1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những con tàu huyền thọai trên biển Đông

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi vaputin, 12/01/2011.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. longtt88

    longtt88 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/11/2004
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    5
    Tuyến đường vận tải quân sự độc đáo, sáng tạo

    Để đưa cách mạng miền Nam chuyển sang bước phát triển mới, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 15 (1-1959) xác định: Con đường giải phóng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng; miền Nam cần phải nhận được sự chi viện sức người, sức của từ miền Bắc, miền Nam phải có nhiều vũ khí để đánh giặc. Tháng 5-1959, Bộ Chính trị giao Bộ Quốc phòng tổ chức “Đoàn công tác quân sự đặc biệt”, mang phiên hiệu Đoàn 559, mở đường Trường Sơn, chi viện chiến trường miền Nam. Tiếp đó, Bộ Chính trị quyết định mở tuyến chi viện chiến lược bằng đường biển vào Nam Bộ, không chờ tuyến vận chuyển đường bộ dọc theo dãy Trường Sơn hoàn thành.

    Thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị, tháng 7-1959, Tổng Quân ủy (từ năm 1961 là Quân ủy Trung ương) quyết định tổ chức đường vận chuyển chiến lược trên biển và thành lập Tiểu đoàn 603 dưới danh nghĩa “Tập đoàn đánh cá sông Gianh”. Tiếp đó, ngày 23-10-1961, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Đoàn 759 (năm 1964 đổi tên là Đoàn 125) thực hiện nhiệm vụ vận chuyển chiến lược bằng đường biển chi viện chiến trường miền Nam.

    Tháng 8-1962, Quân ủy Trung ương ra nghị quyết về mở đường vận chuyển chiến lược trên biển, hướng đột phá là các tỉnh Nam Bộ, tiếp đó phát triển ra Khu 6, Khu 5. Đây là quyết định hoàn toàn đúng đắn, sáng suốt và quyết tâm lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Từ đây, con đường vận chuyển chiến lược sáng tạo và độc đáo như một huyền thoại trên Biển Đông mang tên Đường Hồ Chí Minh trên biển hình thành.

    [​IMG]
    Tàu của Đoàn 125 nhận hàng từ bến Đá Bạc (Thủy Nguyên, Hải Phòng) để vận chuyển, chi viện chiến trường miền Nam. Ảnh tư liệu.

    Quá trình vận chuyển theo Đường Hồ Chí Minh trên biển, từ khảo sát nắm tình hình, tổ chức những chuyến đi thử nghiệm, trinh sát, đến việc xác định phương thức, phương tiện vận chuyển đã khó; việc tiếp tục sử dụng những con tàu không số bí mật theo con đường này càng khó khăn hơn, bởi trên biển không có vật che khuất như Đường Hồ Chí Minh trên bộ; địch tăng cường bao vây, phong tỏa, kiểm soát nghiêm ngặt và số tàu vận chuyển của ta cũng ngày một nhiều hơn so với lúc đầu. Vì thế, sau sự kiện Vũng Rô (tháng 2-1965), yếu tố bí mật, bất ngờ không còn, địch nắm được ý đồ của ta. Sau khi nghe báo cáo về tàu vào Vũng Rô bị lộ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chỉ thị: Phải ngừng ngay việc vận chuyển bằng đường biển vào miền Nam, tổ chức rút kinh nghiệm và nghiên cứu hướng vận chuyển theo phương thức mới phù hợp.

    Từ đây, Quân chủng Hải quân chuyển sang giai đoạn vận chuyển mới: Địch đã phát hiện ra tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển của ta, còn ta bước sang giai đoạn hết sức khó khăn, gian khổ phải đối mặt quyết liệt với các tình huống địch phong tỏa. Sau khi nghiên cứu tình hình địch, quân chủng nhận định: Mặc dù vùng ven biển miền Nam, địch dùng ra-đa, tàu thuyền, máy bay kiểm soát chặt chẽ, song ở vùng ngoài khơi xa, chúng vẫn có lúc sơ hở, ta phải triệt để lợi dụng để hoạt động. Trên cơ sở đó, quân chủng quyết định thực hiện phương án vận chuyển theo phương thức mới: Đi xa bờ, xác định vị trí tàu bằng thiên văn (còn gọi là đi bằng phương pháp thiên văn) và tăng thêm tàu, cải dạng thành tàu đánh cá, tàu buôn ra vùng biển xa để tránh địch phát hiện.

    Trong giai đoạn vô cùng khó khăn, gian khổ (1965-1968), cán bộ, chiến sĩ ta phải chiến đấu nhiều trận rất quyết liệt và bị tổn thất, trong số 28 chuyến, chỉ có 7 chuyến vận chuyển vào được chiến trường. Những năm 1969-1972, ta tiếp tục phá thế phong tỏa của địch, đưa tàu ra xa tận vùng biển quốc tế, hòa vào các tuyến nhiều tàu thuyền các nước qua lại, vận chuyển khoảng 10 chuyến vào miền Nam. Tiếp đó, những năm 1973-1974, Quân chủng Hải quân sử dụng 380 lượt tàu vận chuyển hàng chục nghìn tấn vũ khí chi viện chiến trường. Đặc biệt, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh, quân chủng huy động 143 lần tàu, vận chuyển 8.721 tấn vũ khí cùng 50 xe tăng, pháo binh vào tham gia chiến đấu, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam.

    Đường Hồ Chí Minh trên biển là một nét độc đáo, đặc sắc, rất sáng tạo về chiến lược vận tải quân sự của chiến tranh cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX. Việc mở đường vận chuyển chi viện miền Nam và những chiến công về con đường biển mang tên Hồ Chí Minh thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cùng với Đường Hồ Chí Minh trên dãy Trường Sơn, Đường Hồ Chí Minh trên biển thể hiện sự kết nối chặt chẽ giữa hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam. So với Đường Hồ Chí Minh trên bộ, khối lượng vũ khí vận chuyển theo Đường Hồ Chí Minh trên biển ít hơn nhiều, nhưng chi viện kịp thời đến các vùng ven biển miền Trung và Tây Nam Bộ, những nơi vận tải bộ chưa vươn tới. Những chiến công của từng chuyến tàu không số chi viện chiến trường thể hiện lòng trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, tinh thần mưu trí, sáng tạo, dũng cảm hy sinh của cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam trong mọi tình huống; thể hiện tình đoàn kết quân dân, giữa cán bộ, chiến sĩ hải quân với các đơn vị, cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương vùng ven biển, nơi các bến bãi tiếp nhận vũ khí. Đây là con đường của ý chí và sức sáng tạo, độc đáo Việt Nam; kế thừa truyền thống sông biển oanh liệt của dân tộc và phát triển lên tầm cao mới trong điều kiện chiến tranh gian khổ, ác liệt, góp phần vào thắng lợi chung của dân tộc.

    Đại tá, TS Dương Đình Lập
  2. longtt88

    longtt88 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/11/2004
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    5
    Chân dung các thuyền trưởng tàu không số (Kỳ 4)

    Kỳ 4: Nguyễn Phan Vinh, bản hùng ca bất tử

    21 tuổi nhập ngũ, 35 tuổi hy sinh, đó là những dòng tiểu sử ngắn ngủi, bình dị của Trung úy, Thuyền trưởng tàu Hải quân Nguyễn Phan Vinh (1933-1968). Năm 1970, anh đã được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân. Một hòn đảo thuộc quần đảo Trường Sa đã được mang tên anh, đảo Phan Vinh.

    Gia đình người anh hùng


    Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chúng ta đã có một con đường xẻ dọc Trường Sơn mà hễ nhắc đến là lại liên tưởng tới những sự tích thần kỳ. Song, ngoài con đường ấy, còn có một con đường khác nữa, đó là con đường vận chuyển vũ khí từ Bắc vào Nam trên Biển Đông với một nét độc đáo, sáng tạo như thần thoại, với biết bao kỳ tích cảm động về lòng dũng cảm, sự hy sinh quên mình của những người chiến sĩ Đoàn tàu không số và tình cảm gắn bó keo sơn với quân dân các bến đỗ ở miền Nam. Đó là con đường huyền thoại: Đường Hồ Chí Minh trên biển và tên tuổi Nguyễn Phan Vinh gắn liền với tên con đường ấy.

    [​IMG]
    Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Phan Vinh. Ảnh tư liệu.

    Nguyễn Phan Vinh là người con ưu tú của mảnh đất Điện Nam, Điện Bàn, Quảng Nam (cũ) sinh ra trong một gia đình cách mạng. Tháng 3-1968, anh hy sinh ở Hòn Hèo thì cuối năm ấy, cha của anh, người du kích tên là Nguyễn Đức Mẫn cũng hy sinh trong một trận chống càn tại quê nhà. Mẹ anh mất trước đó 5 năm, (năm 1963) vì bị địch bắt, đánh đập, tra khảo dã man.

    Năm bà ra đi cũng là năm người con trai thứ hai, Nguyễn Đức Lân ngã xuống trên chiến trường Quảng Nam. Người duy nhất còn lại trong gia đình là anh Nguyễn Đức Xử. Một người bạn của tôi trong đợt đi làm phim về “Tàu không số” kể chuyện đã được nghe anh Xử nói về người em trai của mình: “Phan Vinh tuy là con út trong gia đình, nhưng ngay từ nhỏ đã là người cứng cỏi, quyết đoán, và đặc biệt là giàu lý tưởng”.

    Có lẽ chính từ cái cứng cỏi, quyết đoán và giàu lý tưởng cách mạng đó đã làm nên một Phan Vinh với chiến công oanh liệt trên vùng biển Hòn Hèo.

    Tàu 235 - bản anh hùng ca bất tử trên vùng biển Hòn Hèo

    Hòn Hèo là tên chung chỉ vùng biển và dãy núi chạy qua hai xã Ninh Phước, Ninh Vân thuộc tỉnh Khánh Hòa. Hòn Hèo cách Nha Trang khoảng hơn 10km đường biển. Nơi đây, Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh và đồng đội đã hy sinh cùng Tàu 235 vào năm 1968.

