1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những cuộc Thập tự chinh

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ngodong13, 19/04/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. ngodong13

    ngodong13 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/10/2004
    Bài viết:
    180
    Đã được thích:
    0
    Những cuộc Thập tự chinh

    Đọc được bài này của Charlie Nguyễn trên mạng, thấy hay hay nên copy về. Các bác biết thêm thì ra tay cho tớ mở mang đầu óc với


    Tiếng La-tinh CRUX có nghĩa là Thánh Giá hoặc Chữ Thập, biểu tượng của đạo Ki-tô. Từ chữ Crux phát sinh ra danh từ CRUSADE, có nghĩa là cuộc viễn chinh của đoàn quân Công giáo từ Âu Châu kéo qua các nước lân cận để tấn công những người Hồi giáo trong thời Trung cổ. Những người lính trong đoàn quân viễn chinh Công giaó này đều mang huy hiệu chữ thập ở phía trước ngực và phía sau lưng nên được gọi là Thập Tự Quân (Crusaders). Suốt trong hai thế kỷ 11 và 13 (1096- 1291) những đoàn quân Thập tự này đã gieo rắc biết bao kinh hoàng tang tóc cho những người Hồi giáo Ả-rập. Hình ảnh tàn bạo mang rợ của đoàn quân Công giáo Âu châu đã in sâu vào tim óc của thế giới Hồi giáo nói chung và của những người Hồi giáo Ả-rập nói riêng. Đến nỗi ngaỳ nay, người Hồi giáo đã đồng hóa Công giáo với chủ nghĩa thực dân đế quốc. Mỗi khi lên án hành động bành trướng bá quyền của Tây phương họ thường tố cáo hành vi đó là ?oTân chiến tranh Thập tự? (Néo-Crusade).

    Cổ nhân thường nói ?oôn cố tri tân?, chúng ta hãy coi lại lịch sử của hai thế kỷ chiến tranh đẩm máu do những đoàn quân chữ Thập Công giáo La-mã phát động chống những người Hồi giáo ở Trung đông trong hai thế kỳ 11 và 13. Những bài học lịch sử sẽ soi sáng cho chúng ta trong nhiều vấn đề thời cuộc hôm nay và cũng để hiểu thêm thực chất của một tôn giáo thường hay vỗ ngực tự xưng là đạo của ?oCông bằng Bác ái?!. Để trình bày về đề tài này, chúng tôi tham khảo các tài liệu sau đây:

    The Crusades, by Brenda Staleup, Green haven Press xuất bản 2000.

    The Oxford Illustrated History of Medieval Europe, by George Holmes, Oxford University press 1986.

    The Cross and the Crescent, by Malcoms Billing Sterling Publication 1988.

    Nguyên Nhân Chiến Tranh.

    Có hai nguyên nhân dẫn đến chiến tranh thảm khốc giữa hai tôn giáo anh em (fraternal faiths) kéo dài 195 năm và sự tranh chấp lãnh thổ giữa hai tôn giáo (nhưng thực chất cả hai đều là đế quốc).

    I. Sự Xung Đột Về Giáo Lý


    Mặc dầu kinh Koran là kinh thánh của đạo Hồi (Koran: The Muslim Gospel) công nhận Jesus là vị tiên tri đứng hàng thứ hai sau Muhammad, nhưng Koran phủ nhận tính cách thiêng liêng của Jesus. Koran gọi các phép lạ của Jesus là những trò học mót ở Babylon (magic and such things as come down at babylon) ?" Koran 2:102). Kinh Koran hoàn toàn phủ nhận tội tổ tông , hoàn toàn phủ nhận cái chết của Jesus trên thập giá. Koran khẳng định người Do thái không giết và không đóng đinh Jesus (The Jews killed him not, nor cruxified him ?" Koran 4:157).

    Muhammad thù ghét Công giáo vì đạo này thờ ảnh tượng, vi phạm điều răng thứ hai của Maisen. Một điều nữa mà Muhammad ghét cay ghét đắng là thuyết Thiên Chúa ba ngôi của đạo Ki-tô. Đối với Muhammad, Ki-tô là đạo Đa thần giáo, đi ngược là chủ thuyết độc thần của tổ phụ Abraham. Hồi giáo và Do thái giáo là hai đạo độc thần đúng nghĩa vì chỉ thờ một Thiên Chúa Duy Nhất (Monotheist Religion = Only-One-God Religion). Công giáo La-mã thờ ảnh tượng, thờ ba Thiên Chúa, quá tôn sùng bà Maria và các thánh do họ tự phong... do đó Công giáo là một tà đạo đa thần chứ không phải là đạo Thiên Chúa đúng nghĩa.

    Muhammad cũng ghét đạo Do thái vì Do thái gọi Thiên Chúa bằng số nhiều Elohim (số nhiều của El), đạo Hồi gọi Thiên Chúa bằng số ít. Danh từ El trong tiếng Ả-rập là Il. Đi liền với Il có chữ ?oah? là một mạo tự (article) trong ngôn ngữ Ả-rập. Vì thế Il thành Il-ah. Khi chuyển sang Anh ngữ, các chữ I thành A, vì thế Il-ah thành ALLAH (cũng như Ibrahim trong tiếng Ả-rập đổi thành Abraham trong tiếng Anh).

    Muhammad gọi chung những người thao đạo Do thái và Ki-tô giáo là ?onhững tín đồ của các sách Thánh kinh? (The people/ the followers of the Books) hoặc gọi chung là ?onhững kẻ không tin Thiên Chúa Allah? (The unbelievers). Riêng với các tín đồ Công giáo, Muhammad gọi là ?onhững kẻ thời thần tượng? (The idolers).

    Trong kinh Koran, Muhammad công khai kêu gọi các tín đồ Hồi giáo phải chiến đấu chống lại những kẻ theo đạo Do thái, đạo Ki-tô và tất cả những ai không tin theo đạo Hồi. Trong vùng kiểm soát của Hồi giáo, bất cứ một ai ngoại đạo phải nạp thuế thân và phải chấp nhận một địa vị thấp kém trong xã hội (Fight those who do not believe God and His Messenger, those who among the People of the Books, fight them until they personally pay tax on non-Muslims ackowledging their inferiority ?" Koran, Sura 9).

    Những người Công giáo thờ ảnh tượng bị coi là hạng người dơ bẩn và bị cấm vào các đền thờ Hồi giáo (The idolers are nothing but unclean, so they shall not approach the sacred mosque ?" Koran 9:28). Các người Do thái và Ki-tô bị cấm không được xây nhà thờ mới hay sửa chữa nhà thờ cũ, cấm đeo thánh giá trước ngực, không được đọc kinh to tiếng và cấm ngặt rước kiệu trên đường phố. Người Ki-tô giáo bị coi là đa thần giáo có thể bị sát hại bất cứ lúc nào. Kinh Koran chương 9 câu 5 đã quy định: ?oKhi những tháng thánh qua đi, các ngươi hãy giết những kẻ đa thần bất cứ nơi nào bắt gặp chúng, hãy phục kích để bắt chúng? (When the sacred month have passed away then kill the polytheists wherever you saw them, take them captives and wait for them in every ambush ?" Koran Sura 9: verse 5).

    Người Tây phương gọi những câu thơ nói trên là ?onhững câu thơ của đao binh? (The verse of the swords). Trong thực tế, những câu thơ của kinh Koran đã tạo nên sự dũng mãnh của những đoàn quân Hồi giáo trong công cuộc mở mang nước Chúa Allah (The Kingdom of Allah). Chỉ trong một thế kỷ, đoàn quân Hồi giáo đã chiếm hết Bắc Phi, Trung Đông, một phần Âu Châu và tràn tới Trung Á, tới tận biên giới Trung Quốc. Nhưng đồng thời những câu thơ nói trên cũng đã gây hận thù sâu sắc giữa các tôn giáo anh em và cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến các cuộc thánh chiến.


