1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những con tàu huyền thọai trên biển Đông

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi vaputin, 12/01/2011.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. giacaymamtep

    giacaymamtep Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/10/2008
    Bài viết:
    1.390
    Đã được thích:
    5
    "Chiến mã" cuối cùng của loạt tàu trăm tấn
    QĐND - Thứ Tư, 12/10/2011, 14:29 (GMT+7)

    QĐND - Báo Quân đội nhân dân Cuối tuần số 821, ra ngày 25-9-2011 đăng bài “Tàu không số đang ở đâu?” với nỗi trăn trở của chúng tôi mong mỏi việc tìm kiếm được những con tàu không số “bằng xương bằng thịt”. Thật bất ngờ, báo vừa in, sáng ấy, tôi nhận ngay một cuộc điện thoại lạ: “Các anh ơi! Tôi là Hoán, Chính trị viên Hải đội 384, Cục Hậu cần Hải quân. Đơn vị tôi hiện vẫn quản lý tàu không số 41, nay mang số hiệu HQ671, nó vẫn...chạy tốt!”. Tôi lặng người, xúc động và ngạc nhiên...

    Tàu không số 49 tuổi

    Ngay ngày hôm sau, chúng tôi đã có mặt ở Hải Phòng để tìm lại tàu không số 41, con tàu rạng ngời chiến công mà nếu bạn vào google, gõ “Tàu 41”, sẽ có tới hàng trăm bài viết. Qua sự kết nối của Thiếu tá Nguyễn Như Thường, phóng viên của Trung tâm Phát thanh-Truyền hình Quân đội nhân dân, chuyến thăm lại Tàu 41 còn có thêm 3 cựu chiến binh từng một thời gắn bó với con “chiến mã” này gồm: Thượng úy Hoàng Gia Hiếu, nguyên máy trưởng, từng 5 lần đi trên Tàu 41; Đại tá Trần Văn Tú, nguyên thuyền trưởng và Trần Văn Lịch, nguyên thủy thủ.

    Trời Hải Phòng những ngày cuối tháng 9 bỗng đổ mưa dài ngày vì ảnh hưởng của đợt bão, nhưng các bác cựu chiến binh vẫn đội mưa đến Hải đội 384 từ sớm. Thấy con tàu đang thanh thản nằm đó, giọng bác Hiếu run run: “41, mày đấy ư? Tao đây, máy trưởng 5 lần đi biển cùng mày đây. Mày còn... ngon lành quá nhỉ, chẳng già nua, rệu rã như... bọn tao!”.
    [​IMG]
    Thuỷ thủ tàu 671 trước giờ chia tay con tàu Con tàu 100 tấn, sơn màu ghi vẫn vững chãi như một chiến mã. Buồng chỉ huy sơn màu trắng khá mới. Ngoài cột ăng-ten thông tin còn có cả dàn ăng-ten ti-vi của thủy thủ. Lá cờ đỏ sao vàng phần phật tung bay như cánh tay vẫy chào những “cố nhân” năm nào.

    Trong buồng chỉ huy, cuốn “Sổ truyền thống” bìa đã ngả màu, Đại tá Trần Văn Tú, nguyên thuyền trưởng Tàu 41 mở xem, xúc động: “Tàu 41 có ký ức dữ dội và oai hùng lắm. Từ năm 1963 đến năm 1970, tàu đã đi được 15 chuyến, chở 530 tấn vũ khí cho miền Nam”.

    Trong dòng ký ức đang ùa về ào ạt như sóng đại dương, các cựu chiến binh tâm sự, trong các đời thuyền trưởng của Tàu 41, ông Hồ Đắc Thạnh cũng là một thuyền trưởng nổi tiếng. Ông là một trong hai cựu chiến binh còn sống đã được đề nghị phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân trong năm nay.

    Tôi ra mạn tàu, gọi điện cho ông Hồ Đắc Thạnh. Tiếng ông sang sảng: “Ngày ấy, Tàu 41 có nhiều tên tuổi oai hùng lắm đó nghen. Anh hùng Đặng Văn Thanh cũng từng là chính trị viên tàu này. Chuyến đi đầu tiên Tàu 41 do tôi chỉ huy là vào Vàm Lũng, Cà Mau. Tàu 41 “hên lắm” nên được vào tốp có số vòng quay nhanh nhất của Đoàn 125”.

    Con tàu hai lần anh hùng


    Chuyến đi của Tàu 41 khi ông Đặng Văn Thanh làm chính trị viên, ông Lê Văn Một làm thuyền trưởng, máy trưởng Huỳnh Văn Sao, mở đường đưa vũ khí vào Bà Rịa, diễn ra vào tháng 9-1963, ly kỳ như phim. Tàu đi trong bão, sóng lớn, phải cho màn vào nồi nấu chung mới có cháo cho thủy thủ ăn. Vào tới Sông Ray, tàu mắc cạn ngay trước cửa đồn Phước Hải. Trời sáng, vũ khí bốc chưa hết. Thủy thủ đoàn lên bờ, chỉ còn ông Thanh và máy trưởng Sao ở lại. Mặc cho trên bờ 3 lần ra lệnh hủy tàu, mặc cho máy bay địch trinh sát, nhòm ngó, họ bình tĩnh giả uống rượu, vá lưới với can xăng và cái màn ở bên, bộc phá cài sẵn, sẵn sàng hy sinh... Cuối cùng, họ đã qua mặt kẻ thù. Ngày 20-9-2011 vừa qua, ************* đã ký quyết định truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân cho 3 cá nhân đi trên Tàu 41 gồm: Thuyền trưởng Lê Văn Một, Thuyền phó Dương Văn Lộc, nguyên máy trưởng Huỳnh Văn Sao. Như vậy, Tàu 41 đã có tới 5 Anh hùng LLVT nhân dân.
    [​IMG]
    Tàu HQ671 hiện nay. Ảnh: Trịnh Dũng Ông Hồ Đắc Thạnh nghẹn ngào kể về 3 lần đưa vũ khí vào Vũng Rô, quê hương ông. Chuyến đầu tiên vào tháng 11-1964, Tàu 41 mở đường đột phá vào Vũng Rô, một bến nước sâu, hiểm trở. Máy bay, tàu địch theo dõi, gió, bão, họ đều vượt qua. Thành công! Chưa đầy một tháng sau, ngày 20-12-1964, Tàu 41 lại lên đường vào Vũng Rô một lần nữa. Lần này, ngoài 80 tấn vũ khí, ông Thạnh còn mạnh dạn xin trên tặng đồng bào 3 tấn gạo. Phú Yên lúc này trong vòng kìm kẹp của kẻ thù, bộ đội, du kích, nhân dân rất đói. Lần thứ 3, Tàu 41, vẫn do Thuyền trưởng Thạnh chỉ huy lại cập bến thành công, đưa vũ khí và đón Giao thừa ngay tại Vũng Rô.

