1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những con tàu huyền thọai trên biển Đông

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi vaputin, 12/01/2011.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. longtt88

    longtt88 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/11/2004
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    5
    Những trang đời huyền thoại (Kỳ 2)

    Kỳ hai: Hai nửa cuộc đời của máy trưởng Phan Nhạn

    Mỗi lần vượt biển chở vũ khí vào miền Nam, những thủy thủ tàu không số đều xác định ra đi không hẹn ngày trở lại. Họ được tổ chức truy điệu sống trước lúc xuất bến. Vậy mà nhờ vào sự mưu trí, kiên cường và lòng quả cảm, một máy trưởng đã cùng đồng đội thực hiện 15 chuyến vượt biển, băng qua mưa bom, bão đạn của kẻ thù, vận chuyển hàng ngàn tấn vũ khí, đạn dược vào tiền tuyến lớn miền Nam. Bây giờ ở tuổi 80 con người huyền thoại ấy vẫn đang khó nhọc bươn chải giữa đời thường…Ông là Phan Nhạn – máy trưởng các tàu 41, 43. 56 (Đoàn tàu không số) năm xưa...

    Vinh quang thời hoa lửa

    Chìm khuất trong con hẻm mịt mù bụi than, ngôi nhà cấp 4 của ông Phan Nhạn thấp lè tè. Tiết trời cuối thu vậy mà không khí ngột ngạt đến khó thở. Đang tắm cho đứa cháu ngoại, thấy chúng tôi đến, ông dừng tay: “Bố mẹ bọn trẻ chia tay, tôi đành vừa làm ông vừa làm cha của chúng!”.

    Tuy bận rộn nhưng ông cũng “ưu ái” dành thời gian để kể cho chúng nghe về hai nửa cuộc đời của ông...

    “Tháng 3-1962, tôi được cấp trên điều về Đoàn 759 (Đoàn tàu không số). Sau đó biên chế về tàu 02 do đồng chí Nguyễn Dạt làm thuyền trưởng. Vốn quen nghề sông nước lại có tay nghề cơ khí, cấp trên tin tưởng giao cho tôi giữ chức máy trưởng, kiêm tổ trưởng tổ bộc phá. Được giao nhiệm vụ như vậy là tự hào lắm, bởi tàu 02 đi tiên phong mở màn cho chiến dịch “đường Hồ Chí Minh trên biển”. Không ai bảo ai nhưng chúng tôi đều mong chờ ngày vượt biển.

    [​IMG]
    Ông Nhạn (áo sẫm) cùng đồng đội về thăm lại chiến trường xưa.

    Và ước mơ cháy bỏng đã thành hiện thực, ngày 16-10-1962, tàu 02 nhận lệnh chở 20 tấn vũ khí vào vùng biển Cà Mau. Dẫu biết rằng chuyến đi vô cùng nguy hiểm nhưng ai nấy đều háo hức, bởi chúng tôi biết mỗi khẩu súng, viên đạn chi viện cho chiến trường miền Nam là rất quý. Đúng 23 giờ 45 phút, tàu 02 lặng lẽ rời Cảng Đồ Sơn - Hải Phòng ra khơi. Theo hải trình, tàu 02 sẽ đi qua đảo Hải Nam, rồi vòng ra phía ngoài quần đảo Hoàng Sa ở vùng hải phận quốc tế để tránh sự kiểm soát gắt gao của máy bay và tàu chiến Mỹ nhằm đảm bảo tuyệt đối bí mật cho cuộc hành trình. Thế nhưng, tàu 02 ra khơi chừng gần chục hải lý thì gặp gió mùa Đông Bắc giật cấp 5, cấp 6. Những đợt sóng hung hãn chồm lên, chiếc tàu gỗ tròng trành, chao đảo. Tất cả thủy thủ áo quần sũng nước, tơi tả. Máy chính, máy phụ hoạt động hết công suất nhưng con tàu vẫn ỳ ra, khó có thể tiếp tục vượt biển theo lý trình như dự kiến ban đầu. Trước tình hình đó, thuyền trưởng Nguyễn Dạt điện về đất liền xin cho tàu chuyển hướng đi gần quần đảo Hoàng Sa. Đây là một quyết định mạo hiểm vì đi vào vùng này gần đất liền, dễ bị tàu địch phát hiện, nhưng cũng chẳng còn phương án nào tốt hơn. Được sự nhất trí của trên, chúng tôi cho tàu chuyển hướng. Gần 2 giờ đồng hồ vật lộn với sóng gió, tàu gặp sự cố mất liên lạc với sở chỉ huy. Trong lúc nguy nan, anh em vẫn bình tĩnh, mưu trí điều khiển tàu vượt qua vĩ tuyến 17 ngay trước mũi tàu chiến Hạm đội 7 của Mỹ thường xuyên sục sạo, theo dõi.

    Trên chuyến vượt biển gian nan ấy, ban ngày chúng tôi giả làm ngư dân thả lưới đánh cá, ngụy trang lừa địch. Tối đến cho tàu tăng tốc nhằm thoát khỏi sự đeo bám của chúng. Hành quân đến ngày thứ 6 thì đồng chí nhân viên hải đồ thông báo, tàu ta chỉ còn cách vùng biển Cà Mau khoảng gần 200 hải lý, như vậy là chậm hai ngày so với dự kiến. Theo kế hoạch, để giữ bí mật cho bến, tàu chỉ vào thả hàng trong thời gian ngắn rồi ra ngay trước khi trời sáng. Thế nhưng, sau gần 3 giờ đồng hồ, chúng tôi vẫn không bắt liên lạc và nhận được tín hiệu gì từ bến. Lúc này, các thủy thủ hết sức lo lắng. Nếu không vào bến ngay trong đêm, thì bắt buộc tàu phải chạy ngược ra vùng biển quốc tế, đợi đến đêm hôm sau mới vào lại. Nếu như vậy thì rất nguy hiểm vì tàu địch sẽ phát hiện tàu ta. Kim đồng hồ nhích dần tới 4 giờ 20, chúng tôi đang chuẩn bị cho tàu quay ra vùng biển quốc tế thì phát hiện bên mạn trái có một chiếc ghe. Thuyền trưởng Dạt ra lệnh dừng máy. Biết chắc đấy là ghe đánh cá của ngư dân vùng giải phóng nên chúng tôi nhờ họ dẫn đường vào bến an toàn. Gặp nhau, thủy thủ tàu không số và những người ở bến cảm động, ôm nhau khóc ròng. Hôm đó, anh Tư Đức, bến trưởng đã thốt lên: “Tàu của các anh đúng là con tàu huyền thoại”.

    Sau này nghe các anh ở bến kể lại, chúng tôi mới biết, do sự cố tàu 02 mất liên lạc, nên sở chỉ huy đã điện thông báo tình hình cho bến và hẹn thời gian đón tàu. Nhận điện, các đồng chí ở bến bố trí người túc trực suốt ngày đêm từ Gành Hào đến mũi Cà Mau để đón tàu nhưng chờ hơn một ngày đêm mà vẫn không thấy tăm hơi. Vì thế anh em tại bến tưởng tàu chúng tôi gặp nạn, tất cả thủy thủ đã hi sinh, nên công tác đón tàu được hủy bỏ…”.

    Từ chuyến vượt biển đầu tiên thắng lợi, Phan Nhạn tiếp tục được điều về giữ chức máy trưởng các tàu 41, 43, 56…Thời gian từ năm 1962 - 1968, ông đã 15 lần vượt biển trên các con tàu không số chở vũ khí vào chiến trường miền Nam. Tàu 41 được tuyên dương danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân... Trong số những con tàu ông tham gia, có nhiều người trên tàu 41 được Đảng và Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân...

    Nhọc nhằn kế mưu sinh

    Ông Nhạn nhìn về bức chân dung người phụ nữ phúc hậu trên bàn thờ, giọng nghèn nghẹn: “Vợ chồng sống với nhau chẳng được là bao! Từ ngày bà ấy đi xa, nhiều lúc tôi tưởng mình không thể nào qua khỏi!”.

    Tôi hiểu nỗi buồn trong mắt người cựu binh tàu không số, bởi chuyện tình của ông rất đẹp nhưng cũng đầy vất vả, truân chuyên... Năm 1969, sau lần vượt biển trở về, ông nghỉ ngơi, học tập tại Đồ Sơn (Hải Phòng). Trai xứ Quảng chưa vợ lại to cao, đẹp trai, vậy mà ông vẫn “lính phòng không” vì mỗi lần tiếp xúc với con gái là lúng ta, lúng túng như “gà mắc tóc”. Mãi cho tới khi bạn bè giới thiệu, ông mới chịu làm quen người con gái xứ Huế có mái tóc dài óng ả, giọng nói dễ thương. Hồi ấy bà Hoàng Thị Khâm là công nhân Xí nghiệp dày da Hải Phòng. Yêu nhau chưa đầy một năm thì họ nên duyên chồng vợ. Đám cưới giản dị, ấm nồng trong vòng tay bạn bè của cô dâu và đồng đội của chú rể.

    [​IMG]
    Tuổi 80, ông Nhạn vẫn cùng chiếc xe đạp bươn chải giữa cuộc đời.

    Đất nước thống nhất, ông chuyển gia đình vào Nha Trang. Thành phố sau ngày giải phóng với bao nỗi bộn bề, người dân gồng mình khắc phục, hàn gắn vết thương chiến tranh. Vợ chồng ông cùng ba đứa con tá túc trong căn phòng tập thể chật chội. Tiền lương hai người gộp lại chưa đủ mua chiếc lốp xe đạp. Bà lại bị bệnh tim bẩm sinh nên đau ốm liên miên. Ông xoay trở đủ nghề kiếm tiền chữa bệnh cho bà. Dẫu cuộc sống còn vất vả, nhưng gia đình ông đầy ắp tiếng cười. Niềm vui ấy cũng chỉ được một thời gian, bởi năm 1991, bà Khâm qua đời để lại 3 đứa con thơ dại. Thời điểm này ông Nhạn xin về hưu sớm để lo lắng nuôi con ăn học. Phần đau buồn vì người vợ thân yêu về cõi vĩnh hằng, phần vì vết thương cũ tái phát, ông Nhạn tưởng chừng không qua khỏi, nhưng nhớ lời trăng trối của vợ trước lúc đi xa, ông gắng gượng sống để nuôi con.

    Điều làm ông day dứt nhất là vì điều kiện kinh tế quá eo hẹp nên không thể lo cho con vào làm việc ở những nơi có mức lương khá giả. Bây giờ ba người con của ông vẫn chưa có nghề nghiệp ổn định, thu nhập bấp bênh. Vợ chồng cô con gái lớn chia tay, hai đứa cháu ngoại về ở hẳn với ông. Nhẽ ra ở tuổi “xưa nay hiếm” được hưởng cuộc sống an nhàn, đằng này ông vẫn lọ mọ lo lắng cơm nước, tắm giặt cho mình và hai cháu ngoại. Có thể nói, ông Phan Nhạn là thủy thủ tàu không số có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn nhất hiện nay. Ở tuổi gần 80, ông vẫn tá túc trong căn nhà cấp 4 xập xệ chừng 40 mét vuông. Tài sản quý giá nhất của ông là bức chân dung người vợ và tấm Huân chương chiến sỹ Giải phóng hạng Nhất trang trọng ***g trong khung kính...

    Tuy sóng gió cuộc đời là vậy, nhưng ông vẫn phát huy phẩm chất của người thủy thủ tàu không số. Hiện ông vẫn là tổ trưởng dân phố. Hằng ngày ông túc tắc trên chiếc xe đạp cà tàng đến vận động bà con chấp hành các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước. Thỉnh thoảng ông đến phường Phước Long, trường tiểu học Võ Thị Sáu nói chuyện truyền thống cho thế hệ trẻ. Bằng tấm gương mẫu mực của mình, ông đã cảm hóa được nhiều thanh niên hư hỏng tiến bộ. Ông cười vui: “Làm cái chức tổ trưởng dân phố là “quyền rơm, vạ đá” nhưng mình là cán bộ, đảng viên phải gương mẫu thì bà con mới tin tưởng!”.

    Đang nắng chói chang, bỗng dưng trời tối sầm lại. Phố biển Nha Trang sắp nổi cơn giông. Chúng tôi chào ông Nhạn để về cho kịp tránh cơn mưa. Nhìn dáng người thủy thủ tàu không số năm xưa tất tưởi lo chuẩn bị xô, chậu để hứng nước, tôi thấy thương ông vô cùng. Biết đến bao giờ ông mới có điều kiện xây một ngôi nhà tử tế để thoát cảnh “mưa dột, nắng xiên” trong phần đời còn lại?.

    http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/307/309/309/159691/Default.aspx
  2. longtt88

    longtt88 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/11/2004
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    5
    Chân dung các thuyền trưởng tàu không số

    Đường ************** trên biển đã trở thành con đường huyền thoại, duy nhất có trong lịch sử chiến tranh nhân loại. Nhân kỷ niệm 50 năm truyền thống của tuyến đường đặc biệt này, chúng tôi xin gửi đến bạn đọc những hồ sơ, tư liệu, ghi chép về chân dung những “thuyền trưởng huyền thoại" của "con đường huyền thoại” này.

