1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những chiến sĩ Quốc tế trong kháng chiến chống Pháp .

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi Red_army_vn, 26/03/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Người chiến sĩ quốc tế Hy Lạp
    Trần Văn Út
    Hai mươi mốt tuổi bị bắt đi lính đưa sang Việt Nam trong đội quân lê dương năm 1946, người thanh niên Hy Lạp Konstantinos Sfitsi Zoglu, sớm nhận ra cuộc chiến tranh mà thực dân Pháp đang tiến hành trên lãnh thổ Việt Nam là bẩn thiểu nên tự nguyện rời bỏ hàng ngũ lính viễn chinh Pháp ra vùng giải phóng theo ********* tham gia kháng chiến. Đại đội Quang Trung (Trung đoàn 812 Bình Thuận) là nơi đầu tiên thu nhận ông, nơi ông mang cái tên Việt Nam: Nguyễn Văn Bông.
    Về thăm đồng đội nơi chiến trường xưa Phan Thiết, Bình Thuận lần này, trông ông Bông còn hồng hào, nhanh nhẹn, viết và nói tiếng Việt còn rành rọt như cách nay vừa tròn mười năm tôi gặp. Nhìn ông, không ai ngờ đó là ông lão 78 tuổi. Cách đây 5 tháng, ông đã viết thư cho ông Năm Thôi: ?oThư của bạn làm cho Bông nhớ lại những ngày đầu mà Bông ở đồn sông Lòng Sông (Tuy Phong) ra với cách mạng, kiên quyết ra đi theo kháng chiến bên cạnh các đồng chí và nhân dân Việt Nam anh hùng. Cầm bút viết cho bạn, tôi nhớ nhiều đến tuổi trẻ của mình đã sống ở chiến khu bao nhiêu năm gian khổ, thiếu ăn, thiếu uống, thiếu tất cả nhưng là một cuộc đời tự do hạnh phúc??. Ông lại tự giận mình đã 4 lần sang Việt Nam kể từ năm 1994, trong đó có lần ghé qua Sài Gòn mà không biết nơi đó có gia đình ông Năm Thôi đang sinh sống để đến thăm. Trong một lá thư khác gởi cho ông Năm Thôi, ông viết: ?? Giờ này Bông vô cùng nhớ những ngày đầu tiên gặp Thôi và Nhân, hai anh em người Phan Rí ở lại đội Quang Trung? Nghĩ đời mình 60 năm về trước mà ngạc nhiên, tưởng đó là một chuyện phim thần thoại. Nói như thế vì ít người ở thế giới được sống một cuộc đời như đời của Bông. Lúc tôi kể chuyện này cho người Hy Lạp, ngườ ta khó tin mình?.
    Sang thăm lại Việt Nam lần này, ông Bông thật diễm phúc. Con người có cái tên ông nhắc trong thư nói trên đã ra tận sân bay Tân Sơn Nhất đón và cùng vợ chồng ông ra tận chiến trường Phan Thiết, Bình Thuận dự cuộc hội ngộ mà chính quyền cùng đoàn thể cựu chiến binh tỉnh Bình Thuận tổ chức. Đó là đồng chí Năm Thôi tức Mai Chí Hoàn, năm nay đã ngoài 80 tuổi. Ông Năm Thôi là người được giao nhiệm vụ gần gũi giúp đỡ ông Bông từ phút đầu tiên tiếp xúc với ********* và sống cùng ông Bông suốt thời gian kháng chiến cho tới ngày hoà bình lập lại tháng 7-1954.
    Nhìn hai ông lão ở lứa tuổi trên dưới 80 còn khỏe mạnh, anh em cựu chiến binh Trung đoàn 812 có mặt hôm ấy mừng vui xúc động. Trong niềm vui gặp gỡ chứa chan tình đồng đội năm xưa, ông Năm Thôi kể: ?oMột hôm, đang ở nhà đồng bào, tôi thấy anh Bông khóc nức nở như một đứa trẻ. Khi được hỏi, anh nói trong nước mắt: ?oTôi nhớ mẹ tôi quá?? Không đợi ông Năm Thôi nói dứt lời, ông Bông vui vẻ nhận: ?oCó, có. Tôi có khóc vì nhớ mẹ quá??. Trong cuộc hội ngộ, ông Bông vô cùng xúc động khi gặp lại ông Tấn, người trực tiếp tiếp đạn trung liên cho ông trong một trận chiến ác liệt cách đây hơn 50 năm.
    Không khí sôi nổi của buổi gặp mặt bỗng nhiên trầm xuống khi ban tổ chức công bố quyết định của Hội cựu chiến binh và Ban liên lạc cựu chiến binh trung đoàn 812 tỉnh Bình Thuận tặng huy hiệu Cựu chiến binh Việt Nam và kỷ niệm chương của trung đoàn 812 anh hùng cho đồng chí Nguyễn Văn Bông. Khi chiếc huy hiệu cựu chiến binh Việt Nam được gắn lên ngực, trong niềm xúc động tột cùng, ông Bông đã bật lên lời ho: ?oHồ Chí Minh muôn năm? ba lần dõng dạc. Tất cả mọi người có mặt đồng thanh hưởng ứng, làm cho gian phòng trở nên trang nghiêm mà ấm cúng lạ thường.
    Lần trước, ồng Bông đã trở lại trận địa cũ tìm thi hài người đồng đội quốc tế tự tay anh chôn cất sau một trận chiến đấu ác liệt hy sinh năm xưa nhưng vẫn vô vọng. Lần này, ông được thăm lại địa danh sông Lòng Sông (Tuy Phong) nơi mà năm 1946 có một đồn lính Pháp, từ đó ông bỏ trốn sang hàng ngũ *********. Ông còn nhớ rất rõ hình ảnh chiếc cầu dài ở quốc lộ 1, nơi ông đổ quân triển khai vào đồn trú sông Lòng Sông. Đó là chiếc cầy Đại Hoà ngày nay. Cùng với các địa danh khác của đất nước Việt Nam, sông Lòng Sông đã theo ông suốt đời. Việt Nam đã từ lâu trở thành một phần máu thịt của ông. Nỗi nhớ về Việt Nam canh cánh bên lòng, ông nguyện luôn giữ cho mình và mong muốn truyền lại cho con cháu mình để không bao giờ quên cha ông mình đã sống và chiến đấu như thế nào, yêu thương Việt Nam như thế nào, từ đâu có cái tên Nguyễn Văn Bông mà suốt đời ông ghi dấu bên cạnh tên cúng cơm của mình bằng tiếng Hy Lạp Konstantinos Sfitsit Zoglu đáng yêu kia.
    Tạm biệt đất nước Việt Nam và những đồng đội năm xưa, ông Bông đã gửi một lá thư qua fax tỏ lòng biết ơn sâu sắc về sự đón tiếp trân trọng và thân tình của lãnh đạo tỉnh Bình Thuận, bạn bè đồng đội chung chiến hào xưa đối với vợ chồng ông. Tự hào thật sự mình là một người ngoại quốc hiểu rất rõ Việt Nam, ông viết: ?oLịch sử của các bạn, của nhân dân Việt Nam, thế giới ai cũng đều biết, nhưng tôi dám nói Bông biết hơn họ, tỉ mỉ hơn họ bởi vì thực tế từng sống cùng anh em, cùng nhân dân Việt Nam ở vào những hoàn cảnh ấy. Cách đây mấy mươi năm trước có một chàng trai người Hy Lạp góp phần viết nên lịch sử ở trong rừng núi tỉnh Bình Thuận và càng nghĩ đến những ngày ấy càng tự hào??.
    Cựu chiến binh Trung đoàn 812 Bình Thuận ghi thêm vào danh sách hội viên của mình một tấm lòng Việt Nam, gốc người Hy Lạp đang sống với con cháu, gia đình nơi một hòn đảo Corpu (Kerkyra) của xứ sở Hy Lạp xa xôi mà gần gũi đáng yêu. Nguyễn Văn Bông, một người bạn của nhân dân Việt Nam đáng trân trọng.
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Nguyễn Văn Lập: ?oTôi đã gửi trái tim ở Việt Nam?[/b
    Hoàng Nguyên
    Trở về quê hương Hy Lạp đã 40 năm, nhưng ông nói tiếng Việt vẫn như một người Việt Nam, và từ cách xưng hô với mọi người: ?ođất nước ta?, ?obộ đội ta?, đến những tình cảm mà ông dành cho những bà mẹ Việt Nam đều toát lên một tình yêu với nước Việt đến kỳ lạ. Ông là Kostas Sarantidis Nguyễn Văn Lập, một cựu chiến binh lê dương, đã tình nguyện gia nhập ********* và lập được nhiều chiến công lớn trong cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam.