    Sau sự kiện Vũng Rô 1965, Tàu 143 bị địch phát hiện, Đường Hồ Chí Minh trên biển bước vào thời kỳ đầy cam go nhưng năm 1966, Tàu 41 do những thành công vang dội trước đó vẫn được chọn thí điểm chở vũ khí vào vùng biển bãi ngang miền Trung. Ngày đó, vào được bãi ngang chỉ những ngư dân lão luyện dùng bè mảng mới dám làm, dùng tàu sắt khó như đội đá vá trời. “Lúc giao nhiệm vụ, cấp trên hứa, nếu đưa tàu vào bến thành công thì sẽ được tuyên dương anh hùng ngay” - ông Thạnh nhớ lại. Thế mà, Tàu 41 đã vào tới nơi, thả được 2/3 vũ khí xuống biển để bờ ra vớt. Rồi tàu gặp nạn, sóng đánh cong chân vịt, phải dùng bộc phá nổ tàu khi trời sắp sáng. “Chúng tôi đã lên bờ, trở về an toàn nhưng cho đến giờ, tôi vẫn bị ám ảnh bởi cái quầng lửa đỏ rực khi con tàu tan vào biển khơi...” - ông Thạnh tâm sự.

    Con tàu được thay thế vẫn mang tên gọi 41. Tháng 4-1970, tàu do Trung úy Nguyễn Hồng Lỳ làm thuyền trưởng, Trung úy Trần Quốc Tuấn, Chính trị viên chỉ huy, chở 58 tấn vũ khí rời Vụng Ếch, Quảng Ninh vào Nam Bộ. Vòng qua đảo Hải Nam, tàu tới gần đảo La-tu-na Bắc thuộc In-đô-nê-xi-a. Đêm 7-5-1970, tàu đã vào được vùng Ghềnh Hào (Bạc Liêu), dù bị tàu địch theo dõi nhưng ta vẫn bình tĩnh vượt qua, vào bến Hang Hố an toàn. Nhờ có vũ khí, 9 ngày sau, Trung đoàn 962 đã dùng súng B40 của Tàu 41 mới đưa vào phục kích trên Vàm Đàm Rơi, bắn chìm 4 tàu cao tốc và 1 tàu kéo của địch.

    Hai chuyến đi thành công sau sự kiện Vũng Rô, tàu đã vượt 7.120 hải lý, với 48 ngày đêm chiến đấu kiên cường, mang lại số vũ khí quý hơn vàng cho miền Nam đang khát súng. Chính vì thế mà ngày 11-1-1973, Tàu 41 đã được tuyên dương Anh hùng LLVT nhân dân lần thứ nhất. Lời tuyên dương của Quốc hội có đoạn viết: “Tàu 41 là một tập thể trung kiên, nêu cao truyền thống anh hùng của quân đội nhân dân, bền bỉ chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, bình tĩnh dũng cảm vượt qua mọi nguy hiểm, mưu trí, táo bạo quyết giành thắng lợi, lập công xuất sắc, xây dựng đơn vị lớn mạnh về mọi mặt”.
    [​IMG]
    Trang lưu bút của nữ tướng Nguyễn Thị Định ghi tặng Tàu 41 và Lữ đoàn 125. Ảnh: Như Thường
    Bác Hoàng Gia Hiếu cho biết: “Còn nhiều chuyện cảm động xung quanh con tàu này lắm. Đây! Chính trong cuốn sổ truyền thống này, còn ghi lưu bút chị Ba Định viết tặng Tàu 41, tặng Đoàn 125”.

    Tôi lật giở cuốn sổ cũ đã sờn mép, bạc màu. Sau 37 năm, nét chữ của nữ tướng Nguyễn Thị Định vẫn rõ như màu vùng biển sâu, đen thẫm. Năm 1974, chị Ba Định đã đi trên con tàu không số 41 từ miền Nam vượt biển ra Hải Phòng nhanh chóng, an toàn. Ra tới Đồ Sơn, chị xúc động viết những dòng lưu bút thân thương, gần gũi: “Hải Phòng, ngày 14-3-1974... Các đồng chí Đoàn 125 thương mến! Hai mươi năm qua, kẻ địch tìm mọi cách để ngăn cách tình cảm thiêng liêng của dân tộc ta, ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc ruột thịt, để chúng tiêu diệt phong trào cách mạng miền Nam. Nhưng các đồng chí là những người con ưu tú của Tổ quốc đã vượt qua mọi khó khăn nguy hiểm một mình cưỡi sóng to gió lớn, chiến đấu âm thầm giữa biển khơi để truyền dòng máu nóng hổi của miền Bắc XHCN cho miền Nam ruột thịt của chúng ta...”. Cuối trang lưu bút, chị Ba Định tin tưởng tiên đoán: “Một ngày không xa nữa, miền Nam sẽ được vinh dự đón những người anh hùng trong Quân chủng Hải quân đến thăm miền Nam ruột thịt...”.

    Lời tiên đoán của chị đã trở thành hiện thực. Hòa bình, Tàu 41 được bổ sung cho Vùng 4 Hải quân với tên mới HQ671 thuộc Hải đội 413. Tàu đã nhiều lần vận tải xây dựng Trường Sa. Năm 1988, tàu lại nhiều lần lập công xuất sắc, như một chiến mã oai hùng giữa biển khơi, vượt bão tố, hiểm nguy, kiếm tìm đồng đội...Ngày 6-1-1989, tàu được tuyên dương danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân lần thứ hai.

