẹ nói tiếng Pháp với nhau thì các con ngồi chầu rìa vì chúng tôi không hiểu tiếng Pháp. Căn nhà của chúng tôi là điểm gặp gỡ của người Ðức. Cha tôi là người thích quây quần.
    Cách đây vài năm, ở một làng vùng Mecklenburg, do một sự tình cờ tôi gặp được một người Ðức xưa đi lính lê dương. Dạo ấy người đàn ông này bị bắt làm tù binh. Ông ta kể cho tôi nghe về cha tôi rằng, thay vì việc phải tẩy não người ta về mặt chính trị bố tôi lại thích trò chuyện về những chủ đề phi chính trị và còn uống bia với họ.
    (?) Cha tôi có nhiều mối giao du với các trí thức ở Hà Nội. Ông có học và hiểu biết rộng. Chẳng ai ngạc nhiên là ông được nhiều phụ nữ bám quanh và ông cũng ?ogặp rắc rốI? với vấn đề này . Có thể nói là người ta đã bỏ rơi ông, coi ông là "quá tư sản", không đủ lòng "trung thành với đường lối" thời ấy. Cha tôi luôn chống đối mọi giáo điều, nhưng trong thẳm sâu con tim ông vốn nguyên là một người Cộng sản. (?)Ông quyết định trở về quê hương, nước Đức. Chuyện đó xảy ra năm 1966.
    Về đến Cộng hoà dân chủ Ðức, lúc đầu cha tôi hào hứng bởi ý tưởng một nước Ðức mới. Sự bẽ bàng đã tới cùng với ?oMùa xuân Praha 1968?. Ông đã thẳng thừng nói tuột ý nghĩ của mình để rồi sống lặng lẽ, rút sâu mãi vào nội tâm. Nhưng càng vậy ông càng chăm lo hơn tới những đứa con đang học đại học của mình. Mười năm trước khi bức tường Berlin sụp đổ, ông nói với tôi: "Bố cứ cho nhà nước này giỏi lắm là 10 năm nữa. Nếu cứ tiếp như vậy thì sụp đổ hết mà thôi."
    Cha tôi là một con người tốt bụng. Tôi cho rằng, dòng máu miền đất sông Rhein đã bảo tồn con người ông trải qua nhiều tháng năm rối ren và tàn tệ trong đời. Có lần ông nói với tôi rằng ông muốn được rắc nắm tro của mình vào một nơi nào đó trên đất Việt Nam. Việc đó chẳng bao giờ thực hiện được. Lúc tuổi đã cao, bởi chua chát và thất vọng: ông sang Tây Berlin. Tuy vậy sau này tôi được biết, trước khi mất, hàng năm ròng ông rơi vào trạng thái u uất trầm cảm. Trong tôi còn lại một người cha, thế nào đó, như thể một người không có quê hương.
    Ðôi khi tôi ước rằng cha tôi còn sống, để được nghe ý kiến của người về thời thế hôm nay. Người ta hay hỏi tôi: tôi suy nghĩ trong tiếng Ðức hay trong tiếng Việt. Ðiều ấy thật không mấy quan trọng nữa. Với người Ðức, tôi nghĩ bằng tiếng Ðức và bên bè bạn Việt Nam, tôi nghĩ bằng tiếng Việt. Tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ của tôi. Tôi tự hào làm người con của mẹ cha khác biệt hai dòng máu. Hoàn cảnh đó đã làm cuộc đời tôi phong phú hơn.
    Xin chân thành cảm ơn mọi người đã dành chút thời gian lắng nghe.
    8.5.2004
    Claudia Việt-Đức Borchers
    "
  2. panzerlehr

    panzerlehr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2004
    Bài viết:
    935
    Đã được thích:
    0
    Thêm nữa tưbào QĐND :
    Hi-rô, chiến sĩ người Nhật đánh Pháp nhảy dù xuống Bắc Kạn - 1947 ​
    Thu-đông 1947, sáng 7-10, lính dù Pháp thuộc binh đoàn Xô-va-nhắc bất ngờ nhảy dù xuống thị xã Bắc Kạn và trung tâm huyện lỵ huyện Chợ Mới, mở màn cuộc hành quân lớn lên chiến khu Việt Bắc của ta. Trong các trận chiến đấu đầu tiên đánh trả quân địch tại Bắc Kạn, có một người Nhật tên là Hi-rô, cán bộ chỉ huy trung đội, đã chỉ huy đơn vị chiến đấu dũng cảm, lập công ngay từ những ngày đầu của chiến dịch...
    Hi-rô năm đó mới gần 30 tuổi. Anh là người sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, năm 1937 vừa 18 tuổi thì bị động viên vào lính, ở một đơn vị công binh. Đến 1942, Hi-rô bị đưa sang Việt Nam. Năm 1945, khi chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, quân Nhật đầu hàng Đồng minh, thì ở Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, Tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Nhưng khi đó, phía bắc do quân Tưởng trong Đồng minh vào giải giáp quân Nhật, phía nam do quân Anh vào giải giáp, và những người lính Nhật phải bàn giao vũ khí, chờ ngày hồi hương. Hi-rô, một lính Nhật từng đóng ở Hà Nội, không chịu ?ođầu hàng? trước quân Tưởng-Anh, đã tìm bắt liên lạc và chạy sang hàng ngũ *********. Năm 1946, từ sau khi có Hiệp định sơ bộ 6-3, Hi-rô đã tham gia các trận chiến đấu chống quân Pháp, rồi được điều về tiểu đoàn 56, trung đoàn 36 bộ đội chủ lực của Bộ... Giữa năm 1946, đơn vị đã tổ chức cho Hi-rô cưới vợ người Việt Nam, là chị Vũ Thị Tâm lúc đó làm nuôi quân của tiểu đoàn. Từ đó, anh em trong đơn vị thường gọi Hi-rô là ?oAnh Tâm? theo tên người vợ của anh...
    Ngày 7-10-1947, khi quân Pháp bất ngờ nhảy dù xuống chiếm thị xã Bắc Kạn, tại sân vận động, một đơn vị chiến sĩ mới của Bắc Kạn đang tập trung tại sân vận động thị xã, chuẩn bị cho công tác huấn luyện. Lúc này, Tổng bí thư Trường Chinh đang có mặt trong thị xã, cạnh trụ sở của Liên tỉnh bộ *********, đã lánh xuống căn hầm cạnh tòa nhà nguyên là của chánh án Đinh Ngọc Phụng, trong khi lính dù Pháp nhảy xuống đúng nóc hầm. Còn Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái hôm đó có mặt làm việc với Tỉnh đội, đến gặp mặt nói chuyện, huấn thị cho đơn vị chiến sĩ mới đang tập trung ở sân vận động... Tuy bị bất ngờ, nhưng các đơn vị của ta đã nhanh chóng tổ chức lại đội hình để đánh địch nhảy dù. Hi-rô lúc đó đang chỉ huy một trung đội các chiến sĩ mới có mặt trong thị xã. Sau này ông kể lại những ngày đầu chiến đấu năm 1947 ấy: ?o... Bọn lính Pháp sau những trận mưa bom và bắn phá dữ dội, đã nhảy xuống một cánh đồng khá bằng phẳng trước mặt đơn vị chúng tôi. Ngày đó Quân đội Việt Nam toàn lính trẻ, nếu không quyết tâm, xung phong nửa vời rồi rút lui thì sẽ bị quân thù tiêu diệt. Tôi nảy ra sáng kiến trong đầu: khi có 4-5 tên địch vừa đặt chân xuống đất, tôi liền hô to: ?oHồ Chí Minh muôn năm! Xung phong!? Thế là cả trung đội tôi ào lên vượt nhanh khỏi cánh rừng và xông lên tiêu diệt những tên địch chưa kịp trở tay. Sau chừng 30 phút, cả đại đội quân dù Pháp nhảy xuống gần như bị quân ta tiêu diệt gọn... Ngày hôm đó, các đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Dương Thiết Sơn và Chủ tịch Ủy ban kháng chiến tỉnh đang đi họp ở khu chưa về. Tuy bước đầu có lúng túng bị động, song việc tổ chức chiến đấu đánh trả địch vẫn được các đồng chí ở Tỉnh bộ ********* và dân quân triển khai tích cực. Khi quân Pháp nhảy dù đúng vào sân vận động thị xã, trong lúc tại đây Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái đang nói chuyện với tiểu đoàn chiến sĩ mới và một số học viên Trường võ bị Trần Quốc Tuấn. Lực lượng ta bất ngờ gặp quân dù Pháp lúc đầu có phần hoang mang, song đã kịp thời và cố gắng tổ chức chiến đấu đánh trả nhiều nơi, bảo vệ cán bộ và các cơ quan. Các đồng chí Tổng bí thư Trường Chinh và Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái,... đêm đó có du kích dẫn đường đã kịp thoát được ra ngoài. Mãi tới nửa đêm 9-10, đồng chí Trường Chinh mới về tới hậu cứ... Trường hợp đáng tiếc xảy ra trong cái ngày đáng nhớ ấy, là cụ Nguyễn Văn Tố, Trưởng ban thường trực Quốc hội, hôm đó có mặt tại trụ sở Liên tỉnh bộ *********, đã không chạy kịp nên bị địch bắt và sau đó bắn chết.
