1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những điều chưa biết về tai nạn máy bay ở Việt Nam

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi vaputin, 10/04/2010.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. home124

    home124 Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    15/05/2009
    Bài viết:
    4.208
    Đã được thích:
    2.411
    Có chiếc máy bay đánh xong bay thẳng lên A Lưới rớt cái ầm nữa. Chơi cho luôn tề.
  2. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    SỐ PHẬN CỦA NHỮNG CHIẾC "KHÔNG LỰC MỘT"

    Nước VNDCCH thì không có Hàng không dân dụng và vệc đi lại của lãnh đạo Đ ảng và nhà nước do không quân đảm trách. Bác H không có máy bay riêng, cụ dùng chung máy bay với các lãnh đạo khác. Do đó không có chiếc nào thực sự là "Không Lực 1" cả vì chiếc nào cũng có thể là KL1

    [​IMG]


    Chếc "không lực 1" đầu tiên của miền Bắc là một chiếc LI-2 mang số hệu VN-482. Tổ lái là người TQ.


    Tháng 8/1957 chiếc này chở Bác H ồ đi thăm các nước Đông Âu


    Ngày 31/10/1957, chuyên cơ mang số hiệu VN - 482 lại đưa Bác và đoàn đại biểu Chính phủ sang dự lễ kỷ niệm 40 năm cách mạng thàng Mười Nga và dự hội nghị Đ ảng cộng sản và Công Nhân quốc tế.


    Không rõ số phận của chiếc máy bay này ra sao
    . Sau khi VN đã thành lập được lực lượng KQ vận tải thì chắc chiếc này được gửi trả lại cho bác Mao.



    [​IMG]

    Các cháu thiếu nhi Ru-ma-ni vui mừng chào đón HCT sang thăm hữu nghị, tháng 8 năm 1957.
    Phía sau là chiếc máy bay VN-482



    -
  3. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    SỐ PHẬN CỦA NHỮNG CHIẾC "KHÔNG LỰC MỘT"

    Chiếc KL1 thứ hai
    cũng là một chiếc Li 2 có số hiệu 203
    Lần đầu tiên tổ bay phục vụ Bác

    QĐND - Thứ Sáu, 14/05/2010, 21:44 (GMT+7)
    Ngày 20-12-1960, Cục Không quân nhận được lệnh tổ chức chuyến chuyên cơ đưa BH lên thăm và làm việc ở tỉnh Lạng Sơn.
    Tỉnh Lạng Sơn chỉ có một sân bay duy nhất là sân bay Mai Pha nhưng đã bị phá hoại và bỏ hoang lâu ngày, ta mới khôi phục và sửa chữa lại, chưa được bay thử lần nào. Đường băng rất ngắn hẹp, một đầu bị chắn bởi sông Kỳ Cùng, một bên là đồi núi khá cao. Tuy ta đã có chiếc máy bay IL-14, quà tặng của nhân dân và Chính phủ Liên Xô biếu Bác, dùng làm chuyên cơ riêng phục vụ Bác, nhưng tốc độ hạ cánh lớn không thể xuống được sân bay ngắn hẹp Mai Pha. Cục trưởng Đặng Tính quyết định sử dụng chiếc Li 2 số hiệu 203 đã từng đưa đón Bác đi công tác nhiều lần. Nhưng đây là lần đầu tiên, toàn tổ bay chuyên cơ đều là phi công Việt Nam. Ông yêu cầu Trung đoàn không quân vận tải 919 chọn một tổ bay tăng cường: Lái chính và phụ lái đều là phi công đã được phê chuẩn độc lập công tác và bay được cả trong khí tượng phức tạp.
    Đoàn 919 cử hai phi công Li 2 có trình độ kỹ thuật giỏi gồm Nguyễn Đức Hiền, lái chính và Trần Liêm Khê, phụ lái; Nguyễn Cảnh Phiên, hoa tiêu.
    Kế hoạch bay được bố trí sát sao: Sáng sớm ngày 20-2, tổ bay 203 bay lên Lạng Sơn trinh sát thực địa, rồi bay trở về Gia Lâm cho kịp giờ đón Bác.
    Sau Tết âm lịch, khí tượng thường rất xấu. Bầu trời đầy mây thấp, xám màu chì, chiếm tới 8/10; trần mây chỉ từ 200 mét, thậm chí 100 mét, tầm nhìn khoảng 2km, gió mạnh trên 8 mét/giây.
    Đây là lần đầu tiên tổ bay Việt Nam được phục vụ Bác, nên anh em không muốn bỏ lỡ vinh dự này. Toàn tổ quyết tâm với đầy lòng tự tin, đề nghị thời tiết xấu vẫn xin được cất cánh. Đoàn bay xin ý kiến Cục trưởng Đặng Tính. Ông cũng đang nóng lòng sốt ruột vì khí tượng xấu. Ông báo cáo lên Phủ Chủ tịch:
    - Tổ bay chuyên cơ và các sân bay đã sẵn sàng nhưng thời tiết đang xấu không bảo đảm an toàn. Đề nghị xin ý kiến Bác, có thể lùi lại giờ cất cánh, chờ thời tiết khá lên có được không?
    Ông Vũ Kỳ, thư ký riêng của Bác, ở đầu dây bên kia:
    - Tính chờ một lát, để mình báo cáo Bác, rồi trả lời ngay.
    Ít phút sau, ông Vũ Kỳ trả lời:
    - Tỉnh ủy Lạng Sơn báo cáo Bác, sau Tết, nam nữ thanh niên các dân tộc thường rủ nhau chơi bời, hát lượn kéo dài hằng tháng, bỏ bê công việc đồng áng, sản xuất. Bác đã hẹn với Tỉnh ủy, sáng nay lên gặp và nói chuyện với nhân dân, cán bộ và nam nữ thanh niên tỉnh Lạng Sơn. Bác không muốn lỡ hẹn với bà con nhân dân trên đó. Bác quyết định đi xe lên Lạng Sơn cho kịp. Bác rất thông cảm với khó khăn của ngành Hàng không… Bác dặn: Phải lấy an toàn tuyệt đối làm công việc hàng đầu.
    Đặt máy xuống, Cục trưởng Đặng Tính liền tức tốc phóng xe ra sân bay động viên tổ bay tiếp tục chuẩn bị sẵn sàng bay khi có lệnh. Rồi ông đến ngay đài khí tượng nghiên cứu tình hình. Ông hy vọng khí tượng sẽ tốt lên để đưa máy bay lên đón Bác về, cho Bác bớt mệt nhọc phải ngồi xe hơn 150 cây số đường xấu.

