1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những điều chưa biết về tai nạn máy bay ở Việt Nam

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi vaputin, 10/04/2010.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Người anh hùng và cuộc “phẫu thuật” máy bay lịch sử

    Từ bỏ cuộc sống phồn hoa nơi xứ người, ông tìm đường về Tổ quốc, lập được kỳ tích chưa từng có trong lịch sử ngành hàng không thế giới: Cải tiến máy bay dân dụng IL-14 thành máy bay ném bom, góp phần làm nên huyền thoại “Cầu hàng không” chi viện cho chiến trường miền Nam trong chiến dịch Mậu Thân 1968.
    Không vợ con, không gia đình, không họ hàng thân thích, suốt đời hy sinh, cống hiến cho cách mạng, cuộc đời ông là một chuỗi những hành trình kỳ diệu! Ông là Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Tường Long.

    Kỳ 1: Tổ quốc trên hết


    Thành phố Lion nước Pháp mùa thu năm 1944. Nguyễn Tường Long lúc đó là một chàng trai 21 tuổi. Ba anh – ông Nguyễn Văn Tường và mẹ - bà Huỳnh Thị Oanh là công nhân cầu đường. Hai ông bà sang Pháp định cư từ sau đại chiến thế giới thứ nhất. Nguyễn Tường Long và cô em gái Nguyễn Thị Thoa cùng sinh trưởng tại Pháp. Tốt nghiệp Trường Kỹ thuật cơ khí với tấm bằng kỹ sư loại giỏi, Tường Long dự định vào làm việc tại một nhà máy cơ khí và sẽ xin phép ba mẹ để cưới Bernadette, một thiếu nữ Pháp xinh đẹp. Mối tình của chàng với Bernadette được ươm mầm từ thời còn học chung lớp ở cấp trung học. Vào đời, Bernadette chọn ngành y lập nghiệp, còn chàng trai gốc Việt nuôi ước mơ trở thành một kỹ sư giỏi. Sau bữa cơm thịnh soạn mừng con trai tốt nghiệp Trường Kỹ thuật cơ khí, ba anh gọi con trai vào phòng riêng, giọng run run:


    - Nỗi cay đắng lớn nhất của cuộc đời ba mẹ là phải ly tán quê hương, sống trên đất nước của những kẻ đi xâm lược Tổ quốc mình. Ba đã già, không còn thời gian và sức lực để làm lại từ đầu nữa. Phong trào kháng Pháp ở Việt Nam đang phát triển rất mạnh. Con hãy tìm về Tổ quốc, đi theo lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Đó là con đường đúng đắn nhất để con thay ba đóng góp trí lực cho Tổ quốc.


    Nguyễn Tường Long sửng sốt, trống ngực đập thình thịch. Đêm hôm đó, cả nhà gần như thức trắng. Ba anh đã tâm sự thật nhiều về tình nghĩa đối với Tổ quốc, quê hương và định hướng con đường cho con trai dấn thân. “Tổ quốc là trên hết. Ba mẹ đặt niềm tin và hy vọng vào con” – Ông Tường động viên con trai. Mẹ anh dù không muốn con trai rời xa vòng tay gia đình nhưng cũng rất ủng hộ tâm nguyện của chồng, động viên anh có đủ dũng khí tìm về đất mẹ tham gia cách mạng. Tường Long dần hiểu ra, tình yêu quê hương đất nước, dòng máu họ hàng, dòng tộc trong ba mẹ lớn đến mức nào. Điều đó lý giải tại sao sống ở một thành phố tráng lệ vào hàng đầu nước Pháp đã mấy chục năm rồi, nhưng ba mẹ anh vẫn luôn duy trì những nếp sinh hoạt thuần Việt. Ngoài giờ đến trường, vui chơi với bè bạn, hằng ngày từ bữa ăn đến giấc ngủ, anh em Nguyễn Tường Long đều được ba mẹ chăm sóc, nuôi dưỡng bằng vòng tay yêu thương mang đậm văn hóa Việt. Nhờ đó, Tường Long biết nói tiếng Việt trước khi nói tiếng Pháp. Lên 5 tuổi, Tường Long đã biết ăn cơm bằng đôi đũa tre, biết hát những bài ca về quê hương Việt Nam, thuộc nhiều ca dao, tục ngữ và có thể đọc trơn tru hàng chục câu Kiều.