    Lính dù Phích-ken sống sót, khi viết thư cho bạn kể lại: ?o... Những tốp nhảy dù xuống Bắc Kạn bị thiệt hại khá nhiều...?. Lính dù Sơ-mi-ken thì kể: ?o... Chúng tôi có nhiều đứa chết, bị thương và ốm... Từ khi nhảy dù xuống đất đến bây giờ luôn luôn bị ********* bao vây. Chỉ có máy bay tiếp tế...?. Sau trận đánh thắng đó, anh em đồng đội càng gần gũi và tin yêu tôi hơn. Chính vì thế, sau chiến thắng, anh em bàn với nhau: ?oAnh Tâm hô ?oHồ Chí Minh muôn năm!? rồi mới hô: ?oXung phong!?, làm cho khí phách con cháu Lạc Hồng trong chúng ta trỗi dậy, không nghĩ đến cái chết kề bên... Bây giờ ta nên đặt cho anh họ Hồ là của Bác Hồ...?. Thế là từ đấy anh có họ tên Việt Nam đầy đủ là Hồ Tâm, trong khi vợ anh là Vũ Thị Tâm, và sau đó, đầu 1950 vợ chồng anh sinh con gái đầu lòng, anh đặt tên con mang họ Việt Nam của anh là Hồ-Hồ Thị Hà. Tên Hà mang ý nghĩa kỷ niệm những ngày ông đóng quân trong thành Hà Nội...
    Cũng từ khi được đồng đội gọi là Hồ Tâm, Hi-rô rất phấn khởi. Trên con đường chiến đấu anh luôn tự hào được mang họ của Bác Hồ, mang tên vợ nên chiến đấu dũng cảm, không ngừng rèn luyện đạo đức của Bộ đội *****, lập nhiều thành tích xuất sắc...
    Gia đình vợ chồng anh có thời gian sống ở Bắc Giang, vì thế con gái Hồ Thị Hà của anh chị có giấy khai sinh tại xã Đồng Lạc, huyện Yên Thế... Vào cuối 1958 đầu 1959 vợ chồng anh Hồ Tâm cùng các con về Nhật Bản, nhưng tấm lòng và tình cảm vẫn luôn hướng về Việt Nam, tham gia đấu tranh đòi chính phủ Nhật bồi thường chiến tranh cho Việt Nam-như trong thư chị Hà viết từ Nhật gửi về đề ngày 29-10-1959, tham gia các phong trào do Đảng Cộng sản Nhật Bản lãnh đạo ủng hộ giúp đỡ Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và xây dựng lại đất nước sau ngày thống nhất...
    Đến hôm nay, sau 56 năm chiến thắng lớn ở Việt Bắc, không biết vợ chồng người ?oChiến sĩ Việt Nam mới? Hồ Tâm còn sống và ở đâu trên tổ quốc Nhật Bản của ông... nhưng những cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 56 trung đoàn 36 bộ đội chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam vẫn luôn nhớ về ông, một đồng đội có mặt trong Quân đội nhân dân Việt Nam từ năm 1946 trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến chống Pháp xâm lược...
    Ban liên lạc Hội hữu nghị Việt Nam-Nhật Bản.
  3. panzerlehr

    panzerlehr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2004
    Bài viết:
    935
    Đã được thích:
    0
    Thêm nữa tưbào QĐND :
    Hi-rô, chiến sĩ người Nhật đánh Pháp nhảy dù xuống Bắc Kạn - 1947 ​
    Thu-đông 1947, sáng 7-10, lính dù Pháp thuộc binh đoàn Xô-va-nhắc bất ngờ nhảy dù xuống thị xã Bắc Kạn và trung tâm huyện lỵ huyện Chợ Mới, mở màn cuộc hành quân lớn lên chiến khu Việt Bắc của ta. Trong các trận chiến đấu đầu tiên đánh trả quân địch tại Bắc Kạn, có một người Nhật tên là Hi-rô, cán bộ chỉ huy trung đội, đã chỉ huy đơn vị chiến đấu dũng cảm, lập công ngay từ những ngày đầu của chiến dịch...
    Hi-rô năm đó mới gần 30 tuổi. Anh là người sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, năm 1937 vừa 18 tuổi thì bị động viên vào lính, ở một đơn vị công binh. Đến 1942, Hi-rô bị đưa sang Việt Nam. Năm 1945, khi chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, quân Nhật đầu hàng Đồng minh, thì ở Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, Tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Nhưng khi đó, phía bắc do quân Tưởng trong Đồng minh vào giải giáp quân Nhật, phía nam do quân Anh vào giải giáp, và những người lính Nhật phải bàn giao vũ khí, chờ ngày hồi hương. Hi-rô, một lính Nhật từng đóng ở Hà Nội, không chịu ?ođầu hàng? trước quân Tưởng-Anh, đã tìm bắt liên lạc và chạy sang hàng ngũ *********. Năm 1946, từ sau khi có Hiệp định sơ bộ 6-3, Hi-rô đã tham gia các trận chiến đấu chống quân Pháp, rồi được điều về tiểu đoàn 56, trung đoàn 36 bộ đội chủ lực của Bộ... Giữa năm 1946, đơn vị đã tổ chức cho Hi-rô cưới vợ người Việt Nam, là chị Vũ Thị Tâm lúc đó làm nuôi quân của tiểu đoàn. Từ đó, anh em trong đơn vị thường gọi Hi-rô là ?oAnh Tâm? theo tên người vợ của anh...
    Ngày 7-10-1947, khi quân Pháp bất ngờ nhảy dù xuống chiếm thị xã Bắc Kạn, tại sân vận động, một đơn vị chiến sĩ mới của Bắc Kạn đang tập trung tại sân vận động thị xã, chuẩn bị cho công tác huấn luyện. Lúc này, Tổng bí thư Trường Chinh đang có mặt trong thị xã, cạnh trụ sở của Liên tỉnh bộ *********, đã lánh xuống căn hầm cạnh tòa nhà nguyên là của chánh án Đinh Ngọc Phụng, trong khi lính dù Pháp nhảy xuống đúng nóc hầm. Còn Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái hôm đó có mặt làm việc với Tỉnh đội, đến gặp mặt nói chuyện, huấn thị cho đơn vị chiến sĩ mới đang tập trung ở sân vận động... Tuy bị bất ngờ, nhưng các đơn vị của ta đã nhanh chóng tổ chức lại đội hình để đánh địch nhảy dù. Hi-rô lúc đó đang chỉ huy một trung đội các chiến sĩ mới có mặt trong thị xã. Sau này ông kể lại những ngày đầu chiến đấu năm 1947 ấy: ?o... Bọn lính Pháp sau những trận mưa bom và bắn phá dữ dội, đã nhảy xuống một cánh đồng khá bằng phẳng trước mặt đơn vị chúng tôi. Ngày đó Quân đội Việt Nam toàn lính trẻ, nếu không quyết tâm, xung phong nửa vời rồi rút lui thì sẽ bị quân thù tiêu diệt. Tôi nảy ra sáng kiến trong đầu: khi có 4-5 tên địch vừa đặt chân xuống đất, tôi liền hô to: ?oHồ Chí Minh muôn năm! Xung phong!? Thế là cả trung đội tôi ào lên vượt nhanh khỏi cánh rừng và xông lên tiêu diệt những tên địch chưa kịp trở tay. Sau chừng 30 phút, cả đại đội quân dù Pháp nhảy xuống gần như bị quân ta tiêu diệt gọn... Ngày hôm đó, các đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Dương Thiết Sơn và Chủ tịch Ủy ban kháng chiến tỉnh đang đi họp ở khu chưa về. Tuy bước đầu có lúng túng bị động, song việc tổ chức chiến đấu đánh trả địch vẫn được các đồng chí ở Tỉnh bộ ********* và dân quân triển khai tích cực. Khi quân Pháp nhảy dù đúng vào sân vận động thị xã, trong lúc tại đây Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái đang nói chuyện với tiểu đoàn chiến sĩ mới và một số học viên Trường võ bị Trần Quốc Tuấn. Lực lượng ta bất ngờ gặp quân dù Pháp lúc đầu có phần hoang mang, song đã kịp thời và cố gắng tổ chức chiến đấu đánh trả nhiều nơi, bảo vệ cán bộ và các cơ quan. Các đồng chí Tổng bí thư Trường Chinh và Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái,... đêm đó có du kích dẫn đường đã kịp thoát được ra ngoài. Mãi tới nửa đêm 9-10, đồng chí Trường Chinh mới về tới hậu cứ... Trường hợp đáng tiếc xảy ra trong cái ngày đáng nhớ ấy, là cụ Nguyễn Văn Tố, Trưởng ban thường trực Quốc hội, hôm đó có mặt tại trụ sở Liên tỉnh bộ *********, đã không chạy kịp nên bị địch bắt và sau đó bắn chết.