    [​IMG]
    BH đi công tác Lạng Sơn về Hà Nội ngày 20-12-1960.
    Trong ảnh: BH trên máy bay Li-2 xuống sân bay Gia Lâm. Ảnh Tư Liệu.
    8 giờ, trời hửng lên, lượng mây thấp giảm. Điện hỏi sân bay Mai Pha thì được trả lời khí tượng đã chuyển tốt, trần mây nâng cao lên 300 mét, tầm nhìn xa trên 3km, tốc độ gió 5 mét/giây, hướng gió chếch, đường băng với góc hẹp dưới 20 độ.
    Tổ bay 203 được lệnh cất cánh, 45 phút sau, máy bay đã liệng vòng, xuyên mây hạ cánh an toàn xuống sân bay Mai Pha. Tổ bay lên xe về nhà khách của Tỉnh ủy chờ đón Bác. Xe đi qua sân vận động thị xã Lạng Sơn, thấy Bác đang nói chuyện với nhân dân và nam nữ thanh niên các dân tộc trong đó, tổ bay đề nghị xin được vào dự, vì nóng lòng muốn nhìn thấy Bác và cũng muốn được nghe giọng nói ấm áp của Người, nhưng không sao len nổi vào trong sân được. Nhân dân và nam nữ thanh niên các bản làng xa gần từ Thất khê, Na Sầm đến tận sát biên giới Việt - Trung đều đổ về đứng chật kín sân vận động. Hàng vạn người đang lặng im phăng phắc nghe lời Bác nói. Bác như người ông, người cha thân thiết khuyên nhủ nam nữ thanh niên:
    - Ngày xuân các cháu vui chơi đi hát cùng nhau rất vui. Nhưng các cháu là lao động chính trong các bản làng, cứ cơm đùm cơm nắm rủ nhau rong chơi suốt tháng trời, bỏ bê công việc đồng áng thì lấy ai tăng gia sản xuất? Bác hỏi các cháu có nên vui chơi theo cách đó không?
    - Thưa Bác, không ạ! Cả sân vận động gần như đồng thanh trả lời.
    - Bác mong các cháu mở hội hè vui xuân trong một tuần thôi. Phải dành nhiều thời giờ, sức lực phát triển tăng gia sản xuất. Có như thế đời sống gia đình bản làng mới ấm no, vui vẻ. Bác 70 tuổi rồi nhưng ngày vẫn làm việc 13-14 giờ. Vậy Bác cháu ta cùng thi đua: Mỗi người làm việc bằng hai để cho dân giàu nước mạnh. Các cháu có làm được không?
    - Thưa Bác, chúng cháu làm được ạ!
    Bác kết thúc cuộc nói chuyện trong tiếng vỗ tay và hoan hô như sấm rền âm vang đến cả động Tam Thanh.
    Buổi trưa, Tỉnh ủy Lạng Sơn làm cơm mời Bác, các cán bộ cùng đi và tổ bay. Bác vào thăm nhà ăn thấy trên bàn bày cả rượu và bia. Bác nói vui với anh em trong tổ bay:
    - Trưa nay, Tỉnh ủy thết cơm Bác cháu ta. Có rượu, có bia các chú cứ tự nhiên dùng…
    Trần Liêm Khê nhanh nhảu đáp:
    - Thưa Bác, điều lệnh bay cấm tuyệt đối người lái máy bay không được uống bia, rượu trong khi làm nhiệm vụ. Đặc biệt, hôm nay bay phục vụ Bác, chúng cháu càng phải chấp hành nghiêm điều lệnh.
    Bác gật đầu:
    - Ý thứ nhất chú nói đúng: Người lái máy bay không được dùng rượu, bia trong khi bay. Nhưng ý thứ hai, Bác thấy chưa được: Không có gì đặc biệt, máy bay chở chủ tịch n ước cũng như chở dân cũng đều phải an toàn tuyệt đối.
    Rồi Bác cười vui:
    - Không phải vì thế mà các chú mất phần. Không uống bia, rượu ở đây, các chú được mang về cho gia đình và anh em đơn vị dùng.
    Rồi Bác hỏi tên tuổi, quê quán từng người trong tổ bay. Anh em rất xúc động, cứ ngắm nhìn Bác mãi, không ăn. Bác liền tiếp thức ăn cho mọi người và giục:
    - Ăn đi chứ, các chú!
    Trần Liêm Khê ngồi gần Bác, thấy Bác ăn ít, liền đổi đầu đũa tiếp thức ăn cho Bác.
    - Kìa chú Khê, chú làm gì thế?
    Bác mỉm cười thân mật vỗ vai anh:
    - Bác già rồi không ăn được nhiều. Các chú còn trẻ phải ăn cho đủ để lấy sức còn bay!