    Kỳ 1: Thuyền trưởng tàu không số đầu tiên

    Cho đến nay, đã có nhiều bài báo, phóng sự tài liệu về đồng chí Lê Văn Một, người thuyền trưởng của chiếc “tàu không số” đầu tiên mang tên Phương Đông 1. Nhưng cuộc đời cách mạng của ông còn có nhiều bí mật, bất ngờ khiến chúng ta đi từ ngạc nhiên đến khâm phục.

    Bắt đầu từ “con đường xuyên Tây”

    Lê Văn Một sinh năm 1921, thuộc dòng dõi gia tộc thủ khoa yêu nước Nguyễn Hữu Huân đất Tiền Giang. Từ lúc lọt lòng, ông có tên Pháp là Abel René. Abel René là con thứ 11 trong một gia đình giáo học quốc tịch Pháp có 13 anh em. Cha là Đốc học Lê Văn Giỏi nổi tiếng đất Mỹ Tho (Tiền Giang). Cậu bé Abel René từ nhỏ đã tỏ ra thông minh, sáng dạ, chăm chỉ học tập, được bố mẹ cho học ở nhiều trường như Trường Tiểu học Mỹ Tho, Trường Lê Bá Cang - Sài Gòn... rồi ra Hà Nội học ở Trường Thăng Long.

    Đến tuổi trưởng thành, Abel René vào lính thủy, làm “nghĩa vụ” với mẫu quốc Pháp, là hoa tiêu trên tàu Lamotte Picquet - tuần dương hạm lớn nhất Đông Dương.

    Cách mạng Tháng Tám 1945 là một bước ngoặt mới đến với Abel René. Luồng gió mới thổi vào đời ông. Abel René bừng tỉnh: La france ce n’est pas ma Ptrie! (Nước Pháp không phải là quốc mẫu của tôi!). Ông cùng bạn bè tìm đường theo cách mạng kháng chiến. Abel René đổi tên thành Lê Văn Một.

    [​IMG]
    Thuyền trưởng Lê Văn Một. (Ảnh do gia đình cung cấp)

    Tháng 12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Lực lượng vũ trang Nam Bộ “thuốc súng kém, chân đi không” đành phải lùi dần về Đồng Tháp Mười và rừng U Minh. Ban sưu tầm vũ khí ở nước ngoài được thành lập. Lê Văn Một và 12 người nữa được đồng chí Năm Phúc (tức nhà lão thành cách mạng Dương Quang Đông) chọn vào lực lượng vận tải vũ khí, lên đường sang Băng Cốc (Thái Lan) bằng ghe buồm để tìm mua vũ khí và tổ chức con đường xuyên Tây, vận chuyển vũ khí từ Thái Lan về Nam Bộ.

    Lê Văn Một được giao trọng trách mang theo 25kg vàng, bỏ trong ruột tượng, ngày đêm cột chặt quanh mình. Số vàng này là kỳ tích của “Tuần lễ vàng” vì lòng yêu nước của nhân dân quyên góp để mua vũ khí.

    Chuyến đầu tiên, Lê Văn Một tổ chức 10 xe bò, 10 voi và lực lượng 70 người, vận chuyển bằng đường bộ qua Cam-pu-chia về nước. Súng theo voi, đạn đeo lưng người. Trải qua 16 ngày vượt núi, qua sông, địch luôn luôn ngăn đường, chặn lối, đơn vị vừa hành quân vừa tác chiến 11 trận trên đất Cam-pu-chia. Đầu tháng 1-1948, đoàn về đến Nam Bộ với 11 người hy sinh và mất tích. Thấy vận chuyển đường bộ gian khổ, hiệu quả thấp, Lê Văn Một tính cách chuyển sang vận chuyển bằng đường biển. Tuy nhiên, gian khổ, hy sinh vẫn không hề nhỏ. Có lần đoàn vận tải do “cặp đôi” Lê Văn Một - Bông Văn Dĩa chỉ huy gặp gió bão, phải ghé vào đảo Phú Quốc để tránh. Gần một tháng nằm tại đây, cả đoàn phải đào củ chuối rừng ăn cầm hơi... Cứ như vậy, suốt mấy năm liền, đi đi, về về trên Vịnh Thái Lan, đơn vị đã vận chuyển được hàng trăm tấn vũ khí, hàng hóa về Nam Bộ. Những chiến công thầm lặng đó đã tạo tiền đề cho ý tưởng vĩ đại mở con đường ************** trên Biển Đông.

    ... Đến mở đường huyền thoại ************** trên biển

    Năm 1960, phong trào cách mạng ở miền Nam phát triển mạnh mẽ, mở đầu là phong trào Đồng Khởi ở Bến Tre rồi lan rộng khắp các tỉnh Nam Bộ. Nhu cầu vũ khí cho chiến trường miền Nam rất lớn. Con đường Trường Sơn đang hình thành. Trước tình hình đó, Trung ương ******* đã chỉ thị cho các tỉnh ven biển Nam Bộ chuẩn bị bến bãi và đưa thuyền ra Bắc để nhận vũ khí, đồng thời nghiên cứu con đường vận chuyển chiến lược trên biển để sử dụng lâu dài. Từ cuối năm 1961, đầu năm 1962, lần lượt 6 thuyền gỗ của các tỉnh Bến Tre, Cà Mau, Bà Rịa, Trà Vinh (trong đó thuyền gỗ Cà Mau do Bông Văn Dĩa phụ trách) đã ra đến miền Bắc an toàn. Con đường vận chuyển trên biển Đông khẳng định là “có thể đưa vũ khí vào được”.

    Lê Văn Một lúc đó đang tập kết ngoài Bắc, làm Cảng trưởng cảng Cẩm Phả, được điều chuyển ngay về Đoàn 759 - Bộ Quốc phòng (tiền thân của Lữ đoàn 125 Hải quân) chuẩn bị làm nhiệm vụ đặc biệt này, nhiệm vụ mở đường đưa vũ khí từ Bắc vào Nam trên những “con tàu không số”. Phải nói rằng cấp trên đã khéo chọn, khéo sắp xếp một “cặp bài trùng”, Lê Văn Một - Thuyền trưởng, Bông Văn Dĩa - Chính trị viên, cùng chung chuyến mở đường, cũng như họ đã từng kề vai sát cánh trên Vịnh Thái Lan thời chống Pháp đưa vũ khí về Nam Bộ. Họ đã biết tính nết nhau, tôn trọng nhau, đoàn kết yêu thương nhau, chèo lái “con tàu không số” đầu tiên vượt biển Đông mở đường tiếp viện quan trọng đưa vũ khí vào miền Nam đánh Mỹ.

    Ngày 11-10-1961, tại Bến K15, Đồ Sơn, Hải Phòng (Bến K15 vừa được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích cấp quốc gia), con tàu gỗ Phương Đông 1 lặng lẽ nhổ neo ra khơi, hướng về phía Nam, chở 30 tấn vũ khí, mang theo cả niềm tin, tình thương của *******, của *********, của nhân dân miền Bắc tới đồng bào miền Nam. Chuyến đi mở đường đã thành công. Một lần nữa hai người chỉ huy Lê Văn Một - Bông Văn Dĩa lại ghi tên mình vào trang sử vẻ vang của dân tộc.

    “Người đi lo một, người chờ tin lo mười”

    Phó ************** Phạm Hùng ngày đó đã căn dặn 12 thành viên con tàu gỗ Phương Đông 1 trước giờ xuất phát: “Đây là chuyến đi đầu tiên, nên cực kỳ quan trọng, một việc hệ trọng và lâu dài, do vậy nếu gặp địch phải khôn khéo, mưu trí, trường hợp xấu phải hủy hàng, hủy tàu để giữ bí mật con đường, các đồng chí nên nhớ, người đi lo một, người ở lại chờ tin, lo mười...”.

    Ông Sáu Lai, một trong hai người còn lại của tàu Phương Đông 1, hiện sống tại Cần Thơ, kể lại: “Có lần gặp tàu địch bám theo hướng chạy của ta, chúng nã pháo dữ dội. Anh em nhanh trí xổ cả buồm lái và mũi cho thuyền căng gió lướt trên ngọn sóng. Chỉ huy tàu phát lệnh chiến đấu. Toàn tàu xác định, khi cần dùng tốc độ vượt lên, để tàu địch phía sau, rồi cho nổ bom phá áp tàu giặc, dùng tiểu liên, lựu đạn đánh địch, người lái thì cứ cho tàu chạy thoát. Nếu không thoát thì cho nổ 3 trái bom còn lại, quyết không để tàu và vũ khí rơi vào tay giặc. Một và Dĩa dự kiến, nếu địch bắt cả tàu thì lợi dụng trời tối cắt dây cho anh em bơi vào bờ, còn Một và Dĩa ở lại dùng bom thủ tiêu tàu. Một nói với Dĩa: Nếu phải thủ tiêu để một mình tôi thôi! Anh cùng anh em may ra còn sống sót về Trung ương báo cáo...”.

    Có lúc, gặp giông bão, tàu nhỏ, chở đầy hàng rất nguy hiểm, không vào bờ, dễ “chết ở ngoài khơi”, vào bờ dễ “làm mồi cho giặc”, Thuyền trưởng Một và Chính trị viên Dĩa phải tính toán cân nhắc đến mức căng thẳng.

    Người đi trên biển thì như vậy, người ở nhà chờ tin thì sao? Trung tướng Đồng Văn Cống, nguyên Cục phó Cục Tác chiến, người trực tiếp theo dõi diễn biến của “con tàu không số” đầu tiên, kể lại: “Theo kế hoạch dự kiến đi 5 ngày thì đến. Sáng nào đến giờ giao ban Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng hỏi: “Thế nào rồi? Có tin tức gì không?”... Tôi sốt ruột lắc đầu, rồi ngày thứ sáu, thứ bảy, thứ tám cũng không tin tức gì! Sáng ngày 19-10-1962, tức ngày thứ chín, Quân ủy Trung ương đang giao ban. Tôi bước vào. Đại tướng ngẩng đầu nhìn tôi đăm đăm. Lần này tôi gật đầu, mặt tươi sáng. Đại tướng đứng dậy ôm chầm lấy tôi, Đại tướng khóc. Mừng quá, không sao kể xiết...”.

    Chuyến đi thắng lợi, tàu Phương Đông 1 đã cập bến Vàm Lũng - Cà Mau an toàn sau 9 ngày lênh đênh trên Biển Đông.

    Một năm sau, Lê Văn Một lại được cử làm thuyền trưởng tàu gỗ 41, đưa vũ khí vào miền Đông Nam Bộ, mở bến Lộc An (Bà Rịa - Vũng Tàu) ngay trước đồn Phước Hải, đêm 3-10-1963. Đây là một chuyến đi gian khổ bởi tàu bị mắc cạn ngay trước đồn địch. Lê Văn Một đã ứng xử rất linh hoạt, thông minh, bảo đảm đưa hàng tới bến an toàn. Hai chuyến đi này đều ghi những dấu ấn đặc biệt trong hành trình vận chuyển vũ khí bằng đường biển của những “con tàu không số”. Đây là những chuyến mở đường, vào bến mới, đầy khó khăn và thử thách. Bằng kinh nghiệm đi biển, bản lĩnh dày dạn, đặc biệt là tinh thần quả cảm “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, Thuyền trưởng Lê Văn Một đã xử trí rất thông minh nhiều tình huống phức tạp trong hiểm nguy và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

    Lê Văn Một mất năm 1982. Chiến công của ông đã được ghi trong Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam, được đánh giá cao trong tập chuyên khảo mang tên “Đường ************** trên biển Bà Rịa - Vũng Tàu” do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội xuất bản năm 1993. Ba năm sau ngày ông mất, Bảo tàng ************** phối hợp với gia đình tổ chức cuộc họp mặt, đánh giá công lao đóng góp của ông trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, đặc biệt là thành tích đóng góp cho việc mở đường, vào những bến mới trên con đường ************** trên biển. Ông được Nhà nước công nhận liệt sĩ và truy tặng Huân chương Độc lập hạng ba vì những đóng góp của ông vào sự nghiệp cách mạng của ******* và của dân tộc.

