1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những con tàu huyền thọai trên biển Đông

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi vaputin, 12/01/2011.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. longtt88

    longtt88 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/11/2004
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    5
    Đường *********** trên biển – nhìn từ phía bên kia

    Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, sau những năm đầu hết sức khó khăn, đến năm 1959, đặc biệt là sau khi có Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam có bước phát triển nhảy vọt. Phong trào nổi dậy của quần chúng kết hợp với đấu tranh vũ trang ngày càng lan rộng. Trước tình hình đó, yêu cầu về cán bộ và vũ khí ngày càng lớn. Đường vận tải chiến lược Trường Sơn lúc này chỉ mới vươn tới được các tỉnh phía Bắc Khu V, còn các tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long không đủ sức đáp ứng yêu cầu đó, nhất là đối với các tỉnh Nam Bộ, Nam Trung Bộ.

    [​IMG]
    Một chiến hạm của đối phương tuần tra trên Biển Đông. Ảnh tư liệu

    Trước nhu cầu cấp bách trên, đồng thời với việc mở tiếp về phía Nam tuyến chi viện trên bộ, Bộ Chính trị giao cho Tổng Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh tổ chức tuyến chi viện trên Biển Đông. Sau một thời gian nghiên cứu và trên cơ sở kinh nghiệm của các chuyến vượt biển từ Nam Bộ ra, ngày 23-10-1961, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 97/QP thành lập Đoàn 759 vận tải đường biển. Đoàn 759 nhanh chóng xây dựng lực lượng, chuẩn bị phương tiện, tổ chức trinh sát nhằm nắm chắc quy luật tuần tra, hoạt động ngăn chặn trên biển của địch; hiệp đồng với các tỉnh ven biển Nam Bộ và Nam Trung Bộ, xây dựng các bến bãi sẵn sàng tiếp nhận vũ khí.

    Kể từ khi tuyến chi viện chiến lược biển ra đời, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã nghi ngờ miền Bắc sử dụng con đường tiếp tế vũ khí trên biển, ngoài con đường xuyên Trường Sơn. Trong các báo cáo của cơ quan tình báo Mỹ và các chuyên gia quân sự Mỹ về tình hình Việt Nam đã nhiều lần đề cập đến con đường trên biển này. Nhưng họ chỉ đoán biết chứ không có bằng chứng cụ thể nên chưa xác định được chính xác. Mặc dù vậy, Mỹ-ngụy vẫn tích cực tìm cách đối phó. Qua tài liệu thu được của địch, chúng ta thấy rõ hải quân và không quân Mỹ đã sớm lập một phòng tuyến ngăn chặn từ Vịnh Bắc Bộ tới Vịnh Thái Lan. Bên ngoài là máy bay tuần tiễu của Hạm đội 7, bên trong là hải quân Quân đội Sài Gòn và thủy quân lục chiến tuần tra, canh gác, bảo vệ bờ biển, các bến cảng, cửa biển, cửa sông. Tuyến giữa do hải quân Mỹ trực tiếp đảm nhiệm. Theo tính toán của Mỹ-ngụy thì với phòng tuyến ngăn chặn đó không một con tàu nào từ miền Bắc có thể xâm nhập trót lọt vào miền Nam mà không bị phát hiện. Nhưng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, với quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước; với ý chí quyết chiến, quyết thắng quân và dân ta mà nòng cốt là bộ đội hải quân đã tìm ra giải pháp mở đường trên biển chi viện cho các chiến trường Nam Bộ và Nam Trung Bộ khiến cả Mỹ và ngụy đều hết sức bất ngờ. Việc vận chuyển vũ khí cho chiến trường miền Nam trên đường Hồ Chí Minh trên biển từ năm 1961 đến năm 1972 có thể chia làm các giai đoạn như sau:

    Từ 1962-1965

    Ngày 11-10-1962, chiếc tàu vỏ gỗ đầu tiên chở 30 tấn vũ khí mang mật danh: “Phương Đông I” rời Đồ Sơn lên đường vào Nam Bộ. Tiếp theo, trong những năm 1963, 1964, các con tàu bé nhỏ đầy ắp vũ khí liên tục rời Đồ Sơn và một số bến khác (Bính Động, Bãi Cháy), vượt qua hàng ngàn hải lý và hàng rào ngăn chặn phong tỏa gắt gao của máy bay, tàu chiến địch, đưa hàng vào chiến trường Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Hoạt động tác chiến mạnh mẽ của quân, dân ta tại các chiến trường nói trên đã khiến cho Mỹ-ngụy càng thêm nghi ngờ về con đường vận chuyển vũ khí của ta trên biển, song, chúng vẫn không thể tìm ra manh mối: “Mỹ và chính quyền Sài Gòn cảm thấy số lượng vũ khí rất lớn mà ********* đang sử dụng được vận chuyển bằng đường biển. Nhưng sự triệt hạ con đường đó là vô cùng khó khăn đối với Mỹ và chính quyền Sài Gòn”(1) và “…thời điểm lực lượng ********* tấn công quyết liệt, chúng ta (Mỹ-ngụy) chỉ có thể ngăn chặn và đánh trả ở một số nơi nhất định. Bên cạnh đó, việc vận chuyển vũ khí và các trang bị khác bằng đường biển hoạt động khá mạnh”(2).

    (Còn nữa)

    Trung tá, TS, Trương Mai Hương

    (Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam)



    (1) Theo: Tài liệu mật của Bộ Quốc phòng Mỹ, Phông số 34- Hồ sơ 106, Lưu Cục Lưu trữ văn phòng Trung ương Đảng.

    (2) Theo: Tài liệu dịch của địch, Phông số 34, Hồ sơ 81, Lưu Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
  2. longtt88

    longtt88 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/11/2004
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    5
    Đường *********** trên biển – nhìn từ phía bên kia (Kỳ 2)

    Thời gian này, tuyến chi viện chiến lược - Đường Hồ Chí Minh trên bộ đã được mở qua Trị Thiên, Khu V, Tây Nguyên. Còn các chiến trường xa như Nam Bộ, Trung Nam Bộ chỉ có thể dùng đường biển. Với các chiến trường này, một viên đạn, một khẩu súng đã rất quý báu. Vài chục tấn vũ khí từ miền Bắc đưa vào có thể trang bị cho một sư đoàn. Như vậy, với hàng ngàn tấn vũ khí được chuyển bằng đường biển trong giai đoạn này có tầm quan trọng đặc biệt, thực sự mang ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp kháng chiến của quân dân ta ở các chiến trường Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Đặc biệt là sự chi viện kịp thời những loại vũ khí mới tương đối hiện đại, có tính năng chiến đấu cao đã làm thay đổi cách đánh, thay đổi tương quan lực lượng giữa ta và địch, góp phần làm nên những chiến thắng vang dội như: Ấp Bắc, Đầm Dơi, Cái Nước, Chà Là, Bình Giã... Sau trận Ấp Bắc, tờ báo The Washington Post, số ra ngày 7-1-1963 đã viết: “… Những người Cộng sản coi đây là chiến thắng lớn đầu tiên… Quan trọng hơn, họ đã mới phát triển thành công những kỹ thuật đương đầu được với những công nghệ của Mỹ cung cấp cho miền Nam Việt Nam….” (1). Từ khi quân đội ta ở Nam Bộ có tiểu liên AK, súng chống tăng B41, ĐKZ 57, ĐKZ 75, cối 81, cối 120… thì việc hạ máy bay, đánh các loại tàu chiến, các loại xe, nhổ đồn bốt diễn ra liên tục khiến đối phương từ chủ quan, hung hăng, đến khiếp sợ, né tránh rồi chùn bước. Báo cáo ngày 15-9-1963 của Nguyễn Thành Hoàng, Tỉnh trưởng An Xuyên (Cà Mau), ghi rõ: “Vũ khí của ********* vượt ra ngoài tất cả các ước tính của chúng ta. ********* đã dùng cối 81, Đại liên 12,7mm, ĐKZ75… là những thứ mà Quân đội Việt Nam Cộng hòa chưa có. Đạn của họ rất dồi dào, điều mà trước đây chúng chưa bao giờ làm được”(2).

    [​IMG]
    Loại tàu 100 tấn của Lữ đoàn 125 trên đường vào Nam. Ảnh tư liệu

    Qua báo chí và hồ sơ lưu trữ của đối phương cho thấy, ngay từ khi con đường Hồ Chí Minh trên biển mới ra đời, hải quân, không quân Mỹ, đã đề phòng và tổ chức kiểm tra, giám sát chặt chẽ. Nhưng trong suốt 4 năm đầu hoạt động, các con tàu không số của ta đã tổ chức thành công 88 chuyến tàu chở vũ khí, đưa được hàng ngàn tấn vũ khí vào Nam Bộ.

    Đồng thời với việc vận chuyển vũ khí vào Nam Bộ, Quân ủy Trung ương và Bộ tổng Tư lệnh giao nhiệm vụ cho Bộ tư lệnh Hải quân nghiên cứu mở đường vận chuyển vũ khí bằng đường biển vào Nam Trung Bộ. Đây là chiến trường có vị trí chiến lược hết sức quan trọng, có hành lang chiến lược nối liền hai miền Nam - Bắc. Vận chuyển bằng đường biển vào Nam Trung Bộ đường tuy ngắn hơn Nam Bộ nhưng hết sức khó khăn, nguy hiểm. Vũng Rô thuộc huyện Tuy Hòa (Phú Yên) được chọn là một trong những địa điểm đầu tiên được lựa chọn. Đây là nơi có phong trào cách mạng rất mạnh, lại là nơi có địa thế thuận lợi nên chỉ trong thời gian ngắn từ ngày 28 tháng 11 năm 1964 đến ngày 1 tháng 2 năm 1965, đã có 3 chuyến tàu, đưa gần 200 tấn vũ khí vào bến Vũng Rô an toàn.

    Tính từ chuyến đi đầu tiên của Tàu Phương Đông I đến tháng 2 năm 1965, tuyến chi viện chiến lược - Đường Hồ Chí Minh trên biển đã tổ chức thành công 88 chuyến tàu chở hơn 4.919 tấn vũ khí, hàng trăm cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước và Quân đội vào chi viện cho chiến trường Nam Bộ và Nam Trung Bộ(3).Vậy mà phía Mỹ và chính quyền Sài Gòn vẫn không phát hiện được vụ nào. Bí mật của tuyến chi viện chiến lược bằng đường biển vẫn được giữ vững. Đó quả là một chiến công kỳ diệu, có ý nghĩa chiến lược to lớn, là một thắng lợi vượt ra khỏi dự tính của chúng ta.