    Thời kỳ đó, kẻ địch đã tìm mọi cách ngăn chặn con đường vận chuyển trên biển mà chúng gọi là con đường “cực kỳ nguy hiểm” này. Không quân, Hải quân Mỹ và quân ngụy Sài Gòn tung lực lượng khá mạnh để chăng lưới bủa vây trên mặt biển đón bắt những con tàu cảm tử chở vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam. Trên biển, chúng chia từng tổ bố trí tàu chiến ngăn chặn và lắp đặt ra-đa quét sóng đêm ngày. Trên trời và trong đất liền cả đêm lẫn ngày, chúng cho lính và máy bay trinh sát, tuần tra, canh phòng.

    Ông Long An, một trong 5 người sống sót đã kể lại chuyến đi của Tàu 235.

    - 11 giờ 30 phút ngày 27-2-1968, Tàu 235 xuất phát chở hơn 14 tấn vũ khí vào bến Hòn Hèo. Đây là bến hết sức khó vào, luồng hẹp, nhiều đá ngầm. Một tài liệu của Pháp viết rằng, tàu muốn ra vào Hòn Hèo phải có những tay thuyền trưởng lão luyện, với trên dưới 20 năm tuổi nghề.

    Trung úy Nguyễn Phan Vinh tuy chưa có tuổi nghề cao nhưng được tin cậy chỉ huy con tàu này. Tàu có 21 cán bộ, chiến sĩ; Chính trị viên: Nguyễn Tương, Thuyền phó 1: Đoàn Văn Nhi, Thuyền phó 2: Võ Tá Tu, máy trưởng: Trương Văn Mùi. Tôi là thợ máy trên Tàu 235.

    Trước giờ nhổ neo, chiến sĩ Ngô Văn Dầu bị viêm phổi phải vào viện nên đội hình còn lại 20 người. Chúng tôi đi hai ngày đêm trên vùng biển quốc tế. Tối 29-2, tàu đến ngang vùng biển Nha Trang và chuyển hướng vào bờ. Phát hiện ra tàu ta, địch lập tức huy động 3 tàu chiến: Ngọc Hồi, 12, 617 và 4 tàu khác của Duyên đoàn 25 đến vùng biển Nha Trang với ý định bắt sống...

    Biết đã bị lộ, Thuyền trưởng Phan Vinh khôn khéo điều khiển Tàu 235 luồn lách qua đội hình tàu địch và đến được bến Ninh Phước lúc 0 giờ 30 phút ngày 1-3-1968. Anh quyết định thực hiện phương án 2, cho thả hàng xuống nước để quân dân ở bến mò vớt sau. Các kiện hàng được bao gói đặc biệt lần lượt lăn xuống biển. Lúc đó, chừng 1 giờ 30 phút, 3 tàu loại lớn và 4 tàu loại nhỏ của địch khép chặt vòng vây ở phía sau, phía trước là núi.

    Phan Vinh cho tàu chạy ven bờ xuôi xuống bến Ninh Vân chừng độ mươi hải lý, nhằm mục đích giữ bí mật không để lộ vị trí thả vũ khí. Tàu địch lập tức đuổi theo, nã đạn dữ dội rồi bật đèn pha và gọi máy bay đến thả pháo sáng, bắn rốc-két. Trong lửa đạn, Nguyễn Phan Vinh bình tĩnh chỉ huy anh em chiến đấu và điều khiển tàu chạy sát bờ. Các thủy thủ Thật, Phong liên tiếp dùng DKZ và 14 ly 5 bắn về phía tàu địch, một chiếc bốc cháy khiến chúng không dám vào gần.

    Cuộc chiến đấu mỗi lúc một ác liệt. Hỏa lực của địch liên tục bắn vào tàu ta. 5 cán bộ, chiến sĩ trên tàu đã hy sinh, 2 người bị thương nặng, 7 người bị thương nhẹ. Thuyền trưởng Phan Vinh cũng bị mảnh đạn xượt qua đầu. Anh tự băng bó và vẫn đứng trong buồng lái động viên mọi người chiến đấu. Anh có ý định phá vòng vây bởi ngoài khơi dễ cơ động, nếu cần thì áp sát tàu địch và cho nổ tàu tiêu diệt bọn chúng. Nhưng rất không may, lúc đó máy tàu hỏng nặng. Ý định phá vòng vây không thành.

    Anh chỉ huy cho tàu di chuyển vào sát bờ. Lúc đó chừng 2 giờ 20 phút, tàu cách bờ hơn 100m, anh tổ chức đưa người đã hy sinh và bị thương vào bờ, sau đó ra lệnh chuẩn bị điểm hỏa cho nổ tàu. Anh Vinh, Thứ và tôi cài kíp nổ ở khoang máy, các vị trí khác do Khung, Thật, Mai đảm nhiệm. Kiểm tra xong lần cuối, chúng tôi nhảy xuống nước bơi vào bờ. Tôi được giao nhiệm vụ nếu tàu không nổ phải quay lại kiểm tra các kíp nổ.

    20 phút sau, lúc 2 giờ 40 phút, ngày 1-3, một cột lửa bùng lên, kế đó là tiếng nổ dữ dội, chấn động tới Nha Trang. Sức công phá của khối thuốc nổ khiến Tàu 235 đứt đôi, một nửa chìm xuống biển, một nửa văng lên lưng chừng núi Bà Nam, xã Ninh Vân. Sau những phút giây bàng hoàng, địch gọi máy bay đến bắn phá ven biển, nhằm dọn đường cho bộ binh bao vây, bắt sống các thủy thủ Tàu 235. Số thủy thủ rút lên bờ còn lại 9 người. Địch lập tức đổ quân lùng sục.

    Thuyền trưởng Vinh và thợ máy Thứ chốt ở đó, kiên cường chống trả, đánh lui nhiều đợt tấn công của địch, và cuối cùng, lực kiệt, vết thương ngày một nặng, súng không còn đạn, các anh đã hy sinh. Số thủy thủ của Tàu 235 còn lại 7 người, đó là Thuyền phó Nhi và 6 thủy thủ: Mai, Thật, Phong, Khung, Tuyến và tôi. Tất cả đều thương tích đầy mình. Anh em cố gắng dìu nhau di chuyển khắp vùng núi đá Hòn Hèo.

    Mười ngày phơi dưới nắng, không lương thực, không nước uống, chúng tôi kiệt sức. Ngày thứ 11, Khung đi tìm nước uống, rồi không trở về. Sau này mới hay, Khung bị địch bắt. Ngày thứ 12, chúng tôi liên lạc được với du kích ở bến. Mọi người quay lại đón anh Nhi đang nằm trong rừng. Nhưng anh không còn ở đó nữa, chỉ thấy mảnh áo rách và cuốn băng cá nhân, máu đã khô...

    Về sự kiện này, tạp chí Lướt sóng của Hải quân ngụy Sài Gòn viết: “Mười hai chiến hạm và hàng chục hải thuyền của Hoa Kỳ cùng quân lực Việt Nam cộng hòa có phi cơ yểm trợ, đụng độ ác liệt với một tiểu đoàn ********* (thực chất chỉ có 20 thủy thủ) gan góc và thiện chiến trên con tàu chở vũ khí từ Bắc Việt thâm nhập và tiếp tế cho Mặt trận Giải phóng. Họ đã nổ súng đến viên đạn cuối cùng, đến người cuối cùng và hy sinh với con tàu bằng khối lượng hàng tấn bộc phá do chính tay họ tự hủy, không để lại một dấu vết”...

    Kể đến đây, ông Long An lặng đi, đôi mắt đỏ hoe. Đưa tay gạt những giọt nước mắt, ông nói tiếp:

    - Phan Vinh là một thuyền trưởng giỏi, anh đã có 11 chuyến vận chuyển vũ khí thành công, dũng cảm, quyết đoán, sống chân thành, được anh em quý mến. Tôi chỉ tiếc chẳng giữ được chút kỷ vật nào của người thuyền trưởng anh hùng ấy.

    Những dòng thư đầy ắp niềm tin và lý tưởng cách mạng

    Điều mà ông Long An day dứt phần nào đã được giải tỏa bởi tại Bảo tàng Hải quân hiện còn lưu giữ những bức thư của Phan Vinh gửi người bạn thân là Trần Phong (đồng chí Trần Phong - nguyên Quyền đoàn trưởng Đoàn 125 Hải quân). Trần Phong và Phan Vinh là đôi bạn thân. Họ cùng quê, cùng tập kết ra Bắc, cùng học ở Trung Quốc và cùng về Quân chủng Hải quân làm thuyền trưởng. Những lá thư anh viết khi đang ở tại căn cứ trên nước bạn, chuẩn bị cho những chuyến đi.

    Lá thư Trần Phong nhận ngày 26-10-1967, có đoạn:

    “Chúng ta phải là những con lạc đà trên bãi sa mạc, mỗi bước đi, mỗi vết chân của chúng ta vì sự nghiệp của Đảng, chúng ta phải là những chiếc cầu chì, vui vẻ và lạc quan mà nhận lấy công tác ở những nơi nguy hiểm nhất. Và khi cần thiết, ta hy sinh sinh mạng mình cho Đảng, cho nhân dân. Thời gian, thời gian sẽ ủng hộ chúng ta...".

    Lá thư gửi tháng 1-1968, trước khi anh hy sinh một tháng, có đoạn: “Phong thân! Mình không ngờ đến nơi đây. Mùa hè đã qua mà nóng ghê, nhưng đâu có nóng bằng cõi lòng người chiến sĩ. Mọi việc ở đây diễn ra bình thường, rất mong ngày “thượng lộ”, ấy thế mà cứ ăn chực nằm chờ mãi, kể cũng ê. Còn những gì tiếp theo nữa thì để lịch sử trả lời. Hẹn gặp Phong vào một ngày vinh quang, điều đó khẳng định... Phong hãy giúp mình biên thư cho anh Xử. Khi nào có dịp mình sẽ biên thư sau, hoặc sẽ có dịp gặp. Mình không muốn biên thư vì mình nghĩ rằng mọi riêng tư lúc này sẽ làm con người ta khó bước tới. Tình cảm đó có lẽ để dành cho sau chiến tranh. Bây giờ thì mình chỉ có một tình cảm duy nhất là hãy bước tới và xông vào cuộc cách mạng vĩ đại, con người hoàn toàn không sợ ràng buộc bởi những mối dây nào khác. Tạm gác lại những tình cảm riêng tư để dồn cho điều duy nhất đó là bước tới và xông vào cuộc cách mạng vĩ đại, với niềm tin vững chắc vào thắng lợi”.

