1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những cuộc Thập tự chinh

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ngodong13, 19/04/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. fromantoan

    fromantoan Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    22/02/2003
    Bài viết:
    305
    Đã được thích:
    1
    Các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham
    Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
    Các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham xuất phát từ truyền thống Do thái (Semitic) cổ xưa, khởi nguồn từ Abraham, được mô tả trong Kinh Torah, Thánh Kinh và Kinh Qur''an, các tôn giáo độc thần (monotheistic) này bao gồm: Do thái giáo, Cơ đốc giáo và Hồi giáo, chiếm gần nửa số người có đạo trên thế giới. Ngoài ra, một số đạo giáo khác có liên hệ với truyền thống Semitic đôi khi cũng được nhìn xem là có khởi nguồn từ Abraham như đạo Baha''i, đạo Druze, đạo Mandae, đạo Sikh và phong trào Rastafari.
    Trong tiếng Việt, thuật ngữ "Thiên Chúa giáo" thường được dùng để chỉ Công giáo nói riêng và Cơ đốc giáo nói chung. Nhưng theo ngữ nghĩa, Cơ đốc giáo (Christianity) bao hàm các tôn giáo khởi nguồn từ Chúa Cơ đốc (Christ). Tương tự, Thiên Chúa giáo nên được hiểu là các tôn giáo thờ phụng Thiên Chúa. Vì vậy, có lẽ sẽ thích hợp hơn nếu áp dụng thuật ngữ Thiên Chúa giáo cho các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham, vì các tôn giáo này có một điểm chung là xác quyết niềm tin của mình vào Thiên Chúa.
    Đến một mức độ nào đó, các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham đều có nguồn gốc từ Do thái giáo (Judaism) phổ biến tại đất nước Do thái cổ đại trước thời kỳ lưu đày tại Babylon vào đầu thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên.
    Cơ đốc giáo xuất hiện vào thế kỷ thứ nhất như là một hình thức cải cách triệt để của Do thái giáo, mau chóng lan truyền đến Hi Lạp và La Mã, từ đó tiến đến Âu châu, Á châu, Mỹ châu và các nơi khác trên thế giới. Trải qua nhiều thế kỷ, Cơ đốc giáo tự chia cắt thành nhiều giáo hội và giáo phái khác nhau. Cuộc ly giáo quan trọng đầu tiên xảy ra vào thế kỷ thứ 5 tách các giáo hội phương Đông khỏi Công giáo. Các cuộc ly giáo khác đã hình thành Chính thống giáo Đông phương vào thế kỷ 16 và cuộc Cải cách Kháng cách (Protestant Reformation) đã sản sinh hàng trăm giáo phái thuộc cộng đồng Kháng cách.
    Vào thế kỷ thứ 6, Hồi giáo đến từ các thành phố Mecca và Madinah xứ Ả Rập. Tuy nguyên thủy không phải là một nhánh ly khai từ Do thái giáo hay Cơ đốc giáo, Hồi giáo tự cho mình là sự tiếp nối và thay thế cho hai tôn giáo nói trên. Vì vậy người ta có thể tìm thấy trong Hồi giáo nhiều di sản từ Do thái giáo và Cơ đốc giáo như tín đồ Hồi giáo tin vào một dị bản của câu chuyện Sáng thế, họ cũng tin rằng người Ả Rập là dòng dõi của Abraham theo phổ hệ Ishmael, trong khi đó, họ bác bỏ Kinh thánh Do thái vì họ cho rằng trong đó người ta đã xoá bỏ những phần đề cập đến sự xuất hiện của Muhamad. Dù vậy, họ vẫn tôn trọng bản kinh thánh này như là được soi dẫn bởi Thiên Chúa.
    Nguồn gốc
    Ký thuật về khởi nguyên của các tôn giáo bắt nguồn từ Abraham được tìm thấy trong Sáng thế ký của Kinh thánh Hêbrơ mà theo tryền thuyết Do thái được viết bởi Moses vào thiên niên kỷ thứ hai trước công nguyên, theo nhiều ước tính, vào năm 1500 TCN. Theo Sáng thế ký, các nguyên lý căn bản của Do thái giáo được mặc khải tuần tự theo dòng dõi các tổ phụ, từ Adam đến Jacob (cũng được gọi là Israel). Tuy nhiên, Do thái giáo được thành lập như là một tôn giáo khi Moses nhận lãnh Mười Điều răn trên núi Sinai, cùng với hệ thống tư tế và các nghi thức thờ phụng tại Đền thờ sau khi dân tộc này được giải cứu khỏi Ai Cập.
    Các tổ phụ
    Có sáu nhân vật quan trọng trong Kinh Thánh sống trước Abraham: Adam và Eva, các con trai, Cain và Abel và dòng dõi của họ, Enoch và Noah. Noah là người đã cứu gia đình mình và tất cả chủng loại thú vật trên đất bằng Con tàu Noah trong cơn Đại hồng thuỷ. Các vị này không để lại bất kỳ hệ thống đạo lý nào ?" đơn giản họ chỉ sống cuộc đời mình, làm nhiều điều tốt và xấu mà không để lại chỉ báo đặc biệt nào giúp giải thích các hành động của họ. Họ chỉ tồn tại như những mắt xích trong một chuỗi các sự kiện chuẩn bị cho sự khai sinh một tôn giáo lớn sau này. Vì vậy Abraham xuất hiện như một hình tượng nổi bật được ba tôn giáo độc thần lớn nhất nhìn nhận là người đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập nền văn minh chung của họ.
    Theo Sáng thế ký, Abraham được kêu gọi rời bỏ Ur, thành phố quê hương của mình, để được Thiên Chúa "làm cho ông trở nên một dân lớn". Abraham (hay Ibrahim theo tiếng Ả Rập) có tám con trai: Ishmael, con của Hagar, nữ tì của vợ ông; Isaac, con của Sarah, vợ ông và sáu người khác, con của Keturah, người phụ nữ ông cưới làm vợ sau khi Sarah qua đời. Cũng theo ký thuật này, dân Do thái là hậu duệ của Jacob, con trai của Isaac. Jacob sau này được đổi tên thành Israel. Do thái giáo dựa trên giao ước được thành lập tại núi Sinai giữa Thiên Chúa và "con cái của Israel" (hậu duệ của mười hai con trai của Israel).
    Cơ đốc giáo nhìn nhận Chúa Giêxu, mẹ Ngài là người Do thái, là Đấng Messiah, là Con Thiên Chúa, là một thân vị trong Ba Ngôi.
    Hồi giáo nhìn nhận Chúa Giêxu và các nhà tiên tri Do thái sau Abraham (như Moses) là được Thiên Chúa soi dẫn, nhưng họ xem Muhamad (người sáng lập Hồi giáo) là nhà tiên tri sau cùng.
    Đạo Baha''i nhìn nhận các nhà tiên tri này, nhưng thêm vào Bab, Bâh?Tu?Tllah và các tiên tri khác.
    Tương tự, Phong trào Rastafari nhìn nhận thẩm quyền Kinh Thánh, thêm vào đó tin rằng họ là hậu duệ của tôn giáo của Abraham. Họ công nhận hầu hết các tiên tri trong Kinh Thánh và thêm vào Hoàng đế Haile Selassie và Marcus Garvey.
    Đạo Mormon tổng hợp Cơ đốc giáo cổ đại và Do thái giáo.
    [sửa]
    Đấng Tối Cao
    Trong khi Do thái giáo và Hồi giáo có quan điểm triệt để về tính duy nhất của Thiên Chúa thì người Cơ đốc tin rằng Ngài là Thiên Chúa duy nhất hiện hữu trong ba thân vị gọi là Ba Ngôi.
    [sửa]
    Do thái giáo
    Thần học Do thái giáo đặt nền tảng trên Kinh thánh Hêbrơ (Tanakh, hoặc Cựu Ước của người Cơ đốc), theo đó các thuộc tính và mạng lịnh của Đấng Tối Cao được mặc khải trong các Sách của Moses và các sách Tiên tri. Nền thần học này cũng dựa vào Luật Truyền khẩu được chép lại trong kinh Mishnah và Talmuds.