    Nhắc đến lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, dòng máu Việt trong chàng thanh niên Nguyễn Tường Long như được hâm nóng lên. Với những Việt kiều yêu nước thời ấy, cái tên Nguyễn Ái Quốc có sức cuốn hút đến kỳ lạ. Đó cũng chính là động lực thôi thúc bầu nhiệt huyết của Nguyễn Tường Long, can đảm từ biệt mái ấm gia đình và hạnh phúc riêng tư để hành trình về Tổ quốc.


    Thông qua những người bạn cùng làm công nhân cầu đường, ông Nguyễn Văn Tường quen và có được mối quan hệ khá thân thiết với ông Hanriibe, làm việc trong ngành tàu viễn dương Pháp. Giữa mùa thu năm 1944, Hanriibe đến chào người bạn Việt để chuẩn bị cho chuyến viễn dương sang Việt Nam. Một thời cơ quí giá để thực hiện ý định nung nấu lâu nay, ông Tường đặt vấn đề nhờ Hanriibe đưa cậu con trai về Sài Gòn ăn Tết. Hanriibe vui vẻ đồng ý. Chỉ có một ngày chuẩn bị cho cuộc hành trình quan trọng nhất cuộc đời, Nguyễn Tường Long nhận từ ba mẹ những dòng địa chỉ bà con, họ hàng, người thân ở Sài Gòn. Đó là những nơi anh có thể nương tựa trong thời gian tìm đường đến với VMinh.


    Về đến Sài Gòn, Tường Long tìm đến những địa chỉ bà con họ hàng thân thích nhưng không gặp được ai, vì tất cả đều đã li tán mỗi nhà một phương. Anh đến ở nhờ nhà một người quen cũ của ba mẹ ở nội thành Sài Gòn, chờ cơ hội tiếp cận người của VMinh.


    Đầu năm 1945, qua người quen, Nguyễn Tường Long gặp ông Phan Văn Tỵ, một cựu tù Côn Đảo vượt ngục, hiện là ủy viên Khu 9. Ông Tỵ xúc động ôm chầm lấy chàng kỹ sư trẻ. Đ ảng đang rất cần những người như đồng chí. Trước mắt đồng chí theo tôi về Cà Mau để tăng cường sức mạnh cho ngành quân giới của chúng ta”.


    [​IMG]
    Cô Magueri He – một kỷ niệm đẹp của Nguyễn Tường Long thời trai trẻ.

    Xưởng Quân giới của VM được bố trí bí mật trong rừng U Minh. Đây là đầu mối chủ lực sản xuất, cung cấp vũ khí đánh Pháp ở khắp các mặt trận miền Tây Nam Bộ. Ông Võ Văn Châu được đồng chí Lê Duẩn và lãnh đạo Khu 9 điều về đây làm Giám đốc xưởng Quân giới. Nguyễn Tường Long được bố trí làm việc tại phân xưởng nạp thuốc súng vào vỏ đạn. Vừa chân ướt chân ráo nhận nhiệm vụ, Nguyễn Tường Long đã được cấp trên đánh giá cao khi anh có những đề xuất sáng kiến cải tiến qui trình nạp thuốc súng từ thủ công sang ứng dụng kỹ thuật cơ khí, vừa nhanh vừa bảo đảm an toàn. Anh được kết nạp Đ**** ngay sau đó.

    Năm 1954, Nguyễn Tường Long tập kết ra Bắc. Anh được biên chế vào Đơn vị không quân C.47 thuộc Trung đoàn 919 Bộ Tư lệnh Không quân. Ba năm sau, Nguyễn Tường Long được đơn vị cử đi học chuyên sâu về kỹ thuật hàng không ở Trường Hàng không Thiên Tân (nay là Học viện Hàng không Thiên Tân, Trung Quốc). Tốt nghiệp trở về nước, anh được bố trí công tác tại Ban Kỹ thuật không quân với nhiệm vụ bảo đảm các yếu tố kỹ thuật cho các loại máy bay chiến đấu của Trung đoàn 919.