    Phan Vinh và thế hệ thanh niên của đất nước đã đi vào chiến trận với tinh thần lạc quan bởi họ luôn nung nấu một lý tưởng cao đẹp, một niềm tin chắc chắn rằng, sự hy sinh vì nghĩa của mình sẽ được nối tiếp, và sẽ thành công. Trong số các anh, có người không còn nữa, nhưng niềm tin và lý tưởng mà các anh tâm nguyện còn sống mãi.

    http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/307/309/309/160097/Default.aspx
  3. longtt88

    longtt88 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/11/2004
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    5
    Kỳ tích Đường *********** trên biển - K15 Mốc son lịch sử



  4. longtt88

    longtt88 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/11/2004
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    5
    Những trang đời huyền thoại (Kỳ 5)

    Kỳ 5: Xứng đáng là người con của biển

    Đại tá Phạm Duy Tam - Nguyên Phó tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân chính là người đã có 7 lần vượt biển trên con tàu không số chở vũ khí vào chiến trường miền Nam. Ông cũng là người vinh dự được giao trọng trách chỉ huy tàu 675 thần tốc hành quân trong điều kiện sóng to, gió lớn, vượt gần 500 hải lý để cùng với các lực lượng dũng cảm truy kích địch và giải phóng hoàn toàn quần đảo Trường Sa vào rạng sáng ngày 29-4-1975.

    Người 7 lần “truy điệu sống”


    Chiến tranh đã đi qua hơn 1/3 thế kỷ, nhưng dường như kỷ niệm về những năm tháng lênh đênh trên con tàu không số vượt biển “tiếp máu” cho chiến trường miền Nam chưa bao giờ phai nhạt trong tâm trí Đại tá Phạm Duy Tam.

    [​IMG]
    Chân dung Đại tá Phạm Duy Tam.

    Ông quê Hải Trạch, Bố Trạch (Quảng Bình). Tuổi thơ gắn liền với biển cả, nên lớn lên ông trở thành lính thủy, rồi sau đó tốt nghiệp sĩ quan hải quân, đến năm 1969 thì về nhận công tác tại Đoàn tàu không số, được bổ nhiệm Phó Thuyền trưởng tàu 42.

    Ngày còn giữ chức Phó chỉ huy trưởng Vùng 3 Hải quân ông là người thường xuyên sâu sát kiểm tra, bám nắm tình hình cơ sở. Những lần như thế cánh lính trẻ thường yêu cầu thủ trưởng kể chuyện về đoàn tàu không số. Trước khi kể bao giờ ông cũng không quên câu “nhắc khéo”: “Các cậu bây giờ quá sướng, chứ hồi “tớ” làm gì có được tàu to, trang bị vũ khí, máy móc, khí tài hiện đại như bây giờ. Vì thế “các cậu” phải lo mà bảo quản cho thật tốt để dùng bền đó!”.

    Cánh lính trẻ đồng thanh: “Thưa thủ trưởng, chúng em sẽ cố gắng”, rồi mắt tròn, mắt dẹt lắng nghe. Ông kể: “Ngày ấy vượt biển, trên tàu chỉ có chiếc la bàn từ, đồng hồ thiên văn, máy 1/6 dùng để đo mặt trời, trăng, sao và một bộ tính thiên văn, không có định vị, la bàn con quay, máy đo sâu, máy tính đường, máy móc thông tin liên lạc chủ yếu đánh moóc tạch tè. Để phục vụ cho mỗi chuyến đi, tàu phải chuẩn bị đầy đủ một tháng lương thực, thực phẩm, nhiên liệu, nước uống... Cán bộ, thủy thủ còn tranh thủ thời gian huấn luyện sử dụng các loại vũ khí, luyện tập xử lý tình huống có thể xảy ra trên biển, các phương án rời tàu, đánh bộc phá khi cần phá hủy tàu….

    Do tính chất thực thi “nhiệm vụ đặc biệt”, vì thế trước khi vượt biển, tổ chức làm lễ “truy điệu sống” cho tất cả thủy thủ trên tàu không số. Cấp trên và những người ở lại coi chúng tôi là những chiến sỹ cảm tử quân. Nguyên tắc bất di bất dịch là phải giữ cho bằng được bí mật của con đường. Trường hợp bị địch phát hiện, truy kích, không thoát khỏi vòng vây của chúng thì phải tự dùng bùng bộc phá để hủy tàu, không để người và vũ khí rơi vào tay giặc.

    Cứ thế, những con tàu không số âm thầm, lặng lẽ ra đi. Phía trước là bão tố, chông gai, là bom rơi, đạn nổ và mất mát, hi sinh. Phía sau là tiếng gọi quê hương thôi thúc. Do vậy mỗi lần đi chẳng ai biết trước số phận mình sẽ ra sao. Sự sống và cái chết quá mong manh vì tàu ta thì bé nhỏ mà biển khơi thì bao la, đã vậy kẻ thù luôn rình rập ngày đêm.

    [​IMG]
    Đại tá Phạm Duy Tam (thứ 3 từ phải sang) cùng đồng đội thăm di tích đường Hồ Chí Minh trên biển.

    Lễ “truy điệu sống” diễn ra trang nghiêm. Những người ở lại từ thủ trưởng Bộ Tư lệnh cho tới đồng đội đều không cầm được lòng mình. Nhưng chúng tôi – thủy thủ của tàu không số chẳng mấy ai sờn lòng. Chúng tôi hiểu, mỗi khẩu súng, thùng đạn, hộp thuốc... được vận chuyển vào chiến trường miền Nam là quý giá vô ngần. Vì thế 100% cán bộ, thủy thủ đều quyết tâm lên đường...”.

    Gần chục năm lênh đênh cùng các con tàu không số vượt biển, Đại tá Phạm Duy Tam có 7 lần được “truy điệu sống”. Nhưng điều kỳ diệu là những chuyến đi của ông và đồng đội nhiều lần gặp bão tố và sự theo dõi gắt gao của kẻ địch nhưng nhờ sự mưu trí, khôn khéo và tinh thần quả cảm, họ đã vượt qua tất cả để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ...

    Thần tốc, giải phóng Trường Sa

    Nhân dịp Đại tá Phạm Duy Tam về Đà Nẵng thăm gia đình, tôi đã gặp và đề xuất ông kể lại chuyến vượt biển giải phóng Trường Sa năm ấy. Vốn là sỹ quan cấp dưới của ông từ hồi còn ở Vùng 3 Hải quân, thế nên khi tôi đề đạt “nguyện vọng” là ông “chiều” ngay.

    Và câu chuyện ông kể như thước phim quay chậm giúp tôi hiểu thêm về biên đội tàu ngày ấy thần tốc vượt biển, giải phóng Trường Sa... “Hai tuần sau ngày thành phố Đà Nẵng được giải phóng, tôi được Bộ Tư lệnh Quân chủng giao nhiệm vụ làm biên đội trưởng một biên đội tàu cá giả dạng (tàu không số) hành quân cấp tốc từ Hải Phòng vào quân cảng Tiên Sa (Đà Nẵng). Cấp trên xác định, lực lượng của chúng tôi là mũi tiến công duy nhất trên hướng biển do các đoàn tàu không số (Đoàn 125) được lệnh phối hợp cùng lực lượng đặc công nước và Sư đoàn 2 bộ binh, Quân khu 5.

    Đúng 4 giờ ngày 11-4-1975, biên đội ba tàu 675, 673 và 674 lên đường. Chuyến đi ấy ngoài chức trách là biên đội trưởng, tôi còn làm Thuyền trưởng tàu 675. Đồng chí Nguyễn Xuân Thơm – Thuyền trưởng tàu 673. Còn tàu 674 do đồng chí Nguyễn Văn Đức làm Thuyền trưởng. Do tính cấp thiết của nhiệm vụ nên biên đội tàu chúng tôi chạy hết công suất, thẳng hướng đảo Song Tử Tây. Chuyến đi ấy gió lớn trong khi tàu ta là loại tàu nhỏ nên bị sóng quần cho tơi tả. Tất cả thành viên vẫn phấn chấn vì được ra giải phóng Trường Sa là niềm vinh dự quá đỗi tự hào của người chiến sỹ. Những cơn sóng biển đổ chụp xuống con tàu, ai cũng say sóng nhưng vẫn kiên cường bám trụ. Lực lượng đặc công thủy nằm bẹp dưới hầm tàu để tránh bị phát hiện. Anh em say sóng lừ đừ nhưng vẫn ráng chịu đựng. Biển sóng to, gió lớn trong khi tàu ta bé nhỏ, mọi người quyết định vẫn mở hết công suất máy. Rồi một chiếc tàu bị hỏng máy. Khó khăn hơn, cả đội tàu không thể liên lạc được với sở chỉ huy tiền phương của Bộ tư lệnh Quân chủng đóng ở Đà Nẵng. Trước tình hình đó, chúng tôi vượt biển bằng la bàn, dõi theo con nước và ngắm sao trời... Sau 3 ngày đêm vật lộn với sóng, gió vượt gần 500 hải lý, chúng tôi đã thấy đảo Song Tử Tây như một chấm nhỏ xa mờ. Ngày đó các đảo còn thấp lè tè, chiều cao chỉ từ 1,5m đến 4,5m so với mặt nước biển. Ban ngày phát hiện đã khó, ban đêm lại càng khó hơn vì đảo không có điện, lại nhấp nhô giữa biển nước mênh mông biết đâu là đảo có quân đội ngụy quyền Sài Gòn chiếm giữ”.

    [​IMG]
    Đại tá Phạm Duy Tam (thứ 3 từ trái sang) cùng đồng đội ra thăm Trường Sa nhân kỷ niệm 20 năm ngày giải phóng quần đảo.