    Lính dù Phích-ken sống sót, khi viết thư cho bạn kể lại: ?o... Những tốp nhảy dù xuống Bắc Kạn bị thiệt hại khá nhiều...?. Lính dù Sơ-mi-ken thì kể: ?o... Chúng tôi có nhiều đứa chết, bị thương và ốm... Từ khi nhảy dù xuống đất đến bây giờ luôn luôn bị ********* bao vây. Chỉ có máy bay tiếp tế...?. Sau trận đánh thắng đó, anh em đồng đội càng gần gũi và tin yêu tôi hơn. Chính vì thế, sau chiến thắng, anh em bàn với nhau: ?oAnh Tâm hô ?oHồ Chí Minh muôn năm!? rồi mới hô: ?oXung phong!?, làm cho khí phách con cháu Lạc Hồng trong chúng ta trỗi dậy, không nghĩ đến cái chết kề bên... Bây giờ ta nên đặt cho anh họ Hồ là của Bác Hồ...?. Thế là từ đấy anh có họ tên Việt Nam đầy đủ là Hồ Tâm, trong khi vợ anh là Vũ Thị Tâm, và sau đó, đầu 1950 vợ chồng anh sinh con gái đầu lòng, anh đặt tên con mang họ Việt Nam của anh là Hồ-Hồ Thị Hà. Tên Hà mang ý nghĩa kỷ niệm những ngày ông đóng quân trong thành Hà Nội...
    Cũng từ khi được đồng đội gọi là Hồ Tâm, Hi-rô rất phấn khởi. Trên con đường chiến đấu anh luôn tự hào được mang họ của Bác Hồ, mang tên vợ nên chiến đấu dũng cảm, không ngừng rèn luyện đạo đức của Bộ đội *****, lập nhiều thành tích xuất sắc...
    Gia đình vợ chồng anh có thời gian sống ở Bắc Giang, vì thế con gái Hồ Thị Hà của anh chị có giấy khai sinh tại xã Đồng Lạc, huyện Yên Thế... Vào cuối 1958 đầu 1959 vợ chồng anh Hồ Tâm cùng các con về Nhật Bản, nhưng tấm lòng và tình cảm vẫn luôn hướng về Việt Nam, tham gia đấu tranh đòi chính phủ Nhật bồi thường chiến tranh cho Việt Nam-như trong thư chị Hà viết từ Nhật gửi về đề ngày 29-10-1959, tham gia các phong trào do Đảng Cộng sản Nhật Bản lãnh đạo ủng hộ giúp đỡ Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và xây dựng lại đất nước sau ngày thống nhất...
    Đến hôm nay, sau 56 năm chiến thắng lớn ở Việt Bắc, không biết vợ chồng người ?oChiến sĩ Việt Nam mới? Hồ Tâm còn sống và ở đâu trên tổ quốc Nhật Bản của ông... nhưng những cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 56 trung đoàn 36 bộ đội chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam vẫn luôn nhớ về ông, một đồng đội có mặt trong Quân đội nhân dân Việt Nam từ năm 1946 trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến chống Pháp xâm lược...
    Ban liên lạc Hội hữu nghị Việt Nam-Nhật Bản.
  4. panzerlehr

    panzerlehr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2004
    Bài viết:
    935
    Đã được thích:
    0
    Bác sĩ quân y người Nhật Bản liệt sĩ Lê Trung
    ..Vào một ngày tháng 5-1945, cơ sở ********* xã Trường Sa (sau là Bảo Ninh-Quảng Bình) do anh Phạm Khuông Tương làm Chủ tịch, báo cho anh Phạm Dũng Hanh là Thị đội phó Vệ quốc đoàn của Đồng Hới (là hai anh em) tin: ********* xã đang giữ 7 người lính Nhật trên một chiếc ca nô mới dạt vào địa bàn. Tổ chức và chỉ huy tự vệ chiến đấu chuẩn bị khởi nghĩa ở Đồng Hới lập tức cử người về tìm hiểu, được biết những sĩ quan người Nhật này vì không muốn đầu hàng đồng minh là quân Anh, Tưởng,... nên bỏ trốn đơn vị, muốn tìm nơi cư trú trong các vùng nông thôn của Việt Nam, chờ thời cơ sẽ về nước. Nhóm sĩ quan Nhật này liền được tổ chức ********* ?oche giấu? giúp đỡ, bí mật đưa về bố trí ở trong nhà bà Phạm Thị Hương một thời gian (năm 2003, bà Hương đã 94 tuổi, sống ở 54D Tuệ Tĩnh, TP Huế). Vì anh Phạm Khuông Tương chủ tịch ********* xã và anh Phạm Dũng Hanh (được truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân thời kỳ chống Pháp), Thị đội phó Vệ quốc đoàn của Đồng Hới chính là hai người em của bà Hương, nên việc che giấu, nuôi dưỡng những người Nhật ấy được tổ chức bảo vệ chu đáo, an toàn. Sau một thời gian, khi bọn lính Tưởng ở Đồng Hới đánh hơi sang dò tìm, thì các anh Hanh và Tương lại bố trí đưa họ lên tận Rầm Thượng. Bà Hương vẫn tiếp tục lo đi chợ, cơm nước cho 7 sĩ quan người Nhật này. Trong số những người Nhật ấy có hai người nói được bập bẹ tiếng Việt, được các cụ ở địa phương đặt cho tên Việt Nam là Ngọ và Mùi...
    Thời gian đó, lực lượng ********* cùng tự vệ chiến đấu đang ráo riết hoạt động, chuẩn bị cho khởi nghĩa giành chính quyền. Anh Phạm Khuông Tương đã sử dụng một người Nhật vốn là sĩ quan quân y, giúp chữa bệnh cho anh em và bà con trong xã; còn một sĩ quan khác thì giúp việc huấn luyện võ thuật cho tự vệ chiến đấu, vì hồi đó anh em ta chưa có súng mà chỉ có giáo, mác, đại đao,... Khi có kẻ phát giác, đề phòng bọn Tưởng ở Đồng Hới sang bắt những người Nhật này, tổ chức ********* Đồng Hới đã bí mật đưa họ lên tận vùng Rào Trù đầu nguồn sông Nhật Lệ, cách thị xã chừng 50km. Bà Hương vẫn là người được giao việc tiếp tục nuôi dưỡng 7 sĩ quan Nhật phản chiến này. Ngày 23-8-1945 khi nổ ra khởi nghĩa giành chính quyền ở Đồng Hới, các sĩ quan người Nhật đều có mặt tham gia rất tích cực trong hàng ngũ ********* của địa phương. Sau ngày cách mạng giành chính quyền không lâu thì có phong trào Nam tiến sôi nổi và 5 trong 7 sĩ quan đã tình nguyện gia nhập Vệ quốc đoàn và theo các đơn vị ********* ?oNam tiến? đánh Pháp. Người sĩ quan có tên là Ngọ vào Quảng Ngãi làm giáo viên quân sự, huấn luyện cho tự vệ, bộ đội *********. Còn người có tên là Mùi thì ở lại với ********* Quảng Bình làm bác sĩ. Ông Mùi là y sĩ cao cấp của quân đội Nhật, khi được Ủy ban hành chính kháng chiến tỉnh tiếp nhận, và chính ông Hoàng Văn Diệm lúc đó là Chủ tịch tỉnh đặt cho tên Việt Nam là Lê Trung, bổ nhiệm về công tác tại bệnh viện Quảng Trạch thuộc chiến khu Trung Thuần; và được công nhận là ?oBác sĩ quân y trưởng của tỉnh?, bà con và anh em thường gọi là ?oÔng Trung?-?Bác sĩ Trung?... Năm 1947, bác sĩ Lê Trung được điều đi phục vụ đơn vị quân tình nguyện Việt Nam sang sát cánh cùng bạn Lào chiến đấu ở mặt trận Ba-na-phào khi Việt-Lào mở mặt trận này. Lê Trung hiền lành, trong điều kiện chiến đấu đầy hy sinh gian khổ như vậy nhưng không bao giờ kêu ca, được anh em quý mến. Ông là người giỏi chuyên môn, lại rất tận tình đem hết khả năng cứu chữa thương-bệnh binh. Ông là người to cao, có lần đi bộ suốt 4 ngày cõng một thương binh từ Pu-tu-na về bệnh viện ở Ba-na-phào để cứu chữa, anh em rất cảm động... Chính tại mặt trận này, Lê Trung gặp cô y tá Hoàng Thị Kim Huê, người con gái phố biển Nha Trang, vốn là nữ giao thông của Tỉnh ủy Khánh Hòa. Vì chiến tranh đã cắt đứt đường về, cô đã tìm đến sung vào đoàn quân tình nguyện này. Đầu 1948 đơn vị tổ chức lễ cưới cho hai người, do chính ông Chủ tịch Ủy ban, hành chính kháng chiến Quảng Bình Hoàng Văn Diệm làm chủ hôn. Không may, cuối năm ấy bác sĩ Lê Trung bị bệnh nhiễm trùng, giữa mặt trận không đủ phương tiện cứu chữa kịp thời nên ông đã qua đời, lúc chưa đầy 30 xuân. Ông không được nhìn thấy mặt con gái ra đời 6 tháng sau đó. Vợ ông đặt tên con Lê Thị Hoàng Tuyên, là mang họ Việt Nam của người bố, người mẹ, còn tên là kỷ niệm nơi sinh ở bệnh viện Đồng Lào, Tuyên Hóa.
    Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, bà Huê đã qua đời năm 1999. Con gái của bác sĩ Lê Trung trưởng thành là cán bộ thuộc Viện quy hoạch-Bộ Xây dựng, cũng đã qua đời do bệnh. Sau 49 năm, ngày 22-8-1997, bác sĩ người Nhật Lê Trung đã chính thức được công nhận là liệt sĩ với tấm bằng ?oTổ quốc ghi công? theo quyết định 669/TTg. Hài cốt ông được đưa về mai táng ở Quảng Bình bên cạnh các đồng đội Việt Nam. Người sĩ quan Nhật trở thành ?oChiến sĩ Việt Nam mới?, chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam ở Lào, nay yên nghỉ tại mộ số 1, lô số 4, nghĩa trang liệt sĩ Ba Dốc, Đồng Hới, Quảng Bình. Không ai biết tên Nhật của ông là gì, nhưng trên tấm bia mộ có khắc rõ dòng chữ: ?oLiệt sĩ Lê Trung, bác sĩ quân y, quốc tịch Nhật Bản; hy sinh 1-10-1948?!.
  5. panzerlehr

    panzerlehr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2004
    Bài viết:
    935
    Đã được thích:
    0
    Bác sĩ quân y người Nhật Bản liệt sĩ Lê Trung
    ..Vào một ngày tháng 5-1945, cơ sở ********* xã Trường Sa (sau là Bảo Ninh-Quảng Bình) do anh Phạm Khuông Tương làm Chủ tịch, báo cho anh Phạm Dũng Hanh là Thị đội phó Vệ quốc đoàn của Đồng Hới (là hai anh em) tin: ********* xã đang giữ 7 người lính Nhật trên một chiếc ca nô mới dạt vào địa bàn. Tổ chức và chỉ huy tự vệ chiến đấu chuẩn bị khởi nghĩa ở Đồng Hới lập tức cử người về tìm hiểu, được biết những sĩ quan người Nhật này vì không muốn đầu hàng đồng minh là quân Anh, Tưởng,... nên bỏ trốn đơn vị, muốn tìm nơi cư trú trong các vùng nông thôn của Việt Nam, chờ thời cơ sẽ về nước. Nhóm sĩ quan Nhật này liền được tổ chức ********* ?oche giấu? giúp đỡ, bí mật đưa về bố trí ở trong nhà bà Phạm Thị Hương một thời gian (năm 2003, bà Hương đã 94 tuổi, sống ở 54D Tuệ Tĩnh, TP Huế). Vì anh Phạm Khuông Tương chủ tịch ********* xã và anh Phạm Dũng Hanh (được truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân thời kỳ chống Pháp), Thị đội phó Vệ quốc đoàn của Đồng Hới chính là hai người em của bà Hương, nên việc che giấu, nuôi dưỡng những người Nhật ấy được tổ chức bảo vệ chu đáo, an toàn. Sau một thời gian, khi bọn lính Tưởng ở Đồng Hới đánh hơi sang dò tìm, thì các anh Hanh và Tương lại bố trí đưa họ lên tận Rầm Thượng. Bà Hương vẫn tiếp tục lo đi chợ, cơm nước cho 7 sĩ quan người Nhật này. Trong số những người Nhật ấy có hai người nói được bập bẹ tiếng Việt, được các cụ ở địa phương đặt cho tên Việt Nam là Ngọ và Mùi...
    Thời gian đó, lực lượng ********* cùng tự vệ chiến đấu đang ráo riết hoạt động, chuẩn bị cho khởi nghĩa giành chính quyền. Anh Phạm Khuông Tương đã sử dụng một người Nhật vốn là sĩ quan quân y, giúp chữa bệnh cho anh em và bà con trong xã; còn một sĩ quan khác thì giúp việc huấn luyện võ thuật cho tự vệ chiến đấu, vì hồi đó anh em ta chưa có súng mà chỉ có giáo, mác, đại đao,... Khi có kẻ phát giác, đề phòng bọn Tưởng ở Đồng Hới sang bắt những người Nhật này, tổ chức ********* Đồng Hới đã bí mật đưa họ lên tận vùng Rào Trù đầu nguồn sông Nhật Lệ, cách thị xã chừng 50km. Bà Hương vẫn là người được giao việc tiếp tục nuôi dưỡng 7 sĩ quan Nhật phản chiến này. Ngày 23-8-1945 khi nổ ra khởi nghĩa giành chính quyền ở Đồng Hới, các sĩ quan người Nhật đều có mặt tham gia rất tích cực trong hàng ngũ ********* của địa phương. Sau ngày cách mạng giành chính quyền không lâu thì có phong trào Nam tiến sôi nổi và 5 trong 7 sĩ quan đã tình nguyện gia nhập Vệ quốc đoàn và theo các đơn vị ********* ?oNam tiến? đánh Pháp. Người sĩ quan có tên là Ngọ vào Quảng Ngãi làm giáo viên quân sự, huấn luyện cho tự vệ, bộ đội *********. Còn người có tên là Mùi thì ở lại với ********* Quảng Bình làm bác sĩ. Ông Mùi là y sĩ cao cấp của quân đội Nhật, khi được Ủy ban hành chính kháng chiến tỉnh tiếp nhận, và chính ông Hoàng Văn Diệm lúc đó là Chủ tịch tỉnh đặt cho tên Việt Nam là Lê Trung, bổ nhiệm về công tác tại bệnh viện Quảng Trạch thuộc chiến khu Trung Thuần; và được công nhận là ?oBác sĩ quân y trưởng của tỉnh?, bà con và anh em thường gọi là ?oÔng Trung?-?Bác sĩ Trung?... Năm 1947, bác sĩ Lê Trung được điều đi phục vụ đơn vị quân tình nguyện Việt Nam sang sát cánh cùng bạn Lào chiến đấu ở mặt trận Ba-na-phào khi Việt-Lào mở mặt trận này. Lê Trung hiền lành, trong điều kiện chiến đấu đầy hy sinh gian khổ như vậy nhưng không bao giờ kêu ca, được anh em quý mến. Ông là người giỏi chuyên môn, lại rất tận tình đem hết khả năng cứu chữa thương-bệnh binh. Ông là người to cao, có lần đi bộ suốt 4 ngày cõng một thương binh từ Pu-tu-na về bệnh viện ở Ba-na-phào để cứu chữa, anh em rất cảm động... Chính tại mặt trận này, Lê Trung gặp cô y tá Hoàng Thị Kim Huê, người con gái phố biển Nha Trang, vốn là nữ giao thông của Tỉnh ủy Khánh Hòa. Vì chiến tranh đã cắt đứt đường về, cô đã tìm đến sung vào đoàn quân tình nguyện này. Đầu 1948 đơn vị tổ chức lễ cưới cho hai người, do chính ông Chủ tịch Ủy ban, hành chính kháng chiến Quảng Bình Hoàng Văn Diệm làm chủ hôn. Không may, cuối năm ấy bác sĩ Lê Trung bị bệnh nhiễm trùng, giữa mặt trận không đủ phương tiện cứu chữa kịp thời nên ông đã qua đời, lúc chưa đầy 30 xuân. Ông không được nhìn thấy mặt con gái ra đời 6 tháng sau đó. Vợ ông đặt tên con Lê Thị Hoàng Tuyên, là mang họ Việt Nam của người bố, người mẹ, còn tên là kỷ niệm nơi sinh ở bệnh viện Đồng Lào, Tuyên Hóa.
    Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, bà Huê đã qua đời năm 1999. Con gái của bác sĩ Lê Trung trưởng thành là cán bộ thuộc Viện quy hoạch-Bộ Xây dựng, cũng đã qua đời do bệnh. Sau 49 năm, ngày 22-8-1997, bác sĩ người Nhật Lê Trung đã chính thức được công nhận là liệt sĩ với tấm bằng ?oTổ quốc ghi công? theo quyết định 669/TTg. Hài cốt ông được đưa về mai táng ở Quảng Bình bên cạnh các đồng đội Việt Nam. Người sĩ quan Nhật trở thành ?oChiến sĩ Việt Nam mới?, chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam ở Lào, nay yên nghỉ tại mộ số 1, lô số 4, nghĩa trang liệt sĩ Ba Dốc, Đồng Hới, Quảng Bình. Không ai biết tên Nhật của ông là gì, nhưng trên tấm bia mộ có khắc rõ dòng chữ: ?oLiệt sĩ Lê Trung, bác sĩ quân y, quốc tịch Nhật Bản; hy sinh 1-10-1948?!.
  6. Red_army_vn

    Red_army_vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/10/2004
    Bài viết:
    202
    Đã được thích:
    0
    Cảm ơn bác Panzerlehr với những bài báo , sau đây là hai đoạn trích trong cuốn ký sự ?oNgười Bình Xuyên? - tài liệu tham khảo của lực lượng Công an Nhân dân xuất bản năm 1985 , có đề cập tới những Chiến sĩ Quốc tế trong hàng ngũ ********* ở miền Đông Nam Bộ . Cuốn này nói về các lực lượng vũ trang Bình Xuyên trong thời kỳ chống Pháp và đầu thời Diệm khá hay , đầy đủ và chính xác , với người thật việc thật và chứng thực . Khi nào rỗi rãi em post cuốn này lên sau .
    Đầu tiên là về một người Pháp là Periê (Perrier)
    ?o ?Ngay đêm đó , Bảy Trân đến gặp Trần Văn Giàu báo cáo tình trạng vô chính phủ trong bộ đội mà nòng cốt là du đãng .
    ?.
    -Làm cách mạng đâu phải là lái xe hơi trên đường tráng nhựa ! ?" Trần Văn Giàu vỗ vai Bảy Trân . Suy nghĩ một lúc , Giàu nói tiếp ?" Được rồi ! Tao sẽ phái một số cán bộ Tổng công đoàn tới các nhóm bộ đội giữ chức chánh trị viên . Vai trò của họ là giúp bộ chỉ huy nắm chắc binh lính , tránh những chuyện độc tài quân phiệt như bên Bình Đăng của mầy . Còn riêng mầy thì tao cho một cố vấn quốc tế ?
    -Ai vậy ? ?" Bảy Trân nửa tin nửa ngờ .
    -Mầy có biết Periê ( Perrier) không ? Periê là đảng viên Đảng cộng sản Pháp cử phụ trách Viễn Đông , trụ sở tại Thượng Hải . Ông bị bọn phản cách mạng Tàu bắt giao cho Pháp tại Đông Dương , Pháp nhốt ông tại Khám lớn Sài Gòn . Cách mạng tháng Tám mở toang cửa khám , Periê thoát cũi sổ ***g giờ đang ở với tao . Tao chưa biết giao ông ta cho ai thì mầy tới . Periê sẽ làm cố vấn cho mầy . Về quân sự thì ông ta không chuyên nhưng về chính trị thì ông ta là thầy tụi mình .
    Trở về Bình Đăng , Bảy Trân dẫn theo một người Pháp trung niên , cao lớn râu rậm . Periê rất mến người bạn mới . Thứ nhất , Bảy Trân nói tiếng Pháp như người Pháp . Thứ hai , Bảy Trân vui tính , chân thật . Periê rất chịu tính chân thật của người miền Nam . Ông hoạt động ở miền Nam khá lâu và hiểu vì sao người miền Nam chân thật và buộc kẻ khác cũng phải chân thật với mình . Đó là nhờ họ sống sát thiên nhiên . Mà thiên nhiên như dòng nước lớn , như mùa mưa mùa nắng , đâu đó đều có qui luật ? Từ đó Periê bám sát Bảy Trân như hình với bóng , ăn chung , ngủ chung , làm chung .
    ??o
    Đoạn này nói về những người Nhật trong một đơn vị
    ?o ?
    Liền sau khi được kết nạp Đảng , Hai Vĩnh trở về xây dựng chi đội 7 theo phương hướng cấp trên đề ra để tiến tới chính qui hóa ,-chi đội biên chế thành trung đoàn ?"thống nhất các lực lượng võ trang trên toàn quốc thành Vệ quốc đoàn . Kỷ luật phải được nắm vững . Hai Vĩnh buộc phải hy sinh hai binh sĩ có nhiều thành tích nhưng phạm nhiều tội nghiêm trọng .
    Vụ thứ nhất là đội viên tên ba Du , liên lạc của chi đội , đã lợi dụng danh nghĩa bộ đội để mượn tiền của Đạo Ông Trần ăn chơi phè phởn . Tội thứ hai là dụ dỗ , cưỡng bức con gái rồi hắt hủi , nạn nhân lại là tín đồ Đạo Ông Trần .
    Vụ thứ hai là một binh sĩ Nhật theo chi đội 7 từ đầu . hai Vĩnh đặt tên cho hắn là Đội Ba
    . Đội Ba lập nhiều chiến công trên chiến trường , lại biết sửa chữa súng máy , phục hồi khẩu đại liên Lơvit (Lewes)?Nhưng Đội Ba trở thành kiêu binh , công thần , ngang nhiên cướp chiến lợi phẩm cất trong kho , cuỗm chiếc cặp da đựng tiền lương của địch trong trận đánh giao thông trên đường Phước Hòa ; dùng tiền và chiến lợi phẩm ấy dụ dỗ con gái trong vùng đóng quân . Ngoài ra Đội Ba còn lợi dụng lúc vào binh công xưởng sửa chữa súng , liên lạc với tay trong làm chỉ điểm cho máy bay lên bỏ bom nơi này .
    Hai Vĩnh đành phải thành lập tòa án binh đưa hai tên Du và Đội Ba ra xét xử . Khi tòa tuyên án tử hình , binh sĩ Nhật trong chi đội được hỏi ý kiến . Số này rất đông , gần một trăm người . Tất cả đều nhìn nhận Đội Ba đáng tội chết . Hai Vĩnh dành cho Đội Ba một ân huệ cuối cùng là được tự do tâm sự với các bạn đồng đội người Nhật và sau khi anh chết thì thi hài sẽ được tẩm liệm và mai táng theo phong tục của người Nhật .
    Để nắm số người Nhật này , Hai Vĩnh đã nhờ bốn đội viên mà anh đã tiếp xúc đầu tiên vào năm 46 . Lúc đó bộ đội Ông Tám Mạnh nhiều lính mà thiếu súng , không bằng bộ đội Thủ Thiêm của Bảy Môn , Mười Lực , nhất là về súng lớn . Hay tin quân Nhật ở Bà Rịa có khẩu đại liên Lơvit , Hai Vĩnh tốc xuống Bà Rịa ngoại giao . Lúc đó Lê Văn Huề -cũng gọi là Phán Huề -làm chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh . Phán Huề cấp giấy giới thiệu cho Hai Vĩnh tiếp xúc với đơn vị Nhật đóng ở Bà Rịa . Khẩu Lơvit này do bốn tên Nhật phụ trách . Hai Vĩnh trổ taì ngoại giao thuyết phục lính Nhật giao súng . Kết quả mỹ mãn . Chẳng những chúng chịu giao súng mà còn tình nguyện gia nhập bộ đội Việt Nam chiến đấu tới cùng thay vì bó tay nạp mình cho Đồng minh . Hai Vĩnh mừng rỡ làm tiệc đón nhận 4 chiến sĩ Quốc tế này đồng thời long trọng đặt tên cho họ là Tâm , Trung , Hiếu , Nghĩa . Anh cũng giao họ phụ trách khẩu đại liên đĩa ấy luôn . Ngoài lính Nhật còn có một số lính Âu , phần lớn là lê dương . Ông Bảy Trân phái Periê đến chi đội 7 giúp Hai Vĩnh lãnh đạo đội quân Quốc tế này , quân số trên 150 người .
    ??