    Tên tuổi của Nguyễn Tường Long gắn liền với huyền thoại “Cầu hàng không” chi viện cho chiến trường miền Nam trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Để chuẩn bị cho chiến dịch này, Ban kỹ thuật của Nguyễn Tường Long được cấp trên giao nhiệm vụ tối quan trọng và tuyệt mật: Nghiên cứu cải tiến một số loại máy bay hiện có phục vụ nhiệm vụ chiến đấu, ném bom chi viện cho chiến trường miền Nam. Loại máy bay vận tải IL-14 do Liên Xô sản xuất là đối tượng của kế hoạch cải tiến. Mục tiêu đặt ra là nâng công dụng của loại máy bay chuyên dùng để chở khách này thành những máy bay ném bom chiến đấu. Do điều kiện chiến tranh còn ác liệt nên những chiếc máy bay IL – 14 của ta khi đưa từ Liên Xô về phải gửi tại sân bay Tường Vân (Trung Quốc). Các phi công của Trung đoàn 919 đã sang Tường Vân đưa 3 chiếc về sân bay Gia Lâm thực hiện cải tiến. Dựa vào một tài liệu của Đức viết lại theo sách quân sự của Liên Xô về máy bay IL-14, Nguyễn Tường Long cùng các kỹ thuật viên ngày đêm mày mò nghiên cứu từ những chi tiết nhỏ nhất về tính năng kỹ thuật của loại máy bay này. Phương án cải tiến được thực hiện theo cách “nắn” lại cánh máy bay nhằm nâng cao khả năng chịu tải và gắn các giá treo bom dưới thân và hai cánh máy bay. Các giá treo này có thể mang được 3 quả bom loại 100kg...



  2. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Chiến công và khoảng lặng đời thường


    Sau khi thử nghiệm đạt kết quả tốt, Nguyễn Tường Long dấn thêm bước táo bạo: Tiếp tục nâng chức năng chiến đấu để máy bay IL-14 có thêm khả năng phóng đạn cối.


    Cách làm anh đề xuất là tháo hết các ghế ngồi, tận dụng hai gờ chạy dọc sàn máy bay để gắn các thiết bị chứa và phóng đạn cối. Khó khăn lớn nhất của phương án này là phần bụng máy bay IL – 14 được chế tạo kín. Để có thể phóng đạn cối buộc phải “phẫu thuật” bụng máy bay. Phương án này được nhiều đồng đội cho là quá mạo hiểm, sẽ phá hỏng máy bay.


    Tuy nhiên, Tường Long tự tin khẳng định sẽ làm được. Anh lập luận: Máy bay IL – 14 theo tính năng có thể chở 24-28 hành khách. Với tải trọng này, khi tháo bỏ hết các ghế ngồi, ta có thể gắn vào máy bay khoảng 60 quả cối 120mm ngoài số bom đã được gắn tại các giá treo...


    Sau 10 ngày đêm khẩn trương, Tường Long và các đồng nghiệp đã hoàn thành ca “phẫu thuật”. Khoang bụng máy bay được gắn 62 quả đạn cối 120mm cùng với hệ thống ống phóng. Mỗi lần muốn phóng đạn cối, phi công chỉ cần rút chốt hãm, kéo dây cáp là bụng máy bay sẽ mở, đạn cối sẽ văng ra. Thử đi thử lại nhiều lần các thông số kỹ thuật ở mặt đất cho kết quả tốt, đơn vị tiến hành tổ chức bay thử nghiệm. Phi công Nguyễn Văn Bang bước lên buồng lái. Tất cả như nín thở. Chiếc phi cơ chiến đấu IL-14 cải tiến mang theo 3 quả bom loại 100kg/quả và 62 quả cối 120mm xẹt qua đường băng rồi vút lên bầu trời. Sau khi đảo 3 vòng ở tư thế bình thường, Nguyễn Văn Bang thực hiện các tư thế bay nghiêng, bổ nhào... rồi quay về hạ cánh. “Thành công rồi”. Mọi người hét lên, ôm chầm, bế bổng nhau lên vì sung sướng, hạnh phúc. Từ những thông số kỹ thuật Nguyễn Văn Bang theo dõi, xử lý trên không, Nguyễn Tường Long và các đồng nghiệp chỉ thao tác một vài hiệu chỉnh nhỏ ở tay ga. Ca “phẫu thuật” thành công mỹ mãn.