    Đại tá Phạm Duy Tam bỗng hạ giọng: “Ngày đó, chúng tôi được trên chỉ thị là tuyệt đối không đánh nhầm. Đây là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn bởi máy móc, thiết bị hàng hải mà ta có được lúc đó quá thô sơ. Cuối cùng bằng kinh nghiệm, chúng tôi cũng phát hiện quân đội Sài Gòn chiếm giữ những đảo nổi của Trường Sa. Trong đó đảo Nam Yết là sở chỉ huy với lực lượng lên đến 60 lính; các đảo Song Tử Tây, Trường Sa Lớn đều có 40 lính; các đảo Sơn Ca, Sinh Tồn, An Bang có 20 lính… Thời cơ ngàn năm có một đã tới, biên đội nhanh chóng triển khai đội hình chiến đấu. Hai tàu 674 và 673 án ngữ phía Bắc đảo 15 hải lý đề phòng đối phương từ phía Bắc xuống và nghi binh hai tàu chiến của ngụy đang lởn vởn ở khu vực đảo Nam Yết. Tàu 675 do tôi chỉ huy bí mật tiếp cận gần mép san hô của đảo, rồi thả xuồng cao su, lần lượt chở bộ đội đặc công nước do đồng chí Nguyễn Ngọc Quế (Đội trưởng Đội 1 – Đoàn 126) chỉ huy đổ bộ lên đánh chiếm đảo.

    Đúng 4 giờ 30 phút, ngày 14-4-1975, ta bất ngờ đồng loạt nổ súng, tiêu diệt 7 tên, bắt sống 33 tên, giải phóng hoàn toàn đảo Song Tử Tây. Ngay trong đêm đó, tôi tiếp tục chỉ huy tàu chở tù binh từ đảo Song Tử Tây về Quân cảng Đà Nẵng an toàn. 10 ngày sau, tàu 641 (Đoàn 125) tiếp tục chở phân đội đặc công nước do đồng chí Đỗ Viết Cường (Đội phó Đội 1- Đoàn 126) đổ bộ đánh chiếm và giải phóng đảo Sơn Ca, bắt sống 17 tên ngụy. Thừa thắng xông lên, quân ta tấn công giải phóng đảo Nam Yết.

    Đúng 2 giờ sáng ngày 29-4-1975 trên hướng tiến công đường biển ta đã kéo cờ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, giải phóng những đảo thuộc quần đảo Trường Sa do ngụy quyền Sài Gòn chốt giữ. Ngày đó, ngắm nhìn lá cờ Tổ quốc phần phật tung bay trên các đảo tiền tiêu, chúng tôi ồm chầm lấy nhau, niềm vui vỡ òa trên từng gương mặt. Thắng lợi trên mặt trận Biển Đông, giải phóng Trường Sa góp phần quan trọng vào chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc”...

    Những kỷ niệm của một thời chiến tranh vẫn tươi nguyên trên khuôn mặt dạn dày sương gió của người thuyền trưởng 7 lần “truy điệu sống”. Tuy trở về với đời thường, nhưng người cựu binh già vẫn còn nặng nợ với “binh nghiệp”. Ngôi nhà ông là địa chỉ tin cậy mà thế hệ sỹ quan trẻ hôm nay tìm đến học hỏi, trau dồi kinh nghiệm và bản lĩnh của người thủy thủ. Và trong con mắt họ, bao giờ ông cũng xứng đáng là người con của biển...

    http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/307/309/309/160021/Default.aspx
  5. longtt88

    longtt88 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/11/2004
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    5
    Cuộc đổ bộ của tổ Z1

    “Từ khi bước chân xuống tàu chở vũ khí vào Nam, 5 năm ở chiến trường, tôi đã trực tiếp chiến đấu, phục vụ chiến đấu và chứng kiến nhiều sự việc; có những mất mát đau thương, có những giây phút hào hùng và có những kỷ niệm sâu sắc có lẽ suốt cuộc đời tôi không thể nào quên được”, đó là tâm sự của Thượng úy Trịnh Kim Quyền, chiến sĩ của Đoàn tàu không số năm xưa, khi được hỏi về những kỷ niệm khó quên trong thời gian thực hiện nhiệm vụ trên con đường Hồ Chí Minh trên biển huyền thoại.

    Sinh ra và lớn lên ở thôn Hành Cung, xã Ninh Thắng, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, tháng 2 năm 1964, chàng trai Trịnh Kim Quyền gia nhập Hải quân. Thời gian ấy, chiến sự ở mặt trận phía Nam xảy ra rất ác liệt, cần có sự chi viện của miền Bắc cả về người và vũ khí. Cuối tháng 3 năm 1969, ông được điều về đoàn M26, đặc công nước Hải quân để bổ sung cho các đơn vị đặc công Cửa Việt, miền Trung và đồng bằng Nam bộ.

    Bộ phận của ông gồm có 17 người nằm cạnh trung đoàn 126 ở thị trấn Tiên Yên (Quảng Ninh). Không ai biết bộ phận này sẽ làm gì, sẽ chiến đấu theo hình thức nào mà lúc huấn luyện lại khắt khe đặc biệt đến thế. “Khi đó, chúng tôi như là con cưng của Lữ đoàn 126 đặc công nước. Hàng ngày được huấn luyện riêng, tiêu chuẩn chế độ riêng, cũng tách hẳn sinh hoạt riêng và luôn tuyệt đối giữ bí mật”, ông Quyền nhớ lại.

    “Sau huấn luyện, bộ phận chúng tôi được tách ra thành 2 tổ, tổ Z1 và tổ Z2. Tôi thuộc Tổ Z1 có Tổ trưởng, Thuyền trưởng phóng lôi là anh Ba T; Tổ phó là anh Giai, trợ lý hàng hải; anh Hưng, chuẩn úy làm cơ yếu; anh Đoàn, anh Cương làm vô tuyến, tôi và anh Loát là chiến đấu viên.

    [​IMG]
    CCB Đoàn tàu không số Trịnh Kim Quyền. Ảnh: Hoài Thắng.

    Cuối tháng 8-1970, hai tổ Z1 và Z2 bí mật chuyển về đoàn M25 – Đoàn tàu không số - đơn vị đặc biệt chuyên chở vũ khí vào miền Nam. Hàng ngày, chúng tôi không được ra khỏi doanh trại, không được tiếp xúc với bất kỳ ai, kể cả người nhà, không tiết lộ nhiệm vụ, nơi đóng quân, phiên hiệu đơn vị, tên người chỉ huy. Thư từ gửi về gia đình đều phải qua kiểm duyệt.

    6 giờ tối ngày 5-9-1970, tổ Z1 được lệnh: ra cảng xuống tàu. Quân tư trang được đóng gói trong ba lô, nhét vào túi ni-lon không thấm nước. Tôi nhớ khi đó mỗi người được trang bị một khẩu K54, một dao găm, 2 quả lựu đạn mỏ vịt, một khẩu AK báng gấp, một bi đông nước và một ít lương khô. Tổ còn được cấp trên giao cho 3 chiếc hòm to, bên ngoài bọc kẽm, hàn xì cẩn thận. Không ai biết trong đó đựng gì, chỉ biết khi đến địa điểm phải chôn giấu kỹ, có lệnh mới được sử dụng.

    Tàu rời cảng lúc 10 giờ đêm theo hướng cửa Nam Triệu ngược lên phía Bắc qua vịnh Hạ Long. Quá nửa đêm, tàu cặp mạn một tàu khác đã đậu sẵn trong căn cứ, xung quanh là núi non hiểm trở, chỉ có một lối ra vào rất bí mật. Con tàu mới sơn lại không có cờ hiệu, không có số hiệu, chở đủ mớn nước. Lúc đấy anh em mới biết con tàu do Thuyền trưởng Dương Tấn Kịch, Thuyền phó Vũ Hữu Suông cùng thủy thủ đoàn và 7 anh em trong tổ Z1 sẽ chính thức đưa 40 tấn vũ khí vào một điểm X. ở miền Nam.

    Sau đó, con tàu tiếp tục hành trình về hướng Đông Bắc ra biển Đông và vào vùng biển quốc tế. Từ đó trở đi, xa bờ, xa đất liền, biển mênh mông, hun hút một màu đen thăm thẳm, hai bên mạn tàu song dập dềnh, nghiêng ngả. Dưới vỏ bọc là tàu đánh cá ngoại quốc nên trên tàu giăng đầy chài lưới để ngụy trang. Ban ngày, máy bay trinh sát địch dòm ngó, gọi loa dụ dỗ, đe dọa, đánh đòn tâm lí xem có phải là tàu Bắc Việt không. Các tàu khu trục cũng lừ lừ bám theo sau, lúc ẩn, lúc hiện rồi mất hút vào vùng biển quốc tế…

    Tám ngày sau, đúng 12 giờ đêm, lệnh quyết tâm đổ bộ đã được triển khai, tàu mở hết tốc độ lao vào địa điểm đã định. Đến gần bờ, chúng tôi dùng xuồng cao su chở trang bị và 3 chiếc hòm, 7 anh em nhảy xuống biển, bám vào xuồng, vừa bơi vừa đẩy, im lìm tiếp cận vào bờ, tránh mọi tiếng động. Do được huấn luyện cơ bản nên anh em thực hiện động tác rất thuần thục. Khi chân vừa chạm cát, tôi và anh Loát nhanh chóng cầm súng quan sát từ mép nước rồi đứng cảnh giới để anh em nhanh chóng vượt qua bãi cát trống khoảng 100 mét đến một cánh rừng. Địa điểm mà chúng tôi lên bờ là một khu rừng rậm với những bụi cây lằng nhằng, chằng chịt, không biết đó là cây gì. Chúng tôi phải hết sức cẩn thận làm các động tác dò mìn, trái nổ, tìm một chỗ kín, an toàn, có cát để chôn toàn bộ vũ khí, mấy cái hòm kẽm và hai cái xuồng cao su. Quần áo ai cũng ướt đẫm nước biển mặn chát; chúng tôi khẩn trương dò dẫm, thận trọng tiến sâu vào trong rừng. Không biết đây là đâu, địa phương nào, chỉ nhìn thấy một màu đen kịt, dây rợ lằng nhằng vướng cả chân lẫn cổ.

    Khi tìm được vị trí an toàn, chúng tôi xóa sạch các dấu vết, tìm nơi ẩn nấp để chờ trời sáng. Tổ trưởng ra lệnh tản ra mỗi người cách nhau khoảng 5-10m để bảo đảm bí mật, không nói chuyện, không tiếng động và phải luôn đề cao cảnh giác. Bấy giờ mọi người mới thấy đói, thấy rét và mệt mỏi nhưng chưa biết chuyện gì sẽ xảy ra nên không ai dám nghỉ ngơi. Nằm trong rừng, không có tiếng súng, không có thông tin gì về địa điểm mà chúng tôi đã đổ bộ. Với sự im lặng của rừng, thời gian trôi đi thật căng thẳng. Một ngày sau, tổ trưởng cho mắc ăng ten mở máy liên lạc với Bộ Tư lệnh Hải quân chờ chỉ thị. Mãi 5 giờ sáng hôm sau nữa mới nhận được ám hiệu, mật khẩu bắt liên lạc với cơ sở: Nếu thấy một người ăn mặc như dân chài, đầu đội mũ phớt, một tay áo sắn lên, một tay cầm cành cây giơ lên hạ xuống thì đó là người của ta...