    Năm tháng sẽ qua đi, nhưng chiến công anh hùng của tập thể tàu Phương Đông 1 mà người chèo lái con tàu đó là Thuyền trưởng Lê Văn Một và Chính trị viên Bông Văn Dĩa, những con người đã dũng cảm đi tiên phong, “khai sơn phá thạch” một con đường, sẵn sàng hy sinh vì nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, mở đường vận tải chiến lược mang tên ********* kính yêu sẽ mãi đi vào lịch sử đấu tranh anh dũng kiên cường của dân tộc ta, trở thành huyền thoại mãi mãi không bao giờ nhạt phai trong tâm trí chúng ta, làm rạng rỡ thêm truyền thống anh hùng của Hải quân nhân dân Việt Nam.

    http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/307/309/309/159792/Default.aspx
  3. dongthap10

    dongthap10 Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    20/07/2006
    Bài viết:
    155
    Đã được thích:
    22
    Cuộc chiến đấu đưa họ lại gần nhau

    [​IMG] Chiến sĩ tàu không số vừa hoàn thành nhiệm vụ trở về - Ảnh tư liệu của Lữ đoàn 125TT - Vẫn ở cái hiên ấy của nhà anh Tư Thắng. Vẫn giọng nói hiền lành, đều đều của anh:
    - ... Đúng là sau tám năm dài chúng tôi mới tìm được nhau. Nói là “chúng tôi tìm lại nhau” thì cũng được. Nhưng có lẽ đúng hơn phải nói: chính sự diễn biến kỳ lạ trên con đường biển Đông đã đưa chúng tôi lại đến với nhau. Số là thế này... Sau chuyến đi bãi ngang Đức Phổ, Quảng Ngãi thả hàng đánh nhau phá tàu, lội ngược Trường Sơn trở ra Bắc, tôi còn tiếp tục đi một số chuyến nữa, về Khu 5 và Nam bộ. Nhưng các anh biết đấy, ngày càng khó khăn.
    Cho đến nỗi chúng tôi thường lựa chính những lúc có sóng to bão lớn trên biển Đông mà đi, những lúc đó địch mới sơ hở. Tàu ta do xưởng 3 Hải Phòng đóng là tàu cỡ chịu sóng cấp 5, vậy mà có lần chúng tôi đi cấp 12. Tàu vượt sóng, khắp thân tàu kêu răng rắc, có lần sập cả hầm hàng xuống... Quyết tâm đến vậy đó, nhưng thực tế vẫn ngày càng bế tắc...
    Tôi nhớ đâu đến khoảng đầu năm 1970 thì một số anh em chúng tôi nghe phong thanh trong Nam, phía cuối Cà Mau, ngoài đơn vị 962 tức là hệ thống bến do anh Bông Văn Dĩa phụ trách, đã có bộ phận tách ra thành lập một đơn vị khác, lấy tên là 371 do anh Tư Mau phụ trách...
    Tàu không số “ra công khai”
    Đầu năm 1972, tôi bỗng bất ngờ nhận được lệnh điều về chỗ anh Tư Mau. Bấy giờ là ở Đá Bạc, Quảng Ninh. Anh Tư Mau phổ biến nhiệm vụ: đoàn 371 tiếp tục công cuộc vận chuyển vũ khí trên biển Đông nhưng bằng một phương thức hoàn toàn khác, trước nay chưa bao giờ dùng: phương thức hoạt động hợp pháp.
    Tức là tất cả chúng tôi sẽ “ra công khai”, sống công khai giữa xã hội miền Nam, trong vùng địch, với giấy tờ giả, tất nhiên, và sẽ chở vũ khí từ Bắc vào Nam trên những chiếc tàu cũng chạy công khai, với sổ sách, hồ sơ giả!
    Những anh em chúng tôi được chọn về đây đều quê Nam bộ, phần lớn rút từ miền Nam ra Bắc để tham gia công tác ở lữ 125 từ đầu những năm 1960, cũng có đôi người như tôi là dân tập kết. Nhưng dẫu là tập kết hay rút ra hồi 60 thì chúng tôi đều đã có một thời gian khá dài sống ở miền Bắc, lại ở bộ đội, quen một lối sống hoàn toàn xa và khác với lối sống trong vùng địch chiếm, trong xã hội miền Nam.
    Không ai trong chúng tôi từng có kinh nghiệm hoạt động hợp pháp bí mật trong lòng địch. Từ tác phong, cách đi đứng, cư xử, xưng hô, ăn nói, chào hỏi, cả đến chơi bời nữa..., tất cả đều sẽ phải thay đổi, phải học lại hết.
    Chúng tôi sẽ dùng những tàu đánh cá hoàn toàn giống như tàu đánh cá của đồng bào miền Nam lúc bấy giờ, loại nhỏ, tối đa là 50 tấn, trang bị hoàn toàn như tàu đánh cá thật, chỉ có một chỗ khác: đáy tàu có hai lớp, giữa hai lớp ấy chèn đầy súng đạn của hậu phương lớn miền Bắc gửi cho chiến trường miền Nam.
    Tháng 7-1972 anh Bảy Cứng đi thử chuyến đầu tiên. Trên hải phận miền Bắc, đi ban đêm để tránh máy bay địch phát hiện nghi ngờ. Vào hải phận miền Nam thì phải ra vẻ thật thong dong đúng y như tàu đánh cá bình thường của dân. Đợi đến đêm, bất ngờ đâm vào bến Đầm Cùng. Thành công!
    Tôi đi tiếp chuyến thứ hai, có Tư Kỷ làm máy trưởng, Hai Hoàng, Tám Ca và sáu anh em nữa. Chúng tôi xuất phát từ Đá Bạc, vòng qua cảng Dinh Cơ thuộc đảo Hải Nam, Trung Quốc. Lúc này B52 đang đánh Hải Phòng ráo riết nên ta phải xuống hàng ở Hải Nam. 1 giờ sáng thì gặp anh Tư Mau. Chiếc anh Tư Mau đi trước, tôi theo sau, cách chỉ năm ba trăm mét.
    Gần tới Vũng Tàu thì gặp một tàu lớn của địch bám theo. Anh Tư Mau chủ động vòng tàu lại, gặp nó, trình giấy tờ đầy đủ. Nó không bắt, nhưng cũng không cho đi, bảo cứ chờ đấy đã. Anh Tư bảo chúng tôi: phải rất bình tĩnh. Nó chưa cho đi, ta cứ dừng lại thả lưới, coi như không có chuyện gì. Đêm, chúng tôi cho tàu ngủ lại.
    Sáng, thấy tàu địch đã hơi lảng ra xa, chúng tôi làm ra vẻ thả một mẻ lưới. Tàu địch vẫn bám theo, mãi đến ngang Sài Gòn, nó mới chịu bỏ. Chúng tôi tiếp tục chạy đến ngang Trà Vinh, lại gặp một chiếc FCM của địch chặn lại xét hỏi. Anh Tư kẹp một xấp tiền vào cuốn sổ tàu đưa cho nó. Nó gật gù, trả lại cuốn sổ tàu và cho đi. Chúng tôi về tới sông Ông Đốc. Đây là một bến cá lớn, tàu thuyền của đồng bào và cả tàu địch rất nhiều. Chúng tôi cứ tự nhiên vào thả neo.
    6 giờ tối chúng tôi nhổ neo, chạy về Đầm Cùng (căn cứ của 371). Chúng tôi cùng anh em bến bốc hàng, từ 8 giờ tối đến 3 giờ sáng, tất cả được 30 tấn. Cũng chính tại đây, Đầm Cùng, tôi đã gặp lại nhà tôi, Sáu Thùy. Cũng là nhờ anh Tư Mau cả đấy. Con người ấy tình nghĩa vô cùng...
    Hạnh phúc ở Đầm Cùng
    ...Phương thức hoạt động của đoàn 371 như vậy là một phương thức rất đặc biệt, cho nên tổ chức phải rất chặt chẽ. Nguyên tắc là giữa 125, 962 và 371 phải cách biệt, không được biết đến nhau. Các bến cũng phải chia ra, bến của 962 riêng, bến của 371 riêng, tuyệt đối không dính dáng đến nhau về tổ chức, không được dùng chung bến.
    Tôi về 371, mọi liên quan đến 962 cũng đều phải cắt hết. Còn Sáu Thùy thì éo le vậy, lại ở 962.
    Khi tôi về Đầm Cùng, tức là miệt rừng U Minh Thượng phía tây mũi Cà Mau thì cô ấy lại đang ở bến Rạch Gốc chỗ anh Hai Dĩa, tức miệt rừng U Minh Hạ bên phía đông mũi Cà Mau. Mà không hề biết tin nhau...
    Nhưng có một người biết: đó là anh Tư Mau. Chỉ có anh Tư Mau mới được quyền đôi khi qua lại quan hệ công tác với chỗ anh Hai Dĩa. Anh Tư đã gặp Sáu Thùy ở đấy.
    Một hôm, tôi vừa đi một chuyến chở hàng về thì anh Tư gọi lên. Anh hỏi:
    - Tao hỏi thật chuyện này nhé, mày với Sáu Thùy bây giờ thế nào? Còn gắn bó với nó không? Hay mất liên lạc từ đó đến giờ, tám năm rồi, đã gặp cô nào khác ngoài Hà Nội hay Hải Phòng?...
    Tôi nói thật với anh Tư rằng quả thật tôi chẳng còn mấy hi vọng gặp lại Sáu Thùy nữa. Thời gian xa cách, quả có lúc gặp người này người khác ở ngoài Bắc, cũng toàn là những người tốt cả, có lúc tôi đã có ý định hay là gửi gắm cuộc đời mình ở đâu đó... Nhưng rồi không được, không sao được. Biết chuyện gặp lại Sáu Thùy gần như vô vọng, bây giờ làm nhiệm vụ đặc biệt kiểu này càng vô vọng hơn, nhưng quên thì dẫu cố lắm vẫn không quên nổi...
    Anh Tư cười:
    - Hay là tao điều nó về đây, muốn không?
    - Nhưng cô ấy bây giờ ở đâu?
    - Bên chỗ anh Hai Dĩa...
    Anh Tư Mau đích thân sang bàn với anh Hai Dĩa. Sáu Thùy được lệnh rời 962 đi nhận công tác khác. Lúc đầu Sáu Thùy không chịu đi. Vì cô nghĩ chỉ có ở chỗ 962 may ra mới còn có ngày gặp lại tôi. Anh Hai Dĩa phải làm dữ lắm, cuối cùng cô ấy mới chịu. Chịu mà buồn lắm.
    Anh Tư Mau về báo lại với tôi. Tôi mừng quá. Và ngóng chờ.
    Cho đến một bữa, tháng 9-1972, khoảng 4 giờ chiều, tôi đang ở trong đồng thì có liên lạc chạy vô báo có cô Sáu Thùy đến tìm. Tôi vội chèo xuồng ra. Thì thấy cô ấy đang đứng trong lùm chuối chỗ anh Tư Mau nhìn ra. Anh Tư Mau không hề nói trước với cô ấy tôi ở đây, đến đây sẽ gặp tôi. Tôi vứt mái chèo, nhảy phóc lên bờ, chạy lên. Nhưng tôi chợt dừng lại. Tám năm. Tôi đã già đi nhiều. Đen cháy. Râu ria xồm xoàm. Liệu cô ấy có còn nhận ra?
    ... Nhưng mà cô ấy nhận ra ngay.
    Con gái miền Tây ghê gớm lắm nghe các anh, dám ôm hôn bừa vậy giữa đồng trống, người ta đầy bốn chung quanh...
    Đêm đó chúng tôi ở với nhau. Hai ngày sau anh Tư Mau và anh Năm Rẫy bấy giờ là chỉ huy phó tổ chức đám cưới cho chúng tôi. Đoàn 962 gửi cho 1.000 đồng tiền ****. Bên này các anh cho 1.500 đồng.
    Các anh bố trí cho vợ chồng chúng tôi một căn nhà hạnh phúc. Đó là căn lều của bộ phận cơ yếu, trong một lùm chuối. Chúng tôi sống với nhau được 15 ngày. Rồi tôi đưa Thùy về cơ quan của cô ấy tức bộ phận y tế ở hố Rạch Già. Còn tôi thì trở về bến của tôi ở hố ***g Đèn.
    Thỉnh thoảng một, hai tuần Thùy lại xin phép sang thăm tôi, một mình chèo xuồng, gặp nước xuôi phải chèo từ sáng sớm, chiều mới đến nơi. Gặp nước ngược thì nửa đêm mới đến. Mà có ở với nhau được nhiều đâu, một đêm, nửa đêm. Rồi cô ấy lại một mình chèo về. Mà biệt kích lội rừng thì nhan nhản. Mỗi lần tiễn cô ấy ra về, tôi lại thấp thỏm suốt ngày, chỉ sợ bất thần nghe một loạt súng nổ ở đâu đó, trên các kênh rạch chằng chịt trong rừng...
    Ít lâu sau cô ấy có thai. Và chúng tôi có đứa con trai đầu lòng, đặt tên là Nam. Hôm cô ấy sinh, tôi băng rừng đi thăm, rồi lại lội bộ băng rừng suốt ba tiếng đồng hồ trở về để kịp đi một chuyến công tác khẩn.
    Trong câu chuyện của mình, anh Tư Thắng nhắc đến nhiều người, nhiều hi sinh thầm lặng mà không kể ra thì anh không thể yên lòng. Như câu chuyện về cô bác sĩ trẻ ấy. Anh Thắng chỉ biết chị tên là Thùy Trâm người Hà Nội, chị chỉ huy bệnh xá huyện Đức Phổ, Quảng Ngãi, chị giấu đi một nỗi đau riêng và trụ bám “gan lì đến kỳ lạ, kỳ quặc suốt chục năm trời trên vùng đất hẹp bị đánh nát như băm ấy”, cho đến ngày chị hi sinh...
    Có cố gắng đến mấy thì mãi mãi vẫn còn những người anh hùng vô danh thôi! Người trong cuộc chiến đấu ngày ấy còn nói vậy thì người hôm nay biết tìm họ ở đâu?
    Cuộc sống đã quên và đang tiếp tục lãng quên... Bởi thế câu chuyện về một hòn đảo mang tên một người anh hùng là một câu chuyện hiếm hoi lạ lùng... Anh Tư Thắng bảo, bây giờ may ra chỉ còn một người sống sót để kể lại.
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------

    Hiện đang có cuộc Mời tham dự cuộc thi tìm hiểu “Huyền thoại đường HCM trên biển” kỷ niệm Nhân dịp kỷ niệm 50 năm Ngày mở đường HCM trên biển (23/10/1961 – 23/10/2011), Trung ương Đoàn TNCS HCM phối hợp với Bộ Tư lệnh Hải quân tổ chức cuộc thi tìm hiểu “Huyền thoại đường HCM trên biển”, nhằm tuyên truyền, giới thiệu sâu rộng trong đoàn viên thanh niên và nhân dân cả nước về lịch sử, truyền thống anh hùng và những chiến công đặc biệt xuất sắc của Lữ đoàn 125 hải quân và tuyến đường HCM trên biển Đông.