    Giai đoạn 1965-1968

    Ngày 15 tháng 2 năm 1965, Tàu 143 có trọng tải 100 tấn do Thuyền trưởng Lê Văn Thêm, Chính trị viên Phan Văn Bảng chỉ huy cập bến Vũng Rô. Lực lượng bảo vệ bến nhanh chóng tổ chức lực lượng dỡ hàng. Do không đủ thời gian rời bến trước khi trời sáng nên cán bộ, chiến sĩ trên tàu và lực lượng ở bến buộc phải ngụy trang tàu và sẵn sàng phương án đối phó. Trưa ngày hôm sau, địch phát hiện ra tàu, tổ chức đánh phá. Cán bộ, chiến sĩ Tàu 143 buộc phải phá hủy tàu, đồng thời cùng lực lượng trên bến phân tán và cất giấu vũ khí, chiến đấu chống quân địch đổ bộ. Sau bốn ngày chiến đấu ác liệt, chiều 19 tháng 2 năm 1965, địch đổ bộ được lên bờ. Những ngày sau, chúng tiếp tục đổ thêm quân và tổ chức sục sạo quanh khu vực. Địch phát hiện một số hầm cất giấu vũ khí mà ta chưa kịp di chuyển. Sau sự kiện ở Vũng Rô, Mỹ-ngụy tổ chức một cuộc triển lãm khá lớn ở Sài Gòn, có cả Phó thủ tướng ngụy đến dự và làm rùm beng về chiến tích thu hồi vũ khí Bắc Việt Nam tiếp tế cho ********* bằng đường biển. Như vậy là, sau vụ Vũng Rô, tuyến chi viện chiến lược trên biển, với bao kỳ công đã không còn giữ được bí mật nữa. Kẻ địch đã nắm được chính xác ý đồ, phương thức, phương tiện vận chuyển của ta. Trên tờ Naval Institute Press, Đại tá Mỹ R.Schrosbay nhận định: “Vụ Vũng Rô khẳng định điều đã ngờ trong một thời gian dài nhưng chưa có bằng chứng. Số lượng chiến cụ lớn bị phát hiện chỉ ra rằng nhiều lô hàng lớn hơn đã được chở đến bằng tàu trước đó. Sự xuất hiện đồng thời loại vũ khí mới cỡ 7,62mm của địch ở những vùng ven biển khác nói lên một điều chắc chắn là địch còn sử dụng các vị trí khác nữa để nhận hàng chuyển bằng đường biển”(4).

    (Còn nữa)

    Trung tá, TS, Trương Mai Hương

    (Viện Lịch sử quân sự Việt Nam)

    (1) htt://en.wikipedia.org/wiki/Battle-op Ap Bac

    (2) Báo cáo số1803/NA3/M ngày 15-9-1963 của Thiếu tá Tỉnh trưởng tỉnh An Xuyên gửi Phủ Tổng thống, tư liệu lưu Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Tài liệu địch, Hồ sơ số 38.

    (3) Sự kiện Tàu không số Vũng Rô (Kỷ yếu Hội thảo khoa học), Nxb Phú Yên, 2006, tr.25.

    (4) R.Sohnesdle: “Cuộc chiến tranh của hải quân Mỹ ở Việt Nam”, Tạp chí Học viện Hải quân Hoa Kỳ, số tháng 5 năm 1971.
  3. longtt88

    longtt88 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/11/2004
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    5
    Kỳ tích Đường *********** trên biển - BẢN HÙNG CA trên biển



  4. dongthap10

    dongthap10 Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    20/07/2006
    Bài viết:
    155
    Đã được thích:
    22
    Con HQ4 là Khu trục hạm Trần Khánh Dư trong hải chiến Hoàng Sa

    My Collections
    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------
    Bài 2: Nhân chứng cuối cùng của chuyến tàu không số đầu tiên
    25/08/2011 06:27
    (HNM) - Một tháng rưỡi đi theo chiều dài đất nước, tôi vẫn không thể tìm ra người cựu chiến binh nào đã từng tham gia trên chuyến tàu gỗ không số đầu tiên. Có người bảo "trong số họ giờ không ai còn nữa", người lại nói "có thể vẫn còn nhưng không biết ở mô".

    Thế rồi, chiều 23-8-2011 (đúng ngày Báo Hànộimới khởi đăng bài đầu tiên về Đường Hồ Chí Minh trên biển), tôi nhận được điện thoại của một người đàn ông lạ. Anh nghẹn ngào nói không thành lời: "Các anh ơi, bố tôi còn sống. Ông là Huỳnh Ba, một trong 6 người tham gia trên chuyến tàu gỗ không số đầu tiên". Nghe hết câu nói, tôi lặng người vì sung sướng. Chỉ kịp hỏi tên tuổi địa chỉ, tôi lên xe vội vã đến gặp người đàn ông nọ…
    [​IMG]
    Vợ chồng ông Huỳnh Ba bên ngôi nhà được Bộ Tư lệnh Hải quân trao tặng. Ông Huỳnh Ba - nhân chứng cuối cùng

    Cơn mưa rào bất chợt khiến giao thông Hà Nội ùn tắc. Tôi cố nhích từng mét, mưa như trút nước mà lòng tôi như có lửa đốt vì mong sớm tìm đến số nhà 2/5/307 phố Bùi Xương Trạch (phường Định Công, quận Hoàng Mai) nơi con ông Huỳnh Ba sinh sống. Người đón tôi là anh Ngô Cường Dũng, con rể của ông. Vẫn chưa hết xúc động, giọng nghẹn ngào, anh Dũng thổ lộ: "Tôi là Tổ trưởng dân phố tổ 17, phường Định Công. Hằng ngày, tôi được cấp Báo Hànộimới để theo dõi tin tức. Buổi trưa xem báo, tôi giật mình thấy bài viết về chuyến tàu không số đầu tiên. Anh biết không, bố vợ tôi là người duy nhất còn sống trên chuyến tàu này. Đọc xong, tôi ngẫm nghĩ hồi lâu và quyết định gọi điện tới tòa soạn, với mong muốn chia sẻ, góp phần cùng Báo Hànộimới tái hiện quá khứ vẻ vang về Đoàn tàu không số, nơi bố tôi đã gắn bó máu xương".

    Mừng quá, tôi sốt sắng hỏi:

    - Cụ Huỳnh Ba có ở đây không ạ?

    Anh Dũng nhìn tôi, chậm rãi:

    - Cụ nhà tôi sinh được 2 cô con gái. Cả hai đều đã đi lấy chồng. Phần muốn ở quê nhà, phần vì có đứa cháu ruột mồ côi cha từ nhỏ nên cụ đang sống cùng cháu ở tổ dân phố 40, Nam Ô 3, phường Hoàng Hiệp, quận Liên Chiểu (TP Đà Nẵng). Bước sang tuổi 87, cụ giờ đã già yếu lắm, điếc hoàn toàn. Vết thương chiến tranh và những trận đòn tra tấn dã man ở nhà tù Côn Đảo đã khiến bố tôi từ một thanh niên trai tráng, vạm vỡ trở thành người tàn tật suốt đời. Toàn bộ hồ sơ cũng như ký ức về con tàu không số đầu tiên của cụ tôi vẫn giữ ở đây.

    Nói rồi, anh Dũng lập cập mở ngăn kéo lấy ra một tập hồ sơ đưa cho tôi xem. Giấy Chứng nhận bị thương do Bộ Chỉ huy Quân sự Quảng Nam- Đà Nẵng lập có ghi: "Từ tháng 1-1960 đến tháng 7-1974, ông Huỳnh Ba bị địch bắt đày ra Côn Đảo. Bị thương trong trường hợp địch dùng nhiều hình thức tra tấn đánh đập dã man: Dùng gậy đánh vào đầu, dùng điện châm vào lỗ tai, các ngón tay, ngón chân và *********, bắt uống nước xà phòng… Kết quả khám thương cho thấy ông Huỳnh Ba là thương binh loại A".

    Trong thư gửi các cơ quan chức năng, Thượng tướng Nguyễn Chơn, Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng viết: "Khoảng tháng 8-1959, tôi lên căn cứ học Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng. Lúc đó anh Đào Ngọc Chua, cán bộ Huyện đội trưởng kiêm Bí thư huyện Hòa Vang giới thiệu một số đảng viên ở chi bộ Nam Ô, giao nhiệm vụ ra Bắc vận chuyển vũ khí cho Quân khu 5 bằng đường thủy. Trong số những người ra Bắc có anh Huỳnh Ba. Tháng 10-1959, tôi nhận nhiệm vụ đón và nhận hàng tại Bãi Chuối, có thể nói gian khổ, nguy hiểm chưa từng có. Cuối cùng, tôi không gặp được tàu không số, không gặp anh Huỳnh Ba. Sau 35 năm gặp lại, tôi mới biết tàu của anh Huỳnh Ba bị hỏng tay lái, các anh bị địch bắt nên hàng không vào được Bãi Chuối. Tôi chứng nhận anh Huỳnh Ba là cán bộ đảng viên tốt, trung kiên, trung thành với Đảng với dân, bất chấp khó khăn nguy hiểm khi làm nhiệm vụ".

    Đợi tôi xem hết tập hồ sơ, anh Dũng thủng thẳng:

    - May quá anh ạ, cuối tháng rồi, Lữ đoàn 125 cùng với Vùng 3 Hải quân, chính quyền địa phương đã tặng bố tôi một căn nhà tình nghĩa trị giá 60 triệu đồng. Cụ phấn khởi lắm.

    Hồi ức về chuyến tàu không số đầu tiên

    Mắt mờ, tai điếc, ông Huỳnh Ba giờ không thể tự tay viết lại hồi ký về chuyến đi biển đầu tiên, về con tàu định mệnh chở 5 tấn vũ khí dự kiến vào bến Hố Chuối ở chân đèo Hải Vân nhưng bất thành. Với ông, đó là may mắn nhưng cũng là kỷ niệm buồn. Buồn vì con tàu không hoàn thành nhiệm vụ, buồn vì 5 người đồng đội của ông trên con tàu ấy đã vĩnh viễn ra đi. Những lúc rỗi rãi, ông Huỳnh Ba lại nói chuyện với anh con rể và rồi anh Dũng ghi lại như một cách để tri ân.
    [​IMG]
    Tàu của Đoàn 125 vận chuyển hàng chi viện cho chiến trường. Ngày ấy (tháng 3-1958), khi đang là giao liên giao thông tuyến Đà Nẵng - Nha Trang - Buôn Ma Thuột, ông Huỳnh Ba được điều ra Bắc về Ban Thống nhất Trung ương nhận nhiệm vụ mới. Ngay khi tới Hà Nội, nhóm của ông Huỳnh Ba được giao nhiệm vụ vào Quảng Bình thực hiện chuyến đi biển đầu tiên, vận chuyển vũ khí vào Khu 5. Con thuyền gỗ này được biên chế 6 người, gồm Trung úy Nguyễn Bất, Thuyền trưởng; Thiếu úy Huỳnh Ba cùng 4 đảng viên: Nguyễn Sanh, Huỳnh Sơn, Nguyễn Lữ và Trần Mức. Con tàu ngày đó tuy nhỏ nhưng cũng chứa được 6 tấn hàng gồm: 5 tấn vũ khí, 500kg vải, 400kg nilon và một lô thuốc ký ninh chống sốt rét.