    [​IMG]
    Các CCB Hội truyền thống Đoàn tàu không số tỉnh Ninh Bình vẫn thường xuyên tụ họp, ôn lại kỷ niệm.

    Chúng tôi tiếp tục chờ đợi rồi đúng như đã thông báo, từ xa, một người đàn ông vóc người nhỏ bé đi chậm ngoài mép nước với dáng điệu vừa đi vừa quan sát vào bìa rừng và các động tác rất giống ám hiệu tổ trưởng vừa phổ biến. Tổ trưởng ra lệnh cho tôi men theo lối cũ trở ra bìa rừng, tìm cách tiếp cận, bắt ám hiệu, dùng mật khẩu liên lạc xem có phải đúng người của cơ sở không. Đang núp trong lùm cây khi người đó đi qua tầm gần nhất, tôi kẹp sát nách khẩu AK sẵn sàng nhả đạn nếu người đó nói không đúng mật khẩu và có ý chống trả rồi nhảy ra trước mặt làm anh ta dừng lại luống cuống. Tôi quát lên: Chiến!.. Rất nhanh người đó vội giơ tay lên vẫy và trả lời: Thắng. Đúng mật khẩu rồi, người chiến sĩ Nam bộ không sợ nguy hiểm lao về phía tôi, anh reo lên:

    - Tôi đây mà anh Hai, tôi được chỉ huy giao nhiệm vụ bắt liên lạc và đón các anh đây mà. May quá, may quá!!!

    Anh ôm chầm lấy tôi thắm thiết. Lúc ấy, tôi mới cảm nhận được sự vĩ đại của cuộc kháng chiến và tình cảm anh em Nam Bắc một nhà cũng như nghĩa tình đồng đội… Chúng tôi ôm nhau trong khi phía sau, 6 khẩu AK của anh em trong tổ Z1 đứng bảo vệ tôi từ từ hạ xuống. Nhìn mọi người, tôi thấy ai cũng rơm rớm nước mắt.

    Người chiến sĩ Nam bộ cho chúng tôi biết: vùng này là nơi đóng quân của Đoàn 962, Quân khu 8 đón nhận các chuyến hàng chở vũ khí từ miền Bắc vào. Nơi anh em tôi đứng là bờ biển của xã Thạch Phong, huyện Thạch Phú, tỉnh Bến Tre. Anh cho biết: “Từ lâu không được chuyến vũ khí nào của miền Bắc chi viện nên các tỉnh ở vùng Nam bộ này không có vũ khí chiến đấu. Mỗi khẩu súng chỉ có 3 viên đạn, lệnh trên không cho sử dụng, khi gặp địch đi càn chỉ dùng vũ khí thô sơ, tự tạo để đánh trả hoặc rút lui, không dám đối mặt. Vì vậy, nhận được số vũ khí này anh em mừng lắm”.

    Chúng tôi được dẫn về căn cứ ở giữa rừng mênh mông, heo hút. Mấy hôm sau, chúng tôi đi tìm dấu vết, lấy toàn bộ vũ khí và mấy cái hòm kẽm về chuẩn bị cho nhiệm vụ. Trong hòm có máy điện đài, tài liệu cơ yếu, lương thực, thuốc men, cả những điếu thuốc lá và cả bộ đồ cắt tóc…

    Nhờ chuyến đổ bộ thành công của tổ Z1 và sự chi viện vũ khí của miền Bắc đã giúp cho quân và dân vùng đất miền Tây Nam bộ đã có nhiều trận đánh thắng lợi…

    Với bản thân ông Quyền, sau chuyến đi này nhận nhiệm vụ ở lại địa bàn tổ chức bến bãi, bảo vệ bến, phục vụ chiến đấu để đón các chuyến hàng tiếp theo từ miền Bắc vào miền Nam… Đến tháng 9-1975, sau khi hòa bình, ông được điều về Đoàn 125 Hải quân, trở về miền Bắc tiếp tục công tác, rồi nghỉ hưu năm 1982.

    Phúc Thắng-Trần Hoài (Ghi theo lời kể của CCB Trịnh Kim Quyền)
  6. longtt88

    longtt88 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/11/2004
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    5
    Chân dung các thuyền trưởng đoàn tàu không số (Kỳ 5)

    Kỳ 5: Đồng Xuân Chế: “Biển gọi tôi suốt cuộc đời”

    Làng biển Nam Sơn (Nghi Sơn, Tĩnh Gia, Thanh Hóa) những ngày đầu năm 2011. Từ tinh mơ mờ đất, cha con ông Đồng Xuân Chế đã vác lưới ra biển. Ông đi đến đâu là đánh thức bà con đến đấy bởi giọng nói hào sảng. Đã bước sang tuổi 75 nhưng ông vẫn còn nhanh nhẹn lắm. Tay ông vẫn thoăn thoắt thả lưới, bắt chẻo, câu mực..., vẫn lăn lộn với sóng gió để mang về cho vợ con miếng cơm manh áo.

    Ông bảo: "Biển gọi tôi suốt cuộc đời". Có lẽ thế mà tuổi già đã không ngăn cản được bước chân ông. Các con ông cũng muốn bố nghỉ ngơi nhưng ông thì không muốn. Bởi một ngày không làm việc với ông thật xa xỉ.

    Sau một ngày đầu năm đi biển lấy may, ông trở về trong tâm trạng phấn khởi nên vừa gặp chúng tôi, ông đã hồ hởi bắt chuyện.

    - 35 năm trước, khi mới rời quân ngũ trở về làng, tôi đã được dân làng tín nhiệm bầu là Chủ nhiệm hợp tác xã liên hiệp nghề cá.

    [​IMG]
    Thuyền trưởng Đồng Xuân Chế. Ảnh Trịnh Dũng.

    Thời chiến tranh, quê tôi là túi đạn bom của giặc Mỹ, làng mạc bị tàn phá, cuộc sống gặp rất nhiều khó khăn, ngư cụ khai thác cá biển thiếu thốn đủ bề... Trước tình hình đó, tôi đã cùng với chi ủy, chi bộ ra sức động viên nhân dân khắc phục khó khăn đẩy mạnh sản xuất, nâng cao đời sống. Rồi tôi bàn với anh em bạn hữu động viên dân làng, hãy bám biển mà sống, bỏ biển, bỏ làng là có tội với Đảng và Chính phủ. Nhân dân lắng nghe, họ chủ động đóng thuyền, vá lưới ra biển đánh cá. Chẳng bao lâu, cuộc sống nhân dân được cải thiện đáng kể. Lúc này, xã có chủ trương cho 30 lao động trong thôn đi học cơ khí và khai thác cá biển để về phục vụ sản xuất. Sau khi chúng tôi đi học về đã trực tiếp hướng dẫn bà con cách đánh bắt, sử dụng ngư lưới cụ và các phương tiên thông tin đi biển. Chúng tôi bắt tay vào đánh bắt, các đoàn tàu đi biển thu về từng khoang cá đầy. Nhân dân phấn khởi, làng biển lúc nào cũng rộn vang tiếng cười.

    Ông cho chúng tôi xem những tấm huân huy chương đã nhuốm màu thời gian, nói như khoe: “Đây là những tài sản quý giá nhất của đời tôi. Mỗi lần nhìn nó, tôi thấy đồng đội mình đang ở đó, thấy những cung đường biển đầy sóng và gió mà một thời chúng tôi đã vượt qua”.

    Rồi như chạm vào mạch nguồn cảm xúc, ông kể:

    … Tháng 9-1970, tôi được điều động về Tàu 54-Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 125 làm thuyền phó 1, nhận lệnh chở 70 tấn vũ khí đi Rạch Gốc (Cà Mau). Chuyến đi này khung cán bộ có anh Hai Đặng là thuyền trưởng, anh Hai Hiệu là Chính trị viên, tôi và anh Chử Thái Bình làm thuyền phó.

    Chúng tôi xuất phát tại cảng K35 Hải Phòng. Để tạo yếu tố bí mật, bất ngờ, tàu đã thẳng hướng sang đảo Hải Nam (Trung Quốc), đi dọc phía Đông quần đảo Trường Sa tiếp giáp Phi-líp-pin. Khi đang ở vùng biển Phi-líp-pin thì cơn bão số 8 xuất hiện, tàu nằm trong tâm bão, một cơn bão mạnh cấp 12. Con tàu nhỏ nhoi oằn mình giữa cơn cuồng phong của biển cả. Hòm đạn súng B41, đạn ĐKZ cố định trên mặt boong đều bị bật tung, liệng đi liệng lại trên mặt boong, 2 bộ phận giảm lắc của tàu bị sóng đánh gãy nên tàu rất tròng trành.

    Do bão nên việc xác định vị trí tàu bằng thiên văn không thể tiến hành được, buộc chúng tôi phải dùng phương pháp tính nhích dần để xác định vị trí tàu. Để chống chọi với bão lớn, phần đông cán bộ, chiến sĩ đã ngậm sâm làm việc, qua mấy chục giờ mọi người gần như kiệt sức. Hơn một ngày một đêm chiến đấu vật lộn với bão tố, tưởng chừng có lúc bão đã nhấn chìm con tàu nhỏ bé xuống đáy đại dương. Nhưng cũng do có bão lớn nên kẻ thù đã nới lỏng kiểm soát trên biển, vì vậy chúng tôi đã vượt qua vòng kiểm soát của địch.