    Hình như mọi người tham gia cuộc tìm hiểu đều tìm từ khóa 125, đoàn tàu không số nhưng thật ra “Huyền thoại đường HCM trên biển” có rất nhiều đơn vị khác như đoàn 559 ( Binh đoàn Trường Sơn), đoàn 126, 962, 371 đã tham gia và đóng góp rất nhiều cho “Huyền thoại đường HCM trên biển” , cho cuộc kháng chiến của dân tộc đi đến ngày thắng lợi, thống nhất đất nước.
  4. longtt88

    longtt88 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/11/2004
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    5
    Những trang đời huyền thoại (Kỳ 3)

    Kỳ ba: Vũng Rô - đêm Giao thừa năm ấy

    Trung tá Hồ Đắc Thạnh – Thuyền trưởng tàu không số năm xưa đã trở về cuộc sống bình dị giữa đời thường, nhưng trong ông vẫn tươi nguyên những ký ức của một thời vượt biển trên con đường huyền thoại. Và câu chuyện về “nắm đất thiêng” của cô giao liên trao cho ông trong chuyến vào bến Vũng Rô năm ấy mãi mãi là một kỷ niệm đẹp, ông luôn trân trọng, nâng niu...


    Tuổi 75, ông vẫn khoẻ mạnh, giọng nói trầm và ấm; gương mặt phúc hậu, dễ gần; tác phong giản dị, cởi mở. Đó là những cảm nhận của tôi khi tiếp xúc với cựu binh Hồ Đắc Thạnh – nguyên thuyền trưởng tàu không số – người có 12 chuyến vượt biển, vận chuyển vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam...

    Ông say sưa kể về ngày xưa với niềm tự hào... “Cuối năm 1964, sau khi thực hiện hai chuyến tàu chở vũ khí vào bến Vũng Rô thắng lợi, tôi được Tư lệnh Hải quân giao nhiệm vụ tiếp tục chỉ huy tàu vượt biển, đúng đêm Giao thừa có mặt tại Vũng Rô. Nhận mệnh lệnh, lòng tôi trào dâng niềm vui khó nói nên lời vì sắp trở về quê hương, được gặp lại đồng chí, đồng bào yêu dấu...

    Chuyến đi đúng vào dịp Tết nên ngoài việc tiếp nhận vũ khí, theo dõi thời tiết, nắm tình hình địch, chuẩn bị hậu cần… chúng tôi còn chủ động gói bánh chưng, làm giò chả, chuẩn bị mứt Tết sẵn sàng đón xuân trên biển. Trước giờ ra khơi, tôi kiểm tra công tác chuẩn bị lần cuối. Đến khoang hàng hải, bắt gặp một thùng gỗ đậy kín, bên ngoài có dòng chữ “Quà vui Tết, đón xuân”, bên cạnh một cành đào Nhật Tân chúm chím nụ, tôi hỏi đồng chí Hồng Lỳ thủy thủ trưởng: “Thùng này có danh mục ghi trong phiếu chuyển hàng cho bến không?”. Đồng chí Phan Nhạn, máy trưởng nhanh nhảu trả lời: “Báo cáo thuyền trưởng, thùng này do tàu ta xuất phiếu thôi ạ!”. Tất cả cùng cười vang...

    Buổi tiễn đưa cán bộ, chiến sỹ tàu 41 thực hiện “nhiệm vụ đặc biệt” trong đêm đông 1964 thật bùi ngùi, xúc động. Đồng chí Tư lệnh Quân chủng, Đoàn trưởng và Chính ủy đoàn căn dặn từng người chu đáo. Những nụ hôn thắm nồng, những bàn tay xiết chặt gửi gắm niềm tin. Tình cảm hậu phương làm ấm lòng cán bộ, thủy thủ trên đường vào tiền tuyến lớn miền Nam...

    [​IMG]
    Ông Hồ Đắc Thạnh (bên phải, hàng trên) trước bia ghi công các anh hùng, liệt sỹ hi sinh trên tuyến đường biển huyền thoại.

    Thời tiết không thuận lợi, sau ba ngày vượt sóng to, gió lớn, luồn lách tránh các tuyến tàu tuần tiễu của địch, chiều 30 tháng Chạp, tàu 41 chuyển hướng vào bờ. Trưa hôm đó, khi chúng tôi đang dùng bữa “tất niên”, thì chiến sỹ trực canh báo cáo: “Mạn phải 30 độ, cự li 3 hải lý, phát hiện hai tàu địch di chuyển về phía Nam!”. Lệnh chuẩn bị chiến đấu được phát ra, tất cả về vị trí. Các lớp ngụy trang vũ khí được triển khai vừa che mắt địch, vừa có thể phục vụ chiến đấu được ngay.

    Qua ống nhòm, tôi thấy rõ hai tàu tuần tiễu địch đang di chuyển. Phải tránh! Tôi ra lệnh cho tàu 41 chuyển hướng để tránh và tạo khoảng cách xa hơn, lúc này thời gian đã 16 giờ chiều... Sau khi xác định lại vị trí trên hải đồ, tôi lệnh cho máy trưởng sử dụng tốc độ dự bị. Tàu tăng tốc hành quân giữa ánh hoàng hôn bao trùm lên mặt biển...

    Gần nửa ngày chống chọi với sóng gió, đúng 23 giờ 50, tàu chúng tôi vào tới Vũng Rô. Tôi cho thả xuồng và cử người vào bến tìm bộ phận đón. Trong lúc đang loay hoay thả xuồng thì thuyền của các đồng chí ở bến cặp mạn tàu. Gặp nhau tay bắt mặt mừng, tôi ôm chặt anh Sáu Thu mà hai hàng nước mắt chảy ròng, nghẹn ngào không nói nên lời…

    Giữa lúc tình cảm giữa người ở bến và chúng tôi đang dồn nén, thì đột nhiên, hàng loạt súng pháo nổ vang, những chiếc đèn dù xanh, đỏ từ đồn địch ở dốc Ba Ty phụt lên treo lơ lửng giữa khoảng trời Vũng Rô.

    - Lộ rồi sao? Địch đã phát hiện tàu ta chăng? Sao không thấy động tĩnh từ phía địch?

    Mọi người hồi hộp, lo lắng... Từ khoang báo vụ, chiếc đài bán dẫn vang lên lời Bác Hồ chúc Tết nghe đầm ấm, thiết tha. Giao thừa! Mùa xuân 1965 đã tới. Thời khắc trời, đất giao hòa, chúng tôi vui mừng trào rơi nước mắt... Sau khi cử lực lượng cảnh giới nắm tình hình địch, cuộc liên hoan mừng tết Ất Tỵ được thực hiện ngay trong khoang máy và hầm hàng. Rượu, thịt, dưa hành, thuốc lá chúng tôi mang theo. Cá, mực đồng bào biếu tặng được bày ra thơm lừng, càng tăng thêm hương vị đậm đà của mùa xuân bất tận.

    Trong niềm vui chan chứa ấy, tôi thay mặt cán bộ, chiến sỹ tàu 41 chúc Tết các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy, chiến sĩ, dân công và bà con đồng bào tại bến. Tiếng pháo tay thay pháo Tết nổ vang. Anh Sáu Thu giục cô gái ngồi bên cạnh (là giao liên của bến) thay mặt bà con địa phương chúc Tết anh em thủy thủ. Cô gái ửng hồng đôi má, ngập ngừng đứng lên: “Có Đảng, có Bác Hồ và đồng bào miền Bắc lo cho miền Nam từng khẩu súng, viên đạn, bát cơm, viên thuốc; có các anh thủy thủ vượt qua sóng to, gió lớn, đối mặt với quân thù vận chuyển hàng chi viện cho miền Nam, quê hương Phú Yên nguyện xứng đáng với nghĩa tình cao cả đó”. Nghe cô giao liên nói vậy, ai cũng nghẹn ngào, xúc động...

    [​IMG]
    Cùng đồng đội về thăm Bộ Tư lệnh Hải quân.

    Tối mồng một Tết Ất Tỵ, chúng tôi bốc dỡ hàng. Chiếc cầu tạm bằng cây không đủ sức cho số đông người đi lại, nên đa số anh chị em dân công phải dầm mình dưới nước chuyển hàng. Phía đèo Cả, súng địch vu vơ bắn cầm canh. Chúng đâu ngờ rằng, cách không xa là không khí làm việc khẩn trương của cán bộ, thủy thủ tàu 41 và đồng bào Phú Yên. Hàng bốc dưới tàu lên là vũ khí, thuốc men, quần áo. Hàng trên bờ xuống là khoai, sắn, bánh chưng, rượu, thịt đồng bào gửi tặng và hàng chục bao cát. Cát của Vũng Rô được chuyển xuống tàu để giữ ổn định phòng khi ra khơi gặp bão giông.

    Công việc xếp dỡ hàng vừa xong, từ trong đêm tối có cô gái cầm trong tay một gói nhỏ được bọc cẩn thận bằng chiếc khăn tay trao cho tôi, giọng run run: “Bà con quê hương Phú Yên xin gửi theo tàu các anh nắm đất Vũng Rô, mảnh đất kiên cường, bất khuất. Dù giặc càn quét, lùng sục, bắt bớ, tàn sát dã man, đồng bào lên núi ăn củ mài, quả vả thay cơm nhưng vẫn một lòng, một dạ vững tin theo Đảng, theo Bác Hồ. Có súng, có đạn của miền Bắc chi viện, mảnh đất này sẽ là điểm tựa của những chiến công, là mồ chôn thây quân giặc cướp nước!”. Bùi ngùi, xúc động, cầm nắm đất Vũng Rô trong tay, tôi như muốn ôm cả đất trời quê hương Phú Yên vào lòng với tình cảm trân trọng, thiêng liêng...

    Cuộc chia tay trong đêm xuân Ất Tỵ hết sức quyến luyến. Những giọt nước mắt tuôn trào, những lời chúc “lên đường thuận buồm, xuôi gió, ở lại mạnh khỏe, chiến đấu hăng say, hứa hẹn ngày trở lại”. Xa xa, tiếng pháo địch vẫn bắn cầm canh. Đúng 3 giờ sáng mồng hai Tết, tôi ấn mạnh tay chuông, con tàu rùng mình rẽ sóng ra khơi...”.

    - Thưa bác! Nắm đất thiêng giờ nơi đâu? Cô giao liên năm nào bác có còn gặp lại? Tôi nêu câu hỏi.

    Ông Hồ Đắc Thạnh trả lời: “Nắm đất thiêng Vũng Rô được chúng tôi nâng niu, gìn giữ suốt chặng đường vượt biển, hiện đang đặt trang trọng trong Bảo tàng Quân chủng Hải quân. Còn cô giao liên ngày ấy tôi đã đi tìm suốt 40 năm qua mới gặp lại!”.

    Chuyện người cựu binh thủy thủ tàu không số đi tìm cô gái trao cho mình nắm đất trong đêm xuân Ất Tỵ khá cảm động... Chiến tranh kết thúc, ông Thạnh về công tác ở Bộ tư lệnh Vùng 3 Hải quân. Năm 1984 nghỉ hưu tại thành phố Quy Nhơn (Bình Định). Trong quãng thời gian ấy ông đã mải miết đi tìm, nhưng chẳng ai biết cô giao liên ngày ấy ở đâu. Mãi đến năm 2004 ông về thăm quê hương Phú Yên thì điều kỳ diệu đã đến. Người con gái mà ông đằng đẵng đi tìm gần nửa thập kỷ qua lại chính là bà Nguyễn Thị Tảng, phu nhân của đồng chí Nguyễn Văn Dữ, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh – nguyên Chỉ huy trưởng Ban CHQS huyện Tuy An.

    Trao nhau nắm đất thiêng từ thuở ấy, gặp lại sau hơn 40 năm xa cách, tóc họ giờ đã chuyển màu sương gió. Nhưng ký ức về những năm tháng chiến tranh ác liệt vẫn tươi nguyên. Ông bảo, những tấm Huân chương mà ông và bà Tảng đeo trên ngực áo thấm đẫm máu, mồ hôi và nước mắt của bao đồng đội kiên trung năm xưa đã anh dũng ngã xuống giữa lòng đất mẹ...

    http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/307/309/309/159800/Default.aspx
  5. dongthap10

    dongthap10 Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    20/07/2006
    Bài viết:
    155
    Đã được thích:
    22
    Chuyển sang phương thức hoạt động công khai

    Do phương thức vận chuyển bằng tàu không số thời kỳ 1971 - 1972 gặp khó khăn, xác suất thành công rất thấp, nên đã có sáng kiến tìm giải pháp tạo một bất ngờ mới . Giải pháp được lựa chọn là dùng phương thức đi công khai.