    Đấng Tối Cao được xưng danh trong Kinh thánh Hêbrơ là Elohim, Adonai hoặc với bốn mẫu tự Hêbrơ "Y-H-V (hay W)-H", người Do thái không phát âm từ này nhưng người Cơ đốc thường đọc là "YAHWEH".
    Cơ đốc giáo
    Tín đồ Cơ đốc xưng nhận niềm tin vào một Thiên Chúa duy nhất, một Ba Ngôi bất khả phân ly, hiện hữu trong ba "thân vị": Chúa Cha, đấng tạo dựng cả vũ trụ; Chúa Con, hoá thành nhục thể trong Chúa Giêxu; và Chúa Thánh Linh. Tín hữu Cơ đốc tin rằng Thiên Chúa của họ cũng là Thiên Chúa của Do thái giáo và giáo lý Ba Ngôi chỉ được mặc khải trọn vẹn trong Chúa Giêxu. Giáo thuyết này được trình bày trong Kinh thánh Cơ đốc (gồm Cựu Ước và Tân Ước) cũng như trong John 10.30 ("Ta với Cha là một"), được lập thành học thuyết bởi các giáo phụ và được xác quyết trong tín điều Athanasius.
    Khi nhắc đến Chúa Cha, người Cơ đốc ít khi gọi Ngài là "Yahweh", nhưng thường dùng danh xưng "Chúa Cha" hay "Chúa". Họ thường nhắc đến Chúa Con với các danh xưng "Con Thiên Chúa", "Ngôi Lời của Thiên Chúa" trước khi Ngài giáng thế, hoặc "Chúa Giêxu Cơ đốc", "Chúa Cứu thế", "Đấng Messiah", "Đấng Chuộc tội" hoặc "Chiên con của Thiên Chúa" từ khi Ngài giáng thế.
    Giáo lý Ba Ngôi độc thần không được chấp nhận bởi một số giáo phái như giáo phái Arius (Arianism), Duy nhất thần giáo (Unitarianism), Cơ đốc Phục lâm và Chứng nhân Jehovah. Các giáo phái này tin rằng chỉ có Chúa Cha là Thiên Chúa; riêng đạo Mormon tin rằng Cha, Con và Thánh Linh là ba thân vị độc lập.
    [sửa]
    Hồi giáo
    Allah là tiếng Ả Rập dùng để gọi Thiên Chúa, truyền thống Hồi giáo cũng mô tả 99 tên của Thiên Chúa. Người Hồi giáo tin rằng Thiên Chúa của người Do thái cũng là Thiên Chúa của họ và Chúa Giêxu là đấng tiên tri được soi dẫn bởi Thiên Chúa. Như thế, họ xem thần học của Kinh thánh Do thái và sự day dỗ của Chúa Giêxu là đúng trên nguyên tắc nhưng họ tin rằng Hồi giáo là sự tiếp nối và thay thế cho hai tôn giáo trên.
    [sửa]
    Phổ hệ
    Phổ hệ ở đây được hiểu là giao ước được thành lập giữa Thiên Chúa và Abraham, có tính cha truyền con nối cho dòng dõi của ông, giống như ngai báu được truyền cho dòng dõi nhà vua.
    [sửa]
    Abraham
    Theo Sáng thế ký, Thiên Chúa lập giao ước với Abram, sau đó ông được đổi tên thành Abraham.
    [sửa]
    Ishmael
    Con trai đầu lòng của Abraham. Truyền thống Do thái cho rằng ông là con ngoại hôn, nhưng người Hồi giáo cho rằng ông là con chính thức trong hôn phối của Abraham và Hagar.
    [sửa]
    Isaac
    Sinh bởi người vợ đầu tiên của Abraham, Isaac là con trai thứ hai của Abraham. Người Do thái tin rằng ông là con đầu lòng của Abraham trong hôn phối trong khi người Hồi giáo cho rằng ông là con thứ hai trong hôn phối.
    [sửa]
    Jacob
    Jacob (Giacôbe), con của Isaac, được đổi tên thành Israel.
    [sửa]
    Mười hai Chi phái
    Dòng dõi của Jacob (Israel) phát triển thành mười hai chi phái. Trước khi chết, Jacob chúc phước cho Ephraim và Manasseh, hai con trai của Joseph và lập họ thành hai chi phái.
    Asher, Benjamin, Dan, Gad, Issachar, Joseph, Ephraim (con Joseph), Manasseh (con Joseph), Judah, Levi, Naphtali, Reuben, Simeon, Zebulun.
    Phổ hệ theo Do thái giáo
    Người Do thái tin rằng giao ước được truyền từ Abraham đến Isaac, con đầu lòng của Abraham trong hôn phối, và truyền đến Jacob (Israel). Người Do thái tin rằng họ thuộc về các chi phái lập thành Vương quốc Judah, gồm các chi phái Judah, Benjamin và Levi. Mười chi phái còn lại lập thành Vương quốc Israel, bị lưu đày khi bị xâm lăng bởi đế quốc Assyria. Chữ Do thái, Jew, có nguồn gốc từ chữ Judah.
    [sửa]
    Phổ hệ theo Hồi giáo
    Người Hồi giáo tin rằng giao ước được truyền từ Abraham đến Ishmael vì ông là con đầu lòng và là con chính thức.
    [sửa]
    Phổ hệ theo Cơ đốc giáo
    Tín hữu Cơ đốc tin rằng giao ước được truyền từ Abraham đến Isaac, con đầu lòng trong hôn phối và đến Jacob (Israel). Dòng dõi của Jacob là người kế thừa giao ước. Dù vậy, quyền trị vì được truyền cho Judah, một trong những con trai của Jacob, đến hậu duệ của Judah là vua David, sau cùng là Chúa Giêxu, Đấng Messiah của dân Do thái. Sự chết chuộc tội của Chúa Giêxu thiết lập một giao ước mới khiến sự kế thừa huyết thống từ Abraham không còn cần thiết. Hầu hết tín hữu Cơ đốc đồng ý rằng về phương diện thuộc linh, người Cơ đốc là con cái của Abraham.
    [sửa]
    Phổ hệ theo đạo Mormon
    Tín đồ Mormon tin rằng giao ước được truyền từ Abraham đến Isaac, rồi đến Jacob. Họ tin rằng họ thuộc về chi phái Joseph.
    [sửa]
  2. fromantoan

    fromantoan Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    22/02/2003
    Bài viết:
    305
    Đã được thích:
    1
    Sách Thánh
    Cả ba tôn giáo này đều đặt thẩm quyền của mình trên các sách thánh, được hầu hết tín đồ xem là lời của Thiên Chúa ?" vì vậy là thánh và chân xác ?" cùng với một số sách khác được tôn trọng như là có sự soi dẫn thần thượng.
    [sửa]
    Do thái giáo
    Kinh thánh của Do thái giáo gồm có Tanakh, chữ viết tắt trong tiếng Hêbrơ cho các kinh Torah (Ngũ kinh Moses), Nevi?Tim (các sách Tiên tri) và Ketuvim (các sách văn chương). Các sách này được bổ sung bởi một bộ các tác phẩm được viết bởi các chức sắc gọi là Talmud. Tanakh, đặc biệt là Torah, trong bản văn Hêbrơ, được xem là thánh đến từng câu chữ. Mọi dịch thuật đều không được hoan nghênh và cần phải hết sức cẩn thận và kiên nhẫn khi sao chép.