    “Pho sử sống” sống mãi


    Thời gian vùn vụt trôi như làn sóng biển cuồn cuộn bạc đầu xóa nhòa bao ký ức. Trên boong tàu, thân tàu giờ ánh màu sơn mới kia, nơi nào từng thấm máu đồng đội, cha anh? Nơi nào các liệt sĩ đã nằm? Chúng tôi đứng trên boong, mưa thu lay phay mà lòng ngổn ngang suy nghĩ. Thuyền trưởng Tàu 671 bây giờ, một chàng trai trẻ có cái tên gợi nhiều ý nghĩa: Phạm Chinh Chiến. Chiến cho hay: “Tàu 671 được bàn giao từ Vùng 4 Hải quân về Hải đội 384 từ năm 2002, đã ngót 10 năm tàu gắn bó với chúng tôi. Quân chủng Hải quân hiện đang tiến lên chính quy, hiện đại, được trang bị nhiều tàu vận tải lớn nên nhiều năm qua, HQ671 chưa ra khơi, nhưng chúng tôi luôn hiểu đây không chỉ là con tàu mà còn là một pho sử sống. Tàu đóng năm 1962, về với Đoàn 125 năm 1964. Tuổi đời của nó còn cao hơn tuổi của tất cả cán bộ, chiến sĩ hải đội hôm nay. Vì vậy, chúng tôi luôn duy tu, bảo quản tàu thật tốt”.

    “Các con bảo quản tàu tốt lắm, chẳng thua kém thời bọn bố ngày xưa!”-các cựu chiến binh ngợi khen. Đây không phải là lần đầu tiên họ về thăm “chiến mã” cuối cùng trong loạt tàu loại 100 tấn. Cách đây ít lâu, đã có nhiều đề xuất về việc bảo tồn “pho sử sống” này. Theo ông Hồ Đắc Thạnh, các doanh nhân thành đạt như Đào Hồng Tuyển, Hoàng Văn Thiềng từng là cựu chiến binh Đoàn tàu không số, nay đều sở hữu các khu du lịch biển nổi tiếng đều đề xuất xin được đưa Tàu 41-671 về trưng bày tại khu du lịch Tuần Châu hoặc Hòn Dấu, vừa thu hút du khách và có thể mang về một nguồn kinh phí nào đó hỗ trợ các cựu chiến binh tàu không số.

    Nhân kỷ niệm 50 năm Đường Hồ Chí Minh trên biển, cũng từng có phương án kéo tàu ra Bến K15 Đồ Sơn trưng bày vĩnh viễn. Tuy nhiên, kinh phí khơi thông luồng lạch theo thành phố Hải Phòng, phải mất 8 tỷ đồng. Vì vậy, phương án được lựa chọn là con tàu sẽ được đưa về Bảo tàng Hải quân. Bộ Quốc phòng đã cho phép đầu tư xây dựng một cầu cảng, phục vụ neo tàu và phục vụ du khách tham quan.

    Chiều 4-10-2011, khi tôi đang viết những dòng kết thúc bài viết này thì Đại uý Phạm Chinh Chiến điện thoại cho hay, anh vừa nổ máy cho Tàu 41-671 thực hiện hải trình cuối cùng, cơ động từ Hải đội 384 ra sông Lạch Tray, về Bảo tàng Hải quân. Sau 20 giờ qua sông và chờ đợi thủy triều lên, tàu đã về bến lúc chiều muộn. Tiếng máy vẫn giòn, tàu vẫn lướt sóng êm ru dù gần 10 năm rồi nó chưa hề đi xa. Tàu 671 đã kết thúc sứ mệnh một con tàu vận tải để bàn giao cho Bảo tàng Hải quân. Tiếc, nhưng không thể níu giữ được vì con tàu giờ đây đã là một phần của lịch sử, là di sản chung, là niềm tự hào của cả dân tộc. Bên dòng Lạch Tray chiều lộng gió, cả hải đội đứng nghiêm giơ tay chào con tàu lần cuối và không ai bảo ai, nước mắt lại trào ra, lăn dài trên gương mặt những chiến sĩ hải quân trẻ trung, tươi sáng...

    Nguyên Minh

  2. Baogt2000

    Baogt2000 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/04/2006
    Bài viết:
    51
    Đã được thích:
    0
    Tặng các bác ảnh khu lưu niệm bến tàu không số ở Trà Vinh.

    [​IMG]

    [​IMG]
  3. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    NHỮNG CON TÀU CQ-88

    Pông-tông Đ02 bên cạnh đảo Đá Lớn B. Trước kia, quân ta đóng ngay trên pông-tông. Nay pông-tông đã hư hỏng, nhưng bên trong vẫn có khoang chứa được mấy chục mét khối nước ngọt, là nguồn dự trữ nước ngọt quan trọng của đảo Đá Lớn B.

    [​IMG]



    [​IMG] Pông tông đảo Đá Lớn bên cạnh nhà đá chẻ đang xây năm 1988
  4. P20

    P20 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    02/11/2006
    Bài viết:
    5.619
    Đã được thích:
    203
    Thấy ông già em bảo có lần bão đứt neo trôi tuốt sang Phi, và sau đó được tàu Mĩ kéo về:|
  5. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Cái bị trôi đó đã bị đánh chìm ngay sau khi máy bay Mỹ đến cứu hộ mà?
  6. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    NHỮNG CON TÀU CQ-88

    Ký ức pôngtông

    TT - “Hồi đó ra đảo chúng tôi thường ở một tăng (18 tháng), có người ở hai tăng mới được về phép. Còn tôi trải qua bốn cái tết liên tục ngoài đảo, từ lúc là trung úy (năm 1988) cho tới khi về bờ (năm 1991) thì sắp lên đại úy. Cả năm trời không có tàu ra thăm” - trung tá Phạm Hùng Vĩ, khi ấy là trưởng pôngtông (một loại sà lan được neo cạnh các bãi san hô) chốt giữ đảo Đá Đông từ tháng 8-1988, kể.