    Sáng kiến này đầu tiên xuất hiện ở Quân khu IX. Ngay từ năm 1970, trước những yêu cầu cấp bách của chiến trường, tại nhiều đơn vị Tây Nam Bộ đã nảy sinh sáng kiến "tương kế tựu kế". Sử dụng ngay những người dân "thật", cho hoạt động công khai ngay trước mắt đối phương, theo phương châm "công khai hóa, quần chúng hóa, địa phương hóa ".

    Sang năm 1971, lãnh đạo Quân khu IX đã đề nghị với Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng cho áp dụng một phương thức vận chuyển vũ khí trên những con tàu đánh cá hoặc tàu buôn hợp pháp, có giấy tờ nhưng có những đáy bí mật để cất giấu vũ khí.

    Tháng 03/1971, một đội tàu của Khu IX vượt biển ra Bắc để báo cáo phương án đi công khai này. Chỉ huy đoàn tàu này không phải ai khác mà chính là Tư Mau.

    Tháng 4 năm 1971, Thường vụ Quân ủy Trung ương triệu tập một cuộc họp bí mật gồm đại diện Bộ Tổng Tham mưu, Cục Tác chiến, Bộ Tư lệnh, Chính ủy Quân chủng Hải quân và đại diện Quân khu IX để bàn về phương thức vận chuyển mới này. Đích thân Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bí thư Quân ủy Trung ương chủ trì cuộc họp. Hội nghị đã quyết định chấp nhận đề nghị của Quân khu IX và cho triển khai :

    1/ Cho đóng 10 chiếc tàu mới theo dạng tàu đánh cá của miền Nam, lấy mẫu là chiếc tàu của Tư Mau đã đưa ra. Tàu có 2 đáy, phía dưới cất giấu vũ khí, phía trên **** trang bằng dụng cụ đánh bắt cá, hàng hóa...

    2/ Bổ sung cho đội tàu này những cán bộ quê ở miền Nam có kinh nghiệm đi biển làm nòng cốt, biết kỹ thuật đánh cá.

    3/ Hải quân có nhiệm vụ tổ chức bến bãi đặc biệt để nuôi dưỡng và chăm sóc anh em của đội tàu công khai. Bộ Tư lệnh cho phép Đoàn 125 thành lập một tiểu đoàn đặc biệt để đảm đương công việc này, lấy phiên hiệu là Tiểu đoàn 5, do Võ Đỗ và Đặng Văn Thanh phụ trách. Căn cứ của Tiểu đoàn 5 được đặt ở khu vực Vạn Hoa (Đồ Sơn).

    4/ Trên hành trình của tàu thuyền "đánh cá”, tàu của hải quân có nhiệm vụ dẫn dắt hộ tống trên hải phận miền Bắc và hải phận quốc tế.

    Sau khi có các quyết định trên, việc đóng tàu được thực hiện khẩn trương. Cục 2 Bộ Quốc phòng khẩn trương làm các giấy tờ hợp pháp cho các con tàu và từng thành viên trên các tàu "đánh cá".

    Cùng với việc chuẩn bị phương tiện và giấy tờ, tất cả những anh em trong các đội tàu đều phải luyện tập công phu: Trước hết phải ngồi phơi nắng suốt ngày để da đen sạm, cho đến khi nào giống với da ngư dân miền Nam. Ngoài ra ai cũng phải học cách đánh cá, cách thả lưới, kéo lưới .

    Sau khi chuẩn bị xong, chuyến đi thí điểm đầu tiên do chính Tư Mau phụ trách với con tàu 605. Khi Tư Mau về tới Khu IX, Quân khu quyết định thành lập một đoàn vận tải bí mật có mật hiệu S.950 mà đến 1972 thì đổi tên là Đoàn 371, do Tư Mau làm Đoàn trưởng, Nguyễn Văn Cứng làm Đoàn phó.

    Link nội dung

    http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php?topic=11941.100


    [​IMG]

    Bố em là tham mưu trưởng tiểu đoàn 5 .
    [​IMG]

    Kỷ niệm chương của bố

    [​IMG]

    Giấy đi tòan miền Nam Việt Nam của bố em và bác Luật ( bác Luật hi sinh ở chiến trường Cam)
    Chú ý : dấu mộc đoàn 371 ( nghĩa là thành lập tháng 3 năm 1971) và người ký giấy là bác anh hùng LLVTND Nguyễn Đắc Thắng ( thuyền trưởng của rất nhiều chuyến tàu không số đoàn 962 và 371)
  6. longtt88

    longtt88 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/11/2004
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    5
    Tàu 235 và trận chiến sinh tử

    Nhắc đến Đoàn tàu không số huyền thoại, chắc chắn không thể không nhắc đến Tàu 235 và trận đánh bi tráng dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Phan Vinh chỉ huy ngày 1-3-1968 tại bến Hòn Hèo (Khánh Hòa). Chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết của Cựu chiến binh Lê Duy Mai, một trong 6 thủy thủ còn sống sau trận đánh đã đi vào lịch sử nói trên.

    Tàu 235 là tàu vận tải có tốc độ cao, đóng mới tại Trung Quốc. Tàu được lắp nhiều thiết bị tương đối hiện đại bảo đảm khả năng hành trình dài ngày trên biển và khả năng chiến đấu tự vệ độc lập.

    Mùa hè năm 1966, tôi và một số đồng chí được chỉ huy đơn vị điều động đi nhận tàu tại Trung Quốc với phiên hiệu 235 do Nguyễn Phan Vinh làm Thuyền trưởng. Cùng nhận tàu chuyến này còn có tàu 246 do đồng chí Võ Hán làm Thuyền trưởng.

    Sau một thời gian huấn luyện tại cảng Di Linh (Hải Nam, Trung Quốc), đơn vị tàu được bổ sung biên chế cho các ngành hàng hải, cơ điện, súng pháo, thông tin liên lạc... Từng thủy thủ, theo chức trách được phân công, đêm ngày thi đua học tập chuyên môn và chính trị, đồng thời luyện tập các phương án tác chiến phù hợp với tình hình nhiệm vụ mới.

    [​IMG]
    Cựu chiến binh Lê Duy Mai và cháu nội. Ảnh: Ái Thi

    Mùa hè năm 1967, chúng tôi nhận được lệnh đưa tàu từ Hải Nam (Trung Quốc) về nước. Sau một thời gian làm công tác chuẩn bị, nắm tình hình và lựa chọn thời cơ, đúng Tết Mậu Thân 1968, lợi dụng thời tiết xấu và tình hình địch lơ là, Thuyền trưởng Phan Vinh lệnh cho 4 máy chính trên tàu nổ máy, bất ngờ đưa tàu tiếp cận bờ. Tuy nhiên, tàu chuyển hướng vào bờ được 15 phút thì cấp trên lệnh cho tàu quay về Hải Nam (Trung Quốc) đợi lệnh. Cuối tháng 2-1968, chúng tôi nhận lệnh tiếp tục hành trình vận chuyển hàng vào bến Hòn Hèo (Khánh Hòa). Trong suốt hành trình ngoài hải phận quốc tế, tàu địch và máy bay địch luôn thay phiên bám đuổi. Biết địch bám chặt, Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh cho tàu chuyển hướng đánh lừa địch, khi thấy tàu và máy bay địch không “bám đuôi” nữa, chúng tôi mới chuyển hướng hành trình vào bến.

    Ngày 1-3-1968, tàu chúng tôi vào đúng bến Hòn Hèo, phát tín hiệu nhiều lần nhưng trên bờ không có tín hiệu đáp lại. Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh quyết định neo tàu và thực hiện phương án thả hàng. Hàng vừa thả xong thì chúng tôi cũng phát hiện tàu địch đã bao vây tứ phía. Trên trời, máy bay địch gọi loa chiêu hồi. Xác định tàu bị lộ, trời cũng đã sáng, khó thoát ra được, Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh ra lệnh vừa nhổ neo, vừa quyết chiến với tàu địch. Chúng tôi dùng ĐKZ và súng máy 14,5mm bắn chìm và làm bị thương một số tàu địch. Thấy tàu ********* hành động quyết liệt, các tàu địch còn lại không dám lại gần. Đây là thời cơ để chúng tôi thực hiện phương án 3, hủy nổ tàu để bảo đảm bí mật về “đường mòn trên biển”.

    Qua những trận đánh ban đầu, một số đồng chí trên tàu đã bị thương. Tôi nhận lệnh mở van khí ép bơm xuồng cao su để số anh em bị thương rời tàu vào bờ. Ở lại tàu lúc đó, theo trí nhớ của tôi còn Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh và các đồng chí: Hàng hải, điều khiển 2 máy trước, điều khiển hai máy sau, 2 đồng chí pháo thủ súng máy 14,5mm, đồng chí pháo thủ ĐKZ và tôi. Chúng tôi tiếp tục chiến đấu.

    Mệnh lệnh cuối cùng mà tôi nghe được ở Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh là “Đánh bộc phá tại tàu”. Theo phương án đã phân công, tôi tuột cầu thang, xuống khoang máy sau, gặp anh Trần Lộc bị thương, đầu đang quấn băng trắng toát. Tôi nói với anh Lộc: “Để tôi thay anh đánh bộc phá khoang máy sau và hầm lái”. Người đánh bộc phá khoang máy trước là anh Vũ Long An. Người đánh bộc phá khoang mũi tàu là anh Hà Minh Thật. Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh đến từng vị trí kiểm tra và động viên từng người. Trong ý nghĩ của chúng tôi lúc đó, chỉ có một quyết tâm là làm sao để tàu nổ tan vào lòng biển, không để lại dấu vết gì để địch có thể dò ra manh mối của “đường mòn trên biển”.

    “Đánh bộc phá tại tàu” cũng có nghĩa phải xác định chắc chắn sẽ hy sinh tại tàu cùng khối thuốc nổ. Chúng tôi đã sẵn sàng. Đèn tín hiệu điểm hỏa bật sáng, chúng tôi kết hợp thực hành 3 phương pháp: Cắt nối dây cháy chậm truyền nổ vào kíp số 8, dùng kìm bóp kíp hóa học và gạt kim đồng hồ về vị trí hẹn giờ phù hợp với phương án, bảo đảm việc phá hủy tàu được triệt để. Tôi vừa điểm hỏa xong thì nghe Thuyền trưởng Vinh hỏi, giọng rất điềm tĩnh: “Chắc ăn chưa?”. Tôi trả lời: “Chắc” rồi cùng mọi người ôm vũ khí cá nhân nhảy xuống biển, ráng sức bơi vào bờ. Mọi việc thật đúng với tính toán. Chúng tôi vừa vào sát bờ thì nghe một tiếng nổ lớn, cột lửa bốc cao từ phía con tàu sáng đỏ cả một vùng. Những chiếc phao cứu sinh trên tàu bay cả về phía chúng tôi nằm. Một phần mũi tàu bị hất tung về phía chân núi (Hiện nay, nơi đây, Quân chủng Hải quân cho xây dựng Nhà bia tưởng niệm 14 cán bộ, chiến sĩ của Tàu 235 hy sinh hôm đó). Có thể nói, nhiệm vụ hủy tàu đã được chúng tôi hoàn thành tốt.

    Lên bờ, chúng tôi chia làm 2 nhóm ẩn nấp. Một nhóm do Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh chỉ huy, hôm sau gặp địch đã tiến hành trận chiến đấu quyết tử và bi tráng mà báo chí của cả địch và ta đã thuật lại. Trận đánh đó đã trở thành huyền thoại, cùng với con Tàu 235 đi vào lịch sử của Quân chủng Hải quân như một thiên anh hùng ca về lòng dũng cảm. Còn nhóm chúng tôi, do Thuyền phó Đoàn Văn Nhi chỉ huy gồm: Mai Văn Khung, Vũ Long An, Hà Minh Thật, Lâm Quang Tuyến, Nguyễn Phong và tôi. Lúc đó, anh Nhi đã bị thương nặng nên sau khoảng 7, 8 ngày lẩn tránh các cuộc truy lùng của địch, anh Mai Văn Khung đi tìm nước cho anh Nhi uống thì bị địch phát hiện. Chúng tôi nổ súng quyết chiến với quân địch. Anh Nhi hy sinh tại chỗ còn anh Khung sau đó bị thương. Gần đây tôi được biết, anh Khung bị địch bắt rồi đày đi Phú Quốc (sự trở về của người lính Mai Văn Khung khi rơi vào tay quân thù mới đây đã được phóng viên Báo Quân đội nhân dân phát hiện và xin được kể với bạn đọc trong bài viết khác - PV).

    Còn 5 anh em chúng tôi tiếp tục dìu dắt, động viên nhau chịu đựng đói khát, vừa lẩn tránh địch vừa tìm cách tiếp cận căn cứ của Quân giải phóng. Đến ngày thứ 13, sức cùng, lực kiệt, ai cũng thương tích đầy mình; cái đói, cái khát ập đến khiến chúng tôi gần như tắt hết hy vọng trở về. Đêm hôm đó, lợi dụng ánh trăng mờ và lá rừng che khuất, chúng tôi tiếp tục bò đi sát bờ biển. Bỗng chúng tôi phát hiện bóng người lội bì bõm dưới nước. Tôi và Vũ Long An bí mật tiếp cận và khống chế đối tượng. Thật may, đó là đồng chí du kích địa phương đóng vai dân chài đi tìm đón chúng tôi. Hôm đó, chúng tôi được du kích đưa vào căn cứ tập kết, đãi món cháo gà rừng và được bà con chăm sóc, điều trị tận tình nên cả 5 người đều nhanh chóng hồi phục sức khỏe.

    Từ cõi chết trở về, chúng tôi tiếp tục đi bộ 6 tháng liên tục vượt dãy Trường Sơn hùng vĩ trở về Lữ đoàn 125, nhận tàu mới để tiếp tục chiến đấu.

    Mới đây, chúng tôi có dịp trở lại Hòn Hèo để nói lời cảm ơn bà con nhân dân xã Ninh Vân (Ninh Tịnh, Khánh Hòa), những người đã cưu mang, che chở và cứu sống chúng tôi. Chúng tôi cũng được thắp hương lên tấm bia tưởng niệm 14 người đồng đội đã hy sinh, trong đó có Thuyền trưởng, Anh hùng Nguyễn Phan Vinh. Nhớ đến đây, tôi không thể nào quên mệnh lệnh cuối cùng của anh: “Đánh bộc phá tại tàu” cũng như câu nói điềm tĩnh, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng: “Chắc ăn chưa?”. Tôi cứ mong: “Trong những bộ phim và bài báo viết về sự kiện bi tráng của con Tàu 235 năm 1968, nên có câu nói đó của Nguyễn Phan Vinh. Một câu nói tưởng chừng giản dị nhưng hàm chứa phẩm chất của người anh hùng cũng như tâm thế bình tĩnh đến kỳ lạ, sẵn sàng đón nhận sự hy sinh của người lính Đoàn tàu không số”.

    Lê Duy Mai (Cựu chiến binh Đoàn tàu không số)
  7. longtt88

    longtt88 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/11/2004
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    5
    Những trang đời huyền thoại (Kỳ 4)

    Kỳ 4: Nhớ mãi tên anh

    Trong phòng truyền thống Trường tiểu học Nguyễn Phan Vinh (phường Thọ Quang, quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng), bức chân dung thuyền trưởng tàu 235 (Đoàn tàu không số) được treo ở vị trí trang trọng nhất. Ban Giám hiệu Nhà trường đã cất công sưu tầm khá đầy đủ những tài liệu, hình ảnh liên quan đến anh hùng, liệt sỹ Nguyễn Phan Vinh để giới thiệu cho các em học sinh hiểu sâu sắc về chiến công huyền thoại của ông cùng đồng đội trên vùng biển Hòn Hèo năm xưa...


    Chúng tôi có mặt tại Trường tiểu học Nguyễn Phan Vinh sau lễ khai giảng năm học mới (2011-2012). Vây quanh cô Lê Thị Thơ là các em học sinh từ lớp 1 đến lớp 5. Những gương mặt trẻ thơ hướng về cô hiệu trưởng háo hức nghe kể về người anh hùng mà trường vinh dự mang tên. Và câu chuyện về người anh hùng, liệt sỹ Nguyễn Phan Vinh với trận đánh huyền thoại của 43 năm về trước đã được tái hiện...

    “...Đêm 30 rạng ngày mồng một tết Mậu Thân (ngày 31-1-1968) cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta ở miền Nam đồng loạt nổ ra. Để phối hợp với các chiến trường trên bộ, Quân chủng Hải quân nhận lệnh chuẩn bị 4 tàu chở vũ khí xuất phát cùng một đêm ở 4 vị trí khác nhau và sẽ vào 4 bến khác nhau để đánh lạc hướng địch. Tàu nào không vào được bến thì nghi binh thu hút địch cho tàu khác vào.

    [​IMG]
    Chân dung anh hùng – liệt sỹ Nguyễn Phan Vinh.

    Tàu 235 do Trung úy Nguyễn Phan Vinh làm thuyền trưởng nhận nhiệm vụ vận chuyển 14 tấn vũ khí, đạn dược chi viện cho quân và dân Khánh Hòa. Ngày 27-2-1968, tàu 235 bí mật rời bến, thẳng hướng vào phía Nam. Sau hai ngày đêm hành quân trên vùng biển quốc tế, đúng 18 giờ ngày 29-2-1968, tàu 235 đến ngang vùng biển Nha Trang, thì phát hiện máy bay trinh sát địch lượn vòng quanh tàu rồi mất hút. Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh nhận định tàu ta đã bị lộ nên cho anh em ngụy trang cẩn thận, chờ đêm tối chuyển hướng vào bờ, cả tàu chuẩn bị thả hàng sẵn sàng chiến đấu.

    Kim đồng hồ chỉ đúng 23 giờ. Màn đêm đen đặc, tàu 235 đè sóng lướt tới. Khi cách Hòn Hèo khoảng chừng 6 hải lý thì bất ngờ gặp 3 tàu chiến của địch là Ngọc Hồi, HQ12, HQ617 và 4 chiếc khác dàn hàng ngang, triển khai đội hình phục kích thành thế bao vây hòng bắt sống tàu ta. Trước tình hình đó, thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh đã mưu trí chỉ huy các thủy thủ thả khói mù, khôn khéo điều khiển tàu luồn lách qua đội hình tàu địch đến đúng vị trí bến quy định thuộc xã Ninh Phước, huyện Ninh Hòa (Khánh Hòa). Vì không liên lạc với lực lượng bến đón, thuyền trưởng ra lệnh cho tàu thả hàng xuống biển và khẩn trương cho tàu di chuyển sang vùng biển Ninh Văn để không lộ vị trí thả hàng. Lúc này đã là 1 giờ 30 phút ngày 1-3.

    Phía bên ngoài các tàu địch di chuyển khép chặt vòng vây. Trên không chúng huy động máy bay lên thẳng vũ trang yểm trợ. Cuộc chiến không cân sức diễn ra quyết liệt. Phía trước là núi, phía sau là 7 tàu địch ngăn chặn lối ra, tàu 235 ở vào tình thế vô cùng khó khăn. Trên trời, máy bay địch thả pháo sáng. Đèn pha các tàu địch tập trung chiếu sáng để các loại hỏa lực bắn xối xả. Mặc cho lửa đạn, Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh vẫn bình tĩnh chỉ huy các thủy thủ vừa kiên cường đánh trả địch, vừa cho tàu chạy sát vào gần bờ hơn. Cuộc chiến đấu ngày càng ác liệt, nhiều đồng chí của ta đã bị thương, máy tàu hỏng nặng, thuyền trưởng bị một mảnh đạn bắn sượt qua đầu. Biết không thể thoát khỏi vòng vây của địch được nữa, Nguyễn Phan Vinh hội ý với anh em và ra quyết định hủy tàu để không lọt vào tay địch. Thuyền trưởng Vinh cho tất cả anh em bơi vào bờ trước, còn anh và thợ máy Ngô Văn Thứ ở lại chuẩn bị các loại kíp nổ và trực tiếp điểm hỏa khối thuốc nổ hủy tàu rồi bình thản nhảy xuống nước bơi vào bờ....

    Đúng hai giờ sáng, một cột lửa bùng lên kèm theo tiếng nổ dữ dội chấn động cả vùng biển, hất tung một nửa thân tàu 235 lên triền núi Bà Nam. Sau giây phút hoảng loạn, bọn địch điều thêm máy bay và gọi phi pháo bắn phá, dọn đường cho quân đổ bộ lên bờ hòng bao vây bắt sống thủy thủ tàu 235. Cuộc chiến đấu trên bộ giữa thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh cùng thợ máy Ngô Văn Thứ với bộ binh địch diễn ra vô cùng ác liệt. Lợi dụng địa hình, địa vật, các anh đã tiêu diệt nhiều tên địch. Cuối cùng, do vết thương ngày càng nặng, thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh và thợ máy Ngô Văn Thứ đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, rồi anh dũng hi sinh...

    Trận chiến đấu kiên cường của cán bộ, thủy thủ tàu 235 đã đi vào huyền thoại, là dấu son chói lọi của Hải quân Nhân dân Việt Nam anh hùng. Với chiến công phi thường ấy, ngày 25-8-1970, liệt sỹ Nguyễn Phan Vinh được Đảng và Nhà nước truy tặng danh hiệu cao quý Anh hùng LLVTND. Nhân kỷ niệm 15 năm ngày giải phóng quần đảo Trường Sa (29-4-1990), tên người thuyền trưởng tàu 235 quả cảm ấy đã thành tên một hòn đảo trong quần đảo Trường Sa – đảo Phan Vinh.

    Năm 1998, một ngôi trường ở quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng cũng đã vinh dự lấy tên anh đặt tên cho trường – Trường tiểu học Nguyễn Phan Vinh...

    [​IMG]
    Sức sống trên đảo Phan Vinh hôm nay.

    Vinh dự được mang tên người anh hùng, cán bộ, chiến sỹ đảo Phan Vinh hôm nay luôn phát huy truyền thống vẻ vang của Quân chung Hải quân dân Việt Nam anh hùng, cán bộ, chiến sỹ đảo Phan Vinh trong quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành đã lập nhiều thành tích xuất sắc. Nhiều năm liền được công nhận “Đơn vị Quyết thắng” và hàng chục Bằng khen, Giấy khen do Bộ Quốc phòng và Quân chủng trao tặng...

    Dẫu rằng, điều kiện trên đảo còn nhiều khó khăn, nhưng các thế hệ cán bộ, chiến sỹ luôn sát cánh bên nhau, đồng cam cộng khổ, đoàn kết một lòng khắc phục khó khăn, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền, biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc trong mọi tình huống. Tuy ở nơi “đầu sóng, ngọn gió”, nhưng nhờ sự quan tâm đầu tư của Quân chủng Hải quân, hiện nay hệ thống nhà ở và làm việc trên đảo đang được xây dựng khang trang. Toàn bộ đường đi, lối lại trên đảo đã được bê tông hóa. Dự án chiếu sáng và năng lượng đã và đang được triển khai. Hệ thống phong điện, năng lượng mặt trời đã được lắp đặt giúp điều kiện sống trên đảo nhỏ tốt hơn. Các trạm thu tín hiệu vệ tinh, sóng điện thoại được phủ góp phần nâng cao đời sống tinh thần lính đảo. Từ một hòn đảo trơ trọi toàn cát trắng, những bàn tay người lính đã biến nơi đây rợp bóng cây xanh với hàng chục loài khác nhau nhưng nhiều nhất là các loại cây bàng vuông, phong ba và dừa.

    Để góp phần cải thiện, nâng cao đời sống bộ đội, cán bộ, chiến sỹ trên đảo tích cực tăng gia chăn nuôi, gieo trồng, đánh bắt hải sản. Những vườn rau xanh tốt, những mẻ lưới đầy cá và từng đàn gà, vịt hàng trăm con... là thành quả bao tháng ngày tần tảo, chăm lo của những người lính giữ “phên dậu” giữa trùng khơi.

    Các thế hệ cán bộ, chiến sĩ đảo Phan Vinh đều vinh dự, tự hào với những chiến công đã đạt được. Dù khó khăn, gian khổ, dù mất mát, hi sinh, họ vẫn chắc tay súng, vững niềm tin, hiên ngang giữa nơi sóng cuồng, bão giật, bảo vệ vững chắc biển, trời Tổ quốc thân yêu...

    [​IMG]
    Trường tiểu học Nguyễn Phan Vinh rộn ràng ngày khai giảng.

    Thi đua với cán bộ, chiến sỹ trên hòn đảo mang tên người anh hùng, ở nơi “thành phố đầu biển, cuối sông”, Trường tiểu học Nguyễn Phan Vinh cũng đã vượt lên chính mình để trở thành ngôi trường đạt chuẩn Quốc gia. Trong suốt 13 năm qua, các thế hệ thầy giáo, cô giáo và các em học sinh đều ra sức thi đua thực hiện phong trào “Dạy tốt, học tốt” xứng đáng là một trong những trường tiêu biểu, xuất sắc của ngành giáo dục-đào tạo thành phố Đà Nẵng.

    Và hôm nay, trong không khí hân hoan hướng tới kỷ niệm 50 năm Ngày mở Đường Hồ Chí Minh trên biển (23-10-1961 / 23-10-2011), mỗi cán bộ, chiến sỹ đảo Phan Vinh và các thầy giáo, cô giáo cùng các em học sinh trường tiểu học Nguyễn Phan Vinh lại bồi hồi nhớ về trận chiến đấu kiên cường của cán bộ, thủy thủ tàu 235 năm xưa đã đi vào huyền thoại, mà tiêu biểu là anh hùng, liệt sỹ Nguyễn Phan Vinh. Anh hi sinh khi tuổi đời còn trẻ, sự hi sinh của anh đã hóa thành bất tử để cho muôn đời sau các thế hệ cháu con đều nhớ mãi tên anh....


    http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/307/309/309/159988/Default.aspx
  8. longtt88

    longtt88 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/11/2004
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    5
    Chân dung các thuyền trưởng tàu không số (Kỳ 2)

    Kỳ 2: Thuyền trưởng tàu sắt đầu tiên

    Đại tá Trần Văn Tú – cán bộ Ban liên lạc truyền thống “Đường ************** trên biển” giới thiệu với chúng tôi một cách trân trọng và cảm phục về một người thuyền trưởng đã tham gia chở vũ khí vào miền Nam từ những ngày đầu trên con đường biển mang tên Bác. Người đã chỉ huy chuyến tàu sắt đầu tiên, có 10 chuyến đi thành công, một con số thật đáng nể phục trong những năm tháng khó khăn, ác liệt bởi sự phong tỏa gắt gao của kẻ thù. Theo lời giới thiệu, chúng tôi tìm đến phường Đằng Hải, quận Hải An, thành phố Hải Phòng gặp ông. Ông là Nguyễn Ngọc Ảnh, Thuyền trưởng của những con tàu không số năm xưa.

    Làng Lũng những ngày đầu tháng Tám, đúng tiết ngâu, mưa bay lất phất. Những hạt mưa gợi lại bao ký ức xa xưa, trong không gian thoáng đãng còn phảng phất hương thơm của làng hoa lâu đời. Ông ngồi đó, đối diện với tôi, ở tuổi 80, ông không được khỏe lắm, ngoại trừ đôi mắt sáng và minh mẫn.

    Ông là đồng hương của Nguyễn Phan Vinh, Nguyễn Tương và Nguyễn Văn Hiệu những người con ưu tú đất Quảng Nam anh hùng đã ra đi cùng những huyền thoại về Đoàn tàu không số vượt sóng gió ra khơi trong những đêm đen, bão gió, đưa vũ khí về miền Nam. Đó cũng là những ngày tháng có ý nghĩa nhất trong cuộc đời ông. Ông tự hào về điều đó. 10 chuyến đi là 10 chuyến an toàn, 10 chuyến thành công.

    Nguyễn Ngọc Ảnh tập kết ra Bắc năm 1954, làm cán bộ trong ngành đường sắt, tuyến đường Hà Nội - Lào Cai; sau đó chuyển về Nhà máy dệt Nam Định, rồi học lớp Sơ cấp Hàng hải và được điều về làm Thuyền trưởng tàu đánh cá của Xí nghiệp đánh cá Hạ Long. Trước yêu cầu vận chuyển đường biển chi viện cho chiến trường miền Nam, đầu năm 1962 ông và một số anh em trong Xí nghiệp đã nhập ngũ vào Đoàn 759 - tiền thân Đoàn 125 sau này.

    [​IMG]
    Một chiếc tàu sắt của đoàn tàu không số trên đường chở vũ khí vào Nam (Ảnh thu được từ tài liệu của đối phương).

    Chuyến đầu tiên ông tham gia chở vũ khí vào miền Nam là chuyến tàu sắt, do Xưởng đóng tàu III đóng. Đây là lần đầu tiên thử nghiệm con tàu do ta đóng và cũng là lần thử nghiệm cho một tuyến đi mới của đơn vị.

    - Khi nhận con tàu sắt còn nguyên mùi sơn mới, anh em rất phấn khởi, nhưng không khỏi lo lắng vì chưa kịp tìm hiểu kỹ các tính năng của tàu đã nhận lệnh lên đường. Trước đó, năm 1962 ta đã sử dụng các tàu gỗ gắn máy chở vũ khí vào miền Nam, loại tàu này chỉ đi sát bờ, không ra biển xa được. An toàn đấy nhưng hiệu quả vận chuyển thấp. Trước yêu cầu phát triển của cách mạng miền Nam, phải có những con tàu vận chuyển tốt hơn, trọng tải lớn hơn và đi biển trong mọi thời tiết. Con tàu này có trọng tải 50 tấn, lắp máy của Cộng hòa Dân chủ Đức - loại máy tốt nhất lúc bấy giờ. Tàu chịu được sóng cấp 7, cấp 8, mớn nước nông, có thể ra vào dễ dàng các kênh rạch ở Đồng bằng Nam Bộ.

    Ngày 17-3-1963, từ bến K20-Hải Phòng chúng tôi lên đường. Đồng chí Đạt - Phân đội trưởng tàu tuần tiễu được điều sang làm Thuyền trưởng, tôi là Thuyền phó, đồng chí Nguyễn Văn Tiến nguyên là thành viên của đội tàu Bến Tre ra Bắc hai năm trước làm Chính trị viên.

    Buổi chiều mùa đông hôm đó trời u ám, mây vần vũ xám xịt, sóng gió cấp 7, cấp 8. Tàu ra khơi. Phải đi vào những ngày sóng như vậy, nguy hiểm đấy, nhưng mới an toàn vì ít chạm tàu địch.

    Ông Ảnh ít cười khi nói chuyện, có một nỗi buồn nào đó phảng phất trong đôi mắt mở to đau đáu kia. Sự suy tư hay những ký ức xưa hiện về trong buổi trò chuyện này? Lặng im một lát, ông kể tiếp:

    - Trong đêm tối mịt mùng, càng ra khơi sóng mỗi lúc càng to. Gió thổi ràn rạt. Mặt biển tím sẫm. Thiết bị quan sát chỉ có 1 la bàn lái chính, 1 la bàn chuẩn ở trên cao để quan sát trăng sao, núi non. Chủ yếu là dựa vào kinh nghiệm đi biển. Tàu đi về hướng đảo Hải Nam, vượt qua Đông Nam quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa… hướng về phía Nam. Qua mấy ngày đêm vật lộn với sóng gió, tuy rất mệt nhưng ban chỉ huy tàu vừa phải bảo đảm công tác chỉ huy, vừa phải quan sát chi tiết những vị trí, nhận dạng trên đường, làm tiền đề cho những chuyến sau. Sóng gió quần dữ, anh em thủy thủ mệt nhoài vì say sóng. Bụng đói, thèm một chút cháo nóng mà nồi cháo cứ đổ nước vào, mỗi lần tàu nghiêng lại hất tung cả bếp, cả cháo ra. Phải đi biển mới biết nấu ăn trên tàu khi sóng lớn cực đến mức nào, không kiên nhẫn chắc không làm nổi. Anh Trần Lộc, người Quảng Nam, có sáng kiến nắm chặt hai quai nồi và nhấc lên mỗi khi tàu lắc mạnh. Vậy mà mấy tiếng sau cũng được nồi cháo cầm hơi... Vượt qua đảo Cù Lao Thu, tàu hướng thẳng vào cửa Ba Động. Khi bắt được tín hiệu, chuẩn bị vào bến thì bất ngờ được tin báo địch tổ chức càn quét, vây hãm khu vực này, chúng tôi chuyển hướng sang bến Bát Sát, nay là cửa Hàm Luông (Trà Vinh).

    [​IMG]
    Cảnh quay tàu không số bị địch phát hiện, tấn công trong phim "Đường ************** trên biển - Đoàn tàu không số" (đạo diễn Xuân Cường).

    Vòng vèo mãi theo con thuyền nhỏ dẫn đường lặng lẽ, mập mờ phía trước, chúng tôi cho tàu vòng xuống bến, đó là đêm 23 rạng ngày 24-3-1963. Đang chạy, bỗng tàu khựng lại! Tàu bị sục cạn. Mọi cố gắng của chúng tôi đều bất thành. Chi bộ hội ý chớp nhoáng quyết định cho anh em sơ tán, mang cả súng 12,7mm, CKC, AK lên rừng đước đề phòng nếu quân địch đến thì chiến đấu. Tôi cùng máy trưởng Kiên và đồng chí Nuôi ở lại trên tàu, tùy tình huống xử trí. Khoảng 11 giờ, có tiếng máy bay tới gần, ngó nghiêng. Bình tĩnh, chúng tôi lấy cờ ba que treo lên như những tàu đánh cá của dân miền Nam, phía trên khoang tàu rải mấy tấm lưới ra phơi. Máy bay địch vẫn quần đi quần lại nhưng không phát hiện thêm điều gì. Đến chiều tối, nước bắt đầu lên, người trong bến đón chúng tôi vào bờ. Tại đây, dân quân và bộ đội địa phương đã bố trí lực lượng đón và tiếp nhận vũ khí an toàn.

    Tôi nhớ bữa đó, do tàu bị sục cạn, cánh chân vịt bị cong vênh không chạy được. Một xưởng sửa chữa cơ động dựng lên. Chúng tôi lấy gỗ đóng dưới tàu. Khi nước xuống, con tàu nằm cao trên đà. Anh Kiên người Trà Vinh - thợ máy tàu - có sáng kiến dùng đèn khò xì vào cánh chân vịt cho mềm, dùng búa gõ, nắn cho thẳng. Hì hụi hơn một tuần thì gò xong 4 cánh chân vịt. Nghỉ ngơi lại sức chúng tôi trở về miền Bắc. Chuyến về êm xuôi, lợi gió, lợi nước, tàu chạy nhanh và cập bến Đồ Sơn an toàn.

    Sau chuyến đi đầu thắng lợi, ***************** và Quân ủy Trung ương tổ chức gặp gỡ và liên hoan chúc mừng chúng tôi. Phó ************** Phạm Hùng và Thượng tướng Trần Văn Trà cùng dự liên hoan. Anh em rất phấn khởi vì được Phó ************** khen ngợi và tặng quà.

    Từ kinh nghiệm của chuyến đi đầu, các chuyến sau chúng tôi thường cho tàu cập bến Láng Nước (tỉnh Cà Mau), bến này sâu lại có nhiều rừng đước nên cập tàu thuận lợi và an toàn hơn. Suốt 6 năm làm nhiệm vụ, tôi đã đi 10 chuyến thành công. Riêng chuyến thứ 5 tàu của chúng tôi đụng phải khu trục hạm của Mỹ, do chủ động phát hiện từ xa, nên đã nhanh trí kịp thời chuyển hướng và chuyển hàng tới bến an toàn...

    Giờ đây, với ông, tổ ấm là ngôi nhà nhỏ rợp bóng cây ở làng Lũng - làng hoa, với đủ màu sắc của vùng đất nổi tiếng trồng hoa thành phố, nơi ông bà sống sum vầy cùng các con cháu đã trưởng thành. Ở đó là sự yên bình, đầm ấm, ở đó là những khoảng lặng cần thiết để ngẫm ngợi về những ngày gian khó, ác liệt nhưng hào hùng của những người lính vận tải biển. Vẫn đôi mắt sáng mở to, ông ngồi lặng nhìn ra vườn táo xanh mướt mát kia với ánh nhìn tưởng chừng như lơ đãng mà vẫn ẩn dấu ưu tư. Dường như, ông vẫn thấy bóng dáng còn tàu nhỏ bé năm xưa qua làn mưa ngâu bay lất phất, vẫn thấy gương mặt thân yêu của đồng đội và hy vọng vào ngày gặp mặt...

    Ra về, lòng tôi cứ vấn vương mãi hình ảnh về ông, về đôi mắt sáng, tinh tường, mưu trí, dũng cảm của người thuyền trưởng năm xưa đã tham gia chỉ huy chuyến tàu sắt đầu tiên, đã đi 10 chuyến thành công, đưa vũ khí về giải phóng quê hương, góp phần làm nên trang sử huyền thoại của con đường biển mang tên ********* kính yêu...

    http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/307/309/309/159970/Default.aspx
  9. longtt88

    longtt88 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/11/2004
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    5
    Chân dung các thuyền trưởng tàu không số (Kỳ 3)

    Kỳ 3: Từ du kích trở thành thuyền trưởng

    Từ một du kích trưởng thành thành một thuyền trưởng “tàu không số” dày dạn kinh nghiệm với hàng chục chuyến chở vũ khí vào miền Nam đánh Mỹ. Mỗi chuyến đi là một câu chuyện, một kỷ niệm, nhưng theo ông hồi ức đáng nhớ nhất là “chuyến đón tàu Phương Đông 1 của Chính trị viên Bông Văn Dĩa, Thuyền trưởng Lê Văn Một, ngày 16-10-1962 tại Vàm Lũng-Cà Mau...”. Ông là Nguyễn Xuân Thơm, hiện sống tại 15/7A Đoàn Như Hài, phường 12, quận 4, TP Hồ Chí Minh.

    Ông kể, cuộc đời trai trẻ của mình đã gắn trọn với con đường vận chuyển trên Biển Đông, chở vũ khí cho miền Nam đánh Mỹ. Ông đã tham gia 16 chuyến vượt biển, 10 chuyến thành công, đã từng chỉ huy Tàu HQ-673 chở các lực lượng đặc công đi giải phóng quần đảo Trường Sa, nhưng thực sự câu chuyện “đón chiếc tàu Phương Đông 1 của bác Một, bác Dĩa” làm ông nhớ mãi, không sao quên được.

    Nguyễn Xuân Thơm sinh ra và lớn lên ở xã Tân Tiến, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Từ nhỏ đã được chứng kiến sự độc tài, thối nát của chế độ gia đình họ Ngô. Luật 10/59 của Ngô Đình Diệm đã lê máy chém đi khắp miền Nam gây ra bao nhiêu tội ác dã man với đồng bào. Quê hương, xóm làng bị chìm ngập trong cái gọi là “khu trù mật”. Căm thù giặc Mỹ, Nguyễn Xuân Thơm đã đi theo cách mạng, vào vùng giải phóng, gia nhập đội dân quân du kích Ấp 7 ở quê hương, sau đó ông được chuyển về trung đội du kích xã làm nhiệm vụ canh gác, bảo vệ căn cứ cách mạng, tính mạng và tài sản nhân dân.