    II. Sự Tranh Chấp Lãnh Thổ Giữa Hai Tôn Giáo

    Từ thế kỷ thứ nhất cho đến thế kỷ thứ 6, toàn vùng Bắc Phi và Trung Đông thuộc về lãnh thổ của các giáo phái Ki-tô. Nhưng đến đầu thế kỷ thứ 7, đạo Hồi xuất hiện với sự bành trướng với tốc độ vũ bão chưa từng thấy khiến cả thế giới phải ngạc nhiên.

    Chỉ trong 10 năm kể từ khi Muhammad qua đời, quân Hồi chiếm trọn bán đảo Ả-rập bao la (bằng 4 lần tiểu bang Texas hoặc 8 lần Việt Nam) chiếm các nước Iraq, Syria, Palestine, Ai-cập và phía tây của nước Iran. Hai năm sau, quân Hồi chiếm Bắc Phi, Carthage và Hy-lạp.

    Qua đầu thế kỷ thứ 8 (711-716) quân Hồi dám đánh chiếm một nước Âu châu nổi tiếng sùng đạo Công giáo, đó là nước Tây-ban-nha. Trong thời gian đó, kỵ binh Hồi giáo chiếm trọn Ba-tư (Iran) và từ đây xuất quân chiếm trọn các nước Trung Á ở phía nam nước Nga, chiếm trọn vùng Bắc Ấn (tức Pakistan va Afghanistan ngày nay) đánh qua biên giới Trung Quốc và đụng trận với quân nhà Đường trên sông Talas năm 751.

    Ki-tô giáo bị mất rất nhiều đất và đồng thời cũng mất rất nhiều tín đồ. Tuy nhiên, trong thời gian đó đế quốc La-mã và Ki-tô giáo bị lâm vào tình trạng chia rẽ và suy yếu nên không dám thực hiện một hành vi trả đũa nào cả!

    Qua đầu thế kỷ 11, Ki-tô giáo chia thành hai giáo phái vời hai giáo đô thù nghịch nhau. Đó là Công giáo La-mã (Roman Catholic) đóng đô tại Vatican và Giáo hội Chính thống giáo (The Eastern Orthodox Church) đóng đô tại Byzantine, còn được gọi là Constantinople tức Istambul, thủ đô của Thổ-nhĩ-kỳ ngày nay.

    Năm1091, quân Hồi tấn công Byzantine. Hoàng đế Alexius Comnenus đứng đầu giáo hội Chính thống giáo tuy không ưa Công giáo nhưng cũng đành phải văn thư chính thức yêu cầu Giáo hoàng La-mã đem quân đến cứu giúp. Vatican lúc đó muốn giúp Vatican thì ít nhưng điều quan tâm hàng đầu là tái chiếm thánh địa Jerusalem để giáo dân toàn Âu Châu được tự do đến đó hành hương. Mối thù lớn nhất của dân Công giáo Âu Châu đối với đạo Hồi là trong thời gian chiếm đóng Jerusalem, quân Hồi đã triệt phá Nhà thờ Kính Mộ Chúa (Church of the Holy Sepulchure). Tội triệt phá nhà thờ Kính Mộ Chúa đã trở thành lý do chính cho cuộc thánh chiến trả thù của Công giáo. Lý do thứ hai được nêu lên là vụ người Hồi giáo hành hạ những người Công giáo Âu châu đi hành hương ở Jerusalem năm 1076. Những người di hành hương sống sót trở về Âu châu đã kể nhiều chuyện về sự ngược đãi của người Hồi khiến cho dân Âu châu rất phẩn nộ.

    Tu sĩ Peter Hermit là người hết sức cuồng nhiệt vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở các nước Âu châu tham gia cuộc thánh chiến chống Hồi giáo. Các giáo dân Âu châu đa số thời đó đa số là những nông dân thất học và cuồng tín nhất là giới thanh thiếu niên, trong số đó có rất nhiều trẻ vị thành niên đã mù quáng ghi tên tham gia vào đoàn quân chữ thập. Lịch sử Âu châu đã gọi đoàn quân chữ thập này là ?oĐoàn quân nông dân? hoặc ?oĐoàn quân con nít? (Popular Crusade ?" The Children?Ts Crusade). Vào thời kỳ đó, Âu châu đang ở trong bóng tối tinh thần (The Dark Age) nên từ vua tới dân, từ tu sĩ đến các bổn đạo, tất cả đều không có một sự hiểu biết nào về Hồi giáo, không có một chút kiến thức nào về tình hình chính trị xã hội và địa thế của các nước phương Đông. Sự thiển cận về kiến thức và tinh thần cuồng tín tôn giáo đã mau chóng biến việc tái chiếm Jerusalem khỏi tay quân Hồi thành một khát vọng thiêng liêng vô cùng cuồng nhiệt. Chẳng mấy chốc đã có hàng trăm ngàn nông dân ghi tên, trong số đó có ít nhất là 60.000 trẻ vị thành niên !
  2. ngodong13