    Lái chính Nguyễn Đức Hiền đang ăn bỗng nhìn ra ngoài, thấy trời sẫm lại. Anh nói nhỏ với Khê và xin phép Bác ra ngoài quan sát khí tượng rồi điện về sân bay hỏi tình hình.
    Thấy hai người trở lại, Bác hỏi ngay:
    - Các chú thấy tình hình khí tượng thế nào?
    Hiền thưa:
    - Thưa Bác, khi tượng lại dần dần chuyển xấu ạ!
    Bác nói:
    - Trưa nay, Bác không nghỉ, tranh thủ làm việc với Tỉnh ủy và Ủy ban. Đầu giờ chiều, các chú đưa Bác về được không?
    - Thưa Bác, chúng cháu xin cố gắng ạ - Hiền đáp.
    14 giờ chiều xe đưa Bác đến sân bay Mai Pha. Tổ bay ra sân bay chuẩn bị trước, đã ở tư thế sẵn sàng cất cánh.
    Cơ giới trưởng Ngô Địch Thanh và báo vụ viên trên không Trần Văn Đông đứng ở chân cầu thang đỡ Bác lên rồi đóng cửa máy bay lại. Mệnh lệnh được phát ra: “203 cất cánh”.
    Trên bầu trời, từng đám mây mọng nước bay sát sàn sạt các đỉnh núi quanh sân bay. Chân trời phía Đông Bắc đen kịt mây thấp. Hiền có Khê trợ lái cho máy bay lướt nhẹ lên độ cao 2.800 mét, tránh những lớp mây có khí đối lưu mạnh, gây xóc dữ dội khiến Bác mệt.
    Sau 30 phút bay, 203 đã bay vào vùng kiểm soát không lưu của sân bay Gia Lâm. Trung tâm điều phối bay căn giờ tính toán đã chủ động gọi 203 trước.
    Hiền đáp lại:
    - 203 nghe rõ. Cho biết tình hình khí tượng sân bay Gia Lâm.
    - Trần mây dưới 200 mét, tầm nhìn dưới 2 ki-lô-mét, hướng gió 60 độ, 4 đến 6 mét giây. Thông qua đài quy hàng, liệng vòng xuyên mây hạ cánh!
    - “203 nghe rõ!” Hiền đáp lại rồi chỉnh hướng bay nhằm thẳng đài quy hàng.
    Hoa tiêu Nguyễn Cảnh Phiên tác nghiệp bản đồ thành thạo xong thước tính, báo cho cơ trưởng độ cao phải lướt xuống khi bay qua đỉnh đài quy hàng, cùng góc kẹp lượn vòng và góc trượt xuyên mây lướt xuống đường băng. Tất cả các tham số bay đó, Phiên đều tính toán sao cho giảm thiểu nhất lực tác động vào quá trình máy bay vận động để không làm Bác mệt.
    14 giờ 45 phút ngày 20-2-1960 máy bay hạ cánh êm ả xuống sân bay Gia Lâm, rồi lăn về chỗ đậu dành cho máy bay Nguyên thủ.
    Khê cởi dây an toàn, mở cửa trao đổi với toàn tổ:
    - Nên chăng, tổ bay chúng mình xin được chụp ảnh với Bác để kỷ niệm.
    - Tán thành! Tán thành!
    Khê có tiếng là bạo ăn, bạo nói nhưng vẫn cảm thấy run run đề nghị Bác.
    - Thưa Bác, lần đầu tiên tổ bay Việt Nam được vinh dự phục vụ Bác, chúng cháu xin được chụp ảnh với Bác ạ!
    Bác vui vẻ gật đầu và nói với nhà nhiếp ảnh Vũ Đình Hồng:
    - Chú chuẩn bị bấm vài kiểu ảnh khi xuống máy bay nhé!
    Cửa máy bay mở, Bác bước xuống cầu thang, tay cầm mũ, mắt nheo lại cười nhìn khắp lượt toàn cảnh sân bay như người Cha đi xa về. Cặp mắt tinh anh của Bác đã bắt gặp những ánh mắt thiết tha của nhiều cán bộ, chiến sĩ đang làm việc, dừng tay ngóng nhìn về phía Người. Bác liền gọi đồng chí chỉ huy sân bay đến:
    - Chú cho tất cả anh em đang làm việc quanh đây đến chụp ảnh với Bác và tổ bay.
    Đồng chí chỉ huy sân bay mừng quá. Anh vừa mới cất tiếng hô và vẫy gọi, mọi người đã chạy ùa đến quanh Bác, khiến tổ bay đang chuẩn bị chụp ảnh với Người cũng bị chen bật ra. Nhưng anh em trong tổ bay vẫn rất vui vì chuyến bay chuyên cơ đầu tiên của tổ bay Việt Nam phục vụ Bác đã hoàn thành tốt đẹp dù trong điều kiện khí tượng rất xấu.