    [sửa]
    Cơ đốc giáo
    Các sách thánh của Cơ đốc giáo là Cựu Ước, không có khác biệt quan trọng nào so với Kinh thánh Hêbrơ, cùng với Tân Ước bao gồm bốn sách Phúc âm viết về cuộc đời và sự day dỗ của Chúa Giêxu, được cho là của các sứ đồ Matthew, Mark, Luke và John và các sách khác được viết bởi các giáo phụ đầu tiên như Phaolô. Tất cả các sách này được gọi chung là Kinh thánh Cơ đốc, thường được xem là có sự soi dẫn của Thiên Chúa. Như vậy người Cơ đốc công nhận các giáo lý căn bản của Cựu Ước, đặc biệt là Mười Điều răn. Dù vậy, họ tin rằng cuộc đời và sự dạy dỗ của Chúa Giêxu, như được ký thuật trong Tân Ước, soi rọi ánh sáng trên mối tương giao mật thiết giữa Thiên Chúa và loài người - bằng cách nhìn xem tình yêu thương và sự thương xót là lớn hơn các điều luật, bằng cách giảm nhẹ các luật lệ nghi lễ (như kiêng cữ một số thức ăn hoặc các nghi thức thờ phụng) và bằng cách giao cho các sứ đồ của Ngài sứ mạng rao giảng lời của Thiên Chúa.
    Các bản Kinh thánh được phổ biến rộng rãi trong cộng đồng Cơ đốc giáo là: Bản Kinh thánh Bảy mươi tiếng Hi Lạp, bản Kinh thánh Vulgate tiếng Latinh, bản Kinh thánh King James tiếng Anh và bản Kinh thánh Synodal tiếng Nga.
    Ngoài ra còn có nhiều sách khác được viết bởi các cá nhân hoặc bởi các công đồng. Một số giáo hội công nhận các tác phẩm này như là phẩn bổ sung cho các sách của Kinh thánh trong khi các giáo hội khác khước từ công nhận chúng.
    [sửa]
    Hồi giáo
    Hồi giáo chỉ có duy nhất một sách thánh, Kinh Qur''an, gồm 114 chương (surat). Cũng theo Kinh Qur''an các chương này được mặc khải cho tiên tri Muhamad bởi thiên sứ trưởng Gabriel và được giữ gìn bởi các môn đồ của Muhamad cho đến khi chúng được biên tập thành một quyển sách duy nhất (không sắp xếp theo thứ tự thời gian) vài thập niên sau khi ông qua đời.
    Kinh Qur''an chứa đựng vài câu chuyện lấy từ Kinh thánh Do thái (chủ yếu trong sura 17, Con cái của Israel), nhiều lần nhắc đến Chúa Giêxu như là một tiên tri được soi dẫn bởi Thiên Chúa. Tuy nhiên, nhìều điều luật trong Tanakh và Tân ước không được chấp nhận hoàn toàn nhưng được thay thế bởi các điều luật mà họ tin là được Allah mặc khải trực tiếp cho Muhamad (qua Gabriel).
    Giống như người Do thái giáo, người Hồi giáo xem bản văn tiếng Ả Rập của kinh Qur''an là thánh cho đến từng câu chữ. Cũng như Luật truyền khẩu được thêm vào Kinh thánh Hêbrơ, Kinh Qur''an được bổ sung bởi Ha***h, bộ sách được viết sau này nhằm ký thuật lời giảng của Tiên tri Muhamad. Kinh Ha***h giải thích và chi tiết hoá các điều luật trong Kinh Qur''an.
    Kinh Ha***h và chuyện kể về cuộc đời của Muhamad lập nên Kinh Sunnah, bộ kinh sách bổ sung cho Kinh Qur''an.
    Tuy nhiên, vào thế kỷ 20, những tín đồ Hồi giáo tự xưng là "Những người thuận phục" qui tụ thành một nhóm mà niềm xác tín trọng tâm là Kinh Qur''an là kinh thánh hợp pháp duy nhất, Kinh Ha***h và Sunnah là những tác phẩm không được soi dẫn bởi thần quyền. Quan điểm này đặt họ vào thế đối nghịch với nhiều nhóm Hồi giáo khác, đặc biệt khi họ đem xác tín nền tảng số một của Hồi giáo truyền thống "Chỉ có một Thiên Chúa duy nhất và Muhamad là tiên tri của Ngài" ra phân tích và chỉ giữ lại phần đầu "Chỉ có một Thiên Chúa duy nhất", họ cho rằng phần còn lại là khuyến khích thờ lạy hình tượng.
    [sửa]
    Mormon
    Tín đồ Mormon không chỉ tin Tân Ước và Cựu Ước mà còn tin vào các kinh sách khác như Kinh Mormon, Châu báu cực quí và Học thuyết của Giao ước.
    [sửa]
    Trông đợi
    Các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham đều bày tỏ niềm tin vào ngày tận thế và thời điểm Vương quốc của Thiên Chúa đến trên đất. Do thái giáo mong đợi sự hiện đến của Đấng Messiah. Cơ đốc giáo trông mong sự tái lâm của Chúa Cơ đốc. Tín đồ Hồi giáo trông chờ cả sự tái lâm của Chúa Giêxu (để hoàn tất cuộc đời và chết vì họ tin rằng Chúa Giêxu vẫn sống và chưa hề bị đóng đinh) và sự trở lại của Mahdi (Sunnis trong sự hoá thân đầu tiên và Shi''as sự trở lại của Muhamad al-Mahdi).
    [sửa]
    Đời sau
    [sửa]
    Do thái giáo
    Quan điểm của Do thái giáo về đời sau là đa dạng. Có thể do tôn giáo này chỉ chú tâm đến đời hiện tại, không phải đến điều gì sẽ xảy ra sau cái chết. Không có nghĩa là Do thái giáo không tin vào đời sau, chỉ đơn giản không xem đó là điều quan trọng.
    Nhiều người tin rằng đời sau là một tiến trình thanh tẩy trước khi được chấp nhận vào "thế giới bên kia". Thân thể sẽ nhận hình phạt trong Sheol, hay trong mồ mả, và linh hồn được thanh tẩy tại Gehena, hay ngục luyện tội. Trong ngục luyện tội, mọi linh hồn được thanh tẩy bằng cách xét lại cuộc sống của mình và nhận ra những lỗi lầm mà mình đã phạm. Tiến trình này kéo dài tối đa là một năm, thời gian đủ để tẩy sạch linh hồn bẩn thỉu nhất. Nhiều người khác cho rằng linh hồn những người gian ác nhất được thanh tẩy hoàn toàn tại Abbadon. Điều gì xảy ra sau tiến trình thanh tẩy để có thể được lên vườn Eden vẫn còn là vấn đề đang tranh luận.
    [sửa]
    Cơ đốc giáo
    Đời sau là một trong những khái niệm nền tảng của thần học Cơ đốc. Tội nhân sẽ nhận lãnh sự trừng phạt tại Địa ngục và bị phân cách với Thiên Chúa đời đời. Ngược lại, người công chính sẽ được tiếp rước vào cuộc sống phước hạnh đời đời, thân cận với Thiên Chúa ở Thiên đàng hoặc "Vương quốc của Thiên Chúa". Một số nền thần học Cơ đốc chấp nhận ngục luyện tội tương tự như Gehena của Do thái giáo, nơi linh hồn phạm tội nhẹ sẽ được thanh tẩy trong một thời gian trước khi được lên Thiên đàng.
    Khái niệm về đời sau nơi con người sẽ được tưởng thưởng hoặc trừng phạt vì cớ những gì họ làm trong đời này ảnh hưởng toàn diện trên tư duy và nghi lễ Cơ đốc giáo. Con người có thể nhận lãnh sự tha thứ từ Thiên Chúa khi thật tâm hối cải. Theo đức tin Công giáo, chỉ có thể có được sự tha tội khi xưng tội với linh mục, người có thể yêu cầu người xưng tội cầu nguyện như một hình thức sửa phạt; đây là một trong bảy thánh lễ theo nghi thức Công giáo. Một số giáo phái yêu cầu sự xưng tội công khai trước mọi người. Trải qua nhiều thế kỷ, một số cộng đồng Cơ đốc phát triển các nghi lễ tự trừng phạt, từ đi hành hương đến các nơi thánh đến tự hành xác. Nhiều giáo phái Kháng cách (Protestantism) tin rằng đức tin là chìa khoá dẫn đến sự tha thứ và cứu rỗi, các việc lành cũng xuất phát từ đức tin (sola fide).