    ngodong13 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/10/2004
    Bài viết:
    180
    Đã được thích:
    0
    Cuộc Thập Tự Chiến Thứ Nhất (1096-1099)
    Như trên đã trình bày, sự vận động cho cuộc viễn chinh đầu tiên của đoàn quân Thập tự khởi đầu từ những năm 1091 do sự cầu viện của hoàng đế Byzantine, nhưng mãi tới năm 1096, tức 5 năm sau mới thực hiện được.
    Đoàn quân Thập tự gồm hàng trăm ngàn người được điều khiển bởi các hiệp sĩ chuyên nghiệp, xuất phát từ hai nước Ý và Pháp. Đoàng quân của Pháp chia làm hai nhánh: nhánh quân ở miền Bắc tập trung tại Normandie, nhánh quân ở miền Nam tập trung tại Toulouse. Cả hai nhánh này tiến quân thẳng tới Constantinople.
    Trên đường hành quân, khi đi ngang qua đồng bằng sông Rhin, đoàn quân Thập tự của Pháp đã lùng bắt những người Do thái rồi đưa họ ra bãi hoang chém giết tập thể. Hiện nay tại những vùng đồng bằng sông Rhin thuộc nước Đức có nhiều nơi vẫn còn ghi dấu bằng những bia đá ghi tên những người Do thái bị sát hại trong dịp này.
    Vào mùa thu năm 1096, một đạo quân thứ ba của Pháp tập trung tại Clairmont đi thẳng đến Rome để kết hợp với 50.000 quân Ý. Sau đó liên quân Pháp-Ý cũng kéo đến Constantinople. Vua và triều đình Byzantine vô cùng ngạc nhiên khi thấy đoàn quân Thập tự chỉ là một đám nông dân rách rưới bẩn thỉu và có quá nhiều trẻ vị thành niên ngơ ngác. Vua Byzantine lập tức ra lệnh cho quân đội ngăn chận không cho đoàn quân ô hợp này vào thành phố. Tuy nhiên, nhà vua cung cấp cho đoàn quân này số lương thực, lương thực và cho quân đội áp tống đám Thập tự quân này đến Boporus thuộc miền Nam Thổ-nhĩ-kỳ.
    Trong lúc đoàn quân này trú đóng tại Boporus thì bị quân Hồi giáo Thổ-nhĩ-kỳ bất thần tấn công giết chết rất nhiều. Đoàn quân còn laị thì tiếp tục đi tới Anatolia, một thành phố thuộc phần đất Á châu của Thổ-nhĩ-kỳ rồi đến bao vây thành phố Hồi giáo Antioch ở phía cực nam nước Thổ. Trong lúc đang bao vây thành Antioch, đoàn Thập tự quân bất ngờ bị quân Hồi giáo Iraq kéo đến bao vây vòng ngoài từ ngày 21-10-1097 đến ngày 3-6-1098. Đoàn Thập tự quân bị kẹt ở giữa vì thành Antioch quá kiên cố không thể xâm nhập, trong khi đó đoàn quân Iraq lại quá hùng hậu nên Thập tự quân không thể phá được vòng vây. Sau hơn 5 tháng bị vây hãm quá chặt, Thập tự quân bị cạn hết lương thực nên bị chết đói rất nhiều. Cuối cùng, ngày 3-6-1098, đoàn quân Thập tự buộc lòng phải chấp nhận một trận quyết tử để mở đường máu phá vỡ vòng vây của quân Hồi giáo Iraq.
    Đoàn quân chữ Thập tiếp tục lên đường trong hơn một năm mới tới được Jerusalem. tại thành phố thánh địa này lúc đó có rất ít quân Hồi phòng thủ nên đoàn quân Thập tự quân đã chiếm thành phố thánh địa một cách dễ dàng vào ngày 15-7-1099. Sau khi chiếm Jerusalem, Thập tự quân ra lệnh cấm người Hồi giáo không được leo lên tháp cao ở đền thờ để kêu gọi mọi người đọc kinh, không được ăn chay trong thánh Ramadan, không được xây đền thờ mới và cấm sửa chữa đền thờ cũ. Tất cả những tín đồ Công giáo cải sang đạo Hồi đều bị tử hình.
    Chỉ trong vòng vài tuần lễ đầu chiếm đóng Jerusalem, đoàn Thập tự quân tàn sát những đàn ông Do thái và ngưởi Hồi giáo Ả-rập tổng cộng lên đến 30.000 người. Thánh địa của cả ba tôn giáo lớn biến thành một nhà xác khổng lồ. Lý do là số người chết nhiều hơn số quân số của Thập tự quân tại Jerusalem, và không có ai lo chuyện chôn người chết cả. Cho tới 5 tháng sau, các cống rãnh và các thung lũng ở jerusalem vẫn còn sặc mùi hôi thối của các xác chết.
    Cuộc chiến tranh thứ nhất của Thập tự quân Công giáo La-mã (The First Crusade) là một ấn tượng ghê tởm nhất đối với người Hồi giáo và Do thái giáo, và là một bài học kinh nghiệm nhớ đời cho toàn thế giới Hồi giáo về sự man rợ khủng khiếp của bọn tín đồ Công giáo cuồng tín.
    Tuy nhiên, cũng do cuộc chiến tranh này mà người Âu châu đã có cơ hội hiểu biết về thế giới Ả-rập và Hồi giáo. Họ không ngờ thế giới Hồi giáo quá rộng lớn, bao trùm một vùng lãnh thổ từ Bắc Phi qua Âu châu tới tận Viễn Đông. Họ không ngờ Hồi giáo cũng là một nền văn minh, trong đó có nhiều bộ môn khoa học, toán học, triết học tiến bộ vượt xa Âu châu. Cũng từ đó, người Âu châu đã dần dần tự giác ngộ để tự giải thoát ra khỏi Thời đại Đen tối (The Dark Age).
    Về thành tích giết người tàn bạo của Thập tự quân tại jerusalem trong những ngày đầu của cuộc thánh chiến hiện nay vẫn còn một chứng tích lịch sử độc đáo. Đó là bức thư của vị tướng tổng chỉ huy Thập tự quân gửi từ Jerusalem về Vatican để báo cáo các tin mừng chiến thắng lên Giáo hoàng Urban II. Bức thư này hiện được lưu trữ tại Văn khố của Tòa thánh. Trong thư có đoạn viết như sau: ?oĐức thánh cha có biết chúng con đã đối xử với kẻ thù của chúng ta ở Jerusalem ra sao không? Tại cổng thành Solomon và trong Đền thánh, đoàn kỵ binh của chúng con phải đi qua những cũng máu dơ bẩn của quân Hồi giáo Saracenes ngập cao đến đầu gối của những con ngựa?. (?~Deceptions and Myths of the Bible?T, by Lloyd Graham, trang 462).
    Kết quả lớn nhất của cuộc viễn chinh đầu tiên của đoàn quân chữ thập là sự hình thành một vương quốc trực thuộc Vatican. Vương quốc này trải dài 800km dọc theo bờ biển Địa Trung Hải mang tên ?oVương quốc La-tinh Jerusalem? (Latin Kingdom of Jerusalem) bao gồm: Hai tỉnh Antioch và Edessa ở phía đông nam Thổ-nhĩ-kỳ, nước Syria, nước Liban, xứ Judea và xứ Gallilee, trong đó có thành phố thánh địa Jerusalem.
    Tòa thánh Vatican trực tiếp cai trị bằng cách phong vương cho người đứng đầu vương quốc này. Nhưng thay vì gọi là ?ovua? của vương quôc, toà thánh gọi là ?oNgười bảo vệ Mộ Chúa? (Protector of the Holy Sepulchere). Vương quốc La-tinh Jerusalem tồn tại được 88 năm (từ 1099 đến 1187) qua 7 đời vua do Vatican chọn lựa và tấn phong. Trong 88 năm cai trị vương quốc Jerusalem, quân Thập tự đã tàn sát rất nhiều người Hồi giáo và Do thái giáo, bất kể họ là người già, phụ nữ hay trẻ em. Quân Thập tự cũng xây cất rất nhiều phaó đài và lâu đài phòng thủ kiên cố để bảo vệ vương quốc, đến nay vẫn còn những di tích lịch sử để lại tại các nước Trung Đông dọc theo bờ biển Địa Trung Hải.
    Cuộc Thập Tự Chinh Thứ Hai (1147-1149)
    Nguyên nhân dẫn đến cuộc Thập tự chinh thứ hai (The Second Crusade) là do biến cố quân Hồi giáo thuộc giáo phái Sunni từ các nước Ả-rập và Thổ-nhĩ-kỳ tấn công tái chiếm tỉnh Edessa thuộc Vương quốc La-tinh Jerusalem. Để thực hiện quyết tâm phục thù, Vatican ra lệnh cho vua Pháp là Louis VII và vua Ý là Conrad III phối hợp với nhau tổ chức cuộc Thập tự chinh thứ hai. Năm 1147, Liên quân Pháp-Ý trong đoàn quân chữ thập lên đướng đến Thổ-nhĩ-kỳ để chiếm lại Edessa nhưng đã hoàn toàn bị đánh bại. Tàn quân rút chạy về phía nam thuộc lãnh thổ Liban và Syria. Đến năm 1149, toàn bộ đám tàn quân này bị quân Hồi tiêu diệt tại Damacus (thủ đô Syria ngày nay).
    Cuộc Thập Tự Chinh Thứ Ba (1190-1192)
    Đối với Do thái giáo và Ki-tô giáo thì Jerusalem là thánh địa duy nhất củahọ. Đối với người Hồi giáo thì thánh địa quan trọng nhất là Mecca (thủ đô của nước Ả-rập Saudi). Thánh địa thứ hai là Medina, một thành phố cách thủ đô Mecca 250 dặm về phía bắc. Và Jerusalem là thánh địa thứ ba của Hồi giáo vì tương truyền rằng Muhammad đã lên trời từ thành phố này.
    Quân Thập tự của Vatican chiếm Jerusalem năm 1096 là một kỷ niệm ô nhục và đau đớn cho thế giới Hồi giáo. Người Hồi giáo đã phải nuốt hận chịu đựng trong gần một thế kỷ mới có cơ hội phục thù. Cái nhân của cơ hội phục thù là sự xuất hiện của một nhân vật lừng danh thế giới, đó là vị tướng bách chiến bách thắng Saladin (1137-1193) gốc người Kurd theo giáo phái Sunni. Ông được dân Ai-cập và Syria tôn lên làm vua (Sultan). Nhân vật Saladin trở nên một nhân vật huyền thoại trong nhiều tác phẩm văn chương của các nước Âu châu thời đó. Quả thật, Saladin đã thu phục được nhân tâm của nhiều dân tộc theo đạo Hồi. Dưới sự lãnh đạo của ông, quân Hồi đã tái chiếm Jerusalem và nhiều phần đất khác của vương quốc La-tinh vào năm 1187. Toàn thế giới Hồi giáo Ả-rập vui mừng vì thánh địa thứ ba đã được tái chiếm và danh dự của Hồi giáo đã được phục hồi.
    Nỗi vui mừng chiến thắng của Hồi giáo càng lớn bao nhiêu thì nỗi đau của Vatcian và Giáo hội Công giáo cáng thấm thía và ê chề bấy nhiêu. Do rút tỉa của những kinh nghiệm thất bại trước đây, lần này Vatican chuẩn bị chu đáo hơn với sự hội ý của ba ông vua đầy quyền lực tại Âu châu là vua Pháp, vua Đức và đặc biệt là vua Anh Richard I ?" người được mệnh danh là ?oRichard Trái tim Sư tử? (Richard The Lion-Hearted). Cũng xin nói thêm đây là Giáo hội Công giáo Anh tách rời khỏi giáo quyền Vatican do vua Henri VIII chủ xướng vào năm 1534. Trước đó, các vua Anh đều thần phục giáo quyền Vatican như hầu hết các vua khác ở Âu châu.
    Cuộc Thập tự chinh thứ ba có tới 3 hoàng đế Âu châu điều khiển nên các sử gia thường gọi cuộc Thập tự chinh này là ?oCuộc Thập tự chinh của các vua? (The Crusade of the Kings). Vua Anh đích thân điều khiển cuộc viễn chinh từ 1190 cho đến khi chiến dịch kết thúc vào năm 1191. Trong hai năm chinh chiến, đoàn quân chữ thập tái chiếm hầu hết lãnh thổ của Vương quốc La-tinh Jerusalem. Nhưng thành phố quan trọng nhất là thánh địa Jerusalem thì lại không chiếm được. Quân Hồi chận đứng đoàn quân chữ thập của Richard I tại thành phố Acre ở phía bắc Jerusalem. Trong thời gian trú đóng tại Acre (1191-1192) vua Anh Richard ?~The Lion-Hearted?T đã ra lệnh chém đầu tập thể trên 3000 người Hồi giáo Ả-rập. Vụ này đã đi vào lịch sử Hồi giáo như một bằng chứng về tội ác diệt chủng của Giáo hội Công giáo La-mã (The Cross and the Crescent, by Malcom Billing, trang 116). Hiện nay, tại thư viện Quốc gia của Pháp có lưu trữ một bức họa thời Trung Cổ vẽ cảnh vua Richard I ngồi trên khán đài chứng kiến đoàn quân thập tự chém đầu tập thể những người Hồi giáo.
  3. ngodong13