  7. Red_army_vn

    Red_army_vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/10/2004
    Bài viết:
    202
    Đã được thích:
    0
    Cảm ơn bác Panzerlehr với những bài báo , sau đây là hai đoạn trích trong cuốn ký sự ?oNgười Bình Xuyên? - tài liệu tham khảo của lực lượng Công an Nhân dân xuất bản năm 1985 , có đề cập tới những Chiến sĩ Quốc tế trong hàng ngũ ********* ở miền Đông Nam Bộ . Cuốn này nói về các lực lượng vũ trang Bình Xuyên trong thời kỳ chống Pháp và đầu thời Diệm khá hay , đầy đủ và chính xác , với người thật việc thật và chứng thực . Khi nào rỗi rãi em post cuốn này lên sau .
    Đầu tiên là về một người Pháp là Periê (Perrier)
    ?o ?Ngay đêm đó , Bảy Trân đến gặp Trần Văn Giàu báo cáo tình trạng vô chính phủ trong bộ đội mà nòng cốt là du đãng .
    ?.
    -Làm cách mạng đâu phải là lái xe hơi trên đường tráng nhựa ! ?" Trần Văn Giàu vỗ vai Bảy Trân . Suy nghĩ một lúc , Giàu nói tiếp ?" Được rồi ! Tao sẽ phái một số cán bộ Tổng công đoàn tới các nhóm bộ đội giữ chức chánh trị viên . Vai trò của họ là giúp bộ chỉ huy nắm chắc binh lính , tránh những chuyện độc tài quân phiệt như bên Bình Đăng của mầy . Còn riêng mầy thì tao cho một cố vấn quốc tế ?
    -Ai vậy ? ?" Bảy Trân nửa tin nửa ngờ .
    -Mầy có biết Periê ( Perrier) không ? Periê là đảng viên Đảng cộng sản Pháp cử phụ trách Viễn Đông , trụ sở tại Thượng Hải . Ông bị bọn phản cách mạng Tàu bắt giao cho Pháp tại Đông Dương , Pháp nhốt ông tại Khám lớn Sài Gòn . Cách mạng tháng Tám mở toang cửa khám , Periê thoát cũi sổ ***g giờ đang ở với tao . Tao chưa biết giao ông ta cho ai thì mầy tới . Periê sẽ làm cố vấn cho mầy . Về quân sự thì ông ta không chuyên nhưng về chính trị thì ông ta là thầy tụi mình .
    Trở về Bình Đăng , Bảy Trân dẫn theo một người Pháp trung niên , cao lớn râu rậm . Periê rất mến người bạn mới . Thứ nhất , Bảy Trân nói tiếng Pháp như người Pháp . Thứ hai , Bảy Trân vui tính , chân thật . Periê rất chịu tính chân thật của người miền Nam . Ông hoạt động ở miền Nam khá lâu và hiểu vì sao người miền Nam chân thật và buộc kẻ khác cũng phải chân thật với mình . Đó là nhờ họ sống sát thiên nhiên . Mà thiên nhiên như dòng nước lớn , như mùa mưa mùa nắng , đâu đó đều có qui luật ? Từ đó Periê bám sát Bảy Trân như hình với bóng , ăn chung , ngủ chung , làm chung .
    ??o
    Đoạn này nói về những người Nhật trong một đơn vị
    ?o ?
    Liền sau khi được kết nạp Đảng , Hai Vĩnh trở về xây dựng chi đội 7 theo phương hướng cấp trên đề ra để tiến tới chính qui hóa ,-chi đội biên chế thành trung đoàn ?"thống nhất các lực lượng võ trang trên toàn quốc thành Vệ quốc đoàn . Kỷ luật phải được nắm vững . Hai Vĩnh buộc phải hy sinh hai binh sĩ có nhiều thành tích nhưng phạm nhiều tội nghiêm trọng .
    Vụ thứ nhất là đội viên tên ba Du , liên lạc của chi đội , đã lợi dụng danh nghĩa bộ đội để mượn tiền của Đạo Ông Trần ăn chơi phè phởn . Tội thứ hai là dụ dỗ , cưỡng bức con gái rồi hắt hủi , nạn nhân lại là tín đồ Đạo Ông Trần .
    Vụ thứ hai là một binh sĩ Nhật theo chi đội 7 từ đầu . hai Vĩnh đặt tên cho hắn là Đội Ba
    . Đội Ba lập nhiều chiến công trên chiến trường , lại biết sửa chữa súng máy , phục hồi khẩu đại liên Lơvit (Lewes)?Nhưng Đội Ba trở thành kiêu binh , công thần , ngang nhiên cướp chiến lợi phẩm cất trong kho , cuỗm chiếc cặp da đựng tiền lương của địch trong trận đánh giao thông trên đường Phước Hòa ; dùng tiền và chiến lợi phẩm ấy dụ dỗ con gái trong vùng đóng quân . Ngoài ra Đội Ba còn lợi dụng lúc vào binh công xưởng sửa chữa súng , liên lạc với tay trong làm chỉ điểm cho máy bay lên bỏ bom nơi này .
    Hai Vĩnh đành phải thành lập tòa án binh đưa hai tên Du và Đội Ba ra xét xử . Khi tòa tuyên án tử hình , binh sĩ Nhật trong chi đội được hỏi ý kiến . Số này rất đông , gần một trăm người . Tất cả đều nhìn nhận Đội Ba đáng tội chết . Hai Vĩnh dành cho Đội Ba một ân huệ cuối cùng là được tự do tâm sự với các bạn đồng đội người Nhật và sau khi anh chết thì thi hài sẽ được tẩm liệm và mai táng theo phong tục của người Nhật .
    Để nắm số người Nhật này , Hai Vĩnh đã nhờ bốn đội viên mà anh đã tiếp xúc đầu tiên vào năm 46 . Lúc đó bộ đội Ông Tám Mạnh nhiều lính mà thiếu súng , không bằng bộ đội Thủ Thiêm của Bảy Môn , Mười Lực , nhất là về súng lớn . Hay tin quân Nhật ở Bà Rịa có khẩu đại liên Lơvit , Hai Vĩnh tốc xuống Bà Rịa ngoại giao . Lúc đó Lê Văn Huề -cũng gọi là Phán Huề -làm chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh . Phán Huề cấp giấy giới thiệu cho Hai Vĩnh tiếp xúc với đơn vị Nhật đóng ở Bà Rịa . Khẩu Lơvit này do bốn tên Nhật phụ trách . Hai Vĩnh trổ taì ngoại giao thuyết phục lính Nhật giao súng . Kết quả mỹ mãn . Chẳng những chúng chịu giao súng mà còn tình nguyện gia nhập bộ đội Việt Nam chiến đấu tới cùng thay vì bó tay nạp mình cho Đồng minh . Hai Vĩnh mừng rỡ làm tiệc đón nhận 4 chiến sĩ Quốc tế này đồng thời long trọng đặt tên cho họ là Tâm , Trung , Hiếu , Nghĩa . Anh cũng giao họ phụ trách khẩu đại liên đĩa ấy luôn . Ngoài lính Nhật còn có một số lính Âu , phần lớn là lê dương . Ông Bảy Trân phái Periê đến chi đội 7 giúp Hai Vĩnh lãnh đạo đội quân Quốc tế này , quân số trên 150 người .
    ??
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Trợ chiến bác Hồng quân tẹo, mấy bài này em gõ lại từ đống Sự kiện & Nhân chứng ở nhà!
    Đại tá người Nhật Ishii-Nguyễn Văn Thông
    E.G.Cri-xtô-phơ
    Tư liệu lưu trữ của Pháp có đoạn viết: ?o? Tháng 1-1946, Huỳnh Kinh Trường, một chỉ huy của ********* ở miền Nam đã tán thành việc tuyển dụng những người Nhật ?ođào ngũ?. Về việc ?otuyển dụng?, ?ođại tá? Ishii, tài liệu này cho biết:
    Sau khi Nhật Bản đã đầu hàng (Đồng minh) năm 1945, Ishii lúc đó 27 tuổi là trung tá trẻ tuổi nhất của quân đội Nhật. Đại tá Saito (một sĩ quan của Bộ tham mưu sư đoàn 55 hoạt động ở Miến Điện (nay là Myanmar từ 7-1945-4-1946, là thủ trưởng cũ của Ishii, muốn truy tìm lại con người này bằng bất cứ giá nào.
    Trung tá Ishii, từng được đào tạo ở trường sĩ quan nổi tiếng Nakato và nắm rất vững phương thức chiến tranh hiện đại của Nhật Bản, cũng như những phương thức chiến tranh bí mật. Mặt khác, ông ta cũng dã chỉ huy trong bộ tham mưu sư đoàn 55 ở Myanmar và đã từng tham gia trận chiến gay go nhất đánh chiếm thủ đô Yangon. Khi Ishii đào ngũ để đi theo *********, Saito nói: Con người râu rậm và lạnh lùng đó là ?ocực kỳ nguy hiểm?.
    ? Ishii đào ngũ khỏi đơn vị ngày 17-12-1945 ở Banam (Campuchia) trong một chuyến đi công cán đem theo các chiến hữu ở trường Nakano. Sau khi đi theo ********* đầu 1946, ông nói tiếng Việt ngày càng thông thạo? Tháng 5-1946, ông rời Bà Rịa bằng tàu thuỷ cùng với ông Phạm Văn Bạch, Chủ tịch UBKC Nam Bộ, để đi ra Quảng Ngãi. Dưới sự chỉ đạo của ông Phạm Văn Đồng và ông Nguyễn Sơn, Nam Trung Bộ lúc đó là căn cứ để vật chất vũ khí và người từ miền Bắc vào miền Nam. Ngay cả về sau, khi chiến tranh đã bùng nổ khắp cả nước, nhiều vùng rộng lớn của Nam Trung Bộ vẫn còn nằm tỏng tay *********. Điều đó giải thích sự có mặt của nhiều quân nhân Nhật đi theo ********* ở vùng này.
    Các tài liệu của Pháp cũng cho biết, tháng 6-1946 Ishii đã tập hợp tất cả các chỉ huy cấp trung đoàn (của *********) từ Huế đến Phan Thiết để huấn luyện một tháng. Đến tháng 7-1946, Ishii được cử làm chỉ huy trường quân sự ở Quảng Ngãi. Chính ông đã đưa những sĩ quan khác mà ông đã quen từ trước vào làm huấn luyện viên ở trường này, như Saitoh (đừng nhầm với đại tá Saito), một người về sau cũng được ********* phong hàm đại tá như ông. Saitoh trở thành ?oChiến sĩ Việt Nam mới? với tên Việt là Nguyễn Thanh Tâm. Đến cuối 1946, Saitoh được thay ông chỉ huy trường quân sự Quảng Ngãi, khi ông trở thành ?oCố vấn tối cao? của quân đội ********* ở miền Nam và là Thanh tra trường quân chính Nam Bộ.
    Tuy chưa có đủ tài liệu kể chi tiết về hoạt động của ông-tác giả viết tiếp-nhưng ?ovị trí cao của Ishii trong quân đội ********* ở miền Nam chứng tỏ rằng hiểu biết về quân sự và kỹ thuật của Ishii được người Việt Nam đánh giá cao?, nhất là tấm lòng và những đóng góp của ông cho Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược. Cho nên ?otừ tháng 8-1946, Nguyễn Sơn đã tin tưởng cử ông vào Tuy Hoà để tổ chức một trường quân sự khác. Năm 1947, Ishii đã tiến hành huấn luyện cho đội quân thiện chiến 130 người, và cuối 1948 lại đào tạo cán bộ cho các đơn vị dân quân các khu 7, 8, 9. Năm 1947, cùng với tướng Nguyễn Sơn, Ishii đã tổ chức một trận phục kích lớn khiến 70-80 quân Pháp bị tử trận. Việc chuyển giao kỹ thuật cho Việt Nam được dễ dàng vì nhiều người Nhật đào ngũ nói được tiếng Việt khá thạo và hiểu biết về văn hóa Việt? Trong 7 sĩ quan ở trường Quảng Ngãi năm 1946 thì 4 người đến từ đơn vị hiến binh ở Huế và Phan Thiết? Trong số 46 người đào ngũ ở Nam Trung Bộ trong năm 1948 thì 13 người thạo tiếng Việt và 9 người nói rất tốt? Đã có 9 người lại lấy vợ là người Việt Nam.
    Những sĩ quan Nhật trong các trường quân chính của ********* hồi đó, có nhiều đóng góp trong công tác huấn luyện kỹ thuật và quân sự của nước Việt Nam hồi đầu kháng chiến chống Pháp. Có thể so sánh những đónggóp kỹ thuật-quân sự của những người Nhật với những đóng góp của người châu Âu như Boóc-sơ (chiến sĩ), S.Ku-bi-ắc (Hồ Chí Toàn), Sroi-đơ (Lê Đức Nhân)? đã đi theo ********* thời kỳ đó, những ?oChiến dịch Việt Nam mới? của ?oBộ đội *****?. Vì nền độc lập của Việt Nam, chiến sĩ tình nguyện quốc tế Ishii đã hy sinh ở Việt Nam năm 1950 khi còn rất trẻ. Takuo Ishii xứng danh là một ?oChiến sĩ Việt Nam mới? của Bác Hồ, có tên Việt Nam là Nguyễn Văn Thông.
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Trợ chiến bác Hồng quân tẹo, mấy bài này em gõ lại từ đống Sự kiện & Nhân chứng ở nhà!
    Đại tá người Nhật Ishii-Nguyễn Văn Thông
    E.G.Cri-xtô-phơ
    Tư liệu lưu trữ của Pháp có đoạn viết: ?o? Tháng 1-1946, Huỳnh Kinh Trường, một chỉ huy của ********* ở miền Nam đã tán thành việc tuyển dụng những người Nhật ?ođào ngũ?. Về việc ?otuyển dụng?, ?ođại tá? Ishii, tài liệu này cho biết:
    Sau khi Nhật Bản đã đầu hàng (Đồng minh) năm 1945, Ishii lúc đó 27 tuổi là trung tá trẻ tuổi nhất của quân đội Nhật. Đại tá Saito (một sĩ quan của Bộ tham mưu sư đoàn 55 hoạt động ở Miến Điện (nay là Myanmar từ 7-1945-4-1946, là thủ trưởng cũ của Ishii, muốn truy tìm lại con người này bằng bất cứ giá nào.
    Trung tá Ishii, từng được đào tạo ở trường sĩ quan nổi tiếng Nakato và nắm rất vững phương thức chiến tranh hiện đại của Nhật Bản, cũng như những phương thức chiến tranh bí mật. Mặt khác, ông ta cũng dã chỉ huy trong bộ tham mưu sư đoàn 55 ở Myanmar và đã từng tham gia trận chiến gay go nhất đánh chiếm thủ đô Yangon. Khi Ishii đào ngũ để đi theo *********, Saito nói: Con người râu rậm và lạnh lùng đó là ?ocực kỳ nguy hiểm?.
    ? Ishii đào ngũ khỏi đơn vị ngày 17-12-1945 ở Banam (Campuchia) trong một chuyến đi công cán đem theo các chiến hữu ở trường Nakano. Sau khi đi theo ********* đầu 1946, ông nói tiếng Việt ngày càng thông thạo? Tháng 5-1946, ông rời Bà Rịa bằng tàu thuỷ cùng với ông Phạm Văn Bạch, Chủ tịch UBKC Nam Bộ, để đi ra Quảng Ngãi. Dưới sự chỉ đạo của ông Phạm Văn Đồng và ông Nguyễn Sơn, Nam Trung Bộ lúc đó là căn cứ để vật chất vũ khí và người từ miền Bắc vào miền Nam. Ngay cả về sau, khi chiến tranh đã bùng nổ khắp cả nước, nhiều vùng rộng lớn của Nam Trung Bộ vẫn còn nằm tỏng tay *********. Điều đó giải thích sự có mặt của nhiều quân nhân Nhật đi theo ********* ở vùng này.
    Các tài liệu của Pháp cũng cho biết, tháng 6-1946 Ishii đã tập hợp tất cả các chỉ huy cấp trung đoàn (của *********) từ Huế đến Phan Thiết để huấn luyện một tháng. Đến tháng 7-1946, Ishii được cử làm chỉ huy trường quân sự ở Quảng Ngãi. Chính ông đã đưa những sĩ quan khác mà ông đã quen từ trước vào làm huấn luyện viên ở trường này, như Saitoh (đừng nhầm với đại tá Saito), một người về sau cũng được ********* phong hàm đại tá như ông. Saitoh trở thành ?oChiến sĩ Việt Nam mới? với tên Việt là Nguyễn Thanh Tâm. Đến cuối 1946, Saitoh được thay ông chỉ huy trường quân sự Quảng Ngãi, khi ông trở thành ?oCố vấn tối cao? của quân đội ********* ở miền Nam và là Thanh tra trường quân chính Nam Bộ.