    VŨ THÀNH (Ghi theo lời kể của phi công Trần Liêm Khê và báo vụ viên Trần Văn Đông)


    [​IMG]
    Một chiếc Li-2 ở Gia Lâm
  4. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Một lần đón Bác
    14/05/2009


    [​IMG]

    "Tôi chọn chiếc Li-2 số 203, cùng các đồng chí kiểm tra thật kỹ, thay xăng dầu, bay thử rồi tổ chức canh gác cẩn thận, sẵn sàng cất cánh. Đội thợ chúng tôi làm việc hết mình với một tâm trạng rất phấn khởi và đoán già đoán non là sẽ chở HCT. "

    Tháng 1-1955, tôi đang ở trung đoàn 44, Liên khu 4 thì được điều về làm quyền Trưởng ban Cơ vụ, chuyên bảo đảm kỹ thuật máy bay, Cục Hàng không dân dụng, đóng ở sân bay Gia Lâm. Khoảng chín giờ tối ngày 13-6-1957, tôi được lệnh lên gặp đồng chí Đặng Tính, Cục trưởng. Anh hỏi tôi cặn kẽ về tình trạng kỹ thuật của 6 chiếc máy bay mà ta đang có lúc bấy giờ; gồm 3 chiếc Li-2 và 3 chiếc AE RO-45. Nghe xong, anh nói: Chúng ta có nhiệm vụ đi đón một cán bộ cao cấp ở Vinh vào Đồng Hới. Tôi chọn chiếc Li-2 số 203, cùng các đồng chí kiểm tra thật kỹ, thay xăng dầu, bay thử rồi tổ chức canh gác cẩn thận, sẵn sàng cất cánh. Đội thợ chúng tôi làm việc hết mình với một tâm trạng rất phấn khởi và đoán già đoán non là sẽ chở HCT. Đêm ấy trăng sáng vằng vặc, gió hè l ồng lộng, chúng tôi trải bạt nằm dưới cánh máy bay thao thức đến khuya. Nhưng hôm cất cánh thì chỉ có một mình anh Đặng Tính đi cùng. Bay đến vùng trời Phủ Lý, anh mới cho biết: BH đã đi ô tô từ hôm trước, chúng tôi có nhiệm vụ đón Bác vào Đồng Hới rồi ra Hà Nội.

    Sáng ngày 16, Bác về thăm làng Kim Liên ở Nam Đàn, Nghệ An. Tại sân bay Vinh, chúng tôi dậy sớm, kiểm tra máy bay, bay thử một vòng. Ai cũng hồi hộp chờ đợi phút giây được thấy Bác, được làm nhiệm vụ đặc biệt của mình. Bỗng có tiếng reo: “Bác đến, Bác đến!”. Từ trên chiếc xe com-măng-ca mui trần, Bác đội mũ cát, mặc bộ quần áo ka-ki vàng bước xuống. Nhà khách sân bay nhộn nhịp hẳn lên. Sau phút chia tay những người ra tiễn, tổ lái ngồi vào vị trí, tôi đứng ở cửa máy bay chờ đợi, Bác tươi cười hỏi: “Các chú chuẩn bị xong rồi chứ?”. Tôi lễ phép: “Thưa Bác, xong rồi ạ, mời Bác lên máy bay”. Tôi sung sướng được đỡ bàn tay mềm ấm của Bác. Trong đoàn còn có đồng chí Vũ Kỳ, bác sĩ Bảo, một cán bộ bảo vệ người Tày, một chiến sĩ công vụ và hai nhà quay phim. Bác ngồi ở chiếc ghế hàng đầu, ngay phía sau là anh Đặng Tính. Trời nóng, Bác cởi chiếc áo ka-ki bạc màu, để lộ hai cánh tay gày gò nhưng săn chắc. Chiếc Li-2 bay từ Vinh vào Đồng Hới có 45 phút, khi máy bay lượn nghiêng để đáp xuống sân bay, tôi thấy vẻ mặt Bác chợt đăm chiêu. Người ngoái cổ nhìn thẳng về phía xa, nơi chân trời đang có những vằn mây đen đùn lên. Chúng tôi cũng im lặng. Hướng ấy chưa đầy 30 cây số là miền Nam. Ước gì được bay thẳng vào trong đó, để Bác nhìn rõ mảnh đất đang đau thương mà Người hằng mong nhớ… Chiều hôm ấy, Bác dự mít tinh ở sân vận động thị xã rồi nói chuyện với nhân dân. Buổi tối Bác làm việc với Tỉnh uỷ Quảng Bình và một số cán bộ lão thành. Nói sao hết nỗi vui mừng, xúc động của những cụ già từ những vùng xa xôi hẻo lánh, được tin đã rủ nhau đi gặp Bác.


    Bốn giờ rưỡi sáng hôm sau, chúng tôi vừa kiểm tra máy bay xong thì ô tô đưa Bác tới. Bác vẫy tay bảo chúng tôi cùng ngồi xuống một vạt cỏ còn đẫm sương đêm. Người hỏi tuổi, quê quán, gia cảnh của từng người rồi khuyên: Nước ta còn nghèo, chưa có nền khoa học hiện đại, các chú phải cố gắng học tập để nhanh chóng làm chủ khoa học kỹ thuật, phục vụ cho một ngành hàng không tiên tiến. Lái chính Trần Cẩm Trọng xin Bác 5 phút để bay thử một vòng rồi mới xuống đón Bác. Sau 1 giờ 40 phút bay, chúng tôi về đến Hà Nội. Được Bác đồng ý, anh Đặng Tính bảo tổ lái cho máy bay lượn ba vòng trên bầu trời thành phố rồi mới hạ cánh xuống sân bay Gia Lâm để Bác ngắm cảnh Thủ đô.