    ngodong13 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/10/2004
    Bài viết:
    180
    Đã được thích:
    0
    Cuộc Thập Tự Chinh Thứ Tư (1201-1204)
    Giáo hội Công giáo La-mã rất thù ghét Giáo hội Chính thống giáo là một giáo hội Ki-tô tách rời khỏi giáo quyền Vatican vào giữa thế kỷ 11. Trong thời gian thập tự quân chiếm đóng Jerusalem, các tín đồ đạo Chính thống ở Âu châu bị cấm không được hành hương đến thánh địa. Các giáo dân và tu sĩ đạo Chính thống tại Jerusalem đều bị ngược đãi tàn tệ. Đó chính là những lý do khiến cho hoàng đế Byzantine và Giáo hội Chính thống không thể ngồi yên trước sự lộng hành của Vatican. Để tránh bị lâm vào thế ?olưỡng đầu thọ địch?, hoàng đế Byzantine và Giáo hội Chính thống thương thuyết với vua Hồi giáo Thổ-nhĩ-kỳ, kết quả hai bên đạt tới việc ký kết hòa ước cam kết không gây chiến tranh xâm chiếm lẫn nhau.
    Hòa ước Byzantine ?" Thổ-nhĩ-kỳ làm cho mối bất hòa giữa Vatican và Chính thống giáo càng trở nên sâu sắc. Bọn diều hâu ở Âu châu lúc đó là các hiệp sĩ (Knights) trong những nước Công giáo cuồng tín đã lập những kiến nghị yêu cầu tòa thánh Vatican phát động cuộc Thập tự chinh thứ tư để tiêu diệt đế quốc Byzantine và Chính thông giáo. Cuộc viễn chinh lần này được Vatican uỷ nhiệm cho các thủ lãnh hiệp sĩ Ý và Đức thực hiện.
    Trên danh nghĩa, cuộc Thập tự chinh thứ tư nhằm trừng phạt Byzantine và Chính thống giáo nhưng mục tiêu chính là để tiêu diệt một đồng minh tương lai của Hồi giáo. Cuộc chiến kéo dài trong 3 năm từ 1201 đến 1204, đoàn quân thập tự chiếm trọn lãnh thổ đế quốc Byzantine. Vatican đặt tên cho lãnh thổ này là ?oĐế quốc La-tinh Constantinople?. Vatican chia đế quốc này thành nhiều thái ấp (feuds) và phong chức lãnh chúa cho các hiệp sĩ có công để cai trị các thái ấp đó. Vatican đã biến toàn vùng đế quốc Byzantine xưa thành một xã hội phong kiến. Các lãnh chúa thu thuế của dân và trích ra một phần để nộp cho Vatican. Đế quốc La-tinh Constantinople tồn tại được 57 năm (1204-1261).
    Cuộc Thập Tự Chinh Thứ Năm (1217-1221)
    Cuộc Thập tự chinh thứ năm không có một nguyên nhân chính trị hay tôn giáo nào mà hoàn toàn do sự bốc đồng của vua Andrew nước Hungary. Hungary chì là một nước nhỏ nằm ở giữa châu Âu. Vua Andrew là người cuồng tín cà có quá nhiều ảo vọng quyền lực. Ông ta đã không lượng trước sức của mình, tự ý thành lập một đạo quân thập tự rồi kéo quân đến tấn công một nước xa xôi là Ai-cập. ông ta may mắn thành công trong việc chiếm thành phố Dannietta của Ai-cập. Người Ai-cập nhân danh Hồi giáo thương thuyết với Andrew là nếu nhà vua chịu trả lại thành phố Dannietta cho Ai-cập thì Hồi giáo sẽ trả lại Jerusalem cho Giáo hội Công giáo. Vua Andrew đã kiêu hãnh bác bỏ đề nghị này và kéo quân tiến đánh thủ đô Cairo của Ai-cập. Quân Hồi giáo Ai-cập hết sức phẩn nộ đã mãnh liệt phản công tiêu diệt hoàn toàn quân xâm lược của Andrew vào năm 1221.
    Cuộc Thập Tự Chinh Thứ Sáu (1228-1229)
    Cuộc Thập tự chinh lần này do Vatican giao cho vua Đức Frederic II thực hiện để trả thù cho Andrew. vatican đã cấp cho vua Frederic một ngân khoản rất lớn để võ trang thật hùng hậu cho đoàn quân thập tự. Tuy nhiên, vua Frederic là một nhà quân sự bất tài, đã phạm phải những lỗi lầm nghiêm trọng về chiến thuật nên toàn bộ đoàn quân chữ thập mới đặt chân lên đất Ai-cập đã bị tiêu diệt. Riêng bản thân vua Frederic II bị quân Hồi giáo Ai-cập bắt sống. Vatican đã phải trả một số tiền rất lớn để chuộc mạng cho Frederic, y được quân Hồi phóng thích cho về nước an toàn.
    Cuộc Thập Tự Chinh Cuối Cùng (1248-1254)
    Lý do dẫn đến cuộc Thập tự chinh thứ 7 là vụ quân Hồi định chiếm thánh địa Jerusalem vào năm 1244. Vatican trao nhiệm vụ tổ chức cuộc thánh chiến cho vua Pháp Louis IX. Nhà vua tuân lệnh và nhận tiền của Vatican chuẩn bị tổ chức cuộc viễn chinh thập tự lần thứ 7 trong vòng 4 năm.
    Năm 1248, vua Louis IX đích thân chỉ huy cuộc viễn chinh , kéo quân qua các nước Syria, Liban, Palestine... đi tới đâu đều bị quân Hồi phục kích tấn công đến đó. Cuộc chiến dai dẳng không phân thắng bại, khiến binh sĩ vô cùng chán nản. Sáu năm sau, đoàn quân thập tự vẫn không tời được Jerusalem. Đến năm 1254, quân Hồi tổng phản công khắp nơi khiến cho đoàn quân thập tự của Louis IX phải bỏ chạy, những kẻ sống sót tìm đường trở lại Âu châu.
    Đến năm 1291, quân Hồi chiếm lại tất cả những phần đất đã mất về tay đoàn quân chữ thập trước đây, chấm dứt hoàn toàn Vương quốc La-tinh Jerusalem sau 195 năm tồn tại. Cũng xin nói thêm ở đây là trong lịch sử các cuộc viễn chinh thập tự có hai vua Pháp tên Louis tham dự. Vua Louis VII bị thất bại nhục nhã trong cuộc thập tự chinh lần thứ hai (1147-1149) và vua Louis IX bị thất bại trong cuộc thập tự chinh cuối cùng (1248-1254). Tuy nhiên, Louis IX đã được lòng Vatican nên ông này đã được Vatican phong thánh. Vì thế, người Pháp không còn gọi Louis IX là vua nữa mà gọi là Saint Louis. Tên của ông đã được dùng để đặt tên cho một thành phố lớn tại Hoa Kỳ vì thành phố này có nhiều người Mỹ gốc Pháp.
    Những Điều Đáng Ghi Nhớ Về Các Cuộc Thập Tự Chinh
    1. Vấn đề có bao nhiêu cuộc Thập tự chinh?
    Khi nghiên cứu về những cuộc viễn chinh của đoàn quân chữ thập thời Trung cổ, chúng ta sẽ gặp nhiều tài liệu sử học đưa ra những con số khác nhau về những cuộc chiến tranh của thập tự quân. Có tài liệu nói là 6 trận, có tài liệu nói 7, 8 hoặc nhiều hơn. Lý do chính yếu làm cho các sử gia bối rối không thể nêu lên con số chính xác về cuộc chiến của thập tự quân kéo dài gần 2 thế kỷ (195 năm). Trong thời gian dài dằng dặc đó đã xảy ra nhiều cuộc chuyển quân của thập tự quân giả dạng làm những đoàn người đi hành hương hoặc đoàn người đi buôn bán... nhưng sau đó vẫn có thể thực hiện được những cuộc tấn công vào quân Hồi giáo. Một điều phức tạp hơn nữa là sau thế kỷ II, nhiều giáo hội Công giáo Âu châu tách rời khỏi giáo quyền Vatican như Chính thống, Anh giáo và Tin Lành. Vatican tổ chức những đoàn quân cũng mang danh là Thập tự quân đi đàn áp những kẻ ly khai đó. Trường hợp rõ nét nhất là cuộc Thập tự chinh lần thứ tư (1201-1204) Vatican đánh chiếm hoàn toàn lãnh thổ đế quốc Byzantine của Chính thống giáo. vậy có nên coi cuộc Thập tự chinh này là một trong những cuộc thập tự chinh chống Hồi giáo hay không ? Nhiều sử gia trả lời là có vì mục tiêu chính của Vatican là triệt hạ một đồng minh mới của Hồi giáo.
    2. Nhiều con cháu của Thập tự quân trở thành Hồi giáo
    Những thập tự quân Âu châu đến Jerusalem trong cuộc viễn chinh đầu tiên năm 1096, sau mấy chục năm định cư tại đây họ dần dần hiểu được thực tại và tĩnh ngộ chứ không còn cuồng tín như trước. Vì tại Jerusalem không có phụ nữ Âu châu nên lính thập tự đều lấy vợ Ả-rập Hồi giáo. Từ thế hậ thứ hai, thứ ba trở đi, hầu hết con cháu của thập tự quân đều thành người Hồi giáo. Do đó, khi xảy ra cuộc thập tự chinh lần thứ hai (1147 tức 51 năm) và thập tự chinh lần thứ ba (1190, tức sau lần thứ nhất gần một thế kỷ) những con cháu của thập tự quân đợt đầu đã trở thành những người Âu lai Ả-rập Hồi giáo rất thù ghét những người Âu đến sau. Họ là những chiến sĩ Hồi giáo chống đối mãnh liệt nhất những đợt thập tự chinh 2 và 3.
    3. Nạn buôn nô lệ
    Các cuộc chiến tranh của thập tự quân tại Trung Đông đã làm cho tệ nạn buôn bán nộ lệ trở thành một kỹ nghệ phát đạt. cả hai phe Hồi giáo cũng như thập tự quân đều chú tâm bắt sống tù binh và bắt thường dân ở các vùng chiếm đóng để đem bán tại các chợ ở khắp miền Trung Đông. Các thiếu nữ đẹp luôn luôn là món hàng đắt giá nhất được các nhà giàu hoặc các quan quyền mua về làm tì thiếp hay nô lệ ********.
    4. Giá máu quá đắt cho một chuyện hoang đường
    Trong suốt năm 1095, Giáo hoàng Urban II đi khắp các nước Công giáo Âu châu kích động quần chúng tín đồ đầu quân tham gia đoàn quân thập tự hoặc đóng góp tiền bạc để tài trợ cho cuộc chiến thần thánh nhằm bảo vệ ngôi mộ của Chúa. Những ?ongôi mộ của Chúa? chỉ là chuyện hão huyền vì nó chẳng bao giờ có. Nếu Chúa đã sống lại và lên trời thì làm gì có mộ của Chúa? Còn nếu Chúa đã bị quân La-mã đóng đinh trên thập giá thì theo luật của La-mã là mọi tử tội đã chết trên thấp giá phải bị vứt xác ra bãi hoang cho kên kên và chó hoang ăn thịt. Trong lịch sử La-mã tuyệt đối không có chuyện xác tử tội được trao cho người nhà đem về chôn cất tử tế ở trong mồ. Jesus bị quân La-mã xếp vào loại tử tội nguy hiểm chẳng lẽ lại được La-mã dành cho một đặc ân ngoại lệ duy nhất là trao cho người nhà đem về chôn trong mồ hay sao? Chuyện ngôi mộ của Jesus là một chuyện hão huyền của bọn đại bịp. Nhưng câu chuyện hão huyền ấy đã làm đổ máu của ba triệu người, trong số đó có ít nhất là 60 ngàn trẻ em.
    Sử gia Lloyd M. Graham đã viết về vấn đề này như sau: ?oChúng ta hãy quan tâm đến những cuộc chiến tranh của thập tự quân, đó là những cuộc chiến tranh khủng khiếp nhằm bảo vệ ?ongôi mộ thánh của Chúa? mà nó chẳng bao giờ có, thế mà ba triệu người đã bị giết một cách vô ích, trong số đó có sáu mươi ngàn trẻ em? (?~Deceptions and Myths of the Bible?T, trang 350).
    Ba triệu sinh mạng là giá máu quá đắt mà nhân loại đã phải trả cho một chuyện hoang đường của tà đạo đa thần Công giáo La-mã. Ba triệu người đã tức tưởi chui xuống những nấm mồ có thật chỉ vì một nấm mồ không có thật của một người được mệnh danh là Chúa Cứu Thế !
    Charlie Nguyễn
  4. tranminhvan