    Ngày 27 Tết (26-1-1968), Chính ủy Bộ Tư lệnh Không quân Phan Khắc Hy và Phó Tư lệnh quân chủng Phòng không – Không quân Nguyễn Văn Tiên đến sở chỉ huy Trung đoàn 919. Nhiệm vụ tuyệt mật nhanh chóng ban hành: “Đơn vị chuẩn bị phi đội thả dù tiếp tế bộ binh và tấn công một số mục tiêu mặt đất ở phía nam vĩ tuyến 17”.


    Trong cuốn kỷ yếu 45 năm xây dựng và trưởng thành của đoàn bay 919 đã ghi lại rằng: Những chiếc máy bay IL-14 cải tiến đã thực hiện năm chuyến bay đầu tiên vào đêm 7-2 và bốn chuyến vào đêm 12-2-1968, vừa thực hiện nhiệm vụ thả dù tiếp tế lương thực, vũ khí đạn dược cho chiến trường miền Nam, vừa ném bom tấn công một số mục tiêu quan trọng của địch. Trong hồi ức của mình, Nguyễn Tường Long đã ghi lại: “Cả biên đội xuất kích từ sân bay Gia Lâm lúc 18 giờ sau bữa cơm dưới cánh máy bay. Cả Trung đoàn nóng lòng theo dõi, đợi biên đội điện báo về. Đến 23 giờ 30 phút, biên đội điện báo về xin cắt liên lạc vì đã thấy mục tiêu, xin bước vào trận đánh. Cả Trung đoàn hồi hộp chờ mãi cho đến sáng nhưng không có tin tức gì của biên đội báo về. Tôi biết, cả biên đội đã đánh cảm tử và đã hy sinh. Tôi khóc. Đồng chí đại úy Văn Chung cũng khóc. Ngày 12-2-1968 là ngày chia lửa của chúng tôi với đồng bào đồng chí Sài Gòn... Chiều ngày 13-2-1968, phóng viên Diret vilson đài BBC thường trú tại Phi-lip-pin đưa tin: Hai thiết giáp hạm thuộc hạm đội 7 của Mỹ đậu ở cửa Thuận An - Thừa Thiên Huế để tiếp vận bị không quân Bắc Việt Nam tấn công thiệt hại nặng, không hoạt động được, phải kéo về cảng Xu-bích của Phi-líp-pin để sửa chữa…”.



    [​IMG]
    Anh hùng Nguyễn Tường Long bên những kỷ vật thời trai trẻ.
    Tất cả những phi công, chiến sĩ của các tổ bay trên những chiếc IL-14 cải tiến đều đã anh dũng hy sinh. Khúc bi hùng ca mang tên “cầu hàng không Tết Mậu Thân” đã đi vào lịch sử. Kỳ tích “phẫu thuật” cải tiến máy bay IL-14 của Nguyễn Tường Long được xếp vào một trong những thành tựu đặc biệt quan trọng của ngành kỹ thuật quân sự Việt Nam trong chiến tranh. Lần đầu tiên trên thế giới, máy bay vận tải được cải tiến thành phi cơ chiến đấu đắc dụng. Sáng kiến ấy chưa hề có tiền lệ, chưa bao giờ được đề cập đến trong bất cứ một tài liệu kỹ thuật quân sự nào trên thế giới.

    Sau khi nghỉ hưu, ông được nhà nước cấp một căn hộ ở số 211A, đường Nguyễn Thái Bình, quận 1 và được Ban CHQS quận 1 nhận phụng dưỡng. Ông được phong tặng danh hiệu cao quý Anh hùng LLVT nhân dân năm 1995.


    - Ông ơi! Sao hồi trẻ ông không lấy vợ? – Tôi hỏi ông.


    Ông cười hiền:


    - Sau khi về Việt Nam, tui cũng có vài người bạn gái. Họ yêu thương tui thật lòng, nhưng rồi bận đi kháng chiến liên miên nên… cứ ở vậy.


    Rồi ông cho tôi xem những hình ảnh, kỷ niệm một thời trai trẻ của ông. Ấn tượng nhất là bức ảnh chụp một thiếu nữ xinh đẹp với nụ cười tươi đứng cạnh chiếc xe hơi. Phía sau bức ảnh là dòng chữ “Mến tặng anh yêu của em” với nét chữ mềm mại. Ông nâng niu bức ảnh rồi bảo:


    - Đây là cô Magueri He, em gái của một đồng chí cùng tổ quân giới với tui ở U Minh. Đồng chí này giới thiệu cổ (cô ấy) cho tui. Cổ học trường Pháp nên gọi tên theo tiếng Pháp. Cổ yêu tui thiệt tình. Tui cũng mến cổ, nhưng sau đó tui ra Bắc tập kết nên không còn liên lạc được nữa. Ngày chia tay, cổ tặng tui tấm hình này.