    [​IMG]
    Ông Nguyễn Xuân Thơm (bên trái) cùng đồng đội.

    Ông kể, ngày đó cơ sở vật chất cách mạng còn nghèo nàn lắm. Để chống lại các cuộc càn quét của giặc hay phá tan các “khu trù mật” mở rộng vùng giải phóng, đơn vị ông chỉ có trang bị vũ khí thô sơ như súng kíp, lựu đạn, mìn tự tạo, vũ khí đạp lôi làm bằng chai đựng nước, và một loại vũ khí không thể thiếu được đó là chông hầm và chông bàn (đây là loại vũ khí được coi là lợi hại nhất)... Ngoài ra còn có hai khẩu súng trường, ba súng kíp tự làm bằng ống xe đạp cộng với một số lựu đạn lấy được của giặc và lựu đạn mỏ vịt tự làm.

    - Vũ khí thô sơ, thiếu thốn. Vậy mà hai năm trời đơn vị phải chiến đấu với hàng chục trận càn của địch, đối đầu với hàng trăm tên địch được trang bị nhiều vũ khí hiện đại, cùng nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược, san bằng khu trù mật, thủ tiêu chính quyền ngụy, lập lại chính quyền cách mạng, xây dựng quê hương làng xóm thân yêu của mình! Ông kể với giọng đầy sôi nổi, tự hào, gương mặt ánh lên niềm vui rạng rỡ.

    Khoảng giữa năm 1962, ông và một người đồng chí được chuyển công tác về đơn vị mới mà “hoàn toàn chưa biết gì về đặc điểm và tính chất hoạt động của nó”. Về sau mới biết đó là đơn vị TN-3175, thuộc quân khu miền Tây Nam Bộ, trực thuộc Trung ương Cục miền Nam. Tại đây anh em luôn được sự đùm bọc của nhân dân xóm “ấp Máng Gào” thuộc xã Viên An-căn cứ cách mạng hồi kháng chiến chống Pháp, mang truyền thống của cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ 1940 và cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai của anh hùng Phan Ngọc Hiển năm xưa, giờ còn gây tiếng vang khắp vùng. Nơi đây đã trở thành căn cứ cách mạng kháng chiến. Nhiều đồng chí khác từ các xã: Khánh Bình Tây, Khánh Bình Đông, Khánh Lâm thuộc huyện Trần Văn Thời... cũng được điều về đơn vị. Mọi người sống vui vẻ, chan hòa như anh em một nhà, hằng ngày được học tập chính trị, phổ biến nắm bắt tình hình nhiệm vụ mới. Sau mười ngày học tập đơn vị phân công mỗi người một nhiệm vụ khác nhau.

    - Tôi được phân về trung đội vũ trang bảo vệ căn cứ và cơ quan, còn các bộ phận khác đều có nhiệm vụ riêng. Sau đó chúng tôi được Trung ương giao nhiệm vụ chuẩn bị mua ghe tàu, lắp máy trang bị ngụy trang, lo giấy tờ hợp pháp trong vùng địch. Sau ba tháng tích cực chuẩn bị, lo lót chính quyền ngụy, chúng tôi đã có ghe, đầy đủ các loại giấy tờ hợp pháp như giấy đăng ký ghe, thuyền, giấy ngư phủ, giấy hành nghề của hợp tác xã đánh cá của ngụy. Tất cả đã sẵn sàng. Ông Thơm kể.

    Một ngày đầu tháng 10-1962, đơn vị nhận được lệnh sẵn sàng ghe, thuyền để đón nhận vũ khí từ miền Bắc vào. Kể sao hết niềm vui sướng của anh em bến bãi trước tin vui này. Mọi người phấn khởi, hối hả làm việc quên cả ngày đêm, kiểm tra ghe, lưới, sửa chữa máy móc, ngư cụ... Vậy là đồng bào miền Nam sẽ có vũ khí hiện đại để chống lại các cuộc càn quét, tấn công tận sào huyệt tiêu diệt kẻ thù, mở rộng vùng giải phóng. Từ hôm đó, 4 anh em gồm: Tư Lưới - người được giao nhiệm vụ phụ trách bến, Chín Thuân, Dũng (Miên) và ông Thơm hằng đêm đưa ghe ra biển giả vờ đánh bắt cá để nắm tình hình. Ban ngày, anh em lại thu lưới vô rừng ẩn giấu.

    - Những ngày ấy căng thẳng đến ngộp thở. Ông Thơm bùi ngùi nhớ lại. Chúng tôi ngày không dám ngủ, nơm nớp hồi hộp chờ đêm xuống là ra biển ngay. “Ngư trường” của chúng tôi cách bờ từ 3 đến 10 cây số, anh em thay nhau trực canh, mắt luôn nhìn ra biển, hướng đến những dấu hiệu nhỏ nhất, kể cả một ánh chớp lạ trên mặt biển đen bầm thẫm mênh mông. 10 ngày đêm chỉ với mỗi việc giả vờ thả lưới, rồi lại kéo lên, trong một khu vực. Mỗi khi thuyền trôi khỏi “ngư trường”, anh em lại điều khiển ghe ngược dòng, về vị trí cũ, rồi lại thả lưới. Cứ thế! Công việc thật vất vả! Tấm lưới đâu có nhỏ bé chi! Dài tới 200-300 mét. Kéo lên, thả xuống! Ai đấy đều mệt nhoài! Nhưng cứ nghĩ tàu sắp chở vũ khí về, mọi mệt mỏi tiêu luôn! Nhưng cũng chính sự “làm việc tích cực đó” đã che mắt, đánh lạc hướng bọn địch!

    [​IMG]
    Ông Nguyễn Xuân Thơm cùng người nhà bên mộ Anh hùng LLVT nhân dân Bông Văn Dĩa.

    Kể đến đây ông cười giòn giã, ánh lên niềm vui sướng khiến chúng tôi cũng phải bật cười mà nước mắt cứ chực trào khi hình dung cảnh kéo lưới “nghi binh” suốt 10 đêm mịt mùng của 4 chàng “lực điền” mà “chẳng bắt được con cá nào...”. Đến ngày thứ 11, khoảng 6 giờ sáng ngày 16-10-1962, mọi người nhìn thấy một chiếc tàu rất to thấp thoáng, xa xa ngoài cửa Vàm Lũng, sóng nước bọt trắng xóa.

    - Treo cờ tín hiệu lên! Tư Lưới vui mừng ra lệnh. Đèn pin đâu? Sáu Thơm khẩn trương đánh tín hiệu đèn pin! Không khí trên ghe sôi động hẳn. Hồi hộp, tôi lấy chiếc đèn pin, có bịt giấy đỏ để hở một lỗ nhỏ, đánh liền ba chớp dài. Ngoài kia, con tàu vẫn lừ lừ chạy theo hướng sát mép bờ, trên đỉnh có treo cờ và rồi, hai chớp đèn pin nháy dài đánh tín hiệu trả lời.

    - Đúng rồi! Đúng tàu ta rồi! Chúng tôi reo to, ôm chầm lấy nhau sung sướng! Hoan hô! Tàu ông Dĩa đã về! Chúng tôi tiếp tục đánh tín hiệu đèn pin, ra lệnh: “Anh đi theo tôi!” Chiếc tàu lù lù, lừng lững đi vào hướng bến, tới rạch Chùm Gọng.

    Chuyến vận chuyển vũ khí đầu tiên vào miền Nam đã thành công. Mọi người nghẹn ngào, ùa đến, tay bắt mặt mừng, ôm hôn thắm thiết thuyền trưởng Lê Văn Một, chính trị viên Bông Văn Dĩa, thợ máy Năm Sao, Sáu Lai, Năm Kỷ... những người con anh hùng của đồng bào miền Nam, đã vượt qua vòng vây phong tỏa của giặc thù, qua phong ba bão tố chở vũ khí cho đồng bào miền Nam đánh Mỹ. Niềm hạnh phúc thật lớn lao! Hàng chục chiếc ghe, xuồng lập tức ghé tới bốc hàng. Những thùng vũ khí còn nguyên mùi sơn mới, mùi khét dầu mỡ, nhanh chóng được vận chuyển cất giấu ở nơi khác. Suốt 3 ngày đêm vất vả mới vận chuyển hết số hàng và vũ khí tàu Phương Đông 1 chở về.

    Vậy là con đường biển nối liền hậu phương lớn với tiền tuyến lớn không còn là dự định, là mong ước mà đã trở thành hiện thực. Chuyến đầu tiên thắng lợi làm tiền đề cho những chuyến đi tiếp đó thành công. Chúng tôi đã liên tục đón thêm 3 chuyến tàu nữa tại đây. Đồng chí Tư Đức - người phụ trách bến vui mừng khôn xiết, xúc động nói với các cán bộ, thuyền viên: “Các đồng chí không chỉ đưa vũ khí vào cho chúng tôi, mà còn mang cả tình thương của Đảng, của Bác, của đồng bào miền Bắc với miền Nam ruột thịt; tiếp sức để miền Nam chiến đấu giải phóng quê hương”.

    Một năm sau, tôi ra Bắc nhận nhiệm vụ mới và đã trải qua nhiều chuyến đi, nhiều trận chiến đấu, tôi đã trưởng thành, từ một chiến sĩ trở thành thuyền trưởng của Đoàn tàu Không số anh hùng và huyền thoại trên Biển Đông.

    http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/307/309/309/160053/Default.aspx
  10. longtt88

    longtt88 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/11/2004
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    5
    Đoàn 759 ra đời

    Sau khi Đoàn 559 ra đời và bước vào hoạt động, đồng thời những chuyến tàu thuyền vượt biển từ Nam Bộ ra miền Bắc an toàn đã thôi thúc việc xúc tiến thành lập một đoàn vận tải thủy tiếp tế vũ khí cho miền Nam càng trở nên khẩn trương hơn.

    Do yêu cầu bí mật và tính chất quan trọng của việc mở tuyến đường biển Bắc-Nam nên Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương trực tiếp nắm và chỉ đạo việc mở tuyến mà không giao cho cơ quan trung gian nào.

    Trung tướng Trần Văn Trà, Phó Tổng tham mưu trưởng được Quân ủy Trung ương giao nhiệm vụ này. Giúp việc cho đồng chí Trần Văn Trà có các đồng chí: Nguyễn Quang Minh, Lưu Đức (Tập đoàn đánh cá sông Gianh), Phạm Thái Hòa (Ba Nhâm)...

    Ngày 23-10-1961, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Hoàng Văn Thái thay mặt Bộ Quốc phòng ký Quyết định số 97/QP thành lập Đoàn 759. Đoàn được giao nhiệm vụ chi viện vũ khí cho miền Nam bằng đường biển. Trung tá Đoàn Hồng Phước được bổ nhiệm làm Đoàn trưởng. Do tính chất, nhiệm vụ đặc biệt nên Đoàn 759 đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Quân ủy Trung ương. Quân ủy cử một số cán bộ các tổng cục đặc phái giúp đơn vị về mọi mặt.

    [​IMG]
    Những cán bộ, chiến sĩ đầu tiên của Đoàn 759 đi chuyến mở đường đầu tiên vào tháng 10-1962. Ảnh Tư liệu

    Ngay sau khi thành lập, đoàn đã tổ chức cho anh em ở các đội tàu học tập văn hóa, kỹ thuật, chính trị, huấn luyện về hàng hải nhằm nâng cao trình độ mọi mặt, nhất là năng lực đi biển. Cuối năm 1961, đề án công tác của đoàn soạn thảo đã được Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng thông qua. Những vấn đề chính được dự tính như sau:

    Phương tiện vận chuyển: Trước mắt tận dụng những phương tiện thô sơ, nửa hiện đại, tổ chức nghiên cứu để có các đội tàu tương đối hiện đại, trọng tải lớn, có thể hoạt động quanh năm, không phụ thuộc vào thời tiết, gió bão. Khi có thời cơ sẽ sử dụng những tàu có sức chở từ 200 tấn đến 500 tấn mỗi chiếc.

    Phương châm hoạt động: Vừa bằng phương thức hợp pháp vừa bất hợp pháp, lấy hoạt động hợp pháp làm phương thức chủ yếu. Quá trình vận chuyển phải chủ động, táo bạo, bất ngờ, hết sức lợi dụng sơ hở của địch để đưa hàng đến bến. Đồng thời phải có sẵn phương án thật mưu trí đối phó với địch khi bị lộ, kiên quyết chiến đấu bảo vệ hàng, nếu cần thì nổ tàu để giữ bí mật.

    Bộ Quốc phòng trù tính khả năng đối phó quyết liệt của địch nên cho phép đoàn nếu gặp khó khăn có thể đưa 50% số hàng đến nơi cũng là hoàn thành nhiệm vụ.

    Nghiên cứu kỹ, xem xét mọi mặt nhất là khả năng, kinh nghiệm, con người, phương tiện, bài học rút ra từ những chuyến thuyền đi trước, Quân ủy và Bộ Quốc phòng quyết định hướng đột phá của đoàn sẽ là Nam Bộ, sau đó sẽ phát triển ra Khu 6, Khu 5. Qua thực tế vận chuyển sau này đã chứng tỏ quyết định đó của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng là hoàn toàn đúng đắn và chính xác.

Chia sẻ trang này