    tranminhvan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/04/2006
    Bài viết:
    108
    Đã được thích:
    0
    Chủ đề này hay quá! Chủ đề liên quan đến Lịch sử và văn Hoá.
    Có một điều, chữ catholic có phải là đạo Ca tô hay Gia Tô Giáo mà cụ Phan Kế Bính đã nói đến trong cuốn Phong Tục Việt Nam phải không? Thế vậy Công Giáo là tôn giáo gì vậy bạn? Có phải là tôn giáo của một nhà nước hay chính quyền nào vậy bạn. Những thắc măc này đeo đuổi tôi từ thời mới biết đọc chữ đấy bạn ạ.
    Theo tôi biết Catholic lấy từ chữ Katholikos của Hy Lạp có nghiã là Hoàn Vũ, là Universal. Nhưng không hiểu khi vào VN, vào triều đại nào mà nó biến thành đạo Công giáo, Tư giáo gì đây.
    Theo gốc chữ, như vậy Roman Catholic Church có nghĩa chính xác là Giáo Hội Hoàn Vũ La Mã. Cái này tôi thấy có một chương trình phát thanh tôn giáo của chị Bích Ngọc và LM Trần Công Nghị đã gọi chương trình của họ là chương trình phát thanh của Giáo Hội Hoàn La Mã Vũ Việt nam.
    Rất mong những thắc mắc đơn sơ này đước các danh nhân Lịch sử và Văn Hoá lưu ý và trả lời ạ.
    Cám ơn các chư vị đại nhân ạ!
  5. altus

    altus Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/05/2003
    Bài viết:
    1.503
    Đã được thích:
    1
    Về từ nguyên thì thế này:
    Jesus - Gia Tô (Nhưng mà The Jesuits thì lại gọi là Dòng Tên)
    Christ (Christos) - Cơ Lợi Tư Đốc - Cơ Đốc, Ki Tô
    Christianity - Cơ Đốc Giáo, Ki Tô Giáo, Thiên Chúa Giáo
    Catholicism - Công Giáo
    Còn trong thực tế thì ở VN đa số giáo dân chủ yếu theo Công Giáo, người không theo đạo (đa số) ít ai để ý đến lịch sử hay cấu trúc của TCG, nên hay dùng lẫn lộn Công Giáo với TCG. TCG ở VN được hiểu là Công Giáo, phân biệt với Chính Thống Giáo (Orthodox) và Tin Lành/Phản Thệ Giáo (Protestant). Thực ra CG, CTG và TL phải hiểu là 3 nhánh khác nhau của TCG thì mới đúng. Nhưng mà dùng lâu thành quen mất rồi.
  6. bulubuloa

    bulubuloa Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/06/2003
    Bài viết:
    4.189
    Đã được thích:
    5.423
    Không hiểu rõ ý bác Altus nên hỏi 1 cái, có phải Công giáo và Cơ Đốc giáo là 1 kô vậy bác, mấy câu cuối bác viết tắt nên hơi khó hiểu.
    Bổ sung cho bác : Thiên chúa giáo không chỉ có 3 nhánh là Cơ Đốc (Catholic) , Tin lành/Baptistism (chỉ là 1 nhánh của Phản thệ giáo/ Protestant) , Chính thống giáo (Orthodox) , mà còn rất nhiều các nhánh dị giáo (cult/ không phải lúc nào cũng mang nghĩa xấu) khác như Jehova witnesses, các dị giáo ở Châu Phi, Jamaica (nhiều lắm , nhớ không hết) . Thỉnh thoảng lại có 1 ông tự xưng là đã gặp chúa và lập thêm 1 cái dị giáo nữa.
    Ví dụ thời hiện đại, có 1 ông Kim gì đó ở Bắc Hàn, đi truyền đạo bị bắt tra tấn, rồi chạy xuống Nam Hàn, lập ra 1 cái đạo nữa , làm 1 cái đám cưới to tổ chảng cho mấy trăm cặp (có cặp chỉ mới gặp nhau vài tuần, vài ngày, hay thậm chí vài giờ, Tây Á lẫn lộn) . Bây giờ chạy sang Mỹ rồi thì phải...
    Thời kỳ trung cổ là thời kỳ hỗn loạn ở Châu Âu, văn hoá tụt hậu, chiến tranh liên miên, đa số dân mù chữ. Thập tự chinh là hy vọng cho nhiều người để thoát ra khỏi đói nghèo lạc hậu.
    Và phía đông thời kỳ này rất giàu có , Jerusalem là trung tâm buôn bán thời kỳ này nên hay bị giành giật qua lại giữa hồi giáo và Thiên Chúa giáo.
  7. altus

    altus Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/05/2003
    Bài viết:
    1.503
    Đã được thích:
    1
    Cơ Đốc Giáo = Thiên Chúa Giáo = Ki Tô Giáo
    Công Giáo là một nhánh của CĐG/TCG/KTG.
    Ở VN thì CG hay bị đánh đồng với CĐG/TCG/KTG.
    Tất nhiên. Tôi không viết chữ ''chỉ''. 3 nhánh này có thể xem là 3 nhánh lớn nhất, đại môn phái. Còn các loại bang hội khác thì đúng là nhiều. Riêng bên Mỹ nghe nói có tới mấy trăm dòng khác nhau.
  8. Cavalry

    Cavalry Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/10/2001
    Bài viết:
    3.062
    Đã được thích:
    0
    Jerusalem cũng không giàu có gì mà nếu có thì đám đến sớm nó gom hết rồi! Cho nên mấy lần Thập Tự Chinh sau thay vì đến Jerusalem thì lại đến Ai cập nhiều vàng hơn. Rồi có lần quân Thập Tư lại đánh ngay người anh em Thiên chúa giáo Bizantine vì tội nhiều vàng quá mà không chịu lấy ra khao!
    Càng về sau Thập tự chinh càng biến thành những chuyến đi tìm vàng, càng nghĩ đến vàng quân Thập tự đánh nhau càng dở và cuối cùng thua, mất cả vốn liếng bỏ ra! Thế là quý tộc phải xoè tay vay tiền nhà giàu, mở đường cho bọn giàu ngoi lên làm tư bản!
  9. hai_nt

    hai_nt Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/11/2004
    Bài viết:
    226
    Đã được thích:
    0
    Các cuộc Thập tự chinh đã để lại trong lòng người Hồi giáo sự hằn thù sâu sắc đối với Cơ đốc giáo.
  10. fromantoan

    fromantoan Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    22/02/2003
    Bài viết:
    305
    Đã được thích:
    1
    Theo như em biết về công giáo thì có suy nghĩ thế này cơ (không phải 1 nhánh đâu):
    Roman Catholic Church là Thiên Chúa Giáo. Nhưng trong đầu thập niên 60 khi ông Ngô Đình Diệm làm tổng thống ở miền Nam, em của ông là ************* Ngô Đình Thục muốn phát triển đạo Thiên Chúa Giáo nên có đụng chạm với Phật Giáo ngoài Trung và những ai làm việc trong chính quyền mà theo đạo Thiên Chúa Giáo thì thường được nâng đỡ. Từ đó mới có danh từ đạo Công giáo.
    Roman Catholic Church = Thiên Chúa Giáo = đạo của chính quyền (Miền Nam khi đó) ==> Công giáo
    Còn đây là 1 số đoạn trích từ giải thích của Wikipedia và trên 1 trang giải thích của 1 mục sư tin lành (mình không nhớ lắm)
    Ðạo Tin Lành khác Hồi Giáo và Do Thái Giáo như thế nào?
    Trả lời:
    Cảm ơn bạn đã gởi đến chúng tôi thắc mắc của bạn. Trước khi trả lời, chúng tôi xin được phép điều chỉnh lại một điểm nhỏ: Chúng tôi xin được trả lời sự khác biệt giữa Cơ Ðốc Giáo (thay vì là Tin Lành) , Hồi Giáo và Do Thái Giáo vì như vậy sẽ dễ dàng cho việc phân tích nguồn gốc giữa ba tôn giáo này. Sau đó, chúng tôi sẽ trình bày ngắn cho bạn sự liên hệ giữa các giáo hội mang tên Cơ Ðốc Giáo và sự ra đời của giáo hội Tin Lành từ giáo hội Cơ Ðốc Giáo.
    Cơ Ðốc Giáo, Hồi Giáo và Do Thái Giáo là ba tôn giáo khác nhau ngoại trừ một điểm chung là Hồi Giáo nhận rằng đức Ala mà họ thờ phượng cũng là Ðức Chúa Trời trong Kinh Thánh Cựu Ước của Do Thái Giáo và Cơ Ðốc Giáo. Trên cơ sở nào mà họ tin điều đó? Kinh Thánh Cựu Ước có ghi chép lại câu chuyện Ðức Chúa Trời chọn lựa một người tên là Ápraham và lập giao ước với người đó. Ðức Chúa Trời hứa sẽ ban phước cho dòng dõi người đó: "Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân lớn; ta sẽ ban phước cho ngươi, cùng làm nổi danh ngươi, và ngươi sẽ thành một nguồn phước. Ta sẽ ban phước cho người nào chúc phước cho ngươi, rủa sả kẻ nào rủa sả ngươi; và các chi tộc nơi thế gian sẽ nhờ ngươi mà được phước." (Sáng Thế Ký 12:2-3). Ápraham rất lớn tuổi vẫn không có con nên vợ ông là Sara khuyên ông gần gũi với một người đầy tớ của bà để sanh con thay bà. Người đầy tớ mang tên Aga đó sanh cho Ápraham một con trai đặt tên là Ích maên (Sáng Thế Ký 16). Tuy nhiên, theo lời hứa của Ðức Chúa Trời là Ngài sẽ ban cho Áp ra ham con cháu từ Sara sanh ra. "Ðức Chúa Trời bèn phán rằng: Thật vậy, Sa-ra vợ ngươi, sẽ sanh một con trai, rồi ngươi đặt tên là Y-sác. Ta sẽ lập giao ước cùng nó, để làm giao ước đời đời cho dòng dõi của nó." (Sáng Thế Ký 17:19) Ðiều đó đã được ứng nghiệm khi Ápraham được một trăm tuổi và Sara sanh cho Ápraham một con trai đặt tên là Ysác. Dân Do Thái là dòng dõi của Ápraham từ Ysác còn các dân tộc ở miền Trung Ðông là dòng dõi của Ápraham từ Íchmaên. Dân Do Thái đặt lòng tin của mình vào Kinh Thánh Cựu Ước và tin tưởng vào sự chọn lựa đặc biệt của Ðức Chúa Trời cho dòng dõi người Do Thái hay người Y-sơ-ra-ên theo nghĩa đen, nghĩa là người Y-sơ-ra-ên theo như chúng ta biết ngày nay. Trên cơ sở đó mà có đạo Do Thái. Do Thái Giáo chỉ tin Kinh Thánh Cựu Ước mà thôi và vẫn đang tuân thủ theo một số luật pháp, nghi thức thờ phượng theo Thánh Kinh Cựu Ước. Các dân tộc Trung Ðông nhận mình thờ phượng Ðức Chúa Trời của Ápraham nhưng họ là đối địch với người Do Thái vì xuất phát từ hai dòng con khác nhau như đã kể trên. Ngoài ra, sau này Hồi Giáo tin vào sự mặc khải mà họ cho là từ Ðức Alla cho một người mang tên là Môhamét để viết ra kinh Coran, là nền tảng cho niềm tin Hồi Giáo.
    Còn Cơ Ðốc Giáo thì sao? Cơ Ðốc Giáo cũng tin một Ðức Chúa Trời như Kinh Thánh Cựu Ước của Do Thái Giáo. Tuy nhiên, Cơ Ðốc Giáo tin vào Chúa Giêxu, là Ðức Chúa Trời thành người xuống thế gian cách đây hơn 2000 năm để chết trên thập tự giá cứu chuộc con người. Do Thái Giáo không tin Chúa Giêxu. Kinh Thánh Cựu Ước có tiên báo nhiều lần về sự đến của một Ðấng Mêsi đem sự cứu rỗi đến cho dân Y-sơ-ra-ên. Chúa Giêxu đã đến mang đến một cái nhìn mới, một sự bày tỏ trọn vẹn hơn cho chương trình cứu rỗi của Ðức Chúa Trời dành cho "dân Y-sơ-ra-ên thuộc linh" nghĩa là cho tất cả những người thuộc mọi dân tộc đặt lòng tin vào Chúa Giêxu chớ không chỉ cho dân tộc Y-sơ-ra-ên theo nghĩa đen. Từ Chúa Giêxu và các sứ đồ Ngài đã lập nên hội thánh Cơ Ðốc cũng như viết nên phần thứ hai của Kinh Thánh gọi là Thánh Kinh Tân Ước. Kinh Thánh của Cơ Ðốc Giáo bao gồm hai phần: Cựu Ước được viết ra trước khi Chúa Giêxu đến thế gian và Tân Ước được viết ra sau khi Chúa Giêxu đến. Trong khi đó, Do Thái Giáo không tin rằng Chúa Giêxu là Ðấng Mêsi mà Cựu Ước nói đến. Cho đến ngày nay họ vẫn còn trông đợi Ðấng Mêsi đó.
    Về mặt những nghi thức tôn giáo giữa Cơ Ðốc Giáo và Do Thái Giáo cũng khác nhau. Dù Cơ Ðốc Giáo vâng theo cả Cựu Ước và Tân Ước nhưng có rất nhiều nghi thức, thể lệ về sự thờ phượng, dâng tế lễ, các ngày lễ, đền thờ. trong Cựu Ước được Ðức Chúa Trời ban cho dân Y-sơ-ra-ên để dùng làm hình bóng chỉ về sự cứu rỗi trong Chúa Giêxu. Vì vậy, sau khi Chúa Giêxu đến và làm trọn vẹn những nghi thức đó bằng sự hy sinh của chính Ngài thì Cơ Ðốc Giáo không còn phải vâng theo những nghi lễ luật lệ trong Cựu Ước chỉ về Chúa Giêxu nữa. "Vì vậy, chớ có ai đoán xét anh em về của ăn uống, hoặc ngày lễ, hoặc ngày mặt trăng mới, hoặc ngày Sa-bát, ấy đều chỉ là bóng của các việc sẽ tới, còn hình thì ở trong Ðấng Christ." (Côlôse 2:16-17) Ðể tham khảo thêm về đề tài này, xin bạn vui lòng tham khảo câu hỏi "Luật Pháp Cựu Ước đối với tín hữu ngày nay" trong mục "Bạn Ðọc Hỏi Ðáp". Do Thái Giáo vì không tin Chúa Giêxu nên vẫn còn tuân thủ những luật lệ đó cho đến ngày nay.
    Cơ Ðốc Giáo phát triển, sau đó tách ra thành hai giáo hội Giáo hội Chính Thống Giáo và Giáo hội Công Giáo (hay Giáo hội Thiên Chúa Giáo). Từ Giáo hội Thiên Chúa Giáo này khoảng thế kỷ 16, một tu sĩ mang tên Martin Luther đứng ra kêu gọi một phong trào Cải Chánh giáo hội, kêu gọi giáo hội đi sát lại với Kinh Thánh và bỏ đi một số những nghi thức tôn giáo không thích hợp với Kinh Thánh. Phong trào đó đã dẫn đến sự thành lập của giáo hội Tin Lành. Muốn tìm hiểu thêm về sự khác biệt giữa Tin Lành và Công Giáo, xin bạn tham khảo câu hỏi "Tin Lành và Thiên Chúa Giáo: Ðiểm khác biệt - Lịch sử Giáo hội" trong phần "Bạn Ðọc Hỏi Ðáp" trên website http://tinlanh.com.
    Tuy nhiên, chúng tôi cũng xin được nói thêm rằng chúng ta có thể tìm hiểu về các tôn giáo nhưng không nên quá chú trọng về vấn đề tôn giáo vì không có một tôn giáo (đạo) nào trên thế giới nầy có thể cứu được con người chúng ta, kể cả Cơ Ðốc Giáo. Chỉ có Chúa Giêxu là Ðức Chúa Trời trở thành người gánh thay tội lỗi và chịu hình phạt vì cớ những tội lỗi của những người tin Ngài mới có thể cứu được con người. Muốn biết về Chúa Giêxu hay Ðức Chúa Trời chúng ta có thể đọc trong Kinh Thánh. Quyển Kinh Thánh không phải riêng của đạo nào mà đó là lời của Ðức Chúa Trời được chép và sưu tập lại để cho chúng ta đọc biết và làm theo, "Cả Kinh Thánh đều là bởi Ðức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình" (2Timôthê 3:16), "Trước hết, phải biết rõ rằng chẳng có lời tiên tri nào trong Kinh Thánh lấy ý riêng giải nghĩa được. Vì chẳng hề có lời tiên tri nào là bởi ý một người nào mà ra, nhưng ấy là Ngài Ðức Thánh Linh cảm động mà người ta đã nói bởi Ðức Chúa Trời" (2Phierơ 1:20-21)
    Theo hiểu biết của chúng tôi, vấn đề khác biệt lớn nhất giữa niềm tin Thiên Chúa Giáo và niềm tin Tin Lành là vấn đề con người có nhờ công đức mà được sự cứu rỗi hay không. Niềm tin Tin Lành tin rằng con người được cứu hoàn toàn bởi đức tin nơi sự cứu chuộc của Chúa Giêxu mà không nhờ một chút nào vào công đức của bản thân người đó, nghĩa là một người được cứu chỉ bởi nhận mình có tội và nhận lấy công lao cứu chuộc của Chúa Giêxu cho mình mà thôi. Ở điểm này, niềm tin Công Giáo cho rằng sự cứu rỗi của con người có sự góp phần của công đức của người đó nữa, rằng bởi mình tin và cố gắng làm lành thì mình được cứu chớ chẳng phải do tin Chúa chết thay mình mà thôi. Dù rằng Thiên Chúa Giáo cũng tin Chúa Giêxu chết thay cho tội lỗi con người, nhưng để được cứu, con người còn phải làm điều thiện nữa.
    Niềm tin Tin Lành dựa trên nền tảng Kinh Thánh Êphêsô 2:8,9 nói "Vả, ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em bèn là sự ban cho của Ðức Chúa Trời, ấy chẳng phải bởi việc làm đâu, hầu cho không ai khoe mình." Kinh Thánh cũng dạy chúng ta làm điều tốt, Galati 6:9 nói "Chớ mệt nhọc về sự làm lành." Tuy nhiên, vấn đề là thứ tự của nó: nghĩa là chúng ta phải TIN ÐỂ ÐƯỢC CỨU, rồi bởi là Con Chúa, chúng ta LÀM LÀNH BỞI MUỐN LÀM THEO LỜI CHÚA. Chúng ta không cố gắng làm lành để có công mà được cứu vì công trạng của chúng ta không thể cứu chúng ta.
    Một vấn đề khác biệt nữa giữa niềm tin Công Giáo và Tin Lành là việc cầu xin qua trung gian bà Mari và các thánh. Giáo hội Công Giáo cho phép tín hữu cầu nguyện với Ðức Chúa Trời qua trung gian là đức mẹ Mari và các thánh. Người Công Giáo tôn kính đức mẹ Mari vì nghĩ rằng bà là mẹ của Chúa và theo suy nghĩ của con người khi tôn kính con thì mẹ cũng là người đáng tôn kính. Thật ra Kinh Thánh không có dạy điều đó. Kinh Thánh cho chúng ta biết Chúa Giêxu là con của Ðức Chúa Trời chớ không phải con của bà Mari dù bà được Chúa dùng để sanh Chúa Giêxu ra. Trong một vài trường hợp được chép lại trong Kinh Thánh Chúa Giêxu khẳng định về điều đó, "Ngài thưa rằng: Cha mẹ kiếm tôi làm chi? Há chẳng biết tôi phải lo việc Cha tôi sao?" (Luca 2:9), "Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Hỡi đờn bà kia, ta với ngươi có sự gì chăng? Giờ ta chưa đến." (Giăng 2:4). Ðời sống bà có nhiều gương tốt để chúng ta noi theo nhưng chúng ta không xem bà như một người có thẩm quyền vì bà cũng chỉ là con người và cũng cần đến Chúa Giêxu để được cứu. Niềm tin Tin Lành chỉ cầu nguyện với Ðức Chúa Trời qua một mình Chúa Giêxu mà thôi vì tin rằng mọi người khác dù tốt lành đến đâu cũng chỉ là con người với những tội lỗi của mình và đều cần được cứu, chỉ có Chúa Giêxu là Ðức Chúa Trời làm người, là Ðấng trọn vẹn không tội lỗi. Kinh Thánh dạy trong 2Timôthê 2:5, "Vì chỉ có một Ðức Chúa Trời, và chỉ có một Ðấng Trung bảo ở giữa Ðức Chúa Trời và loài người, tức là Ðức Chúa Giêxu Christ, là người." Theo đó, chúng ta chỉ có thể cầu nguyện thông qua (hay "trong danh") Chúa Giêxu mà thôi.
    Về mặt thẩm quyền giáo hội, giáo hội Công Giáo công nhận thẩm quyền của những quyết định của giáo hội (của giáo hoàng, hồng y, linh mục...) ngang như Kinh Thánh. Giáo hội Tin Lành đặt nền tảng duy nhất trên nền tảng Kinh Thánh mà thôi. Chỉ có Kinh Thánh là nền tảng cho mọi quyết định, dạy dỗ, hướng dẫn cho hội thánh mà không phải là thẩm quyền của giáo hội. 1Timôthê 3:16 nói "Cả Kinh Thánh đều là bởi Ðức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình." Chúng ta đặt trọn lòng tin nơi Lời được Ðức Chúa Trời soi dẫn bởi nó không hề sai trật và không đổi dời theo thời gian. Còn những lãnh đạo của giáo hội, dù là chức vụ nào vẫn là con người như chúng ta và vì vậy vẫn có khả năng nhầm lẫn sai lầm. Vì vậy mà giáo hội Tin Lành không đề cao thẩm quyền của tổ chức giáo hội như thẩm quyền của Kinh Thánh.
    Như trên là những nét cơ bản về sự khác biệt giữa hai giáo hội Công Giáo và Tin Lành. Chúng tôi hiểu rằng giáo hội nào cũng cho rằng mình là con đường đúng. Vì ở Việt Nam chỉ có hai giáo hội có niềm tin chung gọi là Cơ Ðốc giáo cho nên thường thì chúng ta chỉ so sánh giữa hai tôn giáo nầy là Công Giáo và Tin Lành. Ở các nước khác thì có rất nhiều tôn giáo hệ phái cũng được gọi là Cơ Ðốc giáo hay Tin Lành nhưng niềm tin và tín lý thì có nhiều điểm khác nhau. Chúng tôi không có ý định chỉ trính cho là giáo hội Công Giáo sai vì chúng tôi biết rằng có nhiều hệ phái mang tên "tin lành" cũng tin và thực hành nhiều điều không đúng với Kinh Thánh. Vấn đề không chỉ là giữa Công Giáo và Tin Lành mà bất kỳ tôn giáo, hệ phái nào cũng thấy điều họ tin tưởng là đúng cả! Thế thì chúng ta dựa trên nền tảng nào để biết rằng chúng ta đang đi theo con đường đúng? Chúng ta chỉ đặt nền tảng duy nhất trên KINH THÁNH, LỜI ÐỨC CHÚA TRỜI mà thôi. Vì vậy, trước bất kỳ một niềm tin, tín lý nào mà chúng ta nghe đến, để xác định nó là đúng hay sai, chúng ta hãy đem nó kiểm chứng với lời Kinh Thánh. Nếu tín lý nào thích hiệp với Kinh Thánh thì đó là đúng. Ngược lại, nó là sự dạy dỗ sai lệch chúng ta không nên tiếp nhận. Trên cơ sở đó, chúng ta có thể nhìn lại những điểm đã nêu lên ở trên về sự khác biệt giữa Công Giáo và Tin Lành hầu tái xác định một lần nữa về sự chân chính của những gì chúng ta đang làm theo. Chúng ta không cầu nguyện qua danh bà Mari bởi điều đó không đúng theo sự dạy dỗ của Kinh Thánh (theo như chúng tôi đã dẫn chứng Kinh Thánh ở trên).

Chia sẻ trang này