    Chúng tôi chuyển hướng về phía bến nhưng vì thời tiết quá phức tạp không xác định được vị trí tàu, chúng tôi phải chuyển sang xác định vị trí tàu bằng phương pháp nhích dần. Dự tính 3 giờ sáng thì tàu vào bến, song 4 giờ đến 5 giờ, 6 giờ, tàu vẫn chưa phát hiện được bến. Đến 7 giờ sáng thì tàu phơi lưng ở ven bờ Cà Mau. Tình huống nguy hiểm ngoài dự kiến do người ở bến đón dẫn đường chúng tôi chờ quá thời gian hiệp đồng đã rút đi, tàu nằm chềnh ềnh ở ven bờ, nếu địch phát hiện được thì vô cùng nguy hiểm. Không có người dẫn đường, chúng tôi đã nhanh chóng tự tìm rạch để vào. Đang cơ động vào bến, bỗng có máy bay địch ở sân bay Bạc Liêu gần đó cất cánh đi tuần ven biển, toàn tàu sẵn sàng chiến đấu. Nếu địch phát hiện được tàu ta thì đây sẽ là tình huống vô cùng nguy hiểm. Nhưng thật may, địch không phát hiện ra chúng tôi. Hơn một tiếng sau, chúng tôi nhanh chóng đưa tàu vào bến an toàn và tiến hành ngụy trang. Mọi người ai nấy đều thở phào nhẹ nhõm và phấn khởi vì đã đưa được vũ khí vào tận tay đồng bào, chiến sĩ miền Nam.

    Kể đến đây, giọng ông phấn chấn hẳn: Một tuần ở bến bốc xong vũ khí, chúng tôi được lệnh trở về miền Bắc. Tình huống bất ngờ nguy hiểm khác lại đến, đó là vào lúc 19 giờ, tàu được lệnh gỡ ngụy trang, một thuyền máy đuôi tôm B10 của bến chuyển cho chúng tôi một ít hàng. Đang chuyển hàng thì bỗng dưng thuyền máy bị bốc cháy, đạn nổ, tỏa ra một quầng lửa sáng rực. Nghe tiếng đạn nổ và vùng lửa sáng, máy bay địch gần đó đã nhanh chóng cất cánh lùng sục. Lưỡng lự không xử lý nhanh lúc này tàu sẽ trở thành mồi cho đạn bom của giặc. Ban chỉ huy chúng tôi hội ý chớp nhoáng và quyết định cho tàu khẩn trương rời khỏi khu vực nguy hiểm. Nổ máy tăng tốc độ vừa ra khỏi rạch thì máy bay địch ở sân bay Bạc Liêu bám theo sát chúng tôi, ngoài biển thấy đèn tàu địch thấp thoáng, hình như địch đã phát hiện ra chúng tôi và đang đón lõng để bắt sống hoặc tiêu diệt tàu. Chúng tôi báo động toàn tàu sẵn sàng chiến đấu và khôn khéo cho tàu bám bờ đi theo hướng Ghềnh Hào để lợi dụng tuyến bờ che lấp tránh ra đa của địch phát hiện. Khoảng 1 giờ 30 phút sau, quả nhiên địch bị mất mục tiêu, máy bay không bám theo, ngoài biển cũng không thấy tàu và đèn thấp thoáng nữa, chúng tôi nhanh chóng chuyển hướng cho tàu đi về hướng Đông Đông Bắc, 6 giờ sáng thì ra đến hải phận quốc tế. 7 giờ sáng chúng tôi lại thấy một tàu lạ bám theo cả ngày và sau đó đêm thì một chiếc máy bay thay tàu bám theo. Chúng tôi bình tĩnh tiếp tục hành trình coi như không có gì xảy ra cho tới tận Hòn Đông (Trung Quốc) chúng mới rời bỏ tàu ta.

    Đây thực sự là một chuyến đi đầy khó khăn, gian khổ, tàu đã phải vượt qua bão tố và sự truy cản của kẻ địch để chở hàng chi viện cho chiến trường miền Nam. Chuyến đi hơn một tháng đã vắt kiệt sức. Tôi và anh Bình thuyền phó phải đi nằm viện chữa bệnh. Sau khi ra viện tôi nhận quyết định của Đoàn điều động về tàu 56 ở Tiểu đoàn 2 nhận nhiệm vụ mới và sau đó đổi số tàu thành 649-Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 125.

    Trung tuần tháng 8-1971, Tàu 649 nhận nhiệm vụ chở 70 tấn vũ khí vào chiến trường miền Nam. Trên tàu, ngoài 18 cán bộ, chiến sĩ còn có 3 đồng chí của Đoàn 126 Đặc công. Đầu tháng 11 tàu xuất phát, đi xuyên qua phía Nam đảo Hải Nam để tạo yếu tố bí mật, bất ngờ đánh lừa Hạm đội 7 của Mỹ, chúng tôi đã lựa chọn cách đi trên các bãi cạn của quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Trong chuyến đi này biển lặng nhưng căng thẳng nhất là phải đi lách trên các bãi đá ngầm Hoàng Sa, Trường Sa nên yêu cầu xác định vị trí tàu bằng thiên văn và lái tàu phải thật chuẩn xác, chỉ cần sơ suất một chút là tàu có thể cưỡi lên đá ngầm. Vượt qua nhiều bãi đá ngầm, bãi cạn san hô và ra khỏi quần đảo Trường Sa, xuống phía Nam tàu lách về phía vùng biển Phi-líp-pin.

    Đến cuối tháng 11-1971, vào gần đến nơi theo kế hoạch, ban chỉ huy tàu họp bàn nhận định: Đây là thời cơ tốt cần nhanh chóng cơ động vào bến ngay trong đêm thứ bảy, vì lúc đó địch thường hay mất cảnh giác. Nếu đi theo kế hoạch cũ thì sang tối chủ nhật mới vào bến và thả hàng được. Cấp trên nhất trí theo phương án của chi ủy và chỉ huy tàu. 23 giờ chúng tôi đến vùng biển Thái Lan và chuyển hướng về đảo Cô Công (Cam-pu-chia). Chúng tôi bắt liên lạc thả vũ khí, nhưng bến lại trả lời sai tín hiệu. Thời gian thả hàng đã quá gấp, không thể chờ đợi thêm được nữa. Chúng tôi cử đồng chí Phan Đình Nhu và đồng chí Nhật, cùng 2 đồng chí đặc công người nhái tập kích bắt sống người đánh tín hiệu trả lời của bến. Hóa ra đúng là người của ta. Chúng tôi cấp tốc về bến thả hàng, lúc đó là 0 giờ 10 phút, tàu phân công 9 đồng chí trực chiến đấu, còn lại 9 đồng chí bốc vũ khí từ dưới hầm hàng có độ cao 4m và thả xuống biển. Tàu không thả neo, chúng tôi thả hàng thành 2 đống với tốc độ của tinh thần thần tốc. Chỉ với 9 người và trong 3 giờ 10 phút chúng tôi đã đưa lên mặt boong và thả xuống bến 70 tấn vũ khí, trung bình mỗi đồng chí bốc gần 8 tấn vũ khí. Sau khi chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ trở về, đồng chí Lê Duẩn đã đánh giá: “Đây là sức mạnh diệu kỳ”.

    Suốt cuộc đời quân ngũ, ông Chế luôn cố gắng phấn đấu hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Bản thân ông được Nhà nước tặng thưởng nhiều huân chương và được tặng ảnh Bác Hồ. Giờ đây, cuộc đời ông đã bắt đầu được hưởng những quả ngọt cuối mùa. Ông khoe với tôi: "Cháu à. Bác thông báo một tin vui đây. Ban liên lạc Cựu chiến binh Đoàn tàu Không số tỉnh Thanh Hóa vừa họp và đề nghị Quân chủng Hải quân xây dựng nhà tình nghĩa cho bác đấy. Bác cũng vừa nhận được chế độ trợ cấp hằng tháng đối với người phục vụ trong quân ngũ trên 15 năm.

    http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/307/309/309/160182/Default.aspx
  7. longtt88

    longtt88 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/11/2004
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    5
    Kỳ tích Đường *********** trên biển - Mẹ Con và TÀU KHÔNG SỐ

  8. dongthap10

    dongthap10 Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    20/07/2006
    Bài viết:
    155
    Đã được thích:
    22
    A bác Longtt88 hay qúa em kiếm thông tin, bài viết về đội Z đặc công đoàn 126 mãi mà không thấy.
    Năm 1970 sau khi chuyển từ trưởng đặc công người nhái đội 2, ba em về đội Z ( đội 100 chiến sĩ trang bị đầy đủ có cả điện đàm) làm bến cho đoàn 125, tổ chức được 2 đội,đội 3 bị lộ, bị bắt ( em kiếm cũng không thấy tài liệu nào nói)
    Ngày 30/4/1975 bảo vệ giữ vững cầu Rạch Chiếc chờ đaị quân tiến vào giải phóng Sài Gòn 52 chiến sĩ Z.22 , Z.23 của đoàn 126 đã anh dũng hi sinh, ngoài ra còn hi sinh ở Nhà Bè trận nào mà em kiếm không ra và đội Z còn bổ sung lực lượng cho đoàn 10 rừng Sác, tham gia chiến dịch Lam Sơn 719 - Chiến dịch đường 9 Nam Lào.

    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]

    Lý lịch quân nhân của bố em ở đoàn 126 còn có tên M26

    Nhờ bác có bài viết bất kỳ nào nói về các đội Z của 126( M26 ) cho em xin.
    Cảm ơn bác Longtt88.
  9. longtt88

    longtt88 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/11/2004
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    5
    Chân dung các thuyền trưởng đoàn tàu không số (Kỳ 6)

    Kỳ 6: Nắm đất của Thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh

    Có biết bao câu chuyện cảm động về tình cảm, tấm lòng của quân dân miền Nam nơi bến bãi với cán bộ, chiến sĩ Đoàn tàu không số làm nhiệm vụ chở vũ khí chi viện cho chiến trường. Chuyện về nắm đất Vũng Rô - hiện vật đang được lưu giữ tại Bảo tàng Hải quân do Thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh trao tặng là một trong những câu chuyện đó.

    Chúng tôi gặp ông Hồ Đắc Thạnh - người thuyền trưởng Tàu không số nổi tiếng của tỉnh Phú Yên ngay tại Hải Phòng. Dường như chất lính vẫn còn đọng lại rất nhiều trong ông ở dáng dấp nhanh nhẹn, âm giọng Phú Yên dõng dạc và đôi mắt sắc sảo... đôi khi làm chúng tôi bối rối. Tôi gợi lại chuyện, hỏi thêm về nắm đất năm xưa ông đã trao tặng Bảo tàng Hải quân... Ông ồ lên: “Nhớ chứ, quên sao được...! Đó là câu chuyện cảm động, gắn với những chuyến hàng cảm tử vào Vũng Rô của chúng tôi mà...".

    Ông Hồ Đắc Thạnh thuộc lớp thuyền trưởng đầu tiên của Hải quân nhân dân Việt Nam được đào tạo bài bản để phục vụ cho con đường vận chuyển chiến lược bí mật sau này. Thuở nhỏ, lúc Hồ Đắc Thạnh chuẩn bị vào lớp nhất thì Cách mạng Tháng Tám 1945 nổ ra ở thị xã Tuy Hòa. Lập tức, ông xếp bút nghiên tham gia đoàn biểu tình chống Pháp, đi diễu hành khắp phố phường. Sau một thời gian làm trinh sát cho thị đội Tuy Hòa, ông vào lực lượng bộ đội chính quy và tập kết ra Bắc trên chuyến tàu cuối cùng, chuyến tàu thứ 7 xuất phát từ cảng Quy Nhơn.

    [​IMG]
    Ông Hồ Đắc Thạnh (ngoài cùng, bên phải) cùng đồng đội tại Bến k15 Đồ Sơn (Hải Phòng).

    Ông kể: “Tôi đặt chân lên đất Thanh Hóa ngày 19-5-1955 và được biên chế vào Trung đoàn 90, Sư đoàn 324 đóng tại thị trấn Còng của huyện Tĩnh Gia, làm nhiệm vụ chống địch cưỡng ép giáo dân di cư vào Nam”. Sau khi cùng sư đoàn hành quân về Đô Lương (Nghệ An) và xây dựng doanh trại tại đây, Hồ Đắc Thạnh được điều về trường huấn luyện hạ sĩ quan của Sư đoàn để đào tạo. Ông nhớ rõ: “Giữa năm 1958, khi tôi đang học được nửa khóa đào tạo trung đội trưởng thì được Quân chủng Hải quân về tuyển chọn, toàn Sư đoàn chỉ có 6 đồng chí được chọn. Chúng tôi được đưa xuống Hải Phòng và theo yêu cầu của Cục Phòng thủ bờ biển (tiền thân của Bộ tư lệnh Hải quân), anh em tôi được đi tuyển quân về huấn luyện thành bộ đội hải quân”.

    Tại Hải Phòng, Hồ Đắc Thạnh đã trải qua nhiều khóa huấn luyện đào tạo từ hàng hải đến phóng ngư lôi và những chiến thuật chiến đấu khác trên biển. Đầu 1960, khi Trường Sĩ quan Hải quân được thành lập tại Quảng Yên, Thuyền trưởng dự bị tàu phóng lôi Hồ Đắc Thạnh được điều về học trường này.

    Trong cuộc đời chiến đấu của mình, Hồ Đắc Thạnh cũng là một trong những người bạn thân thiết của Anh hùng Tàu không số Nguyễn Phan Vinh. Kể chuyện với chúng tôi, ông Thạnh luôn tự hào mình đã có 12 chuyến chở vũ khí vào các bến ở Bến Tre, Trà Vinh, Cà Mau, Quảng Ngãi và Phú Yên. Ông bảo, lần đầu tiên đưa vũ khí vào Nam Bộ, gặp những anh chị em dân công đi len lỏi trong rừng đước, bốc dỡ vũ khí, ông cảm thấy niềm vui khó tả vì đã trực tiếp góp sức vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

    Có thể nói, hạnh phúc lớn nhất, kỷ niệm sâu sắc nhất của Thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh là 3 chuyến chở vũ khí về quê hương. Những chuyến đi thật sâu nặng nghĩa tình. Đáng nhớ là lần ăn Tết trên con tàu không số và đó cũng là kỷ niệm liên quan đến câu chuyện về "Nắm đất Vũng Rô".

    - Đó là khoảng cuối năm 1964, đầu năm 1965. Ông Thạnh nhớ lại. Có thể nói, đây là giai đoạn "hoàng kim" của con đường vận chuyển trên biển. Tàu 41 chúng tôi liên tiếp được giao nhiệm vụ vận chuyển vũ khí vào bến Vũng Rô thuộc chiến trường Khu V. Vũng Rô khi đó được coi là điểm đổ hàng lý tưởng vì đây là một vịnh nước sâu, kín gió, nằm ngay dưới chân đèo Cả. Tuy Vũng Rô không có nơi trú ẩn như các bến bãi miền Tây Nam Bộ, từ đây ra biển chỉ có một cửa, lại nằm trong tầm kiểm soát từ xa của địch, nguy hiểm luôn rình rập, nhưng Vũng Rô tạo được yếu tố bất ngờ cho công tác vận chuyển. Chuyến thứ nhất, rồi chuyến thứ hai, mọi việc đều thuận lợi, Tàu 41 đều lọt vào bến trong đêm an toàn. Hàng hóa, vũ khí được xử lý kịp thời bảo đảm tàu rời bến trước khi trời sáng.

    Cũng phải kể thêm, những lần vào bến, anh em tôi luôn day dứt bởi điều kiện sinh hoạt, ăn uống của quân dân ở đây rất thiếu thốn. Do địch khống chế Quốc lộ 1A, cắt hết chi viện nên anh em thường xuyên phải ăn khoai mì và quả sung. Chính vì vậy, chuyến tàu thứ hai, ngoài 60 tấn vũ khí chúng tôi còn chở thêm 3 tấn gạo tám thơm của Bộ tư lệnh Hải quân gửi tặng dân quân Vũng Rô...

    Chuyến đi thứ ba vào Vũng Rô được tiến hành đầu tháng 11-1964. Sau một chuyến hàng thành công từ Cà Mau trở về, ông Thạnh được Bộ tư lệnh Quân chủng Hải quân thông báo kế hoạch đưa vũ khí vào chiến trường Khu V, nơi chiến sự đang diễn ra ác liệt nhưng lại vô cùng thiếu thốn vũ khí. Chuyến đi này được dự báo là cam go, bởi địa điểm này rất dễ bị địch phát hiện do không có nơi trú ẩn an toàn, lại chỉ có một cửa ngõ ra Biển Đông duy nhất, đó là khoảng giữa Mũi Điện và Hòn Nưa, nếu địch dùng tàu chặn thì coi như không còn đường ra. Thêm nữa, hệ thống ra-đa Cù lao Ré và Chóp Chài gần như “quét” đầy đủ mọi ngóc ngách trên địa bàn. “Sau khi nghiên cứu kỹ hải đồ và tính toán chi tiết, Bộ tư lệnh quyết định chỉ đưa tàu vào lúc giữa đêm, tiến hành bốc dỡ vũ khí ngay và quay trở ra hải phận quốc tế vào lúc 3 giờ sáng” - ông Thạnh nhớ lại. Đó là phương án tối ưu, bởi nếu ở miền Nam, những rừng đước, rừng tràm rậm rịt chính là nơi có thể đưa tàu vào nghỉ ngơi, ở đây chỉ có biển và núi.

    [​IMG]
    Bia di tích Đoàn tàu không số tại Vũng Rô.

    Tàu 41 nhận lệnh cập bến Vũng Rô đúng đêm Giao thừa Tết Nguyên đán Ất Tỵ. Kể sao hết niềm vui sướng của anh em tàu và bến được nhận vũ khí vào thời khắc bước sang năm mới cùng lời chúc Tết của Bác Hồ kính yêu qua chiếc ra-đi-ô trên tàu. Mọi người tranh thủ liên hoan đón Tết. Bánh chưng, trà Thái Nguyên, bia Trúc Bạch, thuốc lá Điện Biên do anh em tàu chuẩn bị trước chuyến đi (đã được bóc hết nhãn mác để bảo đảm bí mật) được bày lên. Trong lúc đang liên hoan vui vẻ thì cô gái dân quân Nguyễn Thị Tản lặng lẽ đến bên Thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh và trao cho ông một nắm đất bọc trong một cái khăn mùi xoa rất đẹp: “Em xin gửi nắm đất Phú Yên theo tàu các anh đi ra Bắc. Xin hứa với các anh, với Đảng và Bác Hồ, dù mảnh đất này bom cày, đạn xới nhiều lần nhưng chúng em vẫn giữ vững niềm tin chiến thắng vì đã có vũ khí của Đảng, của Bác từ miền Bắc chi viện”.

    Thuyền trưởng Thạnh đón nhận nắm đất từ tay người con gái và chuyền nắm đất cho từng đồng đội. Khó có thể nói hết được tâm trạng anh em Tàu 41 lúc này. Mọi người càng nhận thấy trách nhiệm lớn lao của mình với mảnh đất và người dân nơi đây, với nhiệm vụ giải phóng quê hương, giải phóng miền Nam.

    Đó là kỷ niệm sâu sắc nhất trong cuộc đời quân ngũ của Thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh. Hình ảnh xúc động đó đã theo ông trên khắp chặng đường binh nghiệp và cho tới tận bây giờ - khi ông đã trở về với đời thường tại thành phố Tuy Hòa (Phú Yên). Nắm đất của cô dân quân Nguyễn Thị Tản đã được cán bộ, thủy thủ Tàu 41 nâng niu, gìn giữ suốt chặng đường trở về miền Bắc và sau này ông Thạnh đã trao tặng cho Bảo tàng Hải quân. Hình ảnh người nữ dân quân Nguyễn Thị Tản trao nắm đất cho vị thuyền trưởng sau này đã được tái hiện bằng nghệ thuật điêu khắc tượng đồng đặt tại Nhà truyền thống Lữ đoàn 125 anh hùng.

    Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, Thuyền trưởng Tàu không số Hồ Đắc Thạnh tiếp tục công tác trong Quân chủng Hải quân. Năm 1984, đang đảm nhiệm chức vụ Phó tham mưu trưởng Vùng 3 Hải quân thì ông xin nghỉ hưu sớm để lo toan công việc gia đình... Nhiều đồng chí, đồng đội muốn làm hồ sơ đề nghị phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân cho ông nhưng ông đã cảm ơn và nói muốn dành danh hiệu đó để tặng các liệt sĩ, đồng đội đã hy sinh trên con đường huyền thoại. Ông nói: “Tôi còn sống để chứng kiến đất nước thay da đổi thịt sau 36 năm giải phóng đã là điều rất mãn nguyện rồi”.

    http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/307/309/309/160301/Default.aspx
  10. longtt88

    longtt88 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/11/2004
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    5
    Những trang đời huyền thoại (Kỳ 6)

    Kỳ 6: Tên anh hóa thành bất tử

    Năm 1972, trong chuyến chở vũ khí từ miền Bắc vào chi viện cho miền Nam, "tàu không số" mang số hiệu bí mật là 645, do chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu chỉ huy bị địch phát hiện và tấn công. Trong lúc gian nguy, anh yêu cầu tất cả các chiến sĩ nhảy xuống biển, bơi ra xa, còn mình ở lại, điểm hỏa cho tàu nổ tung cùng với tàu địch. Sự hi sinh cao đẹp, sáng ngời lý tưởng cách mạng của anh đã hóa thành bất tử…


    “Các đồng chí về báo cáo với đoàn là tôi đã hoàn thành nhiệm vụ!”. Đó là lời nói cuối cùng của đồng chí Nguyễn Văn Hiệu, Chính trị viên tàu 645 trong trận chiến đấu của chuyến đi ngày 23-4-1972.