    Công tác chuẩn bị hoàn tất thì sáng 30 Tết năm Canh Tý (1960), Đài Tiếng nói Việt Nam thông báo có đợt gió mùa Đông Bắc lớn tràn về. Đây là cơ hội tốt để tàu ra khơi, Tiểu đoàn 603 quyết định cho chuyến tàu đầu tiên đi ngay trong đêm giao thừa. Tối hôm đó, các đồng chí cán bộ tiểu đoàn Lưu Đức, Hà Văn Xá tổ chức lễ tiễn đưa từng người trong đội thuyền. Cuộc chia tay lặng lẽ nhưng cảm động và có thể coi đây là lễ truy điệu sống đoàn cảm tử quân trên biển. Đúng 18h, con thuyền rẽ sóng, rời cửa biển sông Gianh đi thẳng về hướng Đông Nam. Đêm đầu tiên, thuyền của ông Huỳnh Ba chạy thẳng ra vùng biển quốc tế với ý định sẽ vòng vào chân đèo Hải Vân. Thế nhưng, ngày hôm sau sóng to, biển động, gió giật cấp 7 - 8, thuyền có nguy cơ bị lật. Sáu người say sóng tưởng như muốn chết nhưng vẫn cố chèo chống. Chiếc thuyền lúc này chỉ như một chiếc lá tre mong manh giữa biển khơi bao la. Càng cố chèo, ông Huỳnh Ba càng thấy con thuyền trôi về phía nam. Đến 12h trưa, con thuyền gãy mất một tay lái. Đến ngày thứ 3, thuyền trôi dạt vào Cù lao Ré (tức đảo Lý Sơn - Quảng Ngãi). Mọi người định cho tàu chạy ngược lên thì tay lái còn lại gãy nốt. Sau 3 ngày sóng gió bão bùng, ngày thứ 4 trời quang mây tạnh cũng là lúc tàu tuần tiễu của địch và tàu đánh cá ra biển Đông. Để bảo đảm giữ bí mật tuyệt đối phương thức vận chuyển trên biển, Thuyền trưởng Nguyễn Bất quyết định phi tang hàng theo phương án đã định. Năm tấn súng đạn, gần một tấn thuốc men, túi nilon lần lượt được thả xuống biển. Người nào người ấy tiếc đến chảy nước mắt nhưng không còn sự lựa chọn nào khác. Vào khoảng 4h30 chiều mùng 4 Tết Canh Tý, cả 6 thủy thủ trên chiếc thuyền đều bị địch bắt. Tuy có giấy tờ làm ăn hợp pháp do tổ chức chuẩn bị và khai rất khớp rằng đi đánh cá bị lạc, song địch vẫn tách ra, giam mỗi người một nơi. Đầu tiên, chúng nhốt các thủy thủ ở đảo Lý Sơn một tuần rồi chuyển ra Đà Nẵng giam hai tháng rưỡi, sau tống vào Nha Cảnh sát rồi đến Nhà tù Chí Hòa, Nhà tù Gia Định, Nhà tù Phú Lợi. Cuối cùng, tháng 1-1960, chúng đày 6 người ra Côn Đảo, nhốt trong chuồng cọp trại 6 - khu B. Trong số 6 người đi trên chuyến tàu không số đầu tiên, 5 người lần lượt hy sinh hoặc chết do bệnh tật, chỉ còn ông Huỳnh Ba sống sót. Bị giam cầm suốt 14 năm với đủ mọi hình thức tra tấn dã man, ông Huỳnh Ba một mực không khai, bảo vệ cách mạng đến cùng. Tháng 7-1974, khi ông đã "thân tàn ma dại" địch mới phóng thích, trả ông về địa phương.

    Ngay sau chuyến vượt biển đầu tiên, đưa vũ khí vào Khu 5 thất bại, Quân ủy Trung ương nhận thấy việc dùng thuyền gỗ, chạy bằng buồm, chở vũ khí vào chiến trường cực kỳ khó khăn và nguy hiểm. Chính vì lý do đó, Quân ủy Trung ương quyết định chỉ thị cho Tiểu đoàn 603 tạm ngừng hoạt động để tìm một phương thức vận chuyển mới. Trong lúc chờ đợi, toàn bộ quân số của Tiểu đoàn 603 được điều sang Đoàn 559, dồn sức mở con đường xuyên dãy Trường Sơn hùng vĩ.

    Trong ký ức về những người đồng đội, ông Huỳnh Ba nói rằng: Cái giá của chiến tranh quá lớn. Đường Trường Sơn có rất nhiều nấm mộ vô danh được ấp ủ trong lòng đất Mẹ, còn mồ của chiến sĩ Đoàn tàu không số lại là biển xanh mênh mông.


    link


    http://hanoimoi.com.vn/print/521411/print.htm#
  5. longtt88

    longtt88 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/11/2004
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    5
    Những chuyến đi bí mật, bất ngờ

    Chuyến đi trinh sát mở đường thắng lợi và Nghị quyết của Quân ủy Trung ương khiến cho cán bộ, chiến sĩ Đoàn 759 nức lòng.

    Cùng thời điểm ở Quảng Bình, tàu "Bạc Liêu" được sửa chữa thì ở Hải Phòng, theo chỉ thị của Bộ Quốc phòng, Đoàn 759 đặt Xưởng đóng tàu 1 sửa chữa chiếc tàu của tỉnh Trà Vinh. 4 chiếc tàu gỗ có buồm, có máy đẩy theo dạng thuyền đánh cá ở miền Nam cũng được đóng mới.

    Bên cạnh việc đóng tàu, những công việc khác cũng được tiến hành. Bộ đội công binh và hải quân được Bộ giao nhiệm vụ sửa chữa gấp cầu cảng K-15 (còn gọi là H-10) tại bán đảo Đồ Sơn. Bộ đội quân khí có nhiệm vụ đóng gói súng đạn sao cho không có một dấu vết nào chứng tỏ những thứ ấy được tiến hành ở miền Bắc. Bộ Nội vụ có nhiệm vụ bảo vệ bí mật, an toàn khu nghỉ mát Đồ Sơn, Hải Phòng.

    Tháng 8-1962, Đoàn 759 nhận bàn giao 4 tàu gỗ từ Xưởng đóng tàu I, Hải Phòng. Một số cán bộ tàu thuyền, kỹ thuật là người miền Nam từ các đoàn tàu vận tải, đơn vị bộ đội, nông trường...lần lượt được bổ sung cho Đoàn 759. Mọi công việc cho chuyến vận chuyển đầu tiên bằng tàu gỗ có gắn máy được hoàn tất.

    Đêm 11-10-1962, chiếc tàu gỗ đầu tiên chở 30 tấn vũ khí rời bến Đồ Sơn (Hải Phòng) lên đường đi Cà Mau. Chiếc thuyền này do đồng chí Lê Văn Một làm Thuyền trưởng, đồng chí Bông Văn Dĩa làm Chính trị viên. Các thủy thủ gồm: Huỳnh Văn Sao (Năm Sao), Nguyễn Văn Bé (Tư Bé), Ba Thành, Nguyễn Văn Phong, Nguyễn Văn Nhung, Nguyễn Xuân Lai (Sáu Lai), Sáu Rô, Thanh Đen, Trần Văn Kết (Tám Kết), Ngô Văn Tân (Năm Kỷ), Nguyễn Long.

    Tàu đi đến Cù Lao Thu thì máy hỏng. Máy trưởng Huỳnh Văn Sao là người rất có kinh nghiệm nên sau một đêm thả trôi, con tàu lại nhằm hướng Nam. Ngày 16-10, tàu vào cửa Vàm Lũng. Đoàn xuồng của Nguyễn Văn Phán (Tư Đức) theo lệnh của Khu ủy Khu 9 đã đón sẵn, đưa tàu vào nơi tập kết là rạch Chùm Gọng trong niềm vui mừng khôn xiết.

    Con đường biển nối hậu phương với tiền tuyến không chỉ là dự định mà đã trở thành hiện thực. Chuyến đi đầu tiên thắng lợi đã làm tiền đề cho các chuyến đi tiếp đó thành công.

    Ngày 16-10-1962, khi tàu thứ nhất vào Vàm Lũng thì đêm hôm đó, đội tàu thứ 2 do Thuyền trưởng Đạt chỉ huy (đồng chí Huấn thuyền phó, đồng chí Lê Công Cẩn (Năm Công) làm chính trị viên, đồng chí Nhạn máy trưởng...lên đường. Mấy ngày sau, đội tàu số 2 cập bến Cà Mau giữa ban ngày khiến anh em ở bến rất ngạc nhiên và phấn khởi.

    Chuyến thứ 3 lên đường vào ngày 14-11-1962. Thuyền trưởng là đồng chí Nguyễn Đức Dục; Chính trị viên Hồ Đức Thắng. Một tháng sau, ngày 14-12, chuyến thứ 4 lên đường. Tất cả các chuyến trên đều vào bến Cà Mau, đưa 111 tấn vũ khí chi viện cho Khu 9 rất an toàn. Đây là một thắng lợi lớn khi mà vùng đất cực Nam Nam Bộ, lực lượng vũ trang đang phát triển, đang rất cần súng đạn và vũ khí. Việc đưa được vũ khí vào vùng đất tận cùng Tổ quốc có ý nghĩa đặc biệt. Nó củng cố niềm tin cho đồng bào, đồng chí đang chiến đấu, củng cố quyết tâm của nhân dân miền Nam trong sự nghiêp cách mạng giải phóng dân tộc, củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào hậu phương lớn miền Bắc.

    Do khối lượng hàng hóa vận chuyển vào Nam Bộ ngày càng nhiều, cần có lực lượng tại chỗ mở thêm bến, đón nhận, cất giữ, bảo quản và chuyển giao cho các địa phương nên cấp trên quyết định thành lập Đoàn 962. Đoàn 962 do đồng chí Tư Đức làm đoàn trưởng, Sáu Toàn làm Chính ủy. Đồng chí Bông Văn Dĩa không trở ra miền Bắc mà ở lại làm đoàn phó. Đoàn 962 chính là người em ruột thịt của Đoàn 759. Sau này, nhiều cán bộ của Đoàn 759 được điều về Đoàn 962 công tác.
  6. longtt88

    longtt88 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/11/2004
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    5
    "Vỏ quýt dày có móng tay nhọn"

    Một trong những điều kỳ diệu làm nên chiến công huyền thoại của Đoàn tàu không số là khả năng đối phó sáng tạo, linh hoạt, tài tình của tàu ta trước mọi âm mưu, thủ đoạn bao vây, ngăn chặn của địch. Có thể nói, trong cuộc đấu trí trên biển, “vỏ quýt dày” là máy bay, chiến hạm cùng hệ thống càn quét ven bờ của địch đã liên tiếp bị những “móng tay nhọn” của quân và dân ta làm cho thất điên, bát đảo. Câu chuyện về cuộc hành trình trên biển của Tàu 42 dưới đây là một ví dụ.

    Ta vẫy chào, địch tối mắt

    Tháng 2-1965, Tàu 143 đi vào bến Vũng Rô thì bị lộ, yếu tố bí mật, bất ngờ đã không còn. Mỹ-ngụy bắt đầu nắm được ý đồ của ta. Chúng triển khai cuộc chiến tổng lực nhằm ngăn chặn sự chi viện của hậu phương miền Bắc đối với tiền tuyến miền Nam. Từ đầu năm 1965, đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc; đồng thời ném bom ác liệt các trục đường bộ đi vào miền Nam. Trên biển, Mỹ - ngụy lập kế hoạch phong tỏa chặt chẽ tất cả các loại phương tiện đi bằng đường biển từ miền Bắc vào miền Nam.

    Trước tình hình địch phong tỏa gắt gao trên biển, ta nhận định: Địch tổ chức vây chặt khu vực gần bờ nhưng vẫn còn nhiều sơ hở có thể lợi dụng. Từ phân tích đó, những con tàu không số được cải dạng tàu buôn; các thủy thủ được trang bị đồ “ngoại” như những thủy thủ buôn bán quốc tế thực thụ. Tàu 42 gồm 16 thủy thủ, do đồng chí Nguyễn Văn Cứng làm Thuyền trưởng và đồng chí Trần Ngọc Ân làm Chính trị viên, được lựa chọn thí điểm đi theo phương thức mới.

    [​IMG]
    Tàu 42 trên đường chở vũ khí vào Nam. (ảnh tư liệu)

    Đêm 15-10-1965, Tàu 42 chở hơn 60 tấn vũ khí, trong đó có 4 quả thủy lôi, nhổ neo rời bến ra khơi. Tàu cải dạng thành tàu câu cá giống như của một số nước Đông Nam Á ra xa bờ, hòa vào dòng tàu buôn ngược xuôi ngoài biển Đông. Năm ngày đêm Tàu 42 hòa trong dòng tàu nhiều quốc gia trên đường hàng hải quốc tế tiến về nơi quy định. Suốt thời gian hành trình trên biển, Tàu 42 bị máy bay Mỹ trinh sát theo dõi, bám sát.

    Không phát hiện được dấu hiệu gì đặc biệt, chúng bỏ đi. Khi xuống ngang 9 độ bắc, Tàu 42 gặp một tàu khu trục Mỹ. Chúng tiến sát tàu ta đe dọa, khiêu khích, nhưng trước mắt chúng chỉ là một tàu mới được sơn màu xanh đục dạng tàu câu cá song, loại phổ biến ở vùng biển Đông Nam Á. Trên boong và đài chỉ huy, các thủy thủ nô đùa, vẫy chào "tỏ thân thiện" với sĩ quan, thủy thủ tàu khu trục Mỹ. Với cách đối xử khôn khéo, Tàu 42 vượt qua vòng ngoài an toàn. Đêm 20-10-1965, sau 5 ngày hành trình, Tàu 42 đến gần cửa Bồ Đề (Cà Mau). Song sở chỉ huy báo tin khu vực bến có nhiều tàu địch neo đậu. Vì thế, Tàu 42 đành chuyển hướng ra khơi. Sau 4 ngày đi ngoài vùng biển xa, đêm 23-10-1965, tàu nhận được lệnh chuyển hàng vào bến phụ là rạch Kiến Vàng (Cà Mau). Nhận được lệnh, Thuyền trưởng Nguyễn Văn Cứng cho tàu chuyển hướng vào bến. Đêm 24-10, cán bộ, thủy thủ tàu nhanh chóng chuyển giao hàng cho bến.

    Như vậy, sau mấy tháng tạm ngừng vận chuyển do “vụ Vũng Rô”, Đường Hồ Chí Minh trên biển lại được thông suốt, đưa những chuyến tàu chở vũ khí, đạn dược và cả tấm lòng của hậu phương lớn miền Bắc đến với tiền tuyến lớn miền Nam.

    Địch giương bẫy, ta khiến chúng sập bẫy

    Chuyến đi thành công của Tàu 42 vào rạch Kiến Vàng, ngoài việc vận chuyển hơn 60 tấn vũ khí rất cần thiết cho chiến trường, còn thu được nhiều tin tức quan trọng về quy luật hoạt động của địch trên biển cũng như ven bờ. Kinh nghiệm của Tàu 42 là cơ sở để ta tổ chức thành công hai chuyến tiếp theo do Tàu 68 và Tàu 69 thực hiện với tổng vận chuyển 187 tấn vũ khí vào miền Tây Nam Bộ.

    Tuy nhiên, sau khi quan sát, phát hiện việc ta đổi phương thức vận chuyển, địch cũng đề ra phương thức đối phó thâm độc hơn. Thủ đoạn của chúng là theo dõi ta từ xa bằng máy bay và tàu chiến, nhưng không đánh động để tàu ta tiếp tục hành trình. Khi thấy tàu ta chuyển hướng vào bờ, việc quản lý mục tiêu được chúng giao cho các trạm ra-đa đảm nhiệm; đồng thời, máy bay trinh sát tiếp tục theo dõi mục tiêu. Khi “con mồi” không biết mình bị theo dõi, đi vào lãnh hải Nam Việt Nam, tàu chiến, máy bay của chúng đã giăng lưới sẵn, lập tức tỏa ra bao vây bắt sống hoặc tiêu diệt. Đây là chiến thuật "chờ mục tiêu vào mới sập bẫy" của địch. Để thực hiện mưu đồ trên, địch tổ chức thêm nhiều lực lượng phong tỏa vùng biển. Chúng tổ chức thêm lực lượng đặc nhiệm 116, chuyên đi lùng sục các cửa sông, rạch vùng đồng bằng Nam Bộ. Tiếp đó, lực lượng đặc nhiệm 117 của địch cũng ra đời có "nhiệm vụ" sục sạo ở các vùng Cà Mau, Trà Vinh, Bến Tre. Ở ngoài khơi, lực lượng Hạm đội 7 của Mỹ mở rộng phạm vi hoạt động hơn 300 triệu hải lý vuông, trong đó tập trung ở khu vực vùng biển Việt Nam với hy vọng sẽ “quét sạch” tàu không số.

    Ngày 15-3-1966, Tàu 42 chở 60 tấn vũ khí được lệnh rời bến, tiếp tục “thử nghiệm chiến thuật mới”. Sau gần 10 ngày vượt qua sóng to, gió lớn, đánh lừa địch, Tàu 42 cập bến Cà Mau an toàn. Sau một thời gian, địch mới phát hiện tàu ta ra vào vùng Rạch Gốc. Chúng huy động máy bay, tàu chiến đánh phá những nơi nghi ta giấu tàu; đồng thời cho quân bao vây các cửa sông, chờ tàu ta ra để tiêu diệt. Cán bộ, thủy thủ Tàu 42 phối hợp với lực lượng của Đoàn 962 kiên quyết đánh trả địch, bảo vệ tàu. Đoàn 962 vừa tổ chức lực lượng chiến đấu, vừa phân công một bộ phận bốc dỡ hàng chuyển đến vị trí cất giấu an toàn. Đêm 11-4-1966, lợi dụng địch sơ hở, Tàu 42 bất ngờ luồn lách qua vùng kiểm soát của địch trở về căn cứ ở miền Bắc.

    Như vậy, mặc cho địch có nhiều hạm đội, lắm máy bay, lực lượng lùng sục đông, nhưng bằng trí thông minh, lòng dũng cảm cùng khát vọng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; những con tàu không số mà Tàu 42 là một ví dụ điển hình đã chọc thủng “vỏ quýt dày” do địch giăng ra, góp phần làm nên huyền thoại Đoàn tàu không số. Sau này, Tàu 42 và Thuyền trưởng Nguyễn Văn Cứng đều được tuyên dương danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân.
  7. longtt88

    longtt88 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/11/2004
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    5
    Chân dung Chính trị viên của Đoàn tàu không số (Kỳ 1)

    Kỳ 1: Anh hùng Bông Văn Dĩa - cá kình Biển Đông

    Nói đến Đoàn tàu không số huyền thoại, bên cạnh những thuyền trưởng anh hùng, không thể không nhắc đến đội ngũ chính trị viên, những đại biểu của Đảng trên những chuyến tàu "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Báo Quân đội nhân dân trân trọng gửi đến bạn đọc chân dung một số chính trị viên tiêu biểu qua những hồ sơ, tư liệu, ghi chép mà chúng tôi vừa có được.

    Người “anh cả” của các thủy thủ

    Đến nay, đã 50 năm trôi qua kể từ ngày chuyến tàu đầu tiên của Đoàn tàu không số khởi hành, nhưng sự kính trọng của các thủy thủ dành cho ông – Đại tá, Anh hùng LLVT nhân dân Bông Văn Dĩa, vẫn vẹn nguyên. Ai cũng xem ông là người “anh cả” của Đoàn tàu không số. Ông Trần Văn Hữu, Trưởng ban liên lạc Hội truyền thống Đường Hồ Chí Minh trên biển nói rằng: Trong lịch sử của Đoàn tàu không số, nhiều con tàu được tôn vinh là “cá kình Biển Đông” thì Bông Văn Dĩa chính là “anh cả” của những con cá kình, người trực tiếp khai mở ra con đường huyền thoại.

    [​IMG]
    Đồng chí Bông Văn Dĩa (người ngoài cùng, bên trái) cùng đồng đội. Ảnh tư liệu.

    Đó không chỉ là sự tôn vinh của đồng đội, lịch sử Lữ đoàn 125 đã dành cho ông những trang viết trân trọng nhất: “Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, sau khi rút kinh nghiệm các chuyến vận chuyển đường biển từ Bắc vào Nam chưa thành công, Đoàn 759 quyết định để thuyền “Bạc Liêu” đi chuyến trinh sát, mở đường từ Bắc vào Nam. Thuyền gồm 6 người do đồng chí Bông Văn Dĩa là Bí thư chi bộ phụ trách. Đêm 10-4-1962, thuyền rời cửa Nhật Lệ (Quảng Bình) đi về hướng Nam. Ngày 14-4-1962, khi thuyền đến vùng biển Nha Trang thì gặp tàu Mỹ, chúng nghi ngờ và cho tàu chạy vòng quanh, quần đảo từ 8 giờ sáng đến 14 giờ chiều; anh em trên thuyền phải bỏ hết hải đồ, la bàn xuống biển, đóng vai dân chài ra khơi đánh cá bị gió đẩy xa bờ, địch bị ta nghi binh không đeo bám nữa; thuyền tiếp tục hành trình về hướng Nam. Ngày 18-4-1962, thuyền tới cửa Bồ Đề (thuộc Tân Ân, Ngọc Hiển, Cà Mau); thuyền đi vào cửa Rạch Ráng, 10 giờ đêm hôm đó cập vào Vàm Lũng; sau thời gian nghiên cứu, khảo sát bến, thuyền "Bạc Liêu" tiếp tục quay trở ra miền Bắc. Chuyến đi trinh sát, mở đường từ Bắc vào Nam đã thành công. Trung tuần tháng 8-1962, Quân ủy Trung ương thông qua Nghị quyết mở đường vận chuyển chiến lược trên biển. Bắt đầu từ đây, Đoàn 759 bước vào một giai đoạn vận chuyển mới”.

    Bà Bông Thị Ưa, con gái Anh hùng LLVT nhân dân Bông Văn Dĩa cho chúng tôi xem những trang nhật ký, hồi ký của ông, với tư cách Chính trị viên của tàu gỗ Phương Đông 1, cùng Thuyền trưởng Lê Văn Một chỉ huy, chở 35 tấn vũ khí từ miền Bắc vượt biển vào rạch Chùm Gộng an toàn, đánh dấu Đường Hồ Chí Minh trên biển chính thức được khai thông. Ông viết: “Đêm 12-10-1962, chúng tôi chở hàng và võ khí xuống tàu tại bến Đồ Sơn (Hải Phòng). Đêm 13 lại xuống tiếp, cộng chung là 35 tấn. 8 giờ đêm (20 giờ) ngày 14-10-1962, chúng tôi rời bến Đồ Sơn đi theo đường kẻ (đường vạch sẵn trên bản đồ). Đến đảo Hải Nam thì gặp gió mùa đông bắc thổi mạnh nên phải đi theo đường kẻ số hai. Đến Cù Lao Thu thì máy trục trặc, chúng tôi phải thả trôi một đêm để sửa máy nhưng vẫn không thể chạy mau được như cũ. 6 giờ sáng ngày 20-10-1962, tàu chúng tôi vào Cửa Lũng, ấp Rạch Gốc, xã Tân Ân gặp đoàn xuồng của đồng chí Nguyễn Văn Phan (Tư Đức) trong vàm Cửa. Gặp nhau rất mừng rỡ. Khi tàu lọt vô tới Cửa Lũng thì tôi lập tức báo tin vui cho Đoàn 125 và Trung ương biết là chúng tôi đã tới nơi an toàn. Đưa tàu vô tới nơi quy định là rạch Chùm Gộng. Đậu xong lập tức cho các ghe xuồng bốc sang hàng…”.