    Hai ngày sau, một chiếc xe đón chúng tôi sang Phủ Chủ tịch. Bác dành đúng một tiếng đồng hồ để tiếp tổ chuyên cơ. Lúc phải chia tay, tôi bùi ngùi nhìn đôi mắt thâm quầng của Bác mà thưa: “Con chào Bác. Bác đi nghỉ ạ”. Bác mỉm cười đôn hậu nhìn tôi: “Bác phải đi làm việc chứ…”. Hai mươi năm sau, khi nước nhà thống nhất, tôi có dịp vào l ăng viếng Bác. Nhìn nét mặt thanh thản của Người, tôi như thấy văng vẳng đâu đây một tiếng thơ xúc động: “ Nâng niu tất cả chỉ quên mình… ”.

    Đặng Đình Ninh kể Xương Giang ghi
  5. conpas

    conpas Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/11/2008
    Bài viết:
    1.008
    Đã được thích:
    13
  6. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Ngòai ra lãnh đạo còn sử dụng máy bay trực thăng để đi lại. Ban đầu tổ lái người Liên xô sau thì tổ lái Việt đảm nhiệm

    B ác Hồ với đảo Cô Tô


    [​IMG]
    Tượng Bác trên đảo Cô Tô
    Ngày 9/5/1961 BH đã đến thăm và nói chuyện với quân dân trên đảo Cô Tô và ngày đó mãi là một ngày lịch sử không thể quên đối với quân dân đảo...


    Cô Tô là huyện đảo nằm cách xa đất liền trên 100km, với hơn 40 hòn đảo lớn, nhỏ, diện tích đất nổi là 4.620ha, có chiều dài biên giới biển khoảng 200km từ ngoài khơi Đảo Trần đến phía Đông Nam huyện đảo Bạch Long Vĩ (thành phố Hải Phòng).

    Ngày BH ra thăm đảo Cô Tô trên chiếc trực thăng, đã đáp xuống đúng nơi nay là khu tượng đài Bác[​IMG]. Cũng chính tại đây buổi nói chuyện với quân dân trên đảo người đã ân cần căn dặn, động viên quân dân trên đảo đoàn kết cùng tiến bộ, Bác nói "Thủ đô Hà Nội tuy cách xa các đảo, nhưng BH và chính phủ luôn quan tâm đến đồng bào các đảo và mong đồng bào các đảo đoàn kết, cố gắng và tiến bộ".


    [​IMG]
    Ảnh Bác nói chuyện với quân dân trên đảo Cô Tô

    Trong thời gian trên đảo Cô Tô Bác đã đến thăm một số cơ sở sản xuất như: Đồng muối, ruộng khoai đang đến mùa thu hoạch, sau khi bới xem một bụi khoai Bác khen khoai tốt, phù hợp với đất cát ở trên đảo.

    [​IMG]
    Ảnh Bác thăm cánh đồng muối

    [​IMG]

    Ảnh Bác Thăm ruộng khoai


    Khi chiếc trực thăng đưa Bác rời xa đảo, quân dân trên đảo lưu luyến, xúc động đứng nhìn theo cho đến khi chiếc trực thăng bay khuất xa nơi cuối chân trời.


    [​IMG]
    Bác lên máy bay kết thúc tốt đẹp chuyến thăm quân dân đảo Cô Tô

    Trước lúc Bác qua đời, nỗi nhớ, niềm thương và sự kỳ vọng vào vùng đảo này vẫn luôn nung nấu trong trái tim người, vì vậy Người đã gửi đại tướng Võ Nguyên Giáp mang đến tặng quân dân trên đảo tấm ảnh của Người với dòng chữ đề tặng
    "khuyên cán bộ, bộ đội, nhân dân đoàn kết một lòng, sản xuất giỏi, chiến đấu giỏi". Tình cảm đó đã cho thấy người đã đánh giá rất cao về tầm quan trọng, vị trí chiến lược Quốc phòng - An ninh của vùng biển đảo Cô Tô, bởi lẽ Cô Tô là một bến đậu, một trạm tiền tiêu của cả một vùng biển rộng lớn phía Đông Bắc của tổ quốc. Bên cạnh đó trên vùng biển đảo này lại có nhiều tiềm năng lợi thế để phát triển kinh tế biển và dịch vụ du lịch trong tương lai. Xuất phát từ tầm quan trọng và vị trí chiến lược phát triển kinh tế, đảm bảo lãnh hải chủ quyền quốc gia, cùng với tình cảm đặc biệt Bác dành cho đảo Cô Tô và thể theo nguyện vọng của quân dân trên đảo Bác đã đồng ý cho phép dựng tượng của mình trên đảo khi người còn sống.

    [​IMG]
    Năm 1968 tượng đài BH được xây dựng trên Cô Tô nơi máy bay hạ cánh

    Ngày 19/5/1968, quân dân trên đảo Cô Tô lại một lần nữa vui mừng đón chào ngày khánh thành tượng ******, tượng được dựng ngay tại nơi máy bay hạ cánh và là nơi Bác đứng nói chuyện với quân dân trên đảo năm xưa. Trải qua hơn 40 năm tượng của Bác vẫn đứng hiên ngang trước nắng, gió của vùng biển đảo, tay Bác luôn vẫn chào hướng ra Biển Đông rộng lớn. Những kỷ niệm về Bác vẫn được quân dân trên đảo trân trọng gìn giữ bằng tất cả tình cảm của mình.


    [​IMG]
    Nhà trưng bày lưu niệm ***********

    [​IMG]

    Đền thờ Bác trên đảo Cô Tô

    Ghi nhớ lời dạy của Người trong suốt 15 năm từ khi thành lập huyện, **** bộ, Chính quyền và nhân dân huyện đảo Cô Tô không ngừng phấn đấu khắc phục khó khăn, giữ vững ổn định chính trị, An ninh - Quốc phòng, từng bước phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân và hiện nay cùng với nhân dân địa phương trong cả nước, huyện Cô Tô đang đẩy mạnh cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCT". Giờ đây Cô Tô đang vươn mình lớn mạnh, bộ mặt của đảo xưa đã thay đổi hoàn toàn, những con đường cát đã được thay thế bằng những ngôi nhà cao tầng, nhà mái bằng, hay lợp mái ngói đỏ tươi bám quanh trục đường đã được bê tông hóa, càng tô thêm vẻ đẹp của đảo Cô Tô, vốn dĩ vẻ đẹp tự nhiên đã được thiên nhiên ban tặng nay lại được nhân đôi và trong tương lai không xa Cô Tô sẽ là điểm đến lý tưởng của khách du lịch trong và ngoài nước.


    Được sự quan tâm của ****, Nhà nước và của Tỉnh, cơ sở hạ tầng của huyện đảo ngày càng được đầu tư, nâng cấp giao thông, thông tin liên lạc được nối liền thông suốt với đất liền, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân được nâng cao.
    Tháng 11/2008 huyện Cô Tô đã tiến hành khởi công xây dựng khu trung tâm dịch vụ hậu cần nghề cá Bắc vịnh Bắc bộ, với số vốn trên 300 tỷ đồng chủ yếu từ nguồn vốn chương trình Biển Đông của Chính phủ, đây là một công trình lớn với nhiều hạng mục như: bến cập tàu, khu neo đậu tránh trú bão, khu hậu cần chế biến hải sản, cung cấp nước ngọt, đá lạnh... khi công trình hoàn thành, đi vào sử dụng sẽ tạo cho huyện đảo Cô Tô có điều kiện phát triển nhanh, thu hút được nhiều nhà đầu tư.
    Mặc dù còn gặp không ít khó khăn nhưng mỗi lần cán bộ chiến sĩ và nhân dân trên đảo ra thăm và dâng hương tại tượng đài BH là một lần như có thêm động lực để cùng *Đả ng bộ, Chính quyền địa phương phấn đấu đi lên, quyết tâm xây dựng đảo Cô Tô thêm giàu đẹp để xứng đáng với tình cảm và sự kỳ vọng của Bác dành cho đảo Cô Tô.


    Bài Thế Cường (Đài TT - TH Cô Tô) Ảnh Thành Luân sưu tầm

  7. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    GẶP NGƯỜI LÁI MÁY BAY PHỤC VỤ BH

    Published on 04/26,2010


    Được gặp gỡ, trò chuyện cùng ông một ngày, tôi có cảm nhận về một con người của lí tưởng với những phẩm chất phi thường mà lại hết sức gần gũi, giản dị, một tính cách đặc sệt chất Nghệ: ngang tàng, hài hước và vô cùng đôn hậu. Ông là Đại tá-Phi công Trần Ngọc Bích.
    Hơn 32 năm “đi mây về gió”, với số lượng giờ bay kỉ lục: 8.000 giờ, đã từng tham gia chiến tranh Lào, đặc biệt có thời gian 9 năm phục vụ BH, tên tuổi đại tá, phi công Trần Ngọc Bích được nhắc đến như một huyền thoại, được đồng đội gọi với cái tên trìu mến “Anh cả của làng trực thăng Việt Nam”.
    Đại tá Trần Ngọc Bích sinh năm 1934 tại xã Đức Trường (nay là Trường Sơn), Đức Thọ, Hà Tĩnh, trong một gia đình nông dân. Năm 19 tuổi, chàng trai trẻ Trần Ngọc Bích lên đường tòng quân, gia nhập Trung đoàn 53 (Quân khu IV). Năm 1956, từ trường Văn hoá Kiến An, Hải Phòng, Trần Ngọc Bích được cử đi học lái máy bay tại trường không Quân số 2 tại thành phố Trường Xuân, tỉnh Cát Lâm, Trung Quốc.
    Ảnh: Cầu Thọ Tường bắc qua sông La, quê hương của Đại tá Trần Ngọc Bích

    [​IMG]

    Sông La: "Trai gái sông La kiên cường anh dũng..."
    [​IMG]

    Trần Ngọc Bích nhớ như in chuyến chở BH về thăm chiến khu Tân Trào vào tháng 3 năm 1961. Lúc ấy ngồi cùng máy bay có Bộ trưởng Bộ Y tế Phạm Ngọc Thạch. Đến trưa, mấy Bác cháu cùng đi bộ vào thăm lại đình Hồng Thái, gốc đa Tân Trào. Người xuống con suối nhỏ rửa mặt, rồi mấy Bác cháu trải ni lông ra cùng ăn trưa dưới gốc cây. Bữa ăn chỉ có cơm nắm đã chuẩn bị sẵn, cắt ra từng khoanh chấm với chút thức ăn khô. Ăn xong, Bác dặn: Bây giờ các chú nghỉ ở đây chờ Bác, Bác ra nói chuyện với đồng bào rồi ta cùng về. Lúc ấy đồng bào đã tập trung chờ nghe BH nói chuyện, trời nắng, các cán bộ đành chặt một cành lá cọ che đầu cho Bác.
    Đại tá Trần Ngọc Bích dành một nơi trang trọng nhất để thờ BH. Phía dưới chân dung Bác là một bức ảnh đặc biệt do đồng đội tặng: 5 chiếc máy bay trực thăng Mi-8 mang theo cờ Tổ quốc diễu hành trên l ăng Bác.

    [​IMG]


    [​IMG]
    [​IMG]

    [​IMG]

    Phút thảnh thơi của Đại tá Bích giữa đời thường (ông nghiện thuốc lào)
    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    Non nước sông La vào hoàng hôn
    [​IMG]

    [​IMG]
  8. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Chiếc Mi-4 của CP LX tặng BH, hiện trưng bày tại bảo tàng KQ

    [​IMG]


    [​IMG]

    [​IMG]


    1810 Mil Mi-4 Preserved (Marked 151D)


    [​IMG]

    [​IMG]



    [​IMG]


    Chiếc Mi-4 đã từng là máy bay riêng của BH
  9. nguoiquansat

    nguoiquansat Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    1.542
    Đã được thích:
    352
    ===========
    Vâng em nhầm thật bác ạ, lâu rồi mà. Chuyện về bác Nguyễn Văn Bang đấy ạ. Chuyện bác Ba dùng chiếc T-28 Normad do phi công phái hữu Lào phản chiến bay sang HN để bắn hạ C-123 thì nhiều nơi nói rồi. Còn chuyện ta dùng IL-14 trong đợt Mậu Thân thì ít thấy nói hơn
  10. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Lực lượng đặc biệt, nhiệm vụ tuyệt mật



    [​IMG]
    Thiếu tướng Phan Khắc Hy còn giữ quyển lịch túi năm 1968 với những dòng ghi chú: ngày 7-2: "Kế hoạch B với 919"; ngày 12-2: làm việc 919; ngày 13-2: họp rút kinh nghiệm với 919. Thời điểm đó ông là thượng tá - chính ủy Bộ Tư lệnh không quân - Ảnh: T.H.

    TT - Tám mươi tuổi, thiếu tướng Phan Khắc Hy - nguyên chính ủy trung đoàn 919, đơn vị được giao nhiệm vụ tuyệt mật - vẫn còn nhớ như in những ngày triển khai nhiệm vụ tuyệt mật ấy.
    Ông kể: “Đó là lần đầu tiên phi công ta ra quân với một lực lượng đặc biệt cho nhiệm vụ tuyệt mật”.


    Những chuyến bay định mệnh

    “Tết năm đó thời tiết xấu. Những làn mây trắng sữa cứ thấp dần rồi ngả sang màu xám xịt mọng nước, trần mây chỉ còn 100-200m” - thiếu tướng Phan Khắc Hy nhớ lại. Theo kế hoạch, các chuyến bay T14 (ký hiệu dùng để chỉ loại máy bay IL -14) sẽ bay gần 1.000km trong tình trạng “bay mò” theo tính toán đồng hồ (để đảm bảo tuyệt đối bí mật, máy bay không có rađa dẫn đường).
    Đường bay lại vòng: Gia Lâm (Hà Nội) - Sê-Pôn (Lào) - Phương Tích (Huế). Ngoài khơi, hạm đội Mỹ áp sát hải phận miền Bắc với hệ thống rađa cực mạnh, tạo thành một mạng lưới phát hiện lớn. Do đó các phi đội phải bay nép vào dãy Trường Sơn và bay thật thấp, vừa tránh rađa vừa tạo bất ngờ, đồng thời phải dè chừng những đỉnh cao trên 2.000m của dãy Trường Sơn mà máy bay có thể đâm vào bất cứ lúc nào. Những chuyến bay lần lượt xuất kích và mọi người trong số họ đều không ai nghĩ mình sẽ có thể quay trở về.
    Chính ủy Phan Khắc Hy đến động viên anh em lần cuối trước khi xuất kích. Những cái bắt tay rất chặt như những lời chia tay lặng lẽ. 16g ngày 7-2 (mồng 10 tết), sáu tổ bay lần lượt cất cánh cách nhau 15 phút. Ba tổ hướng về đồn Mang Cá, ba tổ hướng về phía phá Tam Giang, tín hiệu xác định vị trí chỉ là những đốm lửa nhỏ bên bờ sông Tam Giang do lính bộ binh đốt lên chờ cứu viện báo hiệu đang trong tình huống ngặt nghèo.

    Sở chỉ huy đêm đó trải qua một đêm thức trắng trong hồi hộp, lo lắng. Đêm xuất kích đầu tiên kết thúc với một cảm giác chơi vơi: lần lượt từng đội bay quay trở về, nhưng chỉ có bốn tổ. Rồi tin từ mặt trận báo về: tổ bay của cơ trưởng Hoàng Liên bị địch phát hiện, bắn thủng bình xăng, phải hạ cánh xuống sân bay Sao Vàng (Thanh Hóa) trong tình trạng… rớt vào hố bom và mọi người chỉ bị xây xát nhẹ. Còn tổ bay của cơ trưởng Phan Kế (lái chính) và Nguyễn Văn Mẫn (lái phụ), Ngô Phượng Châu (dẫn đường), Nguyễn Minh (cơ giới), Nguyễn Văn Tê (thông tin) và hai lính dù (của phân đội huấn luyện dù thuộc Bộ tư lệnh Phòng không - không quân) mãi mãi không trở về.

    Mục tiêu tấn công: hạm đội Mỹ?
    Sự kiện “cầu hàng không” cho đến nay vẫn còn nhiều “ẩn sử”. Theo kỷ yếu 45 năm xây dựng và trưởng thành của đoàn bay 919, sự kiện này được cho là diễn ra trong hai đêm 7-2 và 12-2-1968. Đêm đầu chỉ có năm chuyến bay, đêm cuối có bốn chuyến bay IL-14.
    Trong khi theo những tài liệu do tướng Hy cung cấp (có cả một bản thảo được chính ông Hy chỉ đạo cho đơn vị ghi lại các sự kiện lịch sử của trung đoàn 919 sau năm 1968), tuần lễ từ 7 đến 12-2-1968 có tất cả bốn đêm không quân xuất kích thiết lập “cầu hàng không”: đêm đầu tiên (7-2) với sáu chuyến bay, ba chuyến tiếp vận hàng hóa và ba chuyến chiến đấu; đêm 8-2 có hai tổ bay của Nguyễn Văn Bang và Nguyễn Văn Ba thực hiện nhiệm vụ chiến đấu; đêm 11-2 có một tổ bay tiếp vận; đêm 12-2 có ba tổ bay làm nhiệm vụ chiến đấu.
    Còn theo một tư liệu khác được cung cấp từ một nhân chứng sống - ông Trần Hữu Thọ, sĩ quan dẫn đường của một trong các tổ bay IL-14 (hiện đã nghỉ hưu ở TP.HCM), có tất cả 17 chuyến bay đã được thực hiện trong các ngày 7, 8, 10 và 12-2-1968.
    Ông Thọ nêu ra một cách khá chi tiết về các tổ bay và những trường hợp hi sinh, cho rằng các tư liệu đã bỏ sót một chuyến bay vào đêm 7-2 do lái chính Võ Minh Chung thực hiện cùng với các lái phụ Vũ Đức Sầm, dẫn đường Trần Hữu Thọ, cơ giới Phạm Đình Phú, thông tin Ma Văn Thường cùng hai người lính nhảy dù.

    [​IMG] [​IMG]
    Ông Trần Hữu Thọ thời là học viên phi công (1967) - một năm trước chiến dịch "cầu hàng không" và ông Thọ bây giờ


    Trong chuyến bay của ngày hôm sau, lực lượng đặc biệt cũng chưa tìm được mục tiêu. Anh em đề xuất cấp trên cho chuyển sang đánh các mục tiêu khác, trong đó có hạm đội Mỹ ngoài khơi. Chuyến bay đêm 12-2, cấp trên đồng ý cho đánh mục tiêu khác. Phi công Nguyễn Văn Bang bàn với kỹ thuật viên Nguyễn Tường Long: “Hôm nay không đánh mục tiêu trên bộ nữa. Ngoài biển khơi, hạm đội Mỹ đèn đốt sáng trưng như một thành phố trên biển, phải đánh bọn này thôi!”.
    Ông Tường Long nhớ lại: “Tôi nói với Bang rằng chiến hạm Mỹ dài khoảng 200m, chiều ngang 50m, tốc độ bay trung bình của máy bay mình lại không có máy kiểm tra nên nếu có đánh thì phải đánh dọc từ sau ra trước (hoặc ngược lại) pháo của mình mới rớt trúng mục tiêu. Tôi nhắc đi nhắc lại thật kỹ với Bang rằng cánh máy bay mình là cánh vải, nếu có đánh phải đánh ở độ cao trên 100m bởi khi bom nổ, sức nổ và áp lực hướng lên trên sẽ làm rách đuôi, máy bay sẽ không điều khiển được. Bang gật nhẹ đầu, im lặng. Tối đó, 11 giờ 30, Bang cắt liên lạc. Tôi biết Bang và Ba đã vào trận đánh hạm đội Mỹ”.
    Đêm đó chỉ có tổ bay của ông Hoàng Ngọc Trung trở về, hai tổ bay chiến đấu của Bang và Ba đã vĩnh viễn nằm lại. Nhiều giả thiết được đưa ra, người thì bảo họ đã va vào vách núi và nằm đâu đó trên dãy Trường Sơn sau khi trút hết hỏa lực vào mục tiêu đối phương; người thì bảo họ đã rơi trên biển cả sau khi đánh mục tiêu trên bộ, thậm chí có người nói rơi ở Nghệ An…
    Tất cả vẫn chỉ là giả thiết. Còn sự thật về những giờ phút cuối cùng của những chiến đấu cơ đặc biệt vẫn là “ẩn sử”. Riêng với Nguyễn Tường Long, ông tin chắc đồng đội mình đã làm nên kỳ tích: “Ngày hôm sau, 13-2-1968, tình cờ tôi nghe bản tin 6 giờ chiều của Đài BBC cho hay chiến hạm của Mỹ đã bị đánh hư hai chiếc phải mang sang cảng Subic của Philippines sửa chữa. Tôi tin chắc là Bang và Ba đã làm việc này”.
    NGUYỄN VĂN TIẾN HÙNG




    [​IMG]


    Có hai điểm bác Tường Long nói về chiếc IL-14 hơi lạ: cánh vải và pháo. giống như bác ấy đang nói về một chiếc AN-2

Chia sẻ trang này