    Liệt sỹ - anh hùng Nguyễn Văn Hiệu sinh năm 1932 tại xã Thắng Phương, huyện Thăng Bình (Quảng Nam). Năm 1954 anh tập kết ra Bắc, công tác ở Đoàn tàu đánh cá Hạ Long, Hải Phòng. Như những người con miền Nam tập kết ra Bắc, Nguyễn Văn Hiệu chỉ mong chờ từng ngày được trở về quê hương chiến đấu. Khát vọng ấy sớm thành hiện thực khi năm 1962 anh trở thành chiến sỹ hải quân, được biên chế vào Đoàn 125 - Bộ Tư lệnh Hải quân và rồi trở thành sĩ quan, giữ chức chính trị viên, kiêm bí thư chi bộ tàu 645. Anh đã cùng đồng đội thực hiện thành công 13 chuyến vượt biển vận chuyển vũ khí vào chiến trường miền Nam. Đến chuyến thứ 14, tàu 645 hai lần nhổ neo ra đi, song đều bị tàu địch theo dõi nên đành quay lại.

    Ngày 12-4-1972, tàu 645 ra khơi lần thứ ba. Sau nhiều ngày lênh đênh trên biển, đối mặt với bão tố và sự phong tỏa của địch, các anh đã mưu trí tránh né. Đến ngày 23-4, tàu 645 đến tọa độ chuyển hướng vào bờ, chỉ còn cách đảo Phú Quốc chừng 60 hải lý.

    [​IMG]
    Chân dung Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu.

    Tất cả đang háo hức nghĩ tới giây phút gặp lại đồng chí, đồng bào tại bến, thì vào lúc 14 giờ, tàu nhận điện từ Sở chỉ huy thông báo: “Đêm nay sẽ có thuyền đón ở mũi Cà Mau”. Nhưng đến lúc 17 giờ lại có điện: “Bến động, tàu quay ra chờ đợi”. Trong lúc cán bộ, thủy thủ đang chuẩn bị quay ra, thì gặp một tàu khu trục của Mỹ từ Vịnh Thái Lan đi tới. Chúng đánh tín hiệu hỏi: “Tàu từ đâu đến và đi đâu?”. Tàu 645 trả lời: “Tàu từ Trung Quốc xuống, chúng tôi bị lạc!”. Tàu khu trục địch bắn hàng loạt pháo sáng lên trời. Chính trị viên Hiệu quan sát thấy ở phía trước còn có 3 tàu địch nữa. Linh tính mách bảo với anh, địch đã phát hiện ra tàu ta. Để tránh đụng độ, thuyền trưởng Lê Hà ra lệnh tàu tăng tốc độ chạy ra vùng biển quốc tế. Lúc này, chiếc khu trục 04 cũng tăng tốc, bám sát tàu 645 với ý đồ bắt sống. Các tàu còn lại của địch thay nhau “vờn” tàu ta. Lúc thì chúng chạy phía trước, lúc lại lùi về phía sau rồi vòng sang mạn trái, mạn phải của tàu ta. Đôi bên giằng co nhau cho đến 5 giờ sáng.

    Tàu 645 vừa ngụy trang, vừa bí mật chuẩn bị chiến đấu và giữ nguyên hướng tiến như không có chuyện gì xảy ra. Khoảng 7 giờ 45 phút, sau một thời gian dài quan sát, địch khẳng định: “Đây là tàu Bắc Việt giả dạng”. Chúng dùng loa dụ hàng, anh em trên tàu lờ đi như là không biết gì và động viên nhau giữ vững ý chí chiến đấu.

    Thấy gọi hàng không có kết quả, lính ngụy trên tàu liền bắn dọa, nhưng tất cả các cỡ đạn chúng bắn đều rơi trước mũi tàu ta. Biết không còn giữ được yếu tố bí mật nữa, thuyền trưởng Lê Hà chỉ huy tàu 645 bất ngờ cho các loại súng 12,7 ly, B40, B41 đồng loạt nhả đạn về phía tàu địch. Tàu ta vừa đánh trả quyết liệt vừa cơ động vào gần bờ. Lúc này một số đồng chí của ta bị thương nặng. Một quả đạn lớn của địch trúng vào xích lái, tàu không còn điều khiển được nữa, cứ chạy vòng tròn. Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu đến các vị trí động viên tinh thần anh em. Anh đề nghị thuyền trưởng Lê Hà tổ chức cho anh em rời tàu, còn anh ở lại điểm hỏa bộc phá hủy tàu rồi sẽ rời tàu sau cùng.

    Chiến sỹ lái tàu Thẩm Hồng Lăng cũng nấn ná, đòi ở lại điểm hỏa với chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu. Ánh mắt người chính trị viên vốn bình thường đầy nghiêm khắc, sao lúc này bỗng dịu dàng thân thương đến lạ kỳ. Hiệu nói với Lăng, nửa như ra lệnh, nửa như khẩn khoản: “Em còn trẻ, còn cống hiến cho cách mạng dài lâu… Anh đã có vợ con, em chưa có người yêu, hãy sống đến ngày chiến thắng. Thôi, nghe anh! Em nhảy xuống biển bơi cùng đồng đội đi...”.

    Ứa nước mắt thương người anh, người chính trị viên của mình, nhưng Lăng vẫn quyết không rời tàu, không muốn để anh Hiệu một mình ra đi, vẫn vờ như không nghe thấy, cứ lúi húi ngồi đốt hủy tài liệu trên boong tàu. Nói nhỏ không được, chính trị viên Hiệu nghiêm giọng: “Đồng chí hãy chấp hành mệnh lệnh!”, rồi bất ngờ anh lao tới đẩy Lăng xuống biển. Khi mọi người đã xuống biển, Nguyễn Văn Hiệu phát tín hiệu giả đánh lừa địch, tranh thủ hủy hết tài liệu. Xong việc, anh định nhảy xuống nước, thì phát hiện tình huống vô cùng nguy hiểm: 16 chiến sĩ ta, phần lớn bị thương, phải cụm lại dìu nhau bơi. Con tàu mất lái, chạy vòng tròn, lúc thì đến gần đồng đội của anh, lúc thì lùi ra xa. Nếu tàu nổ tung, tính mạng của đồng đội sẽ lâm nguy! Chính vì vậy, anh quyết định không rời tàu, thay đổi cách thức điểm hỏa hủy tàu.

    Đứng trên mạn tàu, nhìn về hướng đồng đội đang dìu nhau bơi dưới nước, Nguyễn Văn Hiệu dùng tay làm loa gọi lên: “Các đồng chí về báo cáo với đoàn là tôi đã hoàn thành nhiệm vụ rồi!”. Dứt lời, anh quay vào buồng lái, đôi mắt căm hờn khi nhìn thấy tàu địch đang đến gần và biết chắc đồng đội đã ở khoảng cách an toàn, anh điểm nổ. Con tàu phát ra tiếng nổ long trời, tung lên cột nước trắng xóa, cao hàng chục mét… Chính trị viên tàu 645 đã ra đi bình thản như thế đó… Năm ấy anh vừa tròn 40. Anh ra đi, để lại bốn đứa con còn thơ dại cùng người vợ trẻ ở phường Máy Tơ, quận Hồng Bàng, Hải Phòng…

    [​IMG]
    Bức ảnh kỳ niệm của Gia đình liệt sỹ – anh hùng Nguyễn Văn Hiệu.

    Với hành động quả cảm, thanh thản chấp nhận hi sinh để bảo toàn tính mạng cho đồng đội, Trung úy Nguyễn Văn Hiệu đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Nhất. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, anh được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. 16 cán bộ, thủy thủ còn lại của tàu 645 đều bị địch bắt, giam tại nhà tù Phú Quốc. Năm 1973, sau Hiệp định Paris, các anh mới được trao trả tự do.

    Tháng 5-2004, tôi được Ban liên lạc cựu chiến binh tàu “không số” khu vực miền Bắc mời tham gia cùng đoàn lên thăm Đại tướng Võ Nguyên Giáp và dự lễ kỷ niệm 50 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Tôi đã xuống Hải Phòng thăm gia đình và thắp hương lên bàn thờ liệt sỹ – anh hùng Nguyễn Văn Hiệu. Trong khung cảnh bùi ngùi, xúc động, tôi đã gặp cháu Nguyễn Văn Phương – con trai anh Hiệu – hiện là Phó phòng cảnh sát hình sự Công an Hải Phòng. Cùng đi với tôi còn có Lê Hà, nguyên thuyền trưởng tàu 645 – nhân chứng lịch sử. Thấy chị Phạm Thị Vi (vợ anh Hiệu) mạnh khỏe, các con anh trưởng thành, lòng tôi vui mừng, phấn khởi. Anh đã thanh thản ra đi để cho đồng đội của mình được sống trở về đoàn tụ cùng gia đình. Sự hi sinh vô cùng cao thượng của anh đã tiếp thêm sức mạnh cho những người thủy thủ kiên cường vượt biển, góp phần làm nên chiến thắng Hồ Chí Minh lịch sử. Tấm gương sáng ngời lý tưởng cách mạng của anh lại thắp sáng niềm tin cho thế hệ trẻ những người lính biển chắc tay súng, vững tay lái, sẵn sàng ra khơi bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc. Anh ngã xuống giữa lòng biển xanh, nhưng tên anh đã hóa thành bất tử.

    Phan Tiến Dũng (Ghi theo lời kể của ông Hồ Đắc Thạnh)

    http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/307/309/309/160132/Default.aspx

Chia sẻ trang này