    [​IMG] Pôngtông (bìa phải) cạnh nhà lắp ghép tường xây đá chẻ và nhà mái vòm ở Trường Sa - Ảnh tư liệu
    Tết sớm

    Thứ kết nối duy nhất với đất liền là đài Vec 206 của Liên Xô buộc vào ăngten cột trên “sân thượng” pôngtông. Pin hết lại trút ra, đổ nước muối vào phơi nắng đến tối rồi nghe tiếp. Trước tết năm 1989 nửa tháng, pôngtông DL10 mới có tàu ra cấp một con heo và ít kẹo, mứt ăn tết sớm.
    Giao thừa, anh em quây quần bên chiếc đài Vec nghe Chủ tịch nước chúc tết. Nhưng sóng yếu quá, nghe tiếng được tiếng mất. Rồi mọi người thi nhau kể chuyện về quê hương mình, gia đình mình, cả những ước mơ và cùng nhau phá lên cười.
    Anh Vĩ nhớ lại những giây phút buồn nhất và cũng lãng mạn nhất: “Cứ trời quang là anh em lên nóc pôngtông ngó qua đảo Trường Sa Đông. Tôi ngồi nhìn về hướng bắc, cố hình dung xa xa tận đường chân trời đó là đất liền. Bao nhiêu nỗi nhớ dành hết cho nhà, cho lũy tre, cho làng xóm, cho hình ảnh những người nông dân trên bờ đê đường làng...”.
    Mỗi lần tàu ra chỉ cập đảo mấy tiếng, viết thư không kịp. Anh em buồn quá, nhớ nhà quá cứ viết sẵn thư nhưng không được đề ngày. Phần tái bút nhiều khi dài gấp mấy lần phần thư vì trong thời gian chờ tàu ra lâu quá. Có người gửi một lúc 12 lá thư.
    Hồi ấy không có phong bì. Tem thư thì hiếm lắm. Bộ đội tự làm phong bì. Tem thì dặn người nào thân thân: “Nhớ dán giúp cái tem, tôi cho ông ốc nón, cá khô”. “Có người anh em, bố mẹ mất nhưng phải gần năm sau mới nhận được thư người nhà báo” - anh Vĩ khẽ lắc đầu khi nhớ lại quãng thời gian quá nhiều gian khổ ấy. Người chỉ huy ngày ấy chùng giọng khi kể về cô em gái mất hồi tháng 1-1990 nhưng đến cuối năm 1991 anh mới biết tin...
    Giữa bốn bề là sóng nước, cách giải trí thông dụng nhất của anh em là đi bắt tôm bắt cá khi thủy triều xuống. “Ngày đó Trường Sa tôm cá nhiều vô kể - anh Vĩ nói - Cá bơi sát mép đảo. Tôm hùm một con 5-6kg, râu dài cả sải tay. Ăn nhiều quá cũng chán, anh em bỏ hết phần thịt, lấy phần vỏ tôm phơi khô làm quà cho tàu ra. Nước lên thì ngồi ngay trên pôngtông câu cá. Tha hồ băm làm chả, rán, luộc, nấu. Sau này anh em chế ra cối giã cá, xay gạo, làm bánh cuốn, chả cá, làm bún...”.
    Thương đồng đội ở các đảo khác ăn uống kham khổ quá, nhiều bữa 3g sáng trưởng pôngtông Vĩ đã dậy, khi thì làm bún, khi thì làm bánh cuốn, chả cá... rồi gọi điện thoại để anh em tới hoặc chèo xuồng bơi qua quãng đường dài 3-5 tiếng mang đến cho anh em ở các điểm đảo.
    Những người ở “nhà” giữ đảo

    Ở trên pôngtông một thời gian, anh Hoàng Văn Thạo lên nhà cao cẳng - cách anh em vẫn gọi vui về thế hệ nhà gỗ năm 1988 ở Trường Sa - của đảo Đá Lớn nhận nhiệm vụ làm đảo phó chính trị. Nhà rộng chừng 30m2, lợp mái tôn. Sàn ghép gỗ. Các phòng không có vách ngăn. Chỉ khi nhân viên cơ yếu làm việc, anh em dùng miếng vải lau súng làm vách ngăn.
    “Giường” là sàn gỗ. Tối, anh em trải chiếu nằm chung. Sóng và gió lay nhà rung từng phút. Quần áo anh em bị nước biển làm mục rất nhanh, dù mỗi người đã có thêm hai bộ “quần áo chống rách”. Rách chỗ nào cứ túm lại vá chằng vá đụp.
    “Hồi đó không có điện thoại, thư từ cũng khó khăn vì một năm may ra mới có tàu ra một lần. 15 người mà 14 người có thư là một người kia sẽ bỏ ăn, ngồi một góc, mặt buồn hiu. Ai hỏi tới là khóc ngay. Có người đọc thư nhiều tới mức nhàu cả lá thư, bợt nhòa cả chữ”, anh Thạo kể. Có những tờ báo chưa đọc đã bị cắt lủng những miếng vuông hay hình chữ nhật rất cẩn thận. Sau này mới biết đó là hình ảnh những cô gái xinh tươi bị một vài anh chàng láu cá cắt giấu mất trong balô.
    Năm 1989, anh em mới được cấp hai băng nhạc Bảo Yến và một máy cassette Philips. Mỗi lần máy hết điện, mọi người phải thay nhau quay gamônô mới có điện nghe tiếp. Cái thời còn đầy rẫy thiếu thốn, anh em chia sẻ cho nhau nghe từng băng nhạc. Một điểm đảo nghe 20-25 ngày rồi chuyển băng cho các điểm đảo khác nghe. Quanh đi quẩn lại chỉ có hai cái băng, anh em nghe cho đến lúc băng nhão nát mới thôi.
    Ngày đó đi từ điểm này qua điểm kia trên một đảo hoặc từ đảo này qua đảo khác chỉ có xuồng cao su. Nhưng rồi xuồng cao su cũng bị sụt hơi hoặc bị thủng do va vào đá san hô nhiều lần. Ngoài đảo không có bơm. Thế là người chuyển băng phải đi bộ. Chỉ cần lương khô, bình tông nước và một que sắt làm gậy chống.
    “Ớn nhất là đạp trúng san hô non. Nó giòn như bánh tráng, thụt xuống là chân tay bị cắt tơi tả. Đi từ đầu đến cuối đảo mất ba tiếng, còn từ điểm nọ qua điểm kia mất hai tiếng! Phải lựa lúc thủy triều cạn ban ngày mới được đi. Lúc đi nước rút xuống còn lấp xấp ngang đùi, đi một nửa đường thì nước cạn tới cổ chân. Tới nơi chuyển băng cho anh em thì nước đã lên tới đùi, phải ở lại”, anh Thạo kể.
    “Còn pôngtông là còn đảo!”
    Cũng trong năm 1989 ở đảo Đá Đông, anh Thạo và đồng đội đã chứng kiến cơn bão kinh hoàng nhất trong đời binh nghiệp. Bão và triều cường dồn dập ập đến. Mọi người khuân đá san hô vào các ngăn của pôngtông để đánh chìm nó xuống bãi san hô gần mép đảo.
    Nhưng giữa cơn cuồng phong của đại dương, pôngtông mỏng manh như một hạt nước mưa. Anh em đứng trên nhà lâu bền (thế hệ đầu) lo lắng nhìn pôngtông vật lộn giữa mù mịt sóng nước. Chỉ huy đảo gọi qua điện tín: Anh em cố gắng bảo nhau chống chọi đến cùng, đoàn kết giữ vững niềm tin.
    Đáp lại là giọng của trưởng pôngtông rất điềm tĩnh và dứt khoát: “Anh em trên đảo cứ yên tâm, còn pôngtông là còn đảo. Kể cả trôi ra biển chúng tôi cũng quyết giữ pôngtông!”.
    Khi pôngtông trôi cách đảo 50m thì anh em trên pôngtông không bắt được sóng nữa. Gió bão và sóng bão cắt đứt đường truyền tín hiệu. Một đợt sóng dữ cùng với gió đẩy pôngtông trôi ra tận mép xanh (cách đảo 150m). Pôngtông cứ mờ mờ ảo ảo trôi xa dần, xa dần, cho đến lúc anh em trong đảo không thể nhìn thấy cả cái hình ảnh mờ ảo ấy được nữa.
    Giữa những phút giây chết chóc, căng thẳng và ảm đạm đó, ngoài biển vang lên tiếng súng AK bắn chào vĩnh biệt! Trong đảo lặng đi...
    Gần ba tiếng sau bão tan. Cả đảo rưng rưng nhìn ra phía biển xa rồi ánh mắt rực lên niềm sung sướng ngỡ ngàng... Pôngtông vẫn bập bềnh giữa nền trời và biển. Gần 180 phút căng thẳng tột độ và vật lộn với sóng, gió, bão, khoảnh khắc mà mọi người cứ ngỡ hãy sống những giây phút cuối vì Tổ quốc thì đột ngột triều cường rút. Gió nhẹ. Sóng dịu. Bão tan! Trên nhà lâu bền, anh em chạy túa ra reo hò, ôm nhau bật khóc. ​
  7. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    NHỮNG CON TÀU CQ-88