    Một kỷ niệm đẹp khác của Nguyễn Tường Long là thời kỳ ông được cử sang Trung Quốc học tại Trường Hàng không Thiên Tân (nay là Học viện Hàng không) từ năm 1957 đến năm 1960. Với vẻ điển trai, học giỏi, lại nói tiếng Pháp tốt nên Nguyễn Tường Long được thầy hiệu trưởng Vương Dũng coi như một học trò cưng. Vợ ông Vương Dũng là người Nga, biết tiếng Pháp nên mối quan hệ giữa chàng học viên người Việt với gia đình ông hiệu trưởng càng thân thiết. Vợ chồng ông Vương Dũng có hai cô con gái Vương Việt La và Vương Ca Li. Vương Việt La là giáo viên dạy thể thao tại trường. Cô rất thích trượt băng. Tường Long cũng là người ham mê môn thể thao này nên hai người thỉnh thoảng lại rủ nhau đi trượt băng. Và Vương Việt La đã phải lòng chàng trai Việt Nam từ lúc nào không hay. Một hôm ông Vương Dũng mời Tường Long về nhà riêng ăn cơm. Xong bữa, ông nhìn Tường Long hỏi một cách thân thiện:


    - Nếu tôi đồng ý cho Vương Việt La theo đồng chí về Hà Nội, đồng chí nghĩ sao?


    Tường Long đáp:


    - Thưa đồng chí hiệu trưởng! Tôi rất cảm động trước tình cảm của gia đình đồng chí dành cho, nhưng tôi đang đi học để trở về phụng sự Tổ quốc nên không dám nghĩ đến chuyện riêng tư lúc này. Mãi mãi Vương Việt La là người bạn tốt của tôi.


    Ngày Nguyễn Tường Long kết thúc khóa học chuẩn bị về nước, ông Vương Dũng đã đến gặp anh và trao cho anh một gói quà. Ông Vương Dũng bảo, đó là quà của Vương Việt La nhờ ông chuyển đến Nguyễn Tường Long. “Tôi nhận quà, cảm ơn ông Vương Dũng và đi mua ngay một cái khăn thật đẹp, gói ghém cẩn thận rồi nhờ ông Dũng chuyển cho cô Vương Việt La”. – Ông cười tươi nhắc lại kỷ niệm một thời…


    Ông có ý định sau ngày đất nước thống nhất sẽ tìm cách liên lạc với gia đình bên Pháp và sẽ ổn định hạnh phúc riêng tư. Nhưng rất nhiều lá thư ông gửi trong nhiều năm theo địa chỉ của gia đình ở thành phố Lion đều không có người nhận. Mong ước của ông là liên lạc được với cô em gái để từ đó biết thông tin về ba mẹ, nhưng tất cả đều bặt vô âm tín. Đó là những khoảng lặng trong hành trình cuộc đời ông.


    Gặp ông ít lâu, bài báo chưa kịp viết xong thì tôi hay tin ông ra đi sau một cú ngã định mệnh vào buổi chiều ngày 5-11-2008 tại nhà riêng, chấm dứt cuộc hành trình 85 mùa thu bi tráng của đời mình.



  3. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Chuyện về người anh hùng Nguyễn Văn Bang





    [​IMG]
    Cơ trưởng Nguyễn Văn Bang trước lúc xuất kích - Ảnh tư liệu gia đình


    TT - “Trước khi ra đi, anh Bang không hề biết rằng mình đã có một đứa con trai” - tiến sĩ Lê Thị Ngọt, vợ liệt sĩ Nguyễn Văn Bang, nghẹn ngào nói.