    Việc giáo hội phân phối sự tha tội để nhận lại tiền quyên tặng dưới hình thức bán bùa xá tội vào cuối thời kỳ Trung cổ là một trong những nguyên nhân dẫn đến Cuộc cải cách Kháng cách (Protestant Reformation).
    Khái niệm về đời sau, về sự cứu chuộc và về sự trừng phạt đời đời được nói đến trong Tân Ước nhưng không có nhiều chi tiết. Sự mô tả về Địa ngục và Thiên đàng vẫn đang là những suy diễn của các nhà thần học. Tuy nhiên, sự mô tả Địa ngục như là nơi chốn đầy "lửa và diêm sinh" với nhiều sự đau đớn là khái niệm phổ biến rộng rãi theo suốt dòng lịch sử.
    Thần học Cơ đốc bác bỏ khái niệm linh hồn người chết hiện diện trong thế giới người sống như đầu thai, nhập vào người sống, người chết hiện về. Một vài giáo phái tin vào hiện tượng quỷ ám, nhưng họ cho rằng đây là bởi quyền lực ma quỷ, không phải bởi linh hồn người chết. Nhiều người tin linh hồn các người thánh đã chết thỉnh thoảng hiện về với người sống trong "khải tượng" để dẫn dắt và giúp đỡ. Những vị thánh này cũng được cầu khấn như là những trung gian giữa con người và Thiên Chúa.
    [sửa]
    Hồi giáo
    Người Hồi giáo tin vào một địa ngục thiêu đốt dành cho người không vâng phục Thiên Chúa và phạm tội trọng. Những người thờ phụng Ngài được hứa sẽ nhận lãnh sự sống vĩnh cữu trên thiên đàng. Thiên đàng được chia thành bảy tầng (vì vậy có thuật ngữ "bảy tầng trời"), tầng trên cùng dành cho người chết vì đức tin. Nhờ hối cải mọi tội đều được tha vì Thiên Chúa được mô tả là Đấng hay thương xót.
    [sửa]
    Thờ phụng
    Ngoại trừ một vài khác biệt nhỏ, các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham đều theo chu kỳ bảy ngày, trong đó một ngày được chọn để biệt riêng ra cho thờ phụng, cầu nguyện và các hoạt động tôn giáo khác. Tập tục này xuất phát từ câu chuyện sáng thế được chép trong Kinh thánh, khi Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày và Ngài nghỉ vào ngày thứ bảy. Hồi giáo chọn ngày thứ sáu dành cho sự cầu nguyện tập thể, không phải là "ngày nghỉ".
    Cả Do thái giáo và Hồi giáo xem phép cắt bì là dấu chứng cho đức tin trong khi Cơ đốc giáo dùng lễ báp têm thay thế cho dấu chứng này. Nghi thức "báp têm" khác nhau giữa các giáo hội Cơ đốc nhưng cũng chỉ là những chọn lựa giữa dầm mình trong nước (immersion), rảy nước (aspersion) hoăc xức nước (anointment).
    Do thái giáo và Hồi giáo đều thiết lập những luật lệ nghiêm khắc trong kiêng cữ thức ăn như luật kosher của Do thái giáo và luật halaal của Hồi giáo. Cả hai đều cấm ăn thịt heo, Hồi giáo nghiêm cấm mọi loại rượu.
    Cơ đốc giáo trước đây không cho phép dùng thịt (không phải cá) vào các ngày thứ sáu trong một vài thời gian trong năm, nhưng luật này hoặc bị huỷ bỏ hoặc làm giảm nhẹ tại nhiều giáo hội.
    Cơ đốc giáo và Hồi giáo đều chú trọng vào việc truyền bá đức tin, nhiều tổ chức Cơ đốc gởi giáo sĩ đến hầu như khắp nơi trên thế giới để thuyết phục người khác chia sẻ đức tin của mình.
  3. ngodong13

    ngodong13 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/10/2004
    Bài viết:
    180
    Đã được thích:
    0
    Tổng kết một chút về 3 tôn giáo trên, lấy từ Hoa Sen, cũng của Charlie Nguyễn :
    1. Do Thái Giáo (Judaism) :
    Riêng cái tên ?oDo Thái giáo? cũng đã đủ nói lên cái ý nghĩa hạn chế của nó: đó là đạo của một dân tộc (a religion limited to one people). Tín đồ Do Thái giáo chính là công dân Do Thái. Hiện nay số tín đồ Do Thái giáo khoảng 12 triệu người (ở Mỹ 5.8 triệu; ở Israel 4.6 triệu, ở các nơi khác trên thế giới 1.6 triệu).
    Do Thái là một dân tộc nhỏ bé, nhưng ảnh hưởng văn hóa của nó đối với Tây phương thật là lớn lao: Ít nhất là 1/3 nền văn minh Tây phương mang dấu ấn của các tổ tiên Do Thái: Adam Smith, Noah Webster, Abraham Lincoln, Isaac Newton, Rebecca West, Sara Teasdale, Michaelangelo, và nhiều nữa.
    Bản kinh Mười Điều Răn (The Ten Commandments) được toàn thế giới Kitô giáo và Hồi giáo (gồm quá nửa tổng số nhân loại) tuân theo. Chính nó đã tạo nền tảng tinh thần (moral foundation) cho thế giới Tây phương. Những điều răn : ?oThou shalt not murder, Thou shalt not commit adultery, Thou shalt not steal, .....? tiếp tục có tác dụng từ 3000 năm trước cho đến nay.
    Tuy nhiên, ảnh hưởng lớn lao nhất của dân tộc Do Thái đến với thế giới chính là đạo Do Thái: từ 5000 năm qua, các dân tộc Babylon, Ai Cập, Syria và các dân tộc khác ở Âu Châu và Địa Trung Hải đều vẫn nghĩ rằng mỗi một năng lực thiên nhiên đều được cai quản bởi một vị thần riêng biệt: bão tố có Thần Bão Tố, sấm sét có Thần Sấm Sét, ... rồi Thần Biển, Thần Mặt Trăng, Thần Mặt Trời, Thần Núi, Thần Sông, v.v.... Nhưng riêng dân tộc Do Thái, suốt 5000 năm qua, chỉ có một quan niệm hết sức rõ rệt là ?omột Thiên Chúa đơn thuần cho muôn loài? (A single Lord of all being). Rõ ràng là các nước Trung Đông cổ xưa theo Đa Thần giáo (Polytheism), trong khi Do Thái là nước duy nhất theo Độc Thần. Kinh thánh Cựu Ước Do Thái xác định Thiên Chúa Yahweh là Thiên Chúa duy nhất được tôn thờ bởi dân tộc Do Thái. Vì thế Yahweh là Thiên Chúa (Thần) của Israel (God of Israel). Như vậy, ngay từ ngày đầu có lịch sử Do Thái, những người Do Thái đã tự khẳng định bản thân mình là những người độc thần (monotheists). Sách Cựu Ước Deuteronomy (6:4) tạo nền tảng ?ođộc thần? cho dân tộc Do Thái: ?oDân tộc Do Thái, hãy nghe đây, Chúa của chúng ta, Chúa là Một? (hear, O Israel, the Lord is our God, the Lord is One). Đạo Do Thái trở thành khởi điểm của Độc Thần giáo (The point of departure of Monotheism) hay nói đúng hơn, Do Thái giáo là ?oMẹ? của các đạo Độc Thần (the mother of all monotheist religions).
    2. Ki Tô Giáo (Christianity) :
    KiTô giáo là đứa con đầu lòng của Do Thái giáo. KiTô giáo sau vài thế kỷ phát triển, nhất là từ sau thế kỷ 4 do được sự công nhận là ?oquốc giáo? cho toàn thể đế quốc La Mã của hoàng đế Constantine, KiTô giáo đã trở thành một tôn giáo phổ biến rộng rãi khắp thề giới. Ngày nay, tổng số tín đồ KiTô giáo lên tới 2 tỷ 100 triệu, tức khoảng 1/3 tổng số nhân loại !
    KiTô giáo là tôn giáo lớn nhất thế giới, nhưng đã bị chia thành 3 khối chính (three major divisions):
    a. Công giáo La Mã (Catholicism)
    b. Chính Thống giáo Đông phương (Eastyern Orthodox)

    c. Tin Lành (Protestantism)
    Dù bị chia ra nhiều giáo phái nhỏ, tất cả các tín đổ KiTô giáo đều thống nhất ở một điểm là tôn thờ Jesus Christ. Chúng ta có thể phân biệt hai Jesus: một ?oJesus của lịch sử? (Jesus of History) và một ?oJesus của niềm tin? (the Jesus of Faith)
    - Về ?oJesus của lịch sử? , chúng ta biết rất ít về Ngài. Thậm chí người ta cho rằng chỉ có 20% các lời nói của Jesus trong các sách Tân Ước là đúng thật của Jesus, 80% còn lại là những lời bịa đặt do người ta gán cho Ngài mà thôi..
    Tuy nhiên, do những hoàn cảnh đặc biệt của lịch sử, ?oJesus của lịch sử? đã biến thành ?oJesus của niềm tin? (The Christ of Faith):
    - Trước hết, những người Do Thái mến mộ Jesus ở thủ đô Jerusalem trong đầu thế kỷ 1 đã trở thành những tín dồ KiTô giáo đầu tiên (Jewish Christians). Họ không nghĩ là một tôn giáo mới đã được hình thành mà chỉ nghĩ rằng: Jesus là một tín đồ của đạo Do Thái và chính họ cũng vẫn là những tín đồ Do Thái giáo.
    - Từ sau thế kỷ 4, KiTô giáo được công nhận là quốc giáo của đế quốc La Mã, các tín đồ KiTô giáo gốc La Mã (Roman Christians) đã đem vào KiTô giáo rất nhiều nghi lễ và tập tục của Đa Thần giáo La Mã: nhận ngày sinh của Jesus là 25 tháng 12 dương lịch, đi lễ ngày chủ nhật (sunday). Những ngày này thật ra là những ngày tế thần Mặt Trời của Đa Thần giáo La Mã. Giáo hoàng đầu tiên của KiTô giáo là Miltiades (giám mục thứ 32 ở Rome) được hoàng đế Constantine phong là ?oPontifex Maximus?. Đó chính là chức vị của người đứng đầu Đa Thần giáo của đế quốc La Mã. Có lẽ biến cố quan trọng nhất trong lịch sử KiTô giáo là vào năm 325, hoàng đế Constantine triệu tập công đồng Nicaea với sự tham dự của trên 300 giám mục (gồm hầu hết các giám mục trong toàn đế quốc hồi đó) để bỏ phiếu quyết định về bản chất của Jesus. Kết quả là do quyền lực của hoàng đế, các giám mục đã quyết định chiều theo ý nhà vua là ?oChrist có cùng bản chất với Chúa Cha? (Christ was of one substance with Father). Như thế là chỉ trong một sớm một chiều, Jesus từ một người thường (a man) bỗng nhiên trở thành ?oThiên Chúa xuống thế làm người? (a God-man) Yahweh của Israel trở thành Chúa Cha (God the Father) và Jesus thành Chúa Con (God the Son). Jesus được gọi là ?oChúa Hóa Thân? (God Incarnate). Đó là nguồn gốc của ?oThe Incarnation of God? !
    Quyết định của công đồng Nicaea do Constantine triệu tập năm 325 thật sự đã lập ra một tôn giáo mới là Ki Tô giáo. Cái cốt lõi của KiTô giáo là: Ta có thể biến một người tầm thường thành Thiên Chúa Toàn Năng để tôn thờ, miễn là điều này được một công đồng như công đồng Nicaea quyết định ! Công đồng Nicaea là sản phẩm quyền lực của Constantine và chính Constantine mới thực sự là cha đẻ của đạo Ki Tô.
    Qua nhiều thế kỷ kế tiếp, nhất là sau ?othánh Augustine? thuộc thế kỷ 4, nhiều nhà thần học KiTô giáo đã ?othêm mắm thêm muối? hoặc ?otô son trát phấn? cho Jesus bằng những thần thuyết nhảm nhí để biến ông ta thành ?oĐấng Tạo Hóa Toàn Năng?. Họ dùng thần thoại Hy Lạp ?oThe Logos? (tiếng Anh dịch là ?oWord?) có nghĩa là ?oLời Nói của Thiên Chúa?. Họ gán cho Jesus là Logos đã cùng với Thiên Chúa sáng tạo ra vũ trụ vạn vật. Sách Tân Ước của John xác định về Jesus: The Word (Jesus) had been with God in the beginning. Through Him all things came to be?.
    Cuối cùng, đối với các tín đồ KiTô giáo (Christians), Jesus là Thiên Chúa, là chính đấng tạo hóa toàn năng tạo thành vũ trụ, là Chúa Cứu Thế (Savior) chuộc tội thiên hạ. Tóm lại, Jesus là ?oChúa Ki Tô của niềm tin? (The Christ of Faith). Cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, Jesus kết hợp với hai người kia tạo thành Thiên Chúa Ba Ngôi (Holy Trinity). Cả ba người là Một Thiên Chúa. Với lý luận như vậy về ?oThiên Chúa của đạo Ki Tô? (The Christian God), KiTô giáo tự xác định tôn giáo của mình là Độc Thần giáo thứ hai sau đạo Do Thái.
    Như trên đã nói, KiTô giáo bị phân hóa thành 3 khối tôn giáo riêng biệt và luôn luôn xung đột với nhau, rất nhiều lần trong lịch sử, họ đã đi đến nhiều cuộc xung đột đẫm máu. Chúng ta sẽ lần lượt xét về ba ngành (divisions) này của KiTô giáo :
    A. Công Giáo La Mã (Roman Catholicism) :
    KiTô giáo là một hiện tượng phức tạp ( a complex phenomenon), vì mỗi khi chúng ta đưa ra một vấn đề chung của KiTô giáo không có nghĩa là mọi người KiTô giáo (Christians) sẽ đồng ý với chúng ta. Giáo Hội của Chúa Jesus vẫn được coi là chính thân thể của Ngài (the Church is the Body of Christ) đã bị vỡ thành 3 mảnh lớn. Thế giới KiTô giáo (the Christendom/the Christian World) đã bị phân ra 3 vùng trên 3 khu vực của thế giới :
    (1) Công Giáo La Mã thống trị vùng Trung và Nam Âu Châu, Ái Nhĩ Lan, các nước Trung và Nam Mỹ. Mọi tín điều và mọi thứ biệt lệ đều được ban ra từ trung tâm chỉ huy tối cao là Vatican ở Rome.
    (2) Chính Thống giáo Đông Phương (Eastern Orthodoxy)
    chi phối toàn miền đông Âu Châu: Hy Lạp, các dân tộc thuộc giống Slavic (Bạch Nga, Bảo Gia Lợi, Tiệp Khắc, Macedonia, Serbia, Croatia, Ukraine, Slovakia,...) và vùng lãnh thổ Liên Xô cũ.
    (3) Các giáo phái Tin Lành thống trị miền Bắc Âu Châu (Na Uy, Thụy Điển), Anh Quốc, Tô Cách Lan, và Bắc Mỹ (Mỹ và Canada).
    Năm 380, KiTô giáo được công nhận là một tôn giáo chính thức (the official religion) của toàn đế quốc La Mã. Tất nhiên, vào thời điểm đó, KiTô giáo là một khối tôn giáo thống nhất (a united body). Cái khối thống nhất vĩ đại này chỉ tồn tại đến năm 1054. Nói một cách khác, ?ocái thân thể của chúa KiTô? (the body of God) do hoàng đế Constantine dựng lên chỉ giữ được cái hình hài của nó nguyên vẹn trong 674 năm mà thôi. Năm 1054 là cái mốc lớn đánh dấu sự rạn nứt đầu tiên, vĩ đại nhất và đau đớn nhất của KiTô giáo. Sự rạn nứt này đã kéo dài gần 10 thế kỷ qua và không có một dấu hiệu nào về sự hiệp thông cả. Sự phân cách giữ Đông (Chính Thống giáo Đông phương) và Tây (Công giáo La Mã) đã trở thành vĩnh viễn và vô phương cứu chữa.
    Cái nguyên do chính yếu đưa đến đổ vỡ giữa hai giáo hội Đông và Tây của KiTô giáo chính là thái độ hống hách láo xược của Vatican đối với giáo hội Đông Phương: Vatican dành toàn quyền giáo huấn các tín đồ (teaching authority) và củng cố quyền hành bằng tín điều do họ tự ý đặt ra là ?ogiáo hoàng không thể sai lầm? (the doctrine of papal infallibility). Vatican tự nhận mình là ?ohòn đá tảng? duy nhất do Chúa chọn để xây dựng giáo hội: ?oTrên viên đá này ta xây giáo hội? (On this rock, I build my Church). Điều quan trọng hơn hết là Vatican gom hết mọi quyền năng thiêng liêng cao cả của Chúa thành quyền năng của mình: Nắm giữ các chìa khóa của Thiên Đàng (all the keys of the Kingdom of Heaven). Mọi người được cứu rỗi linh hồn hay không đều do Vatican quyết định: ?oBất cứ điều gì con buộc ở dưới đất, điều đó sẽ bị buộc ở trên trời. Bất cứ điều gì con tha ở dưới đất, điều đó sẽ được tha ở trên trời !?
    Một thế kỷ sau biến cố rạn nứt giữa hai giáo hội Đông Tây của đạo KiTô, tức là từ đầu thế kỳ 12, giáo hội Công giáo La Mã đưa ra một ý tưởng trung tâm của giáo hội (the central idea to the Church): Giáo hội Công giáo là ?ođại diện? của Chúa trên trái đất, một cơ quan duy nhất có quyền ban phát mọi phép bí tích (sacraments) cho con người. Giáo hội Công giáo ấn định có 7 phép bí tích. Bảy phép bí tích này chi phối cả cuộc đời của mọi tín đồ Công giáo:
    - Khi mới sinh, đứa con nít phải được đưa đến nhà thờ chịu phép rửa tội (Baptism) để xin Chúa tha cho nó cái ?otội tổ tông?. Khi nó lớn lên 12-13 tuổi, nó cần được chịu phép thêm sức (Confirmation). Thêm vài tuổi nữa nó sẽ được hướng dẫn để đi xưng tội (confession) và quan trọng hơn cả là phép mình Thánh Chúa (the Holy Eucharist) trong các lễ Misa. Lễ Misa là nghi lễ kỷ niệm bữa tiệc cuối cùng (The Last Supper) của Jesus với các môn đệ, trong đó có bánh và rượu. Trong lễ Misa ngày nay, các linh mục Công giáo có ?oquyền năng? biến thể bánh thành thịt thật và rượu thành máu thật của Jesus. Tất cả các tín đồ đều nghiêm chỉnh ?oăn thịt sống và uống máu tươi của Chúa?. Tất cả các tín đồ đều quên rằng họ đã trở nên những kẻ ăn thịt người (cannibals) man rợ! Đây là ?ophép bí tích? mọi rợ độc đáo của giáo hội Công giáo La Mã.
    B. Chính Thống Giáo Đông Phương (Eastern Orthodoxy):
    Chính Thống giáo Đông Phương tách khỏi giáo hội Công giáo La Mã để lập thành một giáo hội riêng biệt mà họ tin rằng chính họ đã tách ra khỏi ?otà đạo Công giáo để trở về với đạo KiTô chân chính theo truyền thống của Chúa KiTô (the tra***ional Christianity). Ngày nay, Chính Thống giáo Đông Phương có 250 triệu tín đồ. Về phương diện nghi lễ, Chính Thống giáo Đông Phương rất gần gũi với Công giáo La Mã: cả hai đều rất tôn sùng đức Bà Maria. Đại biệt là cả hai đều thờ chung một ảnh về Đức Bà, đó là ảnh ?oĐức Mẹ Hằng Cứu Giúp? (tranh vẽ vào thế kỷ 14 của Hy Lạp).
    Giáo hội Chính Thống giáo cử hành 7 phép bí tích giống hệt như Công giáo La Mã. Về các tín điều khác, họ cho rằng Công giáo La Mã chỉ có quyền giải thích các điều đã nói trong Thánh kinh mà thôi, và không có quyền ?ophát minh? ra những tín điều mới. (The Church can interpret doctrines, but cannot initiate them). Do đó, họ không công nhận những tín điều mà Công giáo La Mã đã tự ý phịa ra mà không có căn bản Thánh kinh. Đó là các tín điều ?oĐức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội? (The Immaculate Conception), ?oĐức Mẹ Hồn Xác Lên Trời? (Assumption of Mary). Chính Thống giáo phủ nhận sự hiện diện của ?oLuyện Ngục? (Purgatory), phủ nhận tín điều ?oGiáo hoàng không thể sai lầm? và các ?oƠn Toàn Xá?, ?oƠn Đại Xá?, ?oƠn Tiểu Xá? mà Vatican dành quyền ban cho các linh hồn bị giam ở Luyện Ngục. Hầu hết các ơn này (indulgences) đều đã được Vatican và các tu sĩ Công giáo bán lấy tiền. Đây là một hình thức lừa bịp giáo dân một cách hết sức bỉ ổi do Vatican phát minh vì trong Kinh Thánh chỉ nói đến Thiên Đàng và Hỏa Ngục mà thôi. Lò Luyện Ngục (Purgatory) là một sự sáng tạo độc quyền của Vatican. Chính Thống giáo mỉa mai gọi nó và các tín điều bịa đặt của Vatican hoàn toàn là những ?osáng kiến? (innovations), có nghĩa là hoàn toàn do Vatican tự ý bịa ra, chứ không hề được nói đến trong Thánh Kinh.
    Các tu sĩ Chính Thống giáo Đông Phương không nhất thiết phải sống độc thân. Người đứng đầu giáo hội là Thượng phụ tại Constantinople (The Patriarch of Constantinople) cũng có gia đình.
  4. ngodong13

    ngodong13 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/10/2004
    Bài viết:
    180
    Đã được thích:
    0

    C. Đạo Tin Lành (Protestantism) và tín dồ (protestants/protesters) :

    Tôi rất thắc mắc không biết tại sao cái giáo phái KiTô Tây Phương nổi tiếng ?ochống đối? (to protest) lại được người Việt Nam gọi là ?oĐạo Tin Lành?. Tôi đã cố gắng rất nhiều để xem trong các tự điển Anh-Pháp văn xem có tôn giáo nào có tên gọi là ?oTin Lành? không, nhưng không hề thấy. Quả thật, không hề có một tôn giáo nào được gọi là ?oThe religion of Good News? cả !
    Mặc dầu các cuốn kinh thánh Tân Ước của đạo KiTô được gọi là ?oSách Tin Mừng?, dịch từ tiếng Hy Lạp ?oGospel?, có nghĩa là ?oGood News?. Đạo Tin Lành lấy ?oGospel? làm nền tảng chính yếu cho niềm tin của mình, nhưng không thể vì thế mà có thể tự đặt tên cho niềm tin của mình là ?oĐạo Tin Lành?, vì Công giáo La Mã cũng như Chính Thống giáo cũng coi trọng Gospel không kém gì ?oTin Lành? ! Danh từ ?oĐạo Tin Lành? có lẽ dã xuất hiện tại Việt Nam từ đầu thế kỷ 20, khi tôn giáo này mới du nhập vào nước ta. Tôi tin rằng các mục sư Tin Lành Việt Nam đã cố tình dịch sai danh từ ?oProtestatism? để đem lại cho cái giáo phái KiTô này một cái tên ?oquá đẹp? trong Việt ngữ của chúng ta. Tôi thực tình tin rằng cái bản chất của tôn giáo này không phải là ?oTin Lành? mà là ?oTin Dữ?, ?oTin Buồn? cho dân tộc Việt Nam chúng ta. Cụ thể là nó đang gây chia rẽ giữa người Kinh và người Thượng, nó đang xúi dục các lực lượng dân tộc thiểu số ly khai Fulro chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Tổ Quốc Việt Nam.
    Tôi tin rằng danh từ ?oProtestatism? và ?oProtestant? được định nghĩa trong các tự điển Webster hoặc Bách Khoa tự điển Anh ngữ (Encycloepedia) là chính xác nhất. Cái ý nghĩa chính yếu của danh từ ?oProtestatism? là căn ngữ ?oto protest? (chống lại). Ở đây chỉ có nghĩa là chống giáo hội Công giáo La Mã. Tự điển The American Heritage College Dictionary định nghĩa ?oProtestatism?: The religion and religious belief fostered by the Protestant movement in the Western Church. The faith is the principles of the Protestant Reformation (Protestatism là một tôn giáo hay một niềm tin được phát sinh bởi một phong trào chống đối trong giáo hội KiTô giáo Tây Phương. Đó là một niềm tin được tạo thành trên căn bản những nguyên tắc của cuộc Cải Cách Giáo Hội).
    Protestant (tín đồ Tin Lành) được các tự điển Anh ngữ định nghĩa: ?oProtestant is one who supported the Protestation presented by the German Lutheran states against the revocation of the decree The Diet of Sprayers of the Holy Roman Empire in 1529?. Danh từ ?otín đồ Tin Lành? (Protestant) được định nghĩa khá dài dòng và phức tạp. Trong thế kỷ 16, giáo hội Công Giáo La Mã tự xưng là ?oĐế Quốc La Mã Thánh Thiện? (The Holy Roman Empire), nhưng bị nhiều quốc gia khác bất phục tòng, trong số đó có các quốc gia thuộc bộ lạc Đức theo phái Lutheran. Những quốc gia này (the German Lutheran states) đã nộp thư phản kháng (The Protestation) chống đối giáo hội Công giáo La Mã vào năm 1529. Sau đó, trong toàn thế giới KiTô giáo Tây Phương, bất cứ tín đồ KiTô giáo (Christians) nào tự ý tuyên bố ủng hộ ?oThư Phản Kháng? nói trên đều được gọi là ?ongười chống đối? (Protestant) tức là họ đã mặc nhiên trở thành ?otín đồ Tinh Lành? !
    Tóm lại, theo các định nghĩa của các tự điển lớn hoặc các sách Bách Khoa tự điển Tây Phương, chúng ta thấy danh từ Protestatism không hề có nghĩa là ?oTin Lành? mà chỉ có nghĩa là ?oPhản Kháng? hoặc ?oPhản Đối? mà thôi. Theo tôi, danh từ ?oThệ Phản Giáo? là danh từ thích hợp nhất để gọi cái tôn giáo mà chúng ta đã sai lầm gọi là đạo Tin Lành !
    3. Độc Thần Giáo thứ Ba : Hồi Giáo (Islam)
    Trong tác phẩm best-seller ?oA History of God?, nơi trang 141, tác giả là bà Karen Amstrong đã viết: ?oMuhammed không cần phải chứng minh sự hiện hữu của Thiên chúa (Allah) cho bộ lạc Quraysh (bộ lạc tổ tiên của Muhammad) vì họ đã tin và thờ Allah một cách mặc nhiên. Họ tin Allah là Đấng Tạo Hóa đã dựng nên trời đất và mọi sinh vật. Họ tin rằng Allah chính là vị Thiên Chúa đã được tôn thờ từ lâu bởi người Do Thái và KiTô giáo. Muhammad xác nhận: kinh Koran không dạy điều gì mới mà chỉ nhắc lại những điều đã được biết (the Koran was not teaching anything new, it claims to be a reminder of things known already) p.142. Tuy nhiên, Muhammad và kinh Koran kết án nặng nề KiTô giáo vì tôn giáo này tin Thiên Chúa có ba ngôi, tin Jesus là con của Thiên Chúa (the only son of God) và là Thiên Chúa Hóa Thân (God Incarnate),.... Muhammad coi các tín điều của KiTô giáo này đều có tính ?ophỉ báng? Thiên Chúa (blasphemy) !
    Muhammad và đạo Hồi kịch liệt chống đối sự thờ ảnh tượng của Công giáo La Mã (Idolatry) và gọi đó là tội lớn nhất trong đạo Hồi (the greatest sin of Islam). Người KiTô giáo nhấn mạnh đến sự cứu chuộc của ?oThiên Chúa Hóa Thân Thành Người? (God Incarnate) tức Jesus, nhưng kinh Koran khẳng định: Không có một Thiên Chúa nào khác ngoài Allah là đấng Tạo Hóa đả tạo thành trời đất, muôn vật, chỉ có một mình Allah có thể cứu chuộc con người (There is no Diety but Allah, the Creator of heaven and earth, who alone can save man ?" p.149).
    Muhammad là người độc thần đầu tiên nhận ra sự đồng nhất trong việc thờ Thiên Chúa Duy Nhất của ba tôn giáo Do Thái, Ki Tô và Hồi. Do đó, Muhammad đã sáng tạo ra những danh từ để gọi chung cho cả ba ?oniềm tin độc thần? (the three related monotheist faiths).
    1). Trước hết, Muhammad gọi các sách Thánh Kinh của cả ba đạo độc thần (Do Thái, Ki Tô và Hồi) là các ?osách mặc khải? (Books of Revelation). Sự ?omặc khải? là nét đặc thù quan trọng của cả 3 tôn giáo độc thần. Danh từ ?oRevelation? do căn ngữ ?oto reveal? là ?otiết lộ?. Mặc Khải là hành động Thiên Chúa tự tiết lộ những bí mật của mình cho một ?otiên tri? nào đó. Sau đó, vị tiên tri ?otiết lộ? lại với các tín đồ để họ có thể hiểu được ?oý Chúa? và các mệnh lệnh của Ngài.
    Trong thực tế, chắc chắn một điều là chẳng bao giờ có chuyện Chúa và người nói chuyện mặt đối mặt để Chúa tiết lộ mọi mệnh lệnh và những bí mật của Ngài cho nhân loại biết qua các vị tiên tri. Các điều được gán cho là Chúa đã ?omặc khải? cho các tiên tri như Abraham, Moses, Isaiah (Cựu Ước) hoặc các ?othánh sử? như Matthew, Luke, John và kể cả việc thiên thần Gabriel được Allah mặc khải rồi ?okể lại? cho Muhammad nghe để rồi viết thành kinh Koran. Tất cả chỉ là chuyện bịp! Thật sự, Chúa là đấng vô hình, hoàn toàn im lặng, Chúa chẳng tiết lộ (mặc khải) điều gì cho con người. Tất cả những điều được các đạo Độc Thần gọi là ?osự mặc khải? chỉ là những ý kiến riêng của Abraham, Moses, Matthew, John, Luke và Muhammad. Tất cả các điều được ghi chép trong các sách mặc khải chỉ là ?olời của người phàm? và không có một lời nào có thể gọi là ?oLời Chúa?!
    Lý do đơn giản là Chúa không biết nói và cũng chẳng nói bao giờ, nên từ xưa tới nay không một ai có thể nghe thấy để có thể ghi chép được ?olời Chúa?.Tất cả các sách mặc khải (Cựu Ước, Tân Ước, Koran) đều chỉ là những sách bịp bợm ghi chép các lời bịa đặt được gán cho các nhân vật (được gọi là tiên tri) như Abraham, Moses, Gioan Baotixita, Jesus, Muhammad.
    2). Muhammad gọi chung các tín đồ của ba đạo độc thần bằng danh từ chung ?onhững người của các sách mặc khải? (The People of the Books ?" tiếng Ả Rập gọi là ?oDhimmis?) hoặc gọi họ bằng một danh từ đơn giản hơn là ?onhững kẻ biết kính sợ Đức Chúa Trời? (God fearers).
    Trong Lời Nói Đầu viết cho tác phẩm ?oWhy I am not a Muslim? của Ibn Warraq, giáo sư Joseph Hoffman thuộc đại học Westminster, Oxford, đã viết: ?oKiTô giáo và Hồi giáo đã nổi bật lên là những phong trào cải cách tôn giáo độc thần. Cả hai đều tự cho là mình tôn thờ ?oThiênChúa Thật? và đồng thời đề cao lòng bác ái , nhất là lòng từ bi khoan dung tha thứ. Nhưng cả hai đều tuyên truyền tư tưởng và mở rộng ?oNước Chúa? bằng bạo lực. Thế giới KiTô giáo thường được gọi là Christemdom (The Christian World) hoặc ?oVương Quốc của Chuá Ki Tô? (The Kingdom of Christ), so sánh với ?oDar-Al-Islam (The World of Islam ?" Thế Giới Hồi Giáo) là hai anh em sinh đôi trong 12 thế kỷ qua. (Christianity and Islam arose as monotheistic reform movements. Both proclaimed the true God, the importance of charity, the quality of mercy. Yet both were inclined to propagate their ideals and to enlarge the Kingdom of God by force. The Dar-Al-Islam (The World of Islam) and the Kingdom of Christ, once called Christiandom, were twins for the better part of twelve centuries).
    Điều nguy hiểm là Hồi giáo đã không gọi những vùng không theo Hồi giáo là ?ovùng ngoại đạo? mà lại gọi là ?ovùng chiến tranh? (tiếng Ả Rạp: Dar-Al-Harb ?" Realm of War). Đó là vùng đất mà người Hồi giáo sẽ quyết dùng chiến tranh để thanh toán những kẻ không tin (unbelievers) để mở rộng nước Chúa !
    Nói chung, các tín đồ độc thần giáo (monotheists) dù thuộc đạo Do Thái, đạo KiTô hay Hồi giáo đều giống nhau ở điểm là đa số cuồng tín, tự cao tự đại về tôn giáo của mình và nhất là luôn luôn tự cho rằng chỉ có tôn giáo của mình là nắm chân lý tuyệt đối mà thôi (absolute truth claim). Do lòng tự tôn mù quáng, những người độc thần đã gọi những người ngoại đạo là ?oheathen? với ý khinh bỉ. Các tự điển Webster hoặc The American Heritage định nghĩa ?oHeathen? như sau: ?oOne who adheres to a religion that doesnot acknowledge the God of Judaism, Christianity or Islam. One who is regarded as irreligious and uncivilized? (Người ?ongoại đạo? là những người theo một tôn giáo không công nhận Thiên Chúa của Do Thái giáo, KiTô giáo và Hồi giáo. Người ?ongoại đạo? bị coi là vô tôn giáo và kém văn minh!).
    Trong lịch sử nhân loại, tính ra có hàng trăm triệu người đã bị chết vì sự cuồng tín của các tín đồ tôn giáo độc thần (KiTô và Hồi giáo). Họ có thể mù quáng tin là ?ogiết? người (ngoại đạo) là không hề vi phạm điều dạy của Chúa ?othou shalt not kill?, mà lại là hợp với ý của Chúa và được thưởng ?olên Thiên Đàng? ! Cũng vì tinh thần cuồng tín này mà ngay những người cùng đạo ?ođộc thần? cũng hăng hái giết nhau, chỉ vì lời giải thích khác nhau của cuốn thánh kinh hay lời dạy của ông giáo chủ ! Không biết các ông giáo chủ các đạo độc thần này có biết đến hậu quả tai hại cho nhân loại của những lời giảng dạy của mình không ?
    Những người cổ Hy Lạp theo Đa Thần giáo (Polytheism). Họ tôn thờ rất nhiều thần. Họ tạc các hình tượng Thần bằng đá hoa cương với thân hình rất đẹp. Họ sẵn sàng tiếp nhận những vị thần của các dân tộc khác mà không cần phải loại trừ một Thần nào ra khỏi đền thờ. Họ gọi đền thờ là ?oPantheon?, thường được xây cất theo hình vòng tròn (circular temple). Đền thờ cổ Hy Lạp chẳng những có các tượng Thần mà còn có tượng các vị anh hùng dân tộc, cả nam lẫn nữ. Các vị thần linh cũng như các nhân thần đều được coi là các vị thần của dân tộc (Gods of the people).
    Với tinh thần đa tôn giáo, đa văn hóa, chấp nhận mọi tư tưởng và niềm tin dị biệt, những người Hy Lạp ?ođa thần? rất cởi mở và sống hòa hợp với mọi người. Họ đã tạo nên một nền văn minh sáng chói từ thế kỷ 16 trước Công Nguyên (Điển hình là họ đã chế được dụng cụ và vũ khí bằng đồng, đã chiến thắng vẻ vang trong chuyện ?oCon Ngựa thành Troy? tk 16 TCN). Có lẽ từ thế kỷ 2 TCN, người La Mã đã đón nhận nền văn minh Hy Lạp và tiếp nhận Đa Thần giáo. Hiện nay tại Rome còn tồn tại một đền thờ Pantheon do người La Mã xây năm 27 TCN. Trong đền có rất nhiều tượng các vị thần. Hầu hết là các vị thần Hy Lạp, nhưng được đổi tên thành thần La Mã: thần Zeus của Hy Lạp thành thần Jupiter trong đa thần giáo La Mã.

    Đa Thần giáo tôn thờ các vị anh hùng với bản chất con người nên có thể nói là Đa Thần giáo là một loại tôn giáo vô hại cho nhân loại. Trái lại, các đạo độc thần đều có sẵn trong bản chất của nó rất nhiều tiềm năng gây đại họa chống lại sự sống còn của nhân loại và phá hoại nền hòa bình thế giới
    Phụ lục từ The World Almanac 2004 :
    1. Do Thái giáo : 14,500,000
    2. Ki Tô Giáo : 2,039,000,000
    a) Công Giáo La Mã : 1,076,000,000
    b) Chính Thống Giáo: 250,000,000
    c) Anh Giáo: 81,663,000
    d) Tin Lành : 350,000,000
    e) Các giáo phái độc lập: 81,000,000
    3. Hồi Giáo : 1,226,000,000
  5. Liv

    Liv Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/04/2003
    Bài viết:
    398
    Đã được thích:
    0
    Xem thử cái link này, để thấy rõ Charlie Nguyễn nâng niu trân trọng sự dốt nát của mình như thế nào:
    http://en.wikipedia.org/wiki/Evangelicalism
    Nhiều năm trước, tại hạ có lần đã gửi email nhắc ông ta sửa lại để bài viết có thêm sức thuyết phục, nhưng chẳng thấy động tĩnh gì hết. Có lẽ nếu để nguyên thì vẫn lòe được những người đọc thiếu kiến thức, còn nếu sửa lại thì không có cơ hội đả kích đạo Tin Lành nữa chăng? Và nói luôn là tại hạ ko phải tín đồ đạo Tin Lành...
  6. ngodong13

    ngodong13 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/10/2004
    Bài viết:
    180
    Đã được thích:
    0
    Cái này cũng được tớ lưu mấy năm rồi. Nhưng tớ nghiêng về giả thiết Charlie Nguyễn viết cố ý khi không đề cập đến tên khác của Tin Lành. Sau này ông ấy có sủa hay không, tớ không biết, vì ông ấy mất 1-2 năm trước rồi.
    Dù sao cũng rất cám ơn bác đưa thêm thông tin.
  7. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    Cuộc thập tự chinh lần thứ nhất
    Đoàn quân là một mớ hỗn tạp: cướp, thương nhân, nông dân tìm vùng đất hứa, hiệp sỹ và quý tộc nhỏ,... đoàn quân vừa đi vừa cướp bóc.
    [​IMG]
  8. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    Chiếm được Jerusalem
    [​IMG]
  9. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    Tàn sát dân thành
    [​IMG]
    Sau khi chiếm được Jerusalem, thủ lãnh đoàn thập tự chinh là Godfrey of Boulogne được giáo hoàng phong vua vương quốc Jerusalem. Vương quốc này lại đã nhỏ lại tồn tại 3 chư hầu: công quốc Edessa, Tripoli, bá quốc Antioch (Lebanon và Israel ngày nay).
  10. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    Một vài hình ảnh chiến sỹ thập tự quân lần I
    [​IMG]

Chia sẻ trang này