1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những di tích Lịch sử_Văn hoá Việt Nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi thosan, 07/07/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. thosan

    thosan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2003
    Bài viết:
    914
    Đã được thích:
    0
    Đền thờ Trần Quý Cáp
    Đền thờ Trần Quý Cáp hiện ở khóm Dinh Thành, thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.
    Di tích nằm trên khu vực gò Chết Chém thuộc cầu Sông Cạn, một địa danh quen thuộc với nhân dân Khánh Hòa.
    Đền thờ Trần Quý Cáp được xây dựng vào khoảng tháng 8/1970 do một số nhân sĩ trí thức ở Khánh Hòa đề xướng và trực tiếp chỉ đạo, nhằm kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông.
    Đền thờ này được xây dựng trên phần đất có tên gọi là Gò Chết Chém. Địa danh này có là do khu vực này từ năm 1886, thực dân Pháp đã dùng làm nơi xử tử các chiến sĩ yêu nước Khánh Hòa trong phong trào Cần Vương cuối thế kỷ XIX. Tại đây chúng đã xử chém Trịnh Phong, Nguyễn Khanh... là những thủ lĩnh cao nhất của phong trào và cũng chính nơi đây, năm 1908 thực dân Pháp đã cho xử chém Trần Quý Cáp, nhà chí sĩ nổi tiếng về tinh thần duy tân, lòng yêu nước đầu thế kỷ XX ở nước ta.
    Suốt từ năm 1930 cho đến năm 1975, cũng chính địa điểm này, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã cho xử tử rất nhiều chiến sỹ cộng sản của phong trào cách mạng tỉnh Khánh Hòa.
    Trần Quý Cáp, tự là Thích Phu, hiệu Thái Xuyên, sinh năm 1870 tại làng Bát Nhị, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam (nay gọi là Quảng Nam - Đà Nẵng). Ông sinh ra trong một gia đình Nho Phong nghèo nhưng có truyền thống học hành.
    Do mới xây dựng nên đền thờ Trần Quý Cáp không giống các đền lâu đời ở Diên Khánh. Đền được xây dựng theo lối cổ lều thấp, nhà 4 mái đều có kích thước như nhau quay theo bốn hướng, nóc mái ở có lầu và mái hạ đều trang trí văn hoa đắp nổi. Phần trên cổ lầu mặt chính có ghi dòng chữ: "TRUNG LIÊệT ĐIÊệN" (đền thờ bậc trung liệt). Qua cổng đến sân trước mặt đền có một cột cờ xây trên bồn nước hình lục giác. Hai bên phải và trái đều đặt "LƯữ VOọNG LIÊN" có 3 chân theo kiểu tạo dáng hình móng cọp đặt trên bệ, dùng để đốt bài vị trong các dịp tết lễ.
    Khi bước vào đền qua hai bậc lên xuống, đến hành lang nhỏ, hai bên có 2 cột tròn xây bằng gạch xi măng, vào đền qua một cửa bằng sắt. Diện tích trong đền chia làm hai ngăn. Ngăn ngoài rộng dài cao hơn ngăn trong. Nền lát gạch men hoa. Hai bên tường phía trái và phía phải có 2 ô cửa tròn nhỏ. Ơở hai cột trước ghi "TRUNG TÂM VIị QUÔốC TÂN THƯựC CHAáNH TIÊềN NGHIÊM BUY CHIÊếN. LIÊệT SIĩ THÂN THƯ NGHIĩA PHƯƠNG DANH LÔộ THƯƠNG QUAảNG LƯU TRUYÊềN".
    Dịch nghĩa: "Lúc sinh thời (ông) hết lòng trung với nước (đã) dùng ngòi bút muốn thay đổi chế độ thực. Người liệt sĩ chẳng nề thân đã để lại danh thơm trên đường đời".
    Phía trên của ngăn ngoài có ghi dòng chữ : "Trung nhị cảm nhân" (cảm phục người trung).
    Ngoài khu thờ là những câu đối ngợi ca về ý chí anh hùng ngời sáng của những liệt sĩ có công vì nước, vì dân.
    Ngăn trong cao hơn ngăn ngoài nhưng thấp nhỏ hơn là gian chính để đồ thờ: Gồm có khám thờ, giữa khám thờ có ghi danh các liệt sĩ.