    Người đại đội trưởng phụ trách các phi đội tham gia chiến dịch “cầu hàng không” trong Tết Mậu Thân luôn giành hết những hiểm nguy, khó khăn về mình, nhưng chiến tranh luôn có những nghiệt ngã như thế.
    Tình đồng đội
    “Tôi nhớ như in hình ảnh anh Bang sôi nổi và quyết liệt ngay từ khi nhận nhiệm vụ đặc biệt. Trước ngày xuất kích, trời miền Bắc rét căm căm. Thấy tôi đút tay túi quần vì lạnh, anh Bang hỏi: Thọ có lạnh không, lấy khăn dù của tớ quấn cổ cho ấm! Tôi từ chối.
    Cho đến giờ tôi vẫn ân hận vì giá như lúc đó tôi nhận tấm khăn dù của anh Bang trao thì tôi vẫn còn giữ được hơi ấm của người đại đội trưởng quí mến, giản dị, chân tình, vô cùng thương yêu chiến sĩ của mình”. Người sĩ quan dẫn đường Trần Hữu Thọ năm xưa vẫn còn nhớ như in lúc đó là 16 giờ ngày 7-2-1968, trước khi xuất kích.
    Còn với thiếu tướng Phan Khắc Hy: “Bang là một người bình tĩnh, chững chạc, thương anh em cấp dưới như ruột thịt”. Trong những đoạn tài liệu mà ông chỉ đạo viết về sự kiện này có ghi rất rõ về đại đội trưởng Nguyễn Văn Bang: “Quây quần quanh chiếc đài bán dẫn, đại đội trưởng Nguyễn Văn Bang và các chiến sĩ trong đại đội của anh lắng nghe không bỏ sót một chữ trong bản tin thời sự.
    Bang đặc biệt chú ý tới chiến sự ở Trị Thiên, Huế. Theo dự cảm của người lính, nơi đây có thể là địa bàn chiến đấu sắp tới của các anh. Bang hình dung những trận đánh quyết liệt và mịt mù khói lửa ở Phú Bài, Tây Lộc, Nam Giao… Bang hiểu rằng việc sử dụng không quân sẽ được cấp trên tính toán cân nhắc như một tình huống quan trọng của toàn bộ trận đánh”.
    Với anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Tường Long, đó là những câu chuyện không thể quên về một người bạn tri kỷ. “Bang là dân gốc Bắc nhưng từ Sài Gòn ra tập kết, tôi là dân miền Nam nên hai đứa thương nhau lắm. Bang thích kỹ thuật và say mê tham gia những thử nghiệm cải tiến máy bay IL 14 với tôi. Tôi có kinh nghiệm kỹ thuật, còn Bang dày dạn kinh nghiệm thực tiễn nhất trong đại đội.
    Khi tôi muốn thử nghiệm một cải tiến nào đó đều phải hỏi hoặc bay thử nghiệm với Bang. Có một sự kiện đặc biệt mà ai cũng nhớ: đại đội trưởng Bang dám mang bom quay trở lại sân bay sau chuyến bay đầu tiên đêm 7-2-1968. Trước khi đi, Bang thông báo mật với tôi: Nếu đánh không được, tôi mang bom về để vừa đỡ phí, vừa đánh tan dư luận về việc cải tiến của mình”.
    Bức ảnh ghép của gia đình người lính

    [​IMG]
    Tiến sĩ Lê Thị Ngọt - Ảnh: T.H.