    Tuy chưa có đủ tài liệu kể chi tiết về hoạt động của ông-tác giả viết tiếp-nhưng ?ovị trí cao của Ishii trong quân đội ********* ở miền Nam chứng tỏ rằng hiểu biết về quân sự và kỹ thuật của Ishii được người Việt Nam đánh giá cao?, nhất là tấm lòng và những đóng góp của ông cho Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược. Cho nên ?otừ tháng 8-1946, Nguyễn Sơn đã tin tưởng cử ông vào Tuy Hoà để tổ chức một trường quân sự khác. Năm 1947, Ishii đã tiến hành huấn luyện cho đội quân thiện chiến 130 người, và cuối 1948 lại đào tạo cán bộ cho các đơn vị dân quân các khu 7, 8, 9. Năm 1947, cùng với tướng Nguyễn Sơn, Ishii đã tổ chức một trận phục kích lớn khiến 70-80 quân Pháp bị tử trận. Việc chuyển giao kỹ thuật cho Việt Nam được dễ dàng vì nhiều người Nhật đào ngũ nói được tiếng Việt khá thạo và hiểu biết về văn hóa Việt? Trong 7 sĩ quan ở trường Quảng Ngãi năm 1946 thì 4 người đến từ đơn vị hiến binh ở Huế và Phan Thiết? Trong số 46 người đào ngũ ở Nam Trung Bộ trong năm 1948 thì 13 người thạo tiếng Việt và 9 người nói rất tốt? Đã có 9 người lại lấy vợ là người Việt Nam.
    Những sĩ quan Nhật trong các trường quân chính của ********* hồi đó, có nhiều đóng góp trong công tác huấn luyện kỹ thuật và quân sự của nước Việt Nam hồi đầu kháng chiến chống Pháp. Có thể so sánh những đónggóp kỹ thuật-quân sự của những người Nhật với những đóng góp của người châu Âu như Boóc-sơ (chiến sĩ), S.Ku-bi-ắc (Hồ Chí Toàn), Sroi-đơ (Lê Đức Nhân)? đã đi theo ********* thời kỳ đó, những ?oChiến dịch Việt Nam mới? của ?oBộ đội *****?. Vì nền độc lập của Việt Nam, chiến sĩ tình nguyện quốc tế Ishii đã hy sinh ở Việt Nam năm 1950 khi còn rất trẻ. Takuo Ishii xứng danh là một ?oChiến sĩ Việt Nam mới? của Bác Hồ, có tên Việt Nam là Nguyễn Văn Thông.
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Thương tiếc thầy Minh Ngọc
    Đại tá Huỳnh Thúc Tuệ (Cựu học viên LQTH Quảng Ngãi)
    Từ Tokyo báo tin sang: ông Minh Ngọc, tên Nhật là Mitsonubu Nakahara đã qua đời làm cho chúng tôi-những học trò cũ của thầy vô cùng xúc động và thương tiếc vô hạn.
    Mới năm nào, giáo vuên quân sự cũ người Nhật trong đó có thầy Minh Ngọc đã sang Việt Nam, vào thị xã Quảng Ngãi nơi Trường lục quân trung học Quảng Ngai ra đời (6-1946). Cùng thời gian này ra đời Trường võ bị Trần Quốc Tuấn. Đây là hai trường đầu tiên đào tạo những sĩ quan sơ cấp đầu tiên cho Quân đội theo quyết định của Trung ương, Hồ Chủ tịch và Bộ Quốc phòng.
    Thầy Minh NGọc tên Nhật là Mitsonubu Nakahara sinh vào đầu thập kỷ 20 của thế kỷ 20, gia nhập quân đội Nhật từ đầu thập kỷ 40, qua Đông Dương vào năm 1943 trong biên chế Bộ tham mưu quân đoàn 2 Nhật đóng sở chỉ huy tại kinh đô Huế. Lúc đó thầy đã là đại uý, sĩ quan trợ lý của tướng Ikawa.
    Là một trí thức, ông sớm nhận thấy cuộc chiến tranh của Nhật dưới chiêu bài ?oKhối thịnh vượng chung Đông Nam Á? vừa phi nghĩa, vừa tàn khốc, gây biết bao đau thương cho hàng trăm triệu người dân từ Bắc Á đến Đông Nam Á và Thái Bình Dương. Sau cuộc đảo chính 9-3-1945 Nhật lật Pháp, thầy Minh Ngọc cùng với một số sĩ quan Nhật khác đã chủ động quan hệ với các đồng chí lãnh đạo ********* Trung Bộ.
    Sau tổng khởi nghĩa tháng Tám, thầy Minh Ngọc đã tích cực giúp huấn luyện quân sự cho lực lượng vũ trang của ta, thu mua vũ khí của Nhật và Tàu Tưởng. Vào cuối năm 1945, thầy đã vào miền Nam làm việc dưới sự lãnh đạo của-chỉ huy-của tướng Nguyễn Sơn lúc đó là Chủ tịch kiêm Tư lệnh miền Nam Việt Nam.
    Từ cuối năm 1945 cho đến tháng 5-1946, thầy Minh Ngọc được tướng Nguyễn Sơn cử làm phái viên tác chiến trên các mặt trận Nha Trang, đường 19 An Khê, Buôn Ma Thuột. Vào đầu tháng 5-1946, thầy được triệu tập về Quảng Ngãi để cùng với cán bộ Việt Nam và một số người nước ngoài mà đa số là người Nhật, chuẩn bị mọi mặt để khai giảng khóa học đầu tiên Trường lục quân trung học Quảng Ngãi sát ngay với các chiến trường nóng bỏng Nha Trang, Tây Nguyên. Đến giữa tháng 11-1946, khóa học phải bế giảng sớm để học viên về các chiến trường sẵn sàng chiến đấu trước sự gây hấn điên cuồng của thực dân Pháp trên khắp mọi miền đất nước. Hạ tuần tháng 11-1946 thầy Minh Ngọc cùng với một số sân bay nhà trường và trên 100 học viên, hành quân từ Quảng Ngãi ra Hà Nội. Vừa đặt chân xuống ga Hàng Cỏ, thầy Minh Ngọc được điều ngay về thị xã Sơn Tây huấn luyện bổ túc cho cán bộ sơ cấp, trung cấp những kiến thức cần thiết để chỉ huy tác chiến.
    Ngày 19-12-1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Lúc đó thầy Minh Ngọc đang ở Tông (Sơn Tây) được lệnh của Bộ tổng chỉ huy về làm sĩ quan đốc chiến mặt trận Nam Định. Từ đó thầy tham gia các chiến sĩ từ Việt Bắc 1947, Biên Giới, Trung Du, Hoàng Hoa Thám, Hà Nam Ninh, Hoà Bình, Thượng Lào, Điện Biên Phủ với cương vị là sĩ quan tham mưu, lúc đó được gọi là ?otham nghị quân sự?.
    Lúc được làm phái viên tác chiến tại các chiến sĩ, khi về làm công tác nghiên cứu ở Bộ tổng tham mưu, hoặc ra làm giáo viên quân sự các khóa lục quân Trần Quốc Tuấn bất cứ nhiệm vụ nào, thầy Minh Ngọc cũng luôn hoàn thành tốt, được Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, cùng nhiều tướng lĩnh cao cấp tin cậy, quý mến, thầy Minh Ngọc và thầy sớm đứng trong hàng ngũ Đảng tiền phong từ năm 1950.
    Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, tháng 7-1954 cùng với trên 70 người Nhật tham gia lực lượng vũ trang và các ngành khác, thầy Minh Ngọc được hồi hương. Trở lại quê hương đất anh đào, thầy Minh Ngọc đã phải vượt qua khó khăn gian nan trong cuộc sống. Tuy vậy mỗi lúc nhớ đến Việt Nam mà thầy xem là quê hương thứ hai của mình, thầy lại đem hết tinh thần và sức lực nhằm đền đáp ân nghĩa với đất nước Việt Nam còn bị chia cắt hai miền, bị giặc Mỹ và nguỵ quyền đàn áp. Năm 1960, thầy được Đảng Cộng sản Nhật cử tham gia ban lãnh đạo Hội hữu nghị Nhật-Việt. Nhân dân Nhân và những người có lương tri xứ Phù Tang đã hăng hái ủng hộ Việt Nam chống Mỹ. Mặc dù gặp khó khăn, thầy đã 2-3 lần sang Việt Nam gặp gỡ bạn bè đồng chí, đến đâu thầy cũng được đón tiếp nồng nhiệt, thân tình?
    Tháng 12-1991 nhân ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22-12), căn cứ vào thành tích cống hiến của thầy Ngọc Minh, Chính phủ và Quân đội ta đã tổ chức trọng thể lễ trao Huân chương Quân công hạng 3 và huân chương Chiến thắng hạng 2 cho thầy Minh Ngọc.
    Chúng tôi, những học trò của thầy, thành kính nghiêng mình trước vong linh thầy và mong rằng những dòng viết từ đáy lòng của chúng tôi được tới nơi thầy yên nghỉ, coi như nắm nhang được đốt lên toả khói thiêng quanh thầy luôn nhớ đến các học trò từ vạn dặm xa xôi.

Chia sẻ trang này