    Năm 1942, phát xít Đức chiếm Hy Lạp, các trường học đều bị đóng cửa. Kostas cùng 6 anh em trai của mình bị dồn vào tình cảnh thất học, phải lang thang khắp thành phố mưu sinh đủ các nghề. Năm 1943, cậu bị quân Đức bắt vì bán thuốc lá và bị đưa sang Đức làm bia đỡ đạn trong chiến tranh thế giới lần thứ hai cho quân Đức, khi cậu mới 16 tuổi. Năm 1944, mới chỉ đến nước Áo, Kostas và hai người bạn cùng cảnh ngộ quyết định bỏ trốn. Họ cùng lang thang trên các chuyến tàu với bộ quân phục lính Đức và cuộc hành hương vô định được kết thúc vào cuối năm 1945, khi cuộc đại chiến thế giới sắp sửa đi đến những ngày cuối cùng.
    ?oDù không tham chiến, nhưng với chỉ bộ quốc xã và túi đồ khoác bên mình, chúng tôi đều bị xem là lính bại trận. Chúng tôi sống trong một trại tị nạn cạnh thủ đô Viên của Áo và muốn tìm về Hy Lạp nhưng không có đường đi. Một người bạn đồng hương thuyết phục tôi đi lính để nhanh được về nhà và thoát khỏi kiếp sống như những tù binh, thế là tôi bị lừa vào đội binh lê dương?. Lúc đó, Kostas không biết bản chất của lê dương mà chỉ nghĩ là những người lính bình thường. Tháng 8-1945 ông ký vào tờ hợp đồng 5 năm và bắt đầu huấn luyện. Đến tháng 2-1946 ông cùng đội quân bắn thuê ấy sang Việt Nam. Chứng kiến những trận càn, cướp bóc, đánh giết, tra tấn của đội quân thực dân Pháp, ông cảm thấy rùng mình và đã hiểu ra lê dương là gì.
    Sống trong một đất nước từng bị chiếm đóng, Kostas hiểu được tình cảnh của người dân một nước thuộc địa nên ông càng ngày càng muốn đào ngũ. Thời gian này thực dân Pháp đang tiến hành tra tấn một chiến sĩ ********* là Lê Trung Biển và giao nhiệm vụ quản giáo cho Kostas. Qua một thời gian làm quen, tâm sự, cuối cùng Kostas và đồng chí Biển, cùng một thường dân tên Thới cũng vừa bị bắt quyết định trốn khi đồng chí Biển chỉ còn một ngày nữa là phải đưa ra xử bắn. Cuộc bỏ trốn thành công và sau hai ngày đói lả, đoàn đã gặp được quân ********* trên một ngọn núi của tỉnh Bình Thuận.
    Trải qua một thời gian thử thách, năm 1946 ông được chuyển địa bàn công tác tới Tuy Hoà và năm 1948 chuyển xuống Đà Nẵng làm công việc thường xuyên và phù hợp với ông là theo dõi gián điệp và binh vận. Trong một chuyến công tác về một vùng quê ở Đà Nẵng thi hành nhiệm vụ, ông và các đồng chí của mình nhìn thấy một đứa bé. Đột nhiên ông nảy ra ý định chĩa súng vào cậu bé ấy trong sự khó hiểu của các đồng chí của mình. Dân làng đổ xô ra phản đối hành động ?ovô nhân đạo? đó. Và trong giây phút căng thẳng ấy, có hai tên lạ mặt ra hàng và một tên Việt gian ra làm thân: ?oChúng ta cùng hội cùng thuyền cả!?. Ngay lập tức, những tên gián điệp và Việt gian đã bị bắt, sau đó chính ông, nói bằng tiếng Việt, giải thích với bà con.
    Một lần nọ, bà conm huyện Quế Sơn-Đà Nẵng báo cáo với đơn vị của ông rằng có hai người Tây muốn theo ********* và đòi gặp bằng được ông Lập. Sau khi gặp và nói chuyện bằng tiếng Pháp, ông biết lý do để hai người lính Pháp theo ********* là thế này: ?oMấy hôm trước, chúng tôi được nghe các anh trực tiếp tuyên truyền đến tai chúng tôi về cuộc chiến tranh xâm lược của những kẻ hiếu chiến, về tinh thần tự do độc lập, bình đẳng, bác ái của một dân tộc là thế nào, chúng tôi đã sáng mắt ra?. Trong hai người lính ấy, một người có tên là Oddoss Rober, sau khi về hoạt động cho ta có tên là Lê Đô. Khi hoà bình lập lại, đồng chí Đô tập kết ra Bắc và mất năm 1967 tại Việt Nam vì bệnh hiểm nghèo.
    Năm 1952, ở liên khu 5, quân ta bắt sống nhiều binh lính Pháp làm tù binh nhưng chủ yếu giam giữ ở những làng tự do mà chưa có những trại tù binh tập trung. Kostas được giao nhiệm vụ cai quản trại tù binh số 3, là nơi tập trung tù binh Pháp có nguồn gốc Âu-Phi, ở Quảng Ngãi. Cái khó của việc quản lý trại này là cai quản tù binh đủ các cấp bậc, và từ nhiều nước. Kostas nhận thấy việc cai quản rất phức tạp nên ông chia ra từng nhóm theo quốc tịch và trong từng nhóm lại phân ra từng nhóm nhỏ ứng với từng cấp bậc. ?oViệc ăn uống của những tù binh ngày đó hoàn toàn chủ động về phía họ. Chúng tôi giao tiền cho bếp trưởng (cũng là tù binh) cho họ tự quản lý chế độ ăn uống. Chúng tôi cũng động viên bà con nên bán rẻ thức ăn cho họ vì dẫu sao họ cũng là những người lính bại trận. Sinh hoạt hằng ngày của các tù binh từ 5 giờ sáng thức dậy thể dục với tinh thần tự nguyện tự giác. Ngoài ra họ trồng thêm rau, nuôi thêm gà để làm thức ăn. Họ sinh hoạt văn nghệ, hát hò như trong cuộc sống bình thường.
    Đây là lần thứ tám ông thăm lại Việt Nam kể từ ngày cả gia đình ông chuyển về Hy Lạp. ?oLần đầu tiên vào năm 1986, khi đó tôi buồn vì cuộc sống của nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ còn nhiều thiếu thốn, nhưng tôi không thất vọng. Năm 1989 tôi về lần thứ hai, thấy cuộc sống khác trước nhiều. Và từ đó, lần nào về tôi thấy dân cứ giàu lên, cuộc sống càng phát triển tôi vui lắm!?-Kostas tâm sự thế. Năm 2001, ông về Việt Nam làm thủ tục nhận tiền trợ cấp dành cho những người có công. ?oĐược bao nhiêu tôi không nhớ. Đồng chí Đoàn Thanh đã giúp đỡ tôi làm thủ tục và số tiền này tôi tặng hết cho các mẹ chiến sĩ ở Quảng Nam. Thời kháng chiến, tôi đã được các mẹ săn sóc như tình cảm mẹ con, những tình cảm đó chỉ có được ở trái tim những người mẹ Việt Nam. Số tiền chắc chắn là không đến được với các mẹ ngày xưa trực tiếp săn sóc tôi nữa, vì các mẹ chắc không còn, nhưng đến tay mẹ của các chiến sĩ thì cũng là nguyện vọng của tôi!?.
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Nguyễn Văn Lập: ?oTôi đã gửi trái tim ở Việt Nam?[/b
    Hoàng Nguyên
    Trở về quê hương Hy Lạp đã 40 năm, nhưng ông nói tiếng Việt vẫn như một người Việt Nam, và từ cách xưng hô với mọi người: ?ođất nước ta?, ?obộ đội ta?, đến những tình cảm mà ông dành cho những bà mẹ Việt Nam đều toát lên một tình yêu với nước Việt đến kỳ lạ. Ông là Kostas Sarantidis Nguyễn Văn Lập, một cựu chiến binh lê dương, đã tình nguyện gia nhập ********* và lập được nhiều chiến công lớn trong cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam.
    Năm 1942, phát xít Đức chiếm Hy Lạp, các trường học đều bị đóng cửa. Kostas cùng 6 anh em trai của mình bị dồn vào tình cảnh thất học, phải lang thang khắp thành phố mưu sinh đủ các nghề. Năm 1943, cậu bị quân Đức bắt vì bán thuốc lá và bị đưa sang Đức làm bia đỡ đạn trong chiến tranh thế giới lần thứ hai cho quân Đức, khi cậu mới 16 tuổi. Năm 1944, mới chỉ đến nước Áo, Kostas và hai người bạn cùng cảnh ngộ quyết định bỏ trốn. Họ cùng lang thang trên các chuyến tàu với bộ quân phục lính Đức và cuộc hành hương vô định được kết thúc vào cuối năm 1945, khi cuộc đại chiến thế giới sắp sửa đi đến những ngày cuối cùng.
    ?oDù không tham chiến, nhưng với chỉ bộ quốc xã và túi đồ khoác bên mình, chúng tôi đều bị xem là lính bại trận. Chúng tôi sống trong một trại tị nạn cạnh thủ đô Viên của Áo và muốn tìm về Hy Lạp nhưng không có đường đi. Một người bạn đồng hương thuyết phục tôi đi lính để nhanh được về nhà và thoát khỏi kiếp sống như những tù binh, thế là tôi bị lừa vào đội binh lê dương?. Lúc đó, Kostas không biết bản chất của lê dương mà chỉ nghĩ là những người lính bình thường. Tháng 8-1945 ông ký vào tờ hợp đồng 5 năm và bắt đầu huấn luyện. Đến tháng 2-1946 ông cùng đội quân bắn thuê ấy sang Việt Nam. Chứng kiến những trận càn, cướp bóc, đánh giết, tra tấn của đội quân thực dân Pháp, ông cảm thấy rùng mình và đã hiểu ra lê dương là gì.
    Sống trong một đất nước từng bị chiếm đóng, Kostas hiểu được tình cảnh của người dân một nước thuộc địa nên ông càng ngày càng muốn đào ngũ. Thời gian này thực dân Pháp đang tiến hành tra tấn một chiến sĩ ********* là Lê Trung Biển và giao nhiệm vụ quản giáo cho Kostas. Qua một thời gian làm quen, tâm sự, cuối cùng Kostas và đồng chí Biển, cùng một thường dân tên Thới cũng vừa bị bắt quyết định trốn khi đồng chí Biển chỉ còn một ngày nữa là phải đưa ra xử bắn. Cuộc bỏ trốn thành công và sau hai ngày đói lả, đoàn đã gặp được quân ********* trên một ngọn núi của tỉnh Bình Thuận.
    Trải qua một thời gian thử thách, năm 1946 ông được chuyển địa bàn công tác tới Tuy Hoà và năm 1948 chuyển xuống Đà Nẵng làm công việc thường xuyên và phù hợp với ông là theo dõi gián điệp và binh vận. Trong một chuyến công tác về một vùng quê ở Đà Nẵng thi hành nhiệm vụ, ông và các đồng chí của mình nhìn thấy một đứa bé. Đột nhiên ông nảy ra ý định chĩa súng vào cậu bé ấy trong sự khó hiểu của các đồng chí của mình. Dân làng đổ xô ra phản đối hành động ?ovô nhân đạo? đó. Và trong giây phút căng thẳng ấy, có hai tên lạ mặt ra hàng và một tên Việt gian ra làm thân: ?oChúng ta cùng hội cùng thuyền cả!?. Ngay lập tức, những tên gián điệp và Việt gian đã bị bắt, sau đó chính ông, nói bằng tiếng Việt, giải thích với bà con.
    Một lần nọ, bà conm huyện Quế Sơn-Đà Nẵng báo cáo với đơn vị của ông rằng có hai người Tây muốn theo ********* và đòi gặp bằng được ông Lập. Sau khi gặp và nói chuyện bằng tiếng Pháp, ông biết lý do để hai người lính Pháp theo ********* là thế này: ?oMấy hôm trước, chúng tôi được nghe các anh trực tiếp tuyên truyền đến tai chúng tôi về cuộc chiến tranh xâm lược của những kẻ hiếu chiến, về tinh thần tự do độc lập, bình đẳng, bác ái của một dân tộc là thế nào, chúng tôi đã sáng mắt ra?. Trong hai người lính ấy, một người có tên là Oddoss Rober, sau khi về hoạt động cho ta có tên là Lê Đô. Khi hoà bình lập lại, đồng chí Đô tập kết ra Bắc và mất năm 1967 tại Việt Nam vì bệnh hiểm nghèo.
    Năm 1952, ở liên khu 5, quân ta bắt sống nhiều binh lính Pháp làm tù binh nhưng chủ yếu giam giữ ở những làng tự do mà chưa có những trại tù binh tập trung. Kostas được giao nhiệm vụ cai quản trại tù binh số 3, là nơi tập trung tù binh Pháp có nguồn gốc Âu-Phi, ở Quảng Ngãi. Cái khó của việc quản lý trại này là cai quản tù binh đủ các cấp bậc, và từ nhiều nước. Kostas nhận thấy việc cai quản rất phức tạp nên ông chia ra từng nhóm theo quốc tịch và trong từng nhóm lại phân ra từng nhóm nhỏ ứng với từng cấp bậc. ?oViệc ăn uống của những tù binh ngày đó hoàn toàn chủ động về phía họ. Chúng tôi giao tiền cho bếp trưởng (cũng là tù binh) cho họ tự quản lý chế độ ăn uống. Chúng tôi cũng động viên bà con nên bán rẻ thức ăn cho họ vì dẫu sao họ cũng là những người lính bại trận. Sinh hoạt hằng ngày của các tù binh từ 5 giờ sáng thức dậy thể dục với tinh thần tự nguyện tự giác. Ngoài ra họ trồng thêm rau, nuôi thêm gà để làm thức ăn. Họ sinh hoạt văn nghệ, hát hò như trong cuộc sống bình thường.
    Đây là lần thứ tám ông thăm lại Việt Nam kể từ ngày cả gia đình ông chuyển về Hy Lạp. ?oLần đầu tiên vào năm 1986, khi đó tôi buồn vì cuộc sống của nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ còn nhiều thiếu thốn, nhưng tôi không thất vọng. Năm 1989 tôi về lần thứ hai, thấy cuộc sống khác trước nhiều. Và từ đó, lần nào về tôi thấy dân cứ giàu lên, cuộc sống càng phát triển tôi vui lắm!?-Kostas tâm sự thế. Năm 2001, ông về Việt Nam làm thủ tục nhận tiền trợ cấp dành cho những người có công. ?oĐược bao nhiêu tôi không nhớ. Đồng chí Đoàn Thanh đã giúp đỡ tôi làm thủ tục và số tiền này tôi tặng hết cho các mẹ chiến sĩ ở Quảng Nam. Thời kháng chiến, tôi đã được các mẹ săn sóc như tình cảm mẹ con, những tình cảm đó chỉ có được ở trái tim những người mẹ Việt Nam. Số tiền chắc chắn là không đến được với các mẹ ngày xưa trực tiếp săn sóc tôi nữa, vì các mẹ chắc không còn, nhưng đến tay mẹ của các chiến sĩ thì cũng là nguyện vọng của tôi!?.
  4. Red_army_vn

    Red_army_vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/10/2004
    Bài viết:
    202
    Đã được thích:
    0
    Cảm ơn bác ptlinh đã tiếp đạn cho em vụ này . Dùng Google search mỏi mắt cũng chả được là bao . Sách báo khi cần thì chả thấy đâu . Mong được bác tiếp sức !
    Càng đọc những câu chuyện về những người lính ngoại quốc đã cống hiến xương máu của mình cho VN mà thấy xúc động .
    Ở trang mở đầu tôi có cho rằng : " Trong quân đội ta , họ có thể đảm nhận nhiệm vụ trực tiếp chiến đấu , huấn luyện hay công tác địch vận . Dù những đóng góp ấy không phải quá lớn hay quyết định những cũng rất đáng trân trọng ." Sau khi tìm hiểu kỹ hơn thì tôi thấy rằng đóng góp của những con người ấy đối với quân đội non trẻ của chúng ta trong những ngày đầu kháng chiến là rất lớn . Đặc biệt là những người lính Nhật .
    Tuy nhiên , tôi vẫn không hiểu lắm chính sách hậu chiến của chúng ta đối với những con người này , chúng ta có giữ liên lạc với họ không . Nếu thiếu sót thì quả cũng là một lỗi lớn . Ngay những cựu chiến binh người Việt , sau chiến tranh có nhiều người còn bị "quên" nữa , huống hồ ....
  5. Red_army_vn

    Red_army_vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/10/2004
    Bài viết:
    202
    Đã được thích:
    0
    Cảm ơn bác ptlinh đã tiếp đạn cho em vụ này . Dùng Google search mỏi mắt cũng chả được là bao . Sách báo khi cần thì chả thấy đâu . Mong được bác tiếp sức !
    Càng đọc những câu chuyện về những người lính ngoại quốc đã cống hiến xương máu của mình cho VN mà thấy xúc động .
    Ở trang mở đầu tôi có cho rằng : " Trong quân đội ta , họ có thể đảm nhận nhiệm vụ trực tiếp chiến đấu , huấn luyện hay công tác địch vận . Dù những đóng góp ấy không phải quá lớn hay quyết định những cũng rất đáng trân trọng ." Sau khi tìm hiểu kỹ hơn thì tôi thấy rằng đóng góp của những con người ấy đối với quân đội non trẻ của chúng ta trong những ngày đầu kháng chiến là rất lớn . Đặc biệt là những người lính Nhật .
    Tuy nhiên , tôi vẫn không hiểu lắm chính sách hậu chiến của chúng ta đối với những con người này , chúng ta có giữ liên lạc với họ không . Nếu thiếu sót thì quả cũng là một lỗi lớn . Ngay những cựu chiến binh người Việt , sau chiến tranh có nhiều người còn bị "quên" nữa , huống hồ ....
  6. panzerlehr

    panzerlehr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2004
    Bài viết:
    935
    Đã được thích:
    0
    Gần đây, nữ xã hội học người Pháp, Nelcya Delanoe có viết 1 quyển sách về số phận của những người lính Maroc ở lại VN sau 1954 và gia đình của họ ngày nay : "Bụi đế quốc" (Poussieres d''empire). Chuyện khá cảm động và hay, để bao giờ có thì giờ, em sẽ post vài đoạn
  7. panzerlehr

    panzerlehr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2004
    Bài viết:
    935
    Đã được thích:
    0
    Gần đây, nữ xã hội học người Pháp, Nelcya Delanoe có viết 1 quyển sách về số phận của những người lính Maroc ở lại VN sau 1954 và gia đình của họ ngày nay : "Bụi đế quốc" (Poussieres d''empire). Chuyện khá cảm động và hay, để bao giờ có thì giờ, em sẽ post vài đoạn
  8. Red_army_vn

    Red_army_vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/10/2004
    Bài viết:
    202
    Đã được thích:
    0
    Hehehe , vậy là bút sa gà chết rồi bác panzerlehr nhá . Hình như bác đang là trùm nợ bài mấy bác khác đấy .
  9. Red_army_vn

    Red_army_vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/10/2004
    Bài viết:
    202
    Đã được thích:
    0
    Hehehe , vậy là bút sa gà chết rồi bác panzerlehr nhá . Hình như bác đang là trùm nợ bài mấy bác khác đấy .
  10. panzerlehr

    panzerlehr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2004
    Bài viết:
    935
    Đã được thích:
    0
    Okai
    Trong quyển "Đường số 4 rực lửa" của cụ Đặng Văn Việt kể lại chuyện trung đoàn Cao Bắc Lạng chiến đấu trên đường 4, có nói đến 1 người chỉ huy giao liên Việt Nam mới của trung đoàn tên là Sáu Nhật. Anh Sáu Nhật được kể lại là luôn đi xà cạp, đeo gươm và đội mũ sắt như là thời còn là sỹ quan nhật. Trên bức ảnh nổi tiếng của trung đoàn 174, anh có được thấy đứng ở hàng đầu (chỗ khoanh) :
    Theo em được biết, mấy năm gần đây, ông cụ cũng thường hay sang VN thăm lại đồng đội cũ ở đại đoàn 316, chỉ tội em không biết được tên nhật của ông cụ.

Chia sẻ trang này