    [FONT=&quot]PÔNG TÔNG ĐẢO ĐÁ ĐÔNG[/FONT]


    [​IMG]

    Trong ảnh trên bên cạnh nhà cao cẳng là một pông tông, Có thể đó là chiếc pôngtông DL10

    Cũng trong năm 1989 ở đảo Đá Đông, các chiến sĩ HQ ND VN đã chứng kiến cơn bão kinh hoàng nhất trong đời binh nghiệp. Bão và triều cường dồn dập ập đến. Mọi người khuân đá san hô vào các ngăn của pôngtông để đánh chìm nó xuống bãi san hô gần mép đảo.

    Nhưng giữa cơn cuồng phong của đại dương, pôngtông mỏng manh như một hạt nước mưa. Anh em đứng trên nhà lâu bền (thế hệ đầu) lo lắng nhìn pôngtông vật lộn giữa mù mịt sóng nước. Chỉ huy đảo gọi qua điện tín: Anh em cố gắng bảo nhau chống chọi đến cùng, đoàn kết giữ vững niềm tin.

    Đáp lại là giọng của trưởng pôngtông rất điềm tĩnh và dứt khoát: “Anh em trên đảo cứ yên tâm, còn pôngtông là còn đảo. Kể cả trôi ra biển chúng tôi cũng quyết giữ pôngtông!”.

    Khi pôngtông trôi cách đảo 50m thì anh em trên pôngtông không bắt được sóng nữa. Gió bão và sóng bão cắt đứt đường truyền tín hiệu. Một đợt sóng dữ cùng với gió đẩy pôngtông trôi ra tận mép xanh (cách đảo 150m). Pôngtông cứ mờ mờ ảo ảo trôi xa dần, xa dần, cho đến lúc anh em trong đảo không thể nhìn thấy cả cái hình ảnh mờ ảo ấy được nữa.

    Giữa những phút giây chết chóc, căng thẳng và ảm đạm đó, ngoài biển vang lên tiếng súng AK bắn chào vĩnh biệt! Trong đảo lặng đi...
    Gần ba tiếng sau bão tan. Cả đảo rưng rưng nhìn ra phía biển xa rồi ánh mắt rực lên niềm sung sướng ngỡ ngàng... Pôngtông vẫn bập bềnh giữa nền trời và biển. Gần 180 phút căng thẳng tột độ và vật lộn với sóng, gió, bão, khoảnh khắc mà mọi người cứ ngỡ hãy sống những giây phút cuối vì Tổ quốc thì đột ngột triều cường rút. Gió nhẹ. Sóng dịu. Bão tan! Trên nhà lâu bền, anh em chạy túa ra reo hò, ôm nhau bật khóc.
  8. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    NHỮNG CON TÀU CQ-88


    HQ-501 có mặt ở Đảo Trường Sa vào tháng 5/1988. Có khả năng tàu mang thêm vũ khí hạng nặng và đạn dược cho các đảo lớn



    [​IMG]

    Giếng nước gần cổng chính Trường sa lớn, HQ-501 đang cập cạnh cầu cảng


    [​IMG]

    Giây phút thư giãn vẫn sẵn sàng, cảnh giác.(NVT)

    Ảnh này chắc ở TSL phía sau các chiến sĩ là một chiếc LST, HQ-501 hay HQ-503?

  9. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    NHỮNG CON TÀU CQ-88

    Tàu HQ-614

    Normal 0 false false false EN-US X-NONE X-NONE /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-priority:99; mso-style-qformat:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin-top:0in; mso-para-margin-right:0in; mso-para-margin-bottom:10.0pt; mso-para-margin-left:0in; line-height:115%; mso-pagination:widow-orphan; font-size:11.0pt; font-family:"Calibri","sans-serif"; mso-ascii-font-family:Calibri; mso-ascii-theme-font:minor-latin; mso-fareast-font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-theme-font:minor-fareast; mso-hansi-font-family:Calibri; mso-hansi-theme-font:minor-latin; mso-bidi-font-family:"Times New Roman"; mso-bidi-theme-font:minor-bidi;} [FONT=&quot]
    [/FONT][​IMG]
    [FONT=&quot]Đại tá Nguyễn Văn Dân, nguyên Phó Tham mưu trưởng Vùng 4 Hải quân[/FONT]
    [FONT=&quot]
    Đầu năm 1988, Trung Quốc đưa nhiều tàu hộ vệ tên lửa, tuần dương, tàu dầu, tàu đổ bộ đến khu vực quần đảo Trường Sa.Lãnh đạo Quân chủng Hải quân xác định, Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền vùng biển và quần đảo Trường Sa là nhiệm vụ quan trọng nhất, khẩn trương nhất và vinh quang nhất của Quân chủng. Toàn quân chủng bước vào chiến dịch CQ88 (Chủ quyền 88). Tháng 2-1988, Đại tá Nguyễn Văn Dân, nguyên Phó Tham mưu trưởng Vùng 4 Hải quân được giao làm Phó trưởng đoàn, phụ trách chỉ huy đi biển của Đoàn công tác ra tiếp tục đóng giữ các đảo, bãi ngầm. Hướng chính là Đá Đông, Châu Viên, Đá Lát…

    Tàu HQ-614 là loại tàu Nhật Lệ do Trung Quốc đóng, trọng tải chỉ 200 tấn.
    Sáng 18-2 là mùng 2 Tết, tàu 614 của chúng tôi đưa 9 anh em lên cắm cờ ở Châu Viên. Mang theo 1 lá cờ, 2 khẩu AK, dụng cụ xà beng để thăm dò độ sâu, chuẩn bị làm nhà. Khi lên cắm được cờ rồi thì gió mùa đông bắc về rất mạnh, nước lớn, tàu bị đánh ra khỏi đảo, trôi neo. Lúc đó trời tối, tàu phải nổ máy chạy cạnh đảo, tìm cách kéo 9 anh em trên đảo ra tàu. 7 người ra được trước, còn 2 người ở lại đứng giữ cờ. Nhưng nước triều cứ lên, ngập đến cổ, phải đưa nốt hai anh em ra. Lúc đó một tàu của Trung Quốc, có hai số sau là 31 chạy tới uy hiếp. Đến nửa đêm, lệnh của Tư lệnh Hải quân, sáng mai bằng mọi giá phải lên Châu Viên. Nhưng Trung Quốc kéo đến 4 tàu chiến: 208, 209, 164…, quay pháo về phía mình đe dọa nổ súng. Ta không lên được Châu Viên nữa.

    Không phải mình không quyết tâm. Nhưng thực ra, cũng có mất cảnh giác, nghĩ là bãi ngầm nhỏ. Trung Quốc đã thả một bia làm dấu của họ lên đó, khi mình đến đã thấy. Mình nghĩ Châu Viên là đảo nhỏ, không chú ý giữ bằng giữ Đá Đông, Đá Tây, Đá Lớn, Tốc Tan, những đảo lớn trên ba chục cây số, hai mấy cây số. Lực lượng mình còn mỏng, phải tập trung vào các đảo lớn, không thể triển khai đến tất cả các đảo, bãi ngầm nhỏ.
    [/FONT]

    [FONT=&quot] Tối 18 có dông lớn, tàu của cả nó cả mình đều bị trôi neo. Tàu chúng tôi cấp tốc về Đá Đông, làm căn nhà cao chân đầu tiên ở mỏm Đông của Đá Đông, kéo cờ lên khẳng định chủ quyền. Nhưng Trung Quốc cũng định đổ bộ lên phía bên kia, mỏm Tây của Đá Đông. Tàu HQ 614 của mình lao lên đó, nên bên kia thôi. HQ 614 lao lên đó, nhưng chỉ kẹt, không hỏng tàu, sau cứu ra được. Tàu chiến của nó cứ quần liên tục ở bên ngoài. [/FONT]

    [FONT=&quot]Khi làm xong nhà cao chân ở Đá Đông, không có gì ăn, tôi phải đưa người ra tàu. Chuyến đầu ra được trót lọt, nhưng chuyến sau không được, sóng to. Đành lội bộ về lại cái chòi cao chân đó, không có gì ăn, không có gì mặc. Ngày đó là 20-2. Đó là mùng 4 tết, cứ nghĩ có khi mình chết ở đây. Tôi ở lại củng cố cùng hai anh công binh, không có chăn đắp, không có lửa trên cái nhà cao chân chưa vững chãi lắm, nhà tạm để mai làm nhà to. Mãi đến 11-12 giờ trưa hôm sau, thủy triều lên, 614 chạy đến phía Nam này đón bọn tôi. Cái nhà đó có 8m2 thôi, 6 cọc. Cọc do công binh Vùng 4 đúc hết. Lúc đó, sợ đêm nó đổ, nghĩ đêm đó là đêm cuối cùng. Cũng có cái gì phù hộ mình trong lúc gian nan. Lúc đó mình không bình tĩnh, mắc mưu của nó, cứ chần chừ dập dình với hai cái tàu của Trung Quốc thì không lên Đá Đông được, mất Đá Đông.[/FONT]

    [FONT=&quot]Sau ngày 19-2, chúng tôi tiếp tục xây dựng 3 nhà trên đảo Đá Đông, lực lượng trú đóng hơn 80 người.[/FONT]

    [FONT=&quot]Nhưng phía bãi Châu Viên, mình không lên được nữa rồi. Trung Quốc đã đổ quân chiếm đóng, nó sẵn sàng nổ súng nếu mình lên…[/FONT]

    [FONT=&quot]"Đêm 13/3/1988, tôi được lệnh lên HQ-614, chỉ huy lực lượng hành quân lên phía Sinh Tồn!" - Đại tá Nguyễn Văn Dân tiếp tục dòng ký ức về Chiến dịch CQ-88.[/FONT]

    [FONT=&quot]Chúng tôi hành quân ngay trong đêm 13/3, đi ở khoảng giữa Châu Viên và Phan Vinh. Có 2 tàu Trung Quốc đến kèm, theo tôi nhớ là tàu 203 và tàu 205. Tàu chúng tôi bắt đầu bị mất liên lạc với đất liền.

    Do bị nó chặn đường, nên đến chiều tối ngày 14/3/1988, chúng tôi mới đến được đảo Sinh Tồn. Lúc đó, HQ-604, HQ-605 đã bị bắn chìm, còn HQ-505 đã lao lên Cô Lin.
    [/FONT]
    [FONT=&quot] [/FONT]​
    [FONT=&quot]
    Đêm 14/3/1988, chúng tôi đưa anh em thương binh lên đảo Sinh Tồn để cứu chữa, và báo cáo tình hình về nhà. Anh Doan, Chính trị viên tàu HQ-605 hy sinh trên tàu, anh em chèo xuồng đưa được về Sinh Tồn và an táng ở đó.

    Sáng 15/3, chúng tôi ra chỗ tàu HQ-605, HQ-604. Theo vết dầu nổi lên, chúng tôi xác định được vị trí HQ-605 chìm, thả neo đánh dấu.

    Rồi chạy qua chỗ Gạc Ma. Trung Quốc mới dựng cái chòi nhỏ ở đó. Lúc đó HQ-604 không còn dấu vết gì cả...

    Hồi đó nêu tên 74 người mất tích, nhưng sau kiểm lại, thực tế có 71 người hy sinh, mất tích và bị bắt. Anh em còn lại đã về Sinh Tồn, về HQ-505.

    Chúng tôi tiếp tục tìm, đến gần 12 giờ trưa, 2 tàu khu trục Trung Quốc đến ngăn chúng tôi vào khu vực Gạc Ma. Chúng tôi không thể vào được, không xác định được vị trí tàu HQ-604 chìm...

    Hẻm giữa Cô Lin và Gạc Ma rất sâu, nhưng HQ-505 đã lao lên được Cô Lin.

    Còn HQ-604, chúng tôi đoán HQ-604 thả neo ở Tây Nam Gạc Ma, khi bị bắn thì chìm rất sâu nên không thấy vết dầu nổi lên…

    Chúng tôi cho tàu HQ-614 cập vào chỗ tàu HQ-505 ở Cô Lin, lập Sở Chỉ huy trực tiếp tại đó. Tôi ở cụm Sinh Tồn, Cô Lin, Len Đao cho đến tận tháng 8/1988.

    Tôi còn nhớ ngày 12/5/1988, tàu pháo Trung Quốc áp sát tàu HQ-614 đang ở cạnh đảo Len Đao, chỉ cách 30 m. Nhưng chúng tôi vẫn bình tĩnh xử lý, không để xảy ra cái gì cho nó gây sự.
    [/FONT]

  10. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    NHỮNG CON TÀU CQ-88

    Tàu HQ-614

    Normal 0 false false false EN-US X-NONE X-NONE /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-priority:99; mso-style-qformat:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin-top:0in; mso-para-margin-right:0in; mso-para-margin-bottom:10.0pt; mso-para-margin-left:0in; line-height:115%; mso-pagination:widow-orphan; font-size:11.0pt; font-family:"Calibri","sans-serif"; mso-ascii-font-family:Calibri; mso-ascii-theme-font:minor-latin; mso-fareast-font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-theme-font:minor-fareast; mso-hansi-font-family:Calibri; mso-hansi-theme-font:minor-latin; mso-bidi-font-family:"Times New Roman"; mso-bidi-theme-font:minor-bidi;} [FONT=&quot]
    [/FONT][​IMG]
    [FONT=&quot]Đại tá Nguyễn Văn Dân, nguyên Phó Tham mưu trưởng Vùng 4 Hải quân[/FONT]
    [FONT=&quot]
    Đầu năm 1988, Trung Quốc đưa nhiều tàu hộ vệ tên lửa, tuần dương, tàu dầu, tàu đổ bộ đến khu vực quần đảo Trường Sa.Lãnh đạo Quân chủng Hải quân xác định, Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền vùng biển và quần đảo Trường Sa là nhiệm vụ quan trọng nhất, khẩn trương nhất và vinh quang nhất của Quân chủng. Toàn quân chủng bước vào chiến dịch CQ88 (Chủ quyền 88). Tháng 2-1988, Đại tá Nguyễn Văn Dân, nguyên Phó Tham mưu trưởng Vùng 4 Hải quân được giao làm Phó trưởng đoàn, phụ trách chỉ huy đi biển của Đoàn công tác ra tiếp tục đóng giữ các đảo, bãi ngầm. Hướng chính là Đá Đông, Châu Viên, Đá Lát…

    “Tàu HQ-614 là loại tàu Nhật Lệ do Trung Quốc đóng, trọng tải chỉ 200 tấn.
    Sáng 18-2 là mùng 2 Tết, tàu 614 của chúng tôi đưa 9 anh em lên cắm cờ ở Châu Viên. Mang theo 1 lá cờ, 2 khẩu AK, dụng cụ xà beng để thăm dò độ sâu, chuẩn bị làm nhà. Khi lên cắm được cờ rồi thì gió mùa đông bắc về rất mạnh, nước lớn, tàu bị đánh ra khỏi đảo, trôi neo. Lúc đó trời tối, tàu phải nổ máy chạy cạnh đảo, tìm cách kéo 9 anh em trên đảo ra tàu. 7 người ra được trước, còn 2 người ở lại đứng giữ cờ. Nhưng nước triều cứ lên, ngập đến cổ, phải đưa nốt hai anh em ra. Lúc đó một tàu của Trung Quốc, có hai số sau là 31 chạy tới uy hiếp. Đến nửa đêm, lệnh của Tư lệnh Hải quân, sáng mai bằng mọi giá phải lên Châu Viên. Nhưng Trung Quốc kéo đến 4 tàu chiến: 208, 209, 164…, quay pháo về phía mình đe dọa nổ súng. Ta không lên được Châu Viên nữa.