    Thầm lặng làm cách mạng

    Năm 1967, với những chiến công xuất sắc lập được cùng Đoàn tàu không số, tên tuổi của Bông Văn Dĩa trở nên nổi tiếng khắp hai miền Nam - Bắc nhưng ít người biết, ông đã có một cuộc đời hoạt động cách mạng rất sôi nổi trên “mặt trận thầm lặng” từ năm 1934, khi mới 19 tuổi. Với bí danh Hai Địa, chàng trai quê ấp Rạch Gốc, xã Tân Ân, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau sinh ra trong gia đình dân nghèo vùng biển. Được thầy giáo là nhà cách mạng Phan Ngọc Hiển giúp đỡ, ông sớm giác ngộ và được kết nạp vào ********************** năm 1940. Từ khi vào Đảng, ông hoạt động rất tích cực ở vùng Rạch Gốc. Ngày 12-12-1940, từ xã Tân Dân, ông được cấp trên giao nhiệm vụ đến Hòn Khoai trao Nghị quyết khởi nghĩa của Tỉnh ủy Cà Mau cho đồng chí Phan Ngọc Hiển và cùng tham gia tổ chức cuộc khởi nghĩa ở Hòn Khoai. Cuộc khởi nghĩa bị khủng bố, ông bị thực dân Pháp kết án khổ sai đày đi Côn Đảo. Suốt những năm lưu đày chịu nhiều cực hình tra tấn, ông vẫn luôn giữ vững khí tiết cách mạng, cùng với chi bộ nhà tù đấu tranh và tổ chức nhiều cuộc vượt ngục đưa các chiến sĩ của ta về đất liền hoạt động. Cách mạng Tháng Tám thành công, ông cùng các chiến sĩ tù Côn Đảo trở về tiếp tục hoạt động cách mạng.

    Sinh thời, ông Hai Địa là người lầm lì, ít nói. Vốn là một ngư dân, rất rành về biển, Hai Địa có thể đi biển mà không cần sơ đồ, la bàn, chỉ cần nhắm hướng hay nhìn sao trời… mà đi. Vì thế, thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Hai Địa được Xứ ủy phân công xuyên biển sang Thái Lan mua vũ khí và đưa bộ đội hải ngoại về nước. Chuyến đi đầu, với sự trợ giúp của vợ là bà Nguyễn Thị Hoài, nên công việc của ông được cải trang bí mật. Đến Thái Lan, mặc dù bị nhà cầm quyền bắt giam 4 tháng nhưng khi vừa ra tù ông chở ngay chuyến vũ khí từ Thái Lan về Năm Căn. Lần thứ hai, do vận chuyển bằng đường biển khó khăn nên cấp trên quyết định tổ chức bằng đường bộ từ Thái Lan qua Cam-pu-chia về Việt Nam. Trên đường vận chuyển, ông cùng đơn vị chiến đấu 10 trận để bảo toàn vũ khí. Sau đó, ông được điều động tham gia nhiều trận đánh Pháp.

    Chính những ngày tháng làm công tác mua sắm, vận chuyển vũ khí từ Thái Lan về Nam Bộ đã đưa Bông Văn Dĩa đến một sự gặp gỡ kỳ ngộ với Thuyền trưởng Lê Văn Một sau này. Trong đường dây chuyển vũ khí từ Thái Lan về, khi Lê Văn Một phụ trách trạm bên đất Thái Lan thì trạm thứ hai trên đất Cam-pu-chia do Bông Văn Dĩa làm trạm trưởng. Sau đó, hai người lại cùng cộng tác vận tải vũ khí từ Thái Lan về Nam Bộ qua đường biển. Năm 1948, chính Bông Văn Dĩa đã tổ chức kết nạp Lê Văn Một vào Đảng. Và 15 năm sau, khi Lê Văn Một tập kết ra Bắc đang làm Cảng trưởng ở Cẩm Phả, được Trung ương chọn làm thuyền trưởng tàu không số đầu tiên chở vũ khí vào Nam thì ông lại cùng thuyền với Bí thư chi bộ, Chính trị viên Bông Văn Dĩa.

    “Điểm tựa” của mọi người

    Các thủy thủ tàu không số dành cho Bông Văn Dĩa những lời đánh giá cao cả về tài năng và đức độ. Tuy nhiên, tính cách nổi trội nhất trong ông là bản lĩnh vững vàng trước mọi phong ba, bão táp như “pho đồng, tượng đá”. Năm 1961, Bông Văn Dĩa nhận nhiệm vụ trên giao là tổ chức thăm dò tuyến đường biển từ Cà Mau ra miền Bắc để chở vũ khí vào miền Nam. Trong chuyến đầu tiên, nhiều tỉnh phía Nam cùng gửi tàu ra Bắc nhưng tàu thì bị giặc chặn bắt, tàu bị giông bão làm trôi dạt. Riêng thuyền của Bông Văn Dĩa là đến được bờ biển Quảng Bình nhưng ngay lập tức, ông bị dân quân bắt vì tưởng đó là biệt kích ngụy.

    Ông bị giam. Mọi cuộc hỏi cung của ta đối với “tên biệt kích” này đều không thu được kết quả. Hai Địa nhất định không tiết lộ nhiệm vụ, chỉ một mực yêu cầu giải về Trung ương, hoặc cho gặp Bí thư thứ nhất Lê Duẩn. Ông còn “dọa”: “Các đồng chí không đưa tôi đi gặp đồng chí Lê Duẩn ngay, sau này lỡ việc lớn, phải chịu trách nhiệm”. Vừa may, lúc đó đồng chí Lê Duẩn đến Quảng Bình công tác. Nghe báo cáo: “Có người trong Nam, tự xưng tên là Hai Địa, đòi gặp trực tiếp đồng chí, không chịu khai báo gì nữa”. Nghe tên ông, đồng chí Lê Duẩn lập tức đến gặp. Vậy là hai người bạn tù Côn Đảo mấy mươi năm trước gặp mặt, họ ôm chầm lấy nhau...

    Ngày 23-10-1961, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập đơn vị vận tải trên biển mang tên Đoàn 759. Đoàn 759 tin tưởng giao Bông Văn Dĩa chỉ huy thuyền Bạc Liêu, đi chuyến trinh sát mở đường. Ông đã cùng đồng đội trở về báo cáo cấp trên tình hình thăm dò và xây dựng bến bãi tiếp nhận vũ khí với Trung ương và Bác Hồ. Đoàn thủy thủ của ông được lệnh ở Đồ Sơn để sẵn sàng nhận nhiệm vụ.

    Tại bến Đồ Sơn, đầu tháng 10-1962, chiếc tàu gỗ gắn máy mang tên Phương Đông 1 chở 30 tấn vũ khí do Thuyền trưởng Lê Văn Một và Chính trị viên Bông Văn Dĩa chỉ huy, lên đường vào Nam. Trước khi xuất phát, đích thân các đồng chí: Phạm Hùng, Nguyễn Chí Thanh, Trần Văn Trà đến động viên cán bộ, chiến sĩ trên tàu. Đây là chuyến đi đánh dấu “đường mòn trên Biển Đông” chính thức ra đời.

    Bông Văn Dĩa đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, trở thành người chiến sĩ tiên phong mở đường Hồ Chí Minh trên biển. Từ đó trở đi, vũ khí liên tiếp được đưa từ miền Bắc vào cập bến khu vực mũi Cà Mau. Với những thành tích và công lao cống hiến đặc biệt, năm 1967, ông được tuyên dương danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân. Đại tá Bông Văn Dĩa là tấm gương trong sáng, cả cuộc đời vì sự nghiệp cách mạng, luôn thể hiện đức tính cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, sẵn sàng chịu đựng hy sinh vì đồng chí, đồng đội. Chuyện kể rằng, sau khi Mỹ-ngụy phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ, địch đánh phá ác liệt, cả vùng U Minh hầu như không còn chỗ an toàn. Các cán bộ bảo vệ đang băn khoăn chưa biết rút về đâu thì đồng chí Lê Duẩn nói: “Còn một chỗ. Còn một người có thể tin cậy: Anh Hai Địa ở Rạch Gốc. Rạch Gốc là đất có thể nương náu. Hai Địa là cơ sở của đồng chí Phan Ngọc Hiển, từng bị tù Côn Đảo. Ở Côn Đảo, mỗi lần chúng tôi bị địch đánh thì Hai Địa xông ra chịu đòn thay. Phải đi tìm Hai Địa. Đó là con người có thể tin cậy trong lúc khó khăn cùng cực của cách mạng”.
  8. longtt88

    longtt88 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/11/2004
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    5
    Chân dung Chính trị viên của Đoàn tàu không số (Kỳ 2)

    Kỳ 2: Bản lĩnh Anh hùng Đặng Văn Thanh

    Mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ, 8 tuổi đã làm nghề lặn biển, bắt cá ở vùng Cà Ná (Ninh Thuận), Đặng Văn Thanh tham gia cách mạng rồi trở thành chính trị viên của Đoàn tàu không số như một lẽ tự nhiên. Ông là một trong hai người đầu tiên của Đoàn tàu không số được phong danh hiệu cao quý: Anh hùng LLVT nhân dân. Ông còn để lại cho đời sau những câu chuyện huyền thoại về một tấm gương mưu lược, quả cảm trong chiến đấu mà cũng rất bình dị, chân thành lúc đời thường.

    Địch vây bốn bề… không ngại!


    [​IMG]
    Anh hùng Đặng Văn Thanh. Ảnh tư liệu.

    Chuẩn bị kỷ niệm 50 năm truyền thống Đoàn tàu không số, chúng tôi gặp lại các cựu chiến binh đang sinh hoạt tại Ban liên lạc của nhiều tỉnh, thành phố như: Hải Phòng, Thanh Hóa, Phú Yên... Ở đâu, đồng đội cũng kể rằng, được công tác, chiến đấu cùng Chính trị viên Đặng Văn Thanh là một niềm tự hào. Cuộc đời ông có nhiều sự kiện hoàn toàn sự thật mà nghe như huyền thoại. Và sự kiện được kể nhiều nhất, cũng là “nguồn cơn” trong việc ông trở thành Anh hùng LLVT nhân dân đầu tiên của Đoàn 759 (sau này là Lữ đoàn 125) chính là lần ông cùng tàu gỗ 41 mở đường mới vào Bà Rịa, chi viện vũ khí cho đồng bào miền Nam.

    Đầu tháng 9-1963, sau những chuyến tàu thành công đi vào Khu 8, Bộ Quốc phòng chỉ thị cho Khu 7 mở bến đón tàu vận chuyển vũ khí từ miền Bắc vào thẳng chiến trường miền Đông Nam Bộ. Đoàn 759 được lệnh chuẩn bị một tàu chở vũ khí đột phá mở đường mới vào bến Bà Rịa. Đêm 26-9-1963, chiếc tàu gỗ mang số hiệu 41 do Lê Văn Một làm Thuyền trưởng, Đặng Văn Thanh làm Chính trị viên cùng 11 thủy thủ, chở 18 tấn vũ khí xuất phát tại cảng Bính Động (Hải Phòng). Để giữ bí mật, tàu phải đi trong mưa bão để tránh tàu tuần tra của địch. Khi tới khu vực đảo Phú Quý thì tàu mới bất ngờ chuyển hướng vào bến. Khó khăn lúc này là tàu chưa bắt được liên lạc với ban phụ trách bến theo kế hoạch. Trời sắp sáng, thủy triều bắt đầu xuống, trên đường vào bến, tàu lại bị mắc cạn gần Đồn Biên phòng Phước Hải của ngụy và đúng lúc chúng đang càn quét ở vùng này. Để giữ bí mật lâu dài, chỉ huy bến nhận hàng lúc bấy giờ là ông Ba Nam đề xuất cho đánh bộc phá hủy tàu càng sớm càng tốt.

    Bí mật cho bến và tàu là nguyên tắc cao nhất, nhưng công sức của cả tàu cộng với biết bao tình cảm, ý chí của hậu phương lớn miền Bắc gửi vào tiền tuyến lớn miền Nam lẽ nào phút chốc trở thành tiếng nổ. Chính trị viên Thanh hội ý nhanh với Thuyền trưởng Một: "Mặc dù bị mắc cạn trước mũi địch nhưng tàu chưa lộ. Hơn nữa, tàu 41 lại cùng hình dáng với tàu đánh cá địa phương. Nếu huỷ tàu lúc này nghĩa là đánh động cho địch biết và chắc chắn rằng con đường vào bến mới Bà Rịa sẽ khó có thời cơ thực hiện". Lời đề nghị lực lượng ở bến cùng với cán bộ, chiến sĩ trên tàu nhanh chóng bốc dỡ vũ khí đưa vào bờ được thực hiện. Nhưng vũ khí chưa lấy hết thì trời đã sáng nên đành dừng lại. Thuyền trưởng Lê Văn Một dẫn thủy thủ lên bờ phòng trường hợp xấu cùng với địa phương chiến đấu bảo vệ vũ khí. Còn Chính trị viên Đặng Văn Thanh cùng với thợ máy Huỳnh Văn Sao tình nguyện ở lại, sẵn sàng phá hủy tàu khi cần thiết. Đến 11 giờ trưa, có tiếng động cơ máy bay. Hai người ngẩng lên thấy máy bay trinh sát từ phía bờ bay ra. Đến chỗ con tàu mắc cạn, nó chao lượn một vòng thăm dò. Trong bờ, tín hiệu khẩn cầu hai người hủy tàu lại xuất hiện, nhưng Đặng Văn Thanh lờ đi. Bằng cảm nhận của mình, anh cho rằng địch còn ngó nghiêng nghĩa là chúng chỉ mới nghi ngờ nên vẫn nghi binh bằng cách ra hiệu cho Huỳnh Văn Sao lấy lưới ra vá. Ở bên cạnh người chính trị viên đầy bản lĩnh như vậy, Huỳnh Văn Sao cũng trở nên mạnh dạn. Anh rót chén rượu, đưa cho Chính trị viên Thanh và nói: "Ta thi gan với chúng nghe!". Đến 14 giờ cùng ngày, con tàu nổi dần. Hai người cho nổ máy rời khỏi bãi cạn. Đến 17 giờ, Tàu 41 lẫn vào tàu đánh cá của ngư dân vào bến. Số hàng còn lại đã được bốc hết lên bờ. Đêm đó, Tàu 41 ra khơi trở lại miền Bắc... Với lòng dũng cảm, trí thông minh, Chính trị viên Đặng Văn Thanh và Huỳnh Văn Sao đã nêu tấm gương ngời sáng về sự bình tĩnh, mưu trí, gan dạ và linh hoạt trong xử lý tình huống trước kẻ thù. Với sự mưu trí đó, Đặng Văn Thanh và Huỳnh Văn Sao đã giữ được bí mật tuyệt đối của chuyến đi quan trọng này và chuyến đi mở đường, mở bến chi viện vũ khí cho Khu 7 vào Bà Rịa thành công tốt đẹp.

    Người anh hùng bắt đầu từ… không biết chữ

    Anh hùng LLVT nhân dân Đặng Văn Thanh nay đã trở thành người thiên cổ, nhưng chúng tôi vẫn tìm về Quán Toan (Hải Phòng) để gặp vợ con ông. Câu chuyện đời của người anh hùng qua lời những người thân yêu nhất của ông dù rất ngắn gọn nhưng càng khiến chúng tôi xúc động.

    Cậu bé Đặng Văn Thanh sinh ra ở vùng biển Cà Ná (Ninh Thuận) sớm mồ côi cả cha lẫn mẹ. Cách mạng Tháng Tám thành công đã thay đổi cuộc đời ông, đưa ông trở thành người chiến sĩ cách mạng, tích cực và đầy hăng say trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở vùng Nam Trung Bộ. Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, ông không đi tập kết mà được lệnh ở lại nằm vùng hoạt động. Rồi ông được giao nhiệm vụ giả đi đánh cá, điều tra kỹ vùng Mũi Đèn. Điều tra xong, về cứ báo cáo, cấp trên giao cho ông nhiệm vụ ngắn gọn: “Mấy năm nay đồng chí vất vả, sức yếu lắm rồi, mắt mờ, tóc rụng hết. Nay Khu ủy quyết định đồng chí phải ra Bắc nghỉ một thời gian, chữa bệnh, học hành, rồi sẽ trở về phục vụ. Đồng chí cứ đi, cách mạng miền Nam còn dài. Cứ đi, rồi sẽ trở về... Khu ủy giao cho đồng chí cái phong bì này, phải giữ thật kỹ, trường hợp bất trắc nhất thiết không để rơi vào tay giặc, dù hy sinh cũng phải bảo đảm thủ tiêu trước khi ngã xuống. Ra đến Hà Nội chỉ được giao tận tay một người là đồng chí Võ Nguyên Giáp”.

    Vậy là ông đi theo đường Trường Sơn gần 8 tháng mới ra tới miền Bắc, tới Quảng Bình thì có xe con đón thẳng về Hà Nội. Đó là khoảng cuối năm 1961... Thời gian sau, ông được tổ chức cho gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp và tại đó, câu chuyện ông kể đến nay, đã hàng chục năm qua đi, người con trai của ông vẫn không thể nào quên được. Sau khi gửi Đại tướng lá thư mà cấp trên đã giao, ông được Đại tướng đưa cho cây bút, tấm bản đồ và yêu cầu: “Bây giờ đồng chí kể chuyện cho chúng tôi nghe tình hình trong ấy thế nào? Bà con ta sống thế nào? Địch hoạt động thế nào? Nhất là nói kỹ tình hình ven biển từ Khánh Hòa vào tới Mũi Đèn. Nói thật cụ thể nhé”.

    Thanh cầm cây bút, đứng bỡ ngỡ trước tấm bản đồ rất lâu. Ông không dám nhìn Đại tướng, mắt quay đi nhìn chỗ khác… Mãi về sau, ông mới thú thật: “Báo cáo Đại tướng... Tôi không biết chữ”.

    Đại tướng lặng đi hồi lâu. Rồi ông cầm lấy cây bút chì, kéo Thanh lại gần và nói: “Bây giờ, tôi sẽ chỉ từng chỗ trên bản đồ và đồng chí sẽ kể cho tôi biết rõ tình hình từng nơi. Đây là đường số 1. Đây là Phan Rang. Đây là Phan Thiết. Còn cái mũi nhọn này là Mũi Đèn. Còn đây là Vũng Găng. Đây là Cà Ná...”.

    Đêm ấy, Đặng Văn Thanh được trò chuyện cùng Đại tướng đến khuya. Thanh đã kể với Đại tướng tình hình các vùng mình biết, từng sống, từng hoạt động. Anh còn kể với Đại tướng ký ức tuổi thơ. Từ ngày còn là chú bé mồ côi cha mẹ, làm nghề lặn biển Cà Ná... Đại tướng ngồi nghe, cuối buổi, ông ôm Thanh rất chặt và giao cho hai nhiệm vụ: Một là chữa bệnh, bồi dưỡng cho thật khỏe. Hai là phải đi học.

    Vậy là Đặng Văn Thanh đi học. Sau ba tháng, ông biết đọc, biết viết thì được chuyển sang học hàng hải. Cuộc đời làm Chính trị viên Tàu không số của ông bắt đầu từ đó. Sau bao năm ngang dọc Biển Đông, lập nên nhiều thành tích cùng Đoàn tàu không số huyền thoại, khi nước nhà thống nhất, Đặng Văn Thanh không trở về vùng quê Cà Ná mà quyết định ở lại Hải Phòng. Ông kết duyên với một phụ nữ địa phương, cùng nhau vun đắp hạnh phúc nhỏ nhoi với niềm vui ruộng đồng của một “lão nông tri điền” thực thụ. Hàng xóm dường như không nhiều người biết ông là người anh hùng huyền thoại. Trong câu chuyện kể về ông, họ chỉ nhắc đến ông già Thanh quê ở miền trong, đi bộ đội rồi về đây dừng chân lập nghiệp. Ông hiền lành, bình thản hưởng cuộc sống vừa đủ và coi đó như một niềm hạnh phúc bất tận của người lính trở về sau chiến tranh, an nhiên và tự tại.
  9. longtt88

    longtt88 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/11/2004
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    5
    Nhai rau muống sống, phơi cá gỗ trên tàu không số

    50 năm trước đây ( 23/10/1961- 23/10/2011), Đường Hồ Chí Minh trên biển được khai mở. Những con tàu không số chạy trên con đường ấy trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ đã trở thành một huyền thoại lạ lùng, đẹp như cổ tích. Dưới đây là vài câu chuyện thú vị về các chiến sỹ trên những con tàu ấy.

    “Ở Trung ương tôi chỉ biết anh Lê Duẩn”

    Sau vụ chiếc thuyền buồm đầu tiên của Tập đoàn đánh cá sông Gianh, xuất phát từ Quảng Bình Tết Canh Tý (1960), chở 5 tấn vũ khí vào Hòn Chuối chân đèo Hải Vân không thành công, Trung ương rút ra bài học là không thể đi bằng thuyền buồm.

    Trong lúc chưa có lực lượng để vận tải trên biển vào Nam thật hợp lý, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bí thư Quân ủy Trung ương điện cho Trung ương Cục Miền Nam chỉ đạo các Khu ủy Khu 8, Khu 9 khẩn trương tổ chức lực lượng, bến bãi và phương tiện ra Bắc nhận vũ khí. Các tỉnh Bến Tre, Cà Mau, Bà Rịa đều tổ chức các đội thuyền giả đánh cá để vượt biển ra Bắc.

    [​IMG]
    Bông Văn Dĩa áo đen bên phải, đứng giữa là đồng chí Lê Đức Thọ

    Đội thuyền Cà Mau gồm 8 người do Bông Văn Dĩa làm thuyền trưởng. Anh hùng quân đội Bông Văn Dĩa sinh năm 1905, quê ở Rạch Gốc, Tân An, Ngọc Hiển, Cà Mau. Anh là một chiến sĩ trung kiên và giàu kinh nghiệm đi biển. Đêm 1/8/1961, thuyền của Bông Văn Dĩa rời bến rạch Cá Mòi (Mũi Cà Mau) ra Bắc.

    Chiều 7/8, thuyền của Bông Văn Dĩa vào cửa sông Nhật Lệ (Quảng Bình) gần đồn công an vũ trang. Nghi là tàu biệt kích địch nên 8 người và con thuyền bị công an giữ. Thuyền trường Dĩa nói với đồn trưởng công an: “Anh em trong Nam ra đây theo chỉ thị của Trung ương. Nhờ các đồng chí báo cáo Trung ương biết. Còn về thủ tục thì các đồng chí cứ thi hành theo nguyên tắc”.

    Mấy tiếng sau, Trưởng ty Công an Quảng Bình là Tám Bội, quê Bến Tre tập kết, đến gặp anh Dĩa hỏi: “Vậy trong Trung ương anh biết ai?”. Bông Văn Dĩa trả lời: “Ở Trung ương tôi chỉ biết anh Lê Duẩn”.

    May lúc này này, ông Lê Duẩn đang làm việc tại Quảng Bình, biết tin có những người con của mảnh đất tận cùng tổ quốc vượt biển ra, nên đồng chí đã đồng ý gặp. Bông Văn Dĩa đã từng biết ông Lê Duẩn trong những ngày khổ sai ở Côn Đảo. Nay gặp nhau cả hai đều rất cảm động, ôm nhau trào nước mắt.

    Bông Văn Dĩa báo cáo với ông Lê Duẩn tình hình miền Nam và nêu yêu cầu của Khu ủy “Xin Trung ương chi viện thật nhiều súng đạn để trang bị cho bộ đội”. Lê Duẩn cười: “Cứ yên tâm. Trung ương sẽ giải quyết. Bây giờ các anh ở tạm đây ít hôm rồi sẽ có xe đón về Hà Nội”.

    Thủy thủ tàu không số ăn theo tiêu chuẩn nào?

    Ông Vĩnh Mẫn, cựu Trưởng Ban tuyên giáo D125 – biệt danh của đoàn quân chủ lực đường Hồ Chí Minh trên biển năm xưa - nay về hưu ở cạnh Đập Đá bên dòng sông Hương kể cho tôi nghe về tiêu chuẩn ăn của chiến sĩ tàu không số.

    [​IMG]
    Phan Vinh

    Ban đầu đơn vị thấy anh em đi vào chốn hiểm nguy như những cảm tử quân nên mức ăn bao nhiêu cũng đồng ý. Nhưng cấp trên buộc phải báo cáo cụ thể. Thế là Cục Hậu cần Hải quân cử người đi theo tàu ra biển để xác định mức ăn cho thủy thủ. Khi tàu ra khơi, ai cũng say sóng nghiêng ngả, chẳng ăn uống được gì, chỉ ăn rau muống sống để chống say.

    Anh hùng Phan Vinh, người đưa tàu 235 vào Hòn Hèo, Khánh Hòa chiến đấu chống giặc và hy sinh oanh liệt, tên anh được đặt cho một hòn đảo ở Trường Sa, sinh thời kể với ông Vĩnh Mẫn:

    “Anh biết không, đi trên biển Đông ít khi sóng yên biển lặng, đa phần là sóng dữ. Nếu sóng mà từ cấp 6, cấp 7 là hai phần ba thủy thủ bị say sóng phải nằm. Nhiều anh em buồn tiêu mà không đứng dậy được. Lúc đó em chẳng ăn gì, chỉ nhai rau muống sống”.

    Sau chuyến “đi thực tế”, đó, hậu cần quyết định cho các chiến sĩ tàu không số ăn thoải mái, trên mức tiểu táo (tiểu táo là mức ăn của sĩ quan cấp cao).

    Nấu một nồi cháo hết 5 tiếng đồng hồ

    Ngày 26/9/1963, chiếc tàu gỗ chở 18 tấn vũ khí do thuyền trưởng Lê Văn Một chỉ huy xuất phát từ Đồ Sơn, Hải Phòng đi vào bến Sông Ray, Lộc An (Bà Rịa). Thuyền trưởng Lê Văn Một kể:

    [​IMG]

    “Qua vĩ tuyền 17 thì bị sóng gió cấp 6, cấp 7. Ai cũng bị say sóng, trừ máy trưởng Năm Sao, chính trị viên Đặng Văn Thanh và thủy thủ Thắng Rô. Tàu lắc đến nỗi anh em thủy thủ phải hai người đứng giữ hai quai chảo, giữ cho chảo ở trên bếp lửa mấy tiếng để nấu cơm, vì sóng lắc, không giữ thì chảo văng ra biển. Khi nấu cháo, tàu lắc quá, nồi cháo sánh ra ngoài cả, từ đó anh em có kinh nghiệm nấu cháo phải cho màn vào nồi cháo để cháo đỡ sánh ra ngoài. Nấu 5 tiếng đồng hồ mới chín được nồi cháo....”

    Dân cá gỗ

    Trong dân gian người ta gọi người xứ Nghệ là “dân cá gỗ”. Người xứ Nghệ ham học nhưng nghèo, ra Hà Nội học, thấy học xong người ta ăn cá, người Nghệ liền đẽo một con cá bằng gỗ, rồi đến bữa ăn rót nước mắm vào cá gỗ. Ăn cơm với nước nắm, còn cá gỗ ăn xong lau đi, lần sau lại bày ra. Dân xứ khác đi ngang qua thấy người Nghệ bữa nào cũng có cá ăn, không dám coi thường nữa.

    Tưởng đó là chuyện của các sĩ tử xứ Nghệ xưa, không ngờ khi đi tàu không số các thủy thủ cũng phải dùng cá gỗ, mực gỗ. Trên tàu có lưới, câu, và có cả cá...gỗ! Để nghi trang địch, giữ bí mật cho con tàu hành trình, anh em thủy thủ đẽo từng con cá gỗ lớn, con mực ống lớn và nhuộm mầu rất giống cá khô, mực khô mang theo trên tàu. Khi tàu hay máy bay trinh sát địch nhòm tới thấy phơi cá gỗ, mực gỗ trên boong tàu, chúng tin là tàu đánh cá thật. Đêm họ lại cất cá gỗ, mực gỗ vào khoang.

    [​IMG]
    Tàu không số do máy bay Mỹ chụp

    Vì thế dân tàu không số cũng có thể gọi là “dân cá gỗ”.

    Đặng Văn Thanh lần đầu gặp Đại tướng Tổng tư lệnh

    Nhắc đến chính trị viên tàu không số - anh hùng lực lượng vũ trang Đặng Văn Thanh - lại nhớ câu chuyện cảm động về lần đầu tiên anh ra Bắc gặp Đại tướng. Thanh quê ở Thuận Nam, Ninh Thuận. Năm 1954, Thanh không tập kết mà được phân công “nằm vùng”. Một hôm Khu ủy Khu 6 gọi lên bảo anh ra Bắc học. Khu ủy giao cho Thanh cái phòng bì, bảo: “Nếu gặp bất trắc, dù hy sinh cũng phải thủ tiêu phong bì trước khi ngã xuống. Ra đến Hà Nội chỉ được giao phong bì này cho một người, đó là Đại tướng Võ Nguyên Giáp”.

    Thanh vượt Trường Sơn gần 8 tháng mới ra đến Hà Nội. Một hôm, có người đưa xe đến đón Thanh đến phố Lý Nam Đế. Căn phòng mở, một người dáng chắc đậm, quần ka-ki, áo lụa ba túi bước vào.

    Người sĩ quan giới thiệu: “Báo cáo thủ trưởng đây là đồng chí Đặng Văn Thanh vừa ở Khu 6 ra”, rồi anh quay lại phía anh Thanh: “Đây là Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đồng chí Thanh chào Đại tướng đi”.

    Thanh sững sờ, hai mắt nhòe lệ. Đại tướng bước lại bắt tay và ôm hai vai Thanh. Thanh đưa cho Đại tướng chiếc phong bì vẫn giữ trong người gần năm trời, thưa: “Anh Hiền ở Khu 6 dặn chỉ được đưa phong bì này cho Đại tướng”. Sau khi Thanh kể chuyện và báo cáo tình hình ven biển từ Khánh Hòa vào Mũi Đèn (Phan Thiết), người sĩ quan trải lên bàn tấm bản đồ lớn rồi nói :

    - Đây, đồng chí Thanh chỉ rõ từng chỗ trên bản đồ.

    Thanh lắp bắp đỏ mặt không nói được gì. Cuối cùng quay sang Đại tướng, Thanh ấp úng nói:

    - Báo cáo... Đại tướng. Em... không biết chữ.

    Căn phòng bỗng lặng đi. Đại tướng cũng lặng đi hồi lâu, rồi nói với người sĩ quan: “Anh em trong ấy cực vậy đó”. Đêm hôm ấy Đại tướng thức tới khuya trò chuyện, thăm hỏi, nghe Thanh kể lại cuộc đời mồ côi của mình đến một giờ sáng.

    Khi chia tay, Đại tướng nói: “Bây giờ đồng chí có hai nhiệm vụ tôi giao, phải làm cho kỳ được. Một là chữa bệnh, bồi dưỡng cho thật khỏe. Hai là phải đi học. Học chữ và học chuyên môn. Khi nào hoàn thành nhiệm vụ báo cáo cho tôi biết”.

    Sau này, Đặng Văn Thanh trở thành một thuyền trưởng, một chính trị viên giỏi của đoàn tàu không số, được phong anh hùng quân đội.

    Phẫu thuật chỉnh hình để tiếp tục chỉ huy tàu

    Tư Mau (tức Phan Văn Nhờ) là một chiến sĩ cách mạng kiên cường và mưu trí, gan cóc tía, người có nhiều kinh nghiệm đi biển và có những sáng tạo hết sức táo bạo. Anh nguyên là Đoàn trường Đoàn vận tải 962 của Quân khu 9.

    Năm 1972, địch kiểm soát biển Đông quá chặt, Tư Mau đã nghĩ ra cách thành lập Công ty vận chuyển công khai trên biển, gọi là Công ty Việt Long (tức D731). Công ty mua 5 chiếc thuyền SG66, SG67, SG158, SG159 để làm nhiệm vụ vận chuyển vũ khí và mua thêm 3 thuyền vận tải VT235, VT254 và 2674KG để đi làm kinh tế kết hợp nghi trang che mắt địch.

    [​IMG]
    Tư Mau lúc chưa cải dạng mặt

    [​IMG]
    ...và khi đã thay đổi khuôn mặt

    Công ty còn mướn thợ đóng 2 chiếc tàu ở Biên Hòa trọng tải 120 tấn, 500 mã lực có gắn máy lạnh. Công ty có 10 cái kho cất giấu vũ khí, hàng hóa ở ngay Sài Gòn. Từ đầu năm 1972 đến cuối năm 1973, Đoàn 371 đã thực hiện 37 chuyến ra Bắc, chở 600 tấn vũ khí, hàng hóa, thuốc chữa bệnh vào chiến trường Nam Bộ an toàn, bí mật.

    Sau vụ phản bội của tên Ba Tam (tức Nguyễn Văn Rớt, một cán bộ của văn phòng công ty), Công ty Việt Long bị tổn thất nặng nề. 100 cán bộ và công nhân bị bắt, văn phòng ở Sài Gòn và một số thuyền bị địch tịch thu.

    May thuyền vẫn còn lại 5 chiếc, trong đó 4 chiếc đang ở miền Bắc với 23 người, có 3 đồng chí cán bộ chỉ huy là Tư Mau, Mười Thượng, Mười Khanh; một thuyền ở Bến Hố không bị lộ, lực lượng ở các bến vẫn còn đầy đủ. Lúc này Tư Mau đang ở miền Bắc. Quân khu 9 điện cho biết, bọn phản bội đã chỉ cho địch nhận dạng về Tư Mau. Vì thế Tư Mau đề nghị được đi cải dạng mặt.

    Tư Mau đi phẫu thuật chỉnh hình ở Bệnh viện 108. Phải mổ để chân mày từ cong, dài, thành thẳng và ngắn lại. Mũi làm cho bạnh ra, miệng cũng rộng ra. Một hôm, khi vết mổ đã lành, xe con bí mật chở Tư Mau về gặp đồng chí Lê Đức Anh ở Bộ tổng tham mưu.

    Tư Mau hỏi: “Xong rồi đây. Anh coi, tôi có khác không?”. Ông Lê Đức Anh lắc đầu: “Mình vẫn nhận ra mà! Chưa được đâu?

    Thế là Tư Mau lại vào 108. Cắt sườn non độn cho mũi cao lên. Bứng hết cả da đầu, xoay ngược mái tóc từ trước ra sau. Đốt má cho đầy tàn hương. Phải đốt cả đầu ngón tay để làm cho dấu vân tay khác đi.

    Lần này về Bộ tổng tham mưu, ông Lê Đức Anh không nhận được nữa. Tư Mau về lại Nam bằng đường Trường Sơn.

    Một thời gian sau ở Sài Gòn xuất hiện một nhà tư sản mới: chủ vựa cá Sáu Thuận.

    Và những đoàn thuyền hợp pháp lại ra Bắc chở vũ khí vào cho Quân khu 9 cho đến năm 1975...
  10. longtt88

    longtt88 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/11/2004
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    5
    Chân dung Chính trị viên của đoàn tàu không số (Kỳ 3)

    Anh hùng Nguyễn Văn Hiệu - sự “trở về” kỳ diệu

    Ông đã trở về với quê hương, đồng đội sau gần 40 năm diễn ra trận đánh bi tráng, quyết tử của Tàu 645 trên vùng biển Phú Quốc ngày 24-4-1972. Hôm đó, Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu đã giành sự hy sinh về mình để bảo vệ đồng đội trước vòng vây siết chặt của quân thù giữa Biển Đông dậy sóng. Ai cũng nghĩ thân thể ông đã tan hòa vào đại dương mênh mông. Nhưng ông đã trở về bằng “con đường huyền thoại” như lúc ra đi.

    13 chuyến xuất quân thắng lợi


    Những ngày này, ngôi nhà nhỏ số 9/299, phố Ngô Gia Tự (Hải An, Hải Phòng) tấp nập khách ra vào; mà hầu hết đều là phóng viên các cơ quan báo chí. Hết báo nọ đến báo kia, truyền hình phỏng vấn rồi phát thanh thu âm… nhưng người chủ của ngôi nhà, cựu chiến binh Thẩm Hồng Lăng vẫn nở nụ cười, tay đưa lên gạt những giọt nước mắt xúc động. Suốt 40 năm qua, ký ức về trận đánh quyết tử và những hình ảnh cuối cùng của Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu luôn sống cùng ông. Nhiều đêm, ông mơ gặp lại chính trị viên, được chính trị viên nhắc nhở nhiều điều để giữ gìn phẩm chất của người đảng viên cộng sản. Để rồi khi thức giấc, cả một miền kỷ niệm về Anh hùng Nguyễn Văn Hiệu lại bừng thức trong ông.

    [​IMG]
    Anh hùng Nguyễn Văn Hiệu. Ảnh tư liệu.

    “... Đó là chuyến đi thứ 14 của Tàu 645 chúng tôi” - ông Thẩm Hồng Lăng kể. “13 chuyến đi trước đó, dù đối mặt với muôn vàn khó khăn, thử thách; nào địch tuần tra, tuần tiễu gắt gao; nào máy bay, hạm đội của Mỹ bám riết, rình rập; rồi bão tố, phong ba của biển cả… nhưng tàu chúng tôi đều hoàn thành nhiệm vụ trở về”.

    Tàu 645 là niềm tự hào của cán bộ, thủy thủ Đoàn tàu không số. Nếu như toàn Lữ đoàn tự hào về Tàu 645 thì toàn tàu lại tự hào về cặp thuyền trưởng - chính trị viên dày dạn kinh nghiệm biển cả và trận mạc của mình. Đặc biệt, Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu lúc ấy 40 tuổi, người con của quê hương giàu truyền thống cách mạng Thăng Bình (Quảng Nam) là anh cả của tàu. Anh dáng mảnh khảnh, nhỏ nhắn, tính tình hòa đồng, được mọi người rất quý mến. Các thủy thủ trên tàu phần đông đều mới ngoài đôi mươi. Vì vậy, không ít lần, chiến sĩ trẻ Thẩm Hồng Lăng lại thấy Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu giấu đi nỗi thương thầm những đứa em trai trẻ, vô tư của mình sau mỗi lần anh nói chuyện về tinh thần "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh".

    “Về báo cáo với Đoàn, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ”

    Chuyến xuất quân lần thứ 14 chở hơn 70 tấn vũ khí vào chi viện cho Khu 9 ấy gặp trục trặc ngay từ đầu. Hai lần xuất bến, tàu đều bị địch bám riết, theo dõi, đành phải quay lại. Lần thứ ba, xuất hành ngày 12-4-1972 lúc đầu trót lọt, tàu đã vờ vòng lên đảo Hải Nam (Trung Quốc), đi trên các vùng biển quốc tế, xuôi xuống phía biển Phi-líp-pin, In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a. Ngày 23-4-1972, tàu tới vùng biển Phú Quốc, sau đó lại chuyển hướng về phía đảo Cô Công (Cam-pu-chia), cách Phú Quốc chừng 60 hải lý với ý định chờ tối sẽ vào. Đầu giờ chiều, tàu nhận được điện của Sở chỉ huy báo cho biết: Đêm nay sẽ có thuyền đón ở mũi Cà Mau. Nhưng sẩm tối lại có điện khẩn: "Bến động". Thế là thuyền trưởng lại lệnh quay ra hải phận quốc tế. Đêm 23-4, một chiếc tàu lớn của địch đi tuần từ hướng Vịnh Thái Lan phát hiện ra Tàu 645. Chúng đánh tín hiệu hỏi tàu từ đâu đến và đi đâu. Tàu 645 bình tĩnh trả lời: "Từ Trung Quốc xuống, bị lạc". Địch phát tín hiệu dừng tàu. Tàu 645 lập tức tăng tốc nhằm chạy thoát khỏi tầm truy đuổi của địch. Lập tức địch gọi máy bay bắn pháo sáng. Trong ánh pháo sáng chói lòa, Tàu 645 đã nhìn rõ phía trước còn có 3 tàu địch. Như vậy, tàu đã bị vây kín tứ phía.

    Cuộc lẩn tránh của Tàu 645 kéo dài trong đêm cho đến sáng 24-4. Khi trời sáng rõ, địch xác định đây là tàu "Cộng sản Bắc Việt", chúng lập tức dùng loa dụ hàng và nổ súng uy hiếp. Một số thủy thủ hy sinh, tàu bị trúng đạn, sàn thủng lỗ chỗ. Đến gần trưa, địch bắn một quả đạn lớn trúng vào xích lái khiến Tàu 645 quay tròn, không điều khiển được nữa. Trước tình thế khẩn cấp, Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu hội ý và thống nhất để Thuyền trưởng Lê Hà chỉ huy các thủy thủ còn sống nhảy xuống biển bơi vào bờ nhằm bảo toàn lực lượng, còn anh ở lại chiến đấu cầm chân và phân tán sự chú ý của địch, sau đó sẽ điểm hỏa bộc phá hủy tàu, phi tang vũ khí, hàng hóa. Thủy thủ Thẩm Hồng Lăng có ý muốn nán lại cùng Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu rời tàu cuối cùng. Anh giúp chính trị viên thu thập tài liệu để hủy. Hiểu ý Lăng, anh Hiệu nói như ra lệnh nhưng ánh mắt anh nhìn Lăng trìu mến, thiết tha: “Lăng, nhảy xuống biển bơi cùng anh em đi. Em còn trẻ, còn cống hiến cho cách mạng nhiều hơn. Đi đi, anh cũng sẽ an toàn".

    Thời gian không cho phép chậm trễ, Lăng đành nghe lời chính trị viên, mặc áo phao nhảy xuống biển. Anh bơi ra thì gặp hoàn cảnh ngặt nghèo, phần lớn anh em bị thương nên phải cụm nhau lại thành một khối, vừa bơi vừa dìu nhau. Anh Hiệu cũng nhìn thấy cảnh đó nên đã cố lùi thời gian điểm hỏa. Nhìn về phía con tàu, Lăng hiểu: Chậm điểm hỏa thêm phút nào thì tính mạng của chính trị viên bị đe dọa thêm phút ấy. Anh em dưới biển thì cũng cố nán lại đợi chính trị viên. Trước tình thế lừng chừng đó, anh Hiệu quát to: "Các đồng chí khẩn trương rời xa tàu. Về báo cáo với Đoàn là tôi đã hoàn thành nhiệm vụ. Xin gửi tới anh em lời chào chiến thắng". Khi Lăng đã nhập được vào tốp anh em bơi trên biển và ở một khoảng cách đáng kể, Nguyễn Văn Hiệu mới bình tĩnh nổ tàu.

    Một ánh chớp lóe lên, kế đó là tiếng nổ cực mạnh, cột lửa đỏ bùng lên cùng với cột sóng cao hàng chục mét gầm lên giữa biển xanh. Tàu 645 chìm dần và Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu đã ra đi như thế.

    Lúc đó là trưa 24-4-1972. Thuyền trưởng Lê Hà cùng 15 thủy thủ còn lại của Tàu 645 sau đó đều bị địch dùng trực thăng và tàu quây bắt trên biển, rồi đưa vào giam ngay tại nhà tù Phú Quốc. Tháng 3-1973, sau Hiệp định Pa-ri, các anh được địch trao trả, trở về với đồng đội.

    Sự trở về kỳ diệu

    Sau ngày 30-4-1975, đất nước thống nhất, Thuyền trưởng Lê Hà trở về quê hương Bà Rịa-Vũng Tàu lập nghiệp. Thủy thủ Thẩm Hồng Lăng không về quê mà ở lại Hải Phòng xây dựng gia đình. Nhà anh ở khá gần với nhà Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu. Nơi anh có thể thi thoảng ghé sang kể cho 4 đứa con nhỏ của Chính trị viên về hành động anh hùng của người cha. Năm 1978, Nhà nước truy tặng liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân.

    [​IMG]
    Gia đình Anh hùng Nguyễn Văn Hiệu năm 1971. (Ảnh do gia đình cung cấp)

    Hằng năm đến ngày 24-4, ngày Tàu 645 chìm, cũng là ngày giỗ của ông, đông đảo đồng đội của Đoàn tàu không số đều hẹn đến nhà Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu để thắp nén hương tưởng nhớ ông. Một điều may mắn, hạnh phúc là cả 4 người con của người chính trị viên anh hùng ấy đều học hành tiến bộ, trưởng thành. Trong thâm tâm, mọi người đều nghĩ, cũng như 96 liệt sĩ khác của Đoàn tàu không số, thân thể liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu có lẽ đã hòa tan trong lòng đại dương mênh mông. Chỉ có con cháu ông, đặc biệt là người con trưởng Nguyễn Đình Phương mong mỏi vào điều kỳ diệu là biết đâu thân thể của cha mình dạt vào đâu đó trong mênh mông đất trời Tổ quốc và sẽ có ngày ông hiển linh báo cho con cháu biết đến tìm.

    Không ngờ, điều mong ước tưởng như viển vông đó của con cháu Anh hùng Nguyễn Văn Hiệu lại trở thành hiện thực. 37 năm sau ngày ông mất, một người cháu ngoại của ông đã nhờ các nhà ngoại cảm thuộc Liên hiệp Khoa học-Công nghệ tin học ứng dụng (UIA) giúp đỡ. Theo chỉ dẫn của các nhà ngoại cảm, con cháu ông và cán bộ, chiến sĩ Vùng 5 Hải quân đã tìm kiếm suốt một tuần trên bãi cát ven đảo Phú Quốc. Họ đã tìm thấy phần hài cốt còn lại của ông, theo gió mùa Tây Nam năm ấy trôi dạt vào bờ đảo Phú Quốc, tấp vào một gốc cây dương, vùi sâu trong lớp cát vàng gần 6m ven bờ biển. Dẫu không còn nguyên vẹn, nhưng một phần hài cốt sau đó được Viện Khoa học hình sự (Bộ Công an) giám định, khẳng định chính xác đó là hài cốt người Anh hùng Nguyễn Văn Hiệu đã làm con cháu ông và biết bao đồng đội được an ủi phần nào. Ông đã được con cháu và đơn vị "đưa về" thăm quê hương Thăng Bình (Quảng Nam); và cũng theo hành trình con đường tham gia hoạt động cách mạng, từ Thăng Bình trở ra yên nghỉ tại Nghĩa trang Liệt sĩ thành phố Hải Phòng. Ông đã sống và chiến đấu vì lý tưởng cao đẹp, hy sinh như một huyền thoại và “trở về” cũng như một huyền thoại.

Chia sẻ trang này