    Đền thờ Trần Quý Cáp là nơi tưởng niệm một danh nhân của đất nước, một thi sĩ có tấm lòng yêu nước mãnh liệt với hoài bão lớn lao, vì độc lập tự do của dân tộc, vì sự phồn vinh văn minh của đất nước. Ông đã có những đóng góp cụ thể cho dân tộc Việt Nam, cho phong trào cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX. Và cũng vì sự nghiệp đó ông đã hy sinh cuộc đời không chút ân hận, nuối tiếc.
    Đền thờ này được xây dựng tại một địa điểm mà chính ông cùng bao người yêu nước đã bị bọn thực dân đế quốc giết hại suốt từ năm 1886 đến 1975. Bởi lẽ đó, đền thờ này không chỉ thờ riêng Trần Quý Cáp mà còn thờ các tướng lĩnh trong phong trào Cần Vương chống Pháp ở Khánh Hòa cuối thế kỷ XIX và có những chiến sĩ cách mạng trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược vừa qua. Đền thờ này được xây dựng năm 1970, khi đó tổ quốc chưa được thống nhất, hòa bình càng có ý nghĩa thiết thực đề cao tấm gương của những người hy sinh vì tổ quốc.
    Hàng năm đến này 5/5 là nhân dân lập tập trung tế lễ, nhang đèn ở di tích này, kỷ niệm ngày mất của Trần Quý Cáp.
    Tình trạng của di tích này đến nay vẫn còn tốt và vẫn được sửa sang, bảo quản luôn.
    ....Hai mươi tuổi trẻ măng,các cụ cũng gọi thầy mà nghe đỏ mặt
    Sáu chục xuân già cả,con trẻ tự xưng em nghĩ lại tươi đời....
  2. thosan

    thosan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2003
    Bài viết:
    914
    Đã được thích:
    0
    Đền Vàng
    Đền Vàng nằm trên khu đất cao đẹp ở xã Gia Xuyên, huyện Tứ Lộc, tỉnh Hải Hưng.
    Đền Vàng là nơi thờ gia đình bà Đào Dung Nương, có công trong thời Lý. Đền Vàng là một di tích lịch sử.
    Trước đây chỉ có một gian miếu thờ là xây, còn lại là ba gian nhà tranh, chủ yếu thờ mẫu (bà mẹ đẻ của ông), 6 nhà thờ tại đình làng và công chúa thờ tại phủ Ngọc. Đến năm Khải Định - Đinh xây to. Trong kháng chiến chống Pháp, giặc phá hết đình chùa, nhân dân tập trung cả 6 ông về đình cùng với Tiên Châu công chúa để hương khói. Khi chùa Bến bị phá, nhân dân tập trung tượng Phật vào một gian đầu để lễ.
    Trước cổng đền dựng một tấm bia đá ghi tên những người công đức cho đền. Cổng đền vào sân ta gặp một tác môn xây đằng sau tác môn là cột cờ. Bên phía trong lát gạch vào đến tận cửa đền.
    Đền kiến trúc theo kiểu ngoại công, nội quốc, gồm có 3 phần chính: Đền ngoài, ống muống và gia vũ. Đền trong và hậu cung.
    - Đền ngoài gồm có 5 gian, kiến trúc gỗ lim, hợp ngói. Trên nóc nhà có hai hai con rồng chầu mặt nguyệt. Bờ mái có lân, có nghê.
    - Trong đền các vì kèo đền có trạm trổ trúc, long phượng khá tỷ mỉ. Gian giữa có bức đại tự lớn.
    Đặc trưng của 5 gian ngoài là kiến trúc thời Nguyễn.
    Gian đầu phía Đông hiện nay dành để thờ Phật mang từ chùa Bến về gồm có Thích Ca và một số tượng.
    Nối với hậu cung là gian ống muống, kiến trúc đao tầu chéo góc. Đi từ đền ngoài vào đền trong không sợ mưa nắng vì có ống muống này. Gian ống muống này chỉ treo có một cuốn thư sơn son thiếp vàng và ghi mấy dòng chữ Hán : "Khải Định Quý Hợi niên", "Hà Hải phiên di cung tiến".
    - Hậu cung: gồm có 3 gian chính và một chuôi vồ. Kiến trúc gỗ lim không chạm khắc gì như đền ngoài, 2 gian đầu có bàn thờ trên để long đình và luyện thờ. Gian chính giữa là bàn thờ lớn. Trên gian giữa có bức đại tự lớn mang dòng chữ "Thánh mẫu từ".
    Phía sau bàn thờ là tượng Đào Dung Nương ngồi uy nghi tay cầm quạt. Bức tượng gần bằng người thật rất đẹp. Tượng sơn son thiếp vàng còn tốt.
    Trong hậu cung để 6 ngai thờ anh em. Ngoài ra còn có một luyện để tượng Tiên Châu công chúa..
    Cũng như đền ngoài, đền trong cũng mang đậm dấu ấn thời Nguyễn.
    Hiện vật trong đền còn nhiều, nhưng còn những hiện vật quan trọng sau:
    - Tượng Đào Dung Nương: Tượng ngồi cao khoảng 70 cm trong tư thế thanh thản, tay cầm quạt. Tượng cân đối và đẹp.
    - Tượng Tiên Châu công chúa, tượng này nhỏ, cao khoảng 40 cm, ngồi trong luyện. Trông rất phúc hậu.
    - Trong di tích có một số bức chạm như con dư hình đầu rồng, rồng, lân, mai, trúc rất tinh xảo và có giá trị về mặt điêu khắc.
    - 6 ngai thờ có trạm trổ sơn son thiếp vàng tinh xảo.
    - Toàn bộ tượng Phật ở chùa bị đổ chuyển về đâ??????>
    - Một lọ lục bình mầu tráng ngọc có 2 con rồng đắp nối mầu nâu.
    - 9 bát hương to bằng sứ và một bát hương đồng.
    - Cuốn thần tích bằng chữ Hán.
    - Các sắc phong (chỉ còn thời Nguyễn)
    - Một bát hương bằng đá ghi dòng chữ Hán "tối linh từ-Tầng Hố thôn".
    - Một con chó đá thời Lê (mang ở văn chỉ vào).
    - Một bát hương có hai con chó ôm nhau, xác định là thời Lê cũng mang ở văn chỉ vào hiện để ở trong đền.
    [​IMG]Chim ơi đừng bay nhé.....

    Được thosan sửa chữa / chuyển vào 20:14 ngày 04/08/2003
    Được thosan sửa chữa / chuyển vào 20:15 ngày 04/08/2003
  3. thosan

    thosan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2003
    Bài viết:
    914
    Đã được thích:
    0
    Đền Vọng Nguyệt
    Đền Vọng Nguyệt thuộc xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Giang, cách thị xã Bắc Giang 38km. Đền nằm đầu phía tây phòng tuyến sông Như Nguyệt trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống của quân dân ta thời Lý, dưới sự chỉ huy của Lý Thường Kiệt 1077. Vọng Nguyệt cách bến đò (Như Nguyệt) chừng 1km. Ngay tại địa điểm này, ít nhất có hai trận đánh lớn diễn ra.
    Chính trong những trận đánh này có sự tham gia của nhân dân Vọng Nguyệt dưới sự chỉ huy của viên tướng họ Chu vốn là thợ rèn người làng và vợ là Công chúa Nguyệt Minh. Năm tháng đã qua đi nhưng Bến Bà, nơi xuất quân của đạo dân binh địa phương, vẫn còn đó. Ruộng đất ven sông vẫn được coi là dấu tích còn lại của những lũy đất do quân ta đắp nên dưới sự chỉ đạo của Lý Thường Kiệt đã ngăn giặc Bắc.
    Di tích bao gồm một vùng ven sông Như Nguyệt, trước kia không có đê, nay đã chạy qua khu di tích, chia di tích làm hai phần, phần trong đê có đền Vọng Nguyệt, phần ngoài đê có Bến Bà và Ruộng đất. Trải qua gần nghìn năm, ruộng đất chỉ còn lại những gò cao chạy theo mép sông, không có cây cối, ngày nay là nơi dân làng lấy đất làm gạch. Bến Bà có thay đổi ít nhiều. Tại đây hàng năm, để tưởng nhớ võ công oanh liệt thủa ấy, dân Vọng Nguyệt tổ chức bơi chải (tháng 4 và 8 âm lịch ). Đền Vọng Nguyệt trong sông, ngay trên nền nhà của người thợ rèn Chu Đình Dự thủa ấy, nay chỉ còn một nhà thượng ba gian hai chái. Qua khảo sát có thể biết đền cũ làm theo kiểu chữ tam, mỗi nếp nhà có ba gian, hai chái. Các di vật trong đền còn khá nguyên vẹn.
    Đền Vọng Nguyệt là nơi thờ phò mã đô úy Chu Đình Dự và công chúa Nguyệt Minh con vua Lý Thái Tôn. Đền còn chứa một số hiện vật quý như hương án gỗ sơn son thếp vàng, nồi hương đồng, đôi ngựa thờ, tượng người giữ ngựa bằng gỗ, bia đá khắc năm (1642), ngai thờ, bài vị ông bà Lý Nguyệt Minh, hoành phi câu đối ca ngợi công đức, hiển thánh của người được thờ, bức đại tự lớn ghi bốn chữ "Đạo lý kim chi". Các hiện vật còn khá nguyên vẹn.
    Đền Vọng Nguyệt hiện nay chỉ còn thượng điện gồm ba gian hai chái và hậu cung
    [​IMG]Chim ơi đừng bay nhé.....
  4. thosan

    thosan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2003
    Bài viết:
    914
    Đã được thích:
    0
    Đền Xà
    Đền Xà - Ngã ba Xà thuộc xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Hà Bắc, cách thị xã Bắc Giang 39 km.
    Đền Xà nằm ở giữa phòng tuyến sông Như Nguyệt, một phòng tuyến quân sự lớn của quân dân Đại Việt thời Lý thế kỷ XI do Lý Thường Kiệt chỉ huy xây dựng trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược năm 1077. Ngã ba Xà nằm đối diện với trại quân Triệu Tiết ở phía Tây phòng tuyến bên kia sông Cầu. Ngã ba Xà cách bến Như Nguyệt hơn 1 cây số, nơi chứng kiến cuộc đổ bộ của quân Tống do Miêu Lý cầm đầu bị quân dân Đại Việt đánh tan khi chúng lấn vào chưa đầy 3km. Nơi đây cũng chứng kiến cuộc tấn công quyết định của quân đội Lý Thường Kiệt vượt sông tiêu diệt trại quân Triệu Tiết, phó tướng của đạo quân xâm lược, buộc phải cuốn cờ về nước.
    Tại ngã ba Xà còn lưu lại nền cũ của đền Xà, đền thờ hai anh em Trương Hống - Trương Hát gắn với truyền tích về bài thơ thần của Lý Thường Kiệt. Đền hiện nay chỉ còn nền trên gò đất cao ven sông. Qua khảo sát biết được đền xưa bằng tre nứa lợp tranh, sau xây bằng gạch mặt bằng theo lối chữ công. Năm 1848 do chấp hành chính sách tiêu thổ kháng chiến đền bị phá bỏ, hiện vật thất tán, một số hiện vật như ngai thờ, đỉnh hương và đôi ngựa thờ còn giữ được ở đình Xà dưới (thôn Đông).
    Trong khi tìm hiểu khu vực Ngã ba Xà còn phát hiện một lọ gốm phủ men nhẹ lửa ở nửa trên, men màu vàng ngà, vai có 4 núm là hiện vật có niên đại từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 10. Tìm hiểu trong làng còn thấy một bản sự tích Thánh Tam Giang, trong đó có nói đến việc thánh đọc thơ thần giúp Lê Hoàn đánh giặc.
    Ngày nay, Ngã ba Xà, sông Như Nguyệt, sông Cà Lễ và gò đất, nơi có đền Xà cùng các địa danh xung quanh đang tồn tại như là vật chứng cho giá trị lịch sử của di tích.
    Hai mươi tuổi trẻ măng,các cụ cũng gọi thầy mà nghe đỏ mặt
    Sáu chục xuân già cả,con trẻ tự xưng em nghĩ lại tươi đời

Chia sẻ trang này