    Không phải mình không quyết tâm. Nhưng thực ra, cũng có mất cảnh giác, nghĩ là bãi ngầm nhỏ. Trung Quốc đã thả một bia làm dấu của họ lên đó, khi mình đến đã thấy. Mình nghĩ Châu Viên là đảo nhỏ, không chú ý giữ bằng giữ Đá Đông, Đá Tây, Đá Lớn, Tốc Tan, những đảo lớn trên ba chục cây số, hai mấy cây số. Lực lượng mình còn mỏng, phải tập trung vào các đảo lớn, không thể triển khai đến tất cả các đảo, bãi ngầm nhỏ.
    [/FONT]

    [FONT=&quot] Tối 18 có dông lớn, tàu của cả nó cả mình đều bị trôi neo. Tàu chúng tôi cấp tốc về Đá Đông, làm căn nhà cao chân đầu tiên ở mỏm Đông của Đá Đông, kéo cờ lên khẳng định chủ quyền. Nhưng Trung Quốc cũng định đổ bộ lên phía bên kia, mỏm Tây của Đá Đông. Tàu HQ 614 của mình lao lên đó, nên bên kia thôi. HQ 614 lao lên đó, nhưng chỉ kẹt, không hỏng tàu, sau cứu ra được. Tàu chiến của nó cứ quần liên tục ở bên ngoài. [/FONT]

    [FONT=&quot]Khi làm xong nhà cao chân ở Đá Đông, không có gì ăn, tôi phải đưa người ra tàu. Chuyến đầu ra được trót lọt, nhưng chuyến sau không được, sóng to. Đành lội bộ về lại cái chòi cao chân đó, không có gì ăn, không có gì mặc. Ngày đó là 20-2. Đó là mùng 4 tết, cứ nghĩ có khi mình chết ở đây. Tôi ở lại củng cố cùng hai anh công binh, không có chăn đắp, không có lửa trên cái nhà cao chân chưa vững chãi lắm, nhà tạm để mai làm nhà to. Mãi đến 11-12 giờ trưa hôm sau, thủy triều lên, 614 chạy đến phía Nam này đón bọn tôi. Cái nhà đó có 8m2 thôi, 6 cọc. Cọc do công binh Vùng 4 đúc hết. Lúc đó, sợ đêm nó đổ, nghĩ đêm đó là đêm cuối cùng. Cũng có cái gì phù hộ mình trong lúc gian nan. Lúc đó mình không bình tĩnh, mắc mưu của nó, cứ chần chừ dập dình với hai cái tàu của Trung Quốc thì không lên Đá Đông được, mất Đá Đông.[/FONT]

    [FONT=&quot]Sau ngày 19-2, chúng tôi tiếp tục xây dựng 3 nhà trên đảo Đá Đông, lực lượng trú đóng hơn 80 người.[/FONT]

    [FONT=&quot]Nhưng phía bãi Châu Viên, mình không lên được nữa rồi. Trung Quốc đã đổ quân chiếm đóng, nó sẵn sàng nổ súng nếu mình lên…[/FONT]

    [FONT=&quot]"Đêm 13/3/1988, tôi được lệnh lên HQ-614, chỉ huy lực lượng hành quân lên phía Sinh Tồn!" - Đại tá Nguyễn Văn Dân tiếp tục dòng ký ức về Chiến dịch CQ-88.[/FONT]

    [FONT=&quot]Chúng tôi hành quân ngay trong đêm 13/3, đi ở khoảng giữa Châu Viên và Phan Vinh. Có 2 tàu Trung Quốc đến kèm, theo tôi nhớ là tàu 203 và tàu 205. Tàu chúng tôi bắt đầu bị mất liên lạc với đất liền.

    Do bị nó chặn đường, nên đến chiều tối ngày 14/3/1988, chúng tôi mới đến được đảo Sinh Tồn. Lúc đó, HQ-604, HQ-605 đã bị bắn chìm, còn HQ-505 đã lao lên Cô Lin.
    [/FONT]
    [FONT=&quot] [/FONT]​
    [FONT=&quot]
    Đêm 14/3/1988, chúng tôi đưa anh em thương binh lên đảo Sinh Tồn để cứu chữa, và báo cáo tình hình về nhà. Anh Doan, Chính trị viên tàu HQ-605 hy sinh trên tàu, anh em chèo xuồng đưa được về Sinh Tồn và an táng ở đó.

    Sáng 15/3, chúng tôi ra chỗ tàu HQ-605, HQ-604. Theo vết dầu nổi lên, chúng tôi xác định được vị trí HQ-605 chìm, thả neo đánh dấu.

    Rồi chạy qua chỗ Gạc Ma. Trung Quốc mới dựng cái chòi nhỏ ở đó. Lúc đó HQ-604 không còn dấu vết gì cả...

    Hồi đó nêu tên 74 người mất tích, nhưng sau kiểm lại, thực tế có 71 người hy sinh, mất tích và bị bắt. Anh em còn lại đã về Sinh Tồn, về HQ-505.

    Chúng tôi tiếp tục tìm, đến gần 12 giờ trưa, 2 tàu khu trục Trung Quốc đến ngăn chúng tôi vào khu vực Gạc Ma. Chúng tôi không thể vào được, không xác định được vị trí tàu HQ-604 chìm...

    Hẻm giữa Cô Lin và Gạc Ma rất sâu, nhưng HQ-505 đã lao lên được Cô Lin.

    Còn HQ-604, chúng tôi đoán HQ-604 thả neo ở Tây Nam Gạc Ma, khi bị bắn thì chìm rất sâu nên không thấy vết dầu nổi lên…

    Chúng tôi cho tàu HQ-614 cập vào chỗ tàu HQ-505 ở Cô Lin, lập Sở Chỉ huy trực tiếp tại đó. Tôi ở cụm Sinh Tồn, Cô Lin, Len Đao cho đến tận tháng 8/1988.

    Tôi còn nhớ ngày 12/5/1988, tàu pháo Trung Quốc áp sát tàu HQ-614 đang ở cạnh đảo Len Đao, chỉ cách 30 m. Nhưng chúng tôi vẫn bình tĩnh xử lý, không để xảy ra cái gì cho nó gây sự.


    [/FONT]

Chia sẻ trang này