    38 năm sau, tiến sĩ Lê Thị Ngọt (nguyên phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước VN) lục tìm đưa ra một bức ảnh đen trắng chụp cả gia đình bà: hai vợ chồng và ở giữa là đứa con trai bụ bẫm. Đó là tấm ảnh được ghép cảnh hai vợ chồng vào bức ảnh người con theo ước nguyện của người đã khuất. Bởi cho đến tận giờ ra máy bay xuất kích trong đêm định mệnh 12-2-1968, cơ trưởng Nguyễn Văn Bang vẫn không hề biết được niềm hạnh phúc lớn nhất của đời mình: một bào thai đang hình thành trong cơ thể người vợ trẻ.
    Đứa con ấy chào đời sau khi đơn vị đã làm xong thủ tục báo tử cho gia đình. Đứa bé mang tên Quốc Khánh, bây giờ tròn 38 tuổi, hiện là chuyên viên Ủy ban Chứng khoán nhà nước tại TP.HCM.
    Ông và bà đều là dân tập kết. Ông vốn quê gốc ở Hà Tây, có cha làm cai cho Pháp nhưng lại tham gia hoạt động cách mạng, bị địch phát hiện và thoát ly lên chiến khu; còn người mẹ mang các con mình vào Nam lánh nạn.
    Ông theo người cậu đi làm giao liên từ năm 10 tuổi, rồi tập kết ra Bắc, hai người gặp và cưới nhau vào tháng 7-1967, năm đó ông 32 tuổi, bà 27. Bà được cơ quan cử ra nước ngoài học, còn ông chỉ ao ước: “Em ráng kiếm một đứa con trai rồi đi học cũng chưa muộn!”.
    Cưới nhau trong chiến tranh, cả năm đó họ chỉ được gặp nhau vào dịp lễ Quốc khánh, ông đã dặn bà: nếu có con trai hay gái thì cũng đặt tên là Quốc Khánh cho có ý nghĩa. Đến mồng 4 Tết Mậu Thân, bà từ Hưng Yên trên đường về Hà Nội ghé đơn vị thăm ông.
    Đó là những ngày ông đang tập xuất kích liên tục, từ 7 giờ sáng tới tối mịt mới trở về doanh trại. Bà chờ ông từ sáng tới chiều ở chiêu đãi sở mới gặp. Linh tính về nhiệm vụ đặc biệt mà mình sắp thực hiện, ông Bang thay đổi ý định: “Anh phải đi làm nhiệm vụ đặc biệt, em không nên mang thai. Chuyện có con mình để sau này tính!”.
    Đó là lần cuối cùng họ gặp nhau. Bà về và sau ngày 12-2-1968 đột nhiên vắng bặt những lá thư của ông - một tín hiệu bất thường so với thói quen viết thư liên tục của ông. Bà chờ trong cảm giác nôn nao.
    Đến tuần thứ tư, không thể chịu được sự bặt tin chồng, bà lên chiêu đãi sở, những phi công cùng đơn vị ra báo tin: “Thủ trưởng đang đi chuyên cơ đặc biệt sang Paris. Nhiệm vụ khá đặc biệt nên không liên lạc thư từ được. Chị về đi”. Bà càng hoang mang hơn và bất chợt ôm bụng, đứa con đang lớn dần trong âu lo của người mẹ.
    Ngày 20-7-1968, khi cơ quan chuẩn bị đi sơ tán và mọi việc không thể giấu bà mãi, ban giám đốc ngân hàng gọi bà lên làm việc. Bà giật nảy mình khi thấy có cả đại diện đơn vị chồng mình. Báo tử! Bà ôm lấy bào thai và lặng người trong cú sốc. Ông ra đi mà không hề biết rằng đã để lại một giọt máu cho bà: đứa con trai mang tên Quốc Khánh.
    Tiến sĩ Lê Thị Ngọt nhớ lại sau ngày chồng hi sinh, gia đình chưa biết tin thì có Đinh Tôn - một phi công giỏi, người bạn thân nhất của chồng - về thăm gia đình. Đinh Tôn trầm ngâm giây phút rồi nói: “Bang đi nhận máy bay chuyển loại ở Trung Quốc rồi, mấy bữa nữa tôi cũng đi gặp Bang đây!”.
    Không ai trong gia đình biết đó là một lời thề quyết tử của Đinh Tôn nhằm trả thù cho bạn mình. Chỉ một tuần sau đó, anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Đinh Tôn đã xuất kích không chiến và bắn rơi bốn chiếc máy bay Mỹ .
    NGUYỄN VĂN TIẾN HÙNG

    [​IMG]
    Bức ảnh vợ chồng cơ trưởng Nguyễn Văn Bang cùng con trai Quốc Khánh được vợ ông ghép - Ảnh tư liệu gia đình


    Nhiều đồng đội còn sống của Nguyễn Văn Bang đều không vui khi biết ông chưa được truy tặng danh hiệu anh hùng, dù nghe nói đơn vị đã mấy lần làm hồ sơ đề xuất.

    Trong hồi ức của mình, thiếu tướng Phan Khắc Hy đã gọi ông Bang và những phi công hi sinh trong chiến dịch “cầu hàng không” là “những anh hùng”. “Năm tháng trôi qua, nhưng gương mặt của những người anh hùng trong bốn tổ bay vẫn không phai mờ trong ký ức những chiến sĩ không quân vận tải.
    Bang hồn hậu, sôi nổi, táo bạo; Ba trầm tĩnh, chín chắn, quả cảm; Kế kiên nghị, trung thực, mưu trí; Trung cởi mở, xông xáo, tự tin; Châu thông minh, tháo vát… Họ toát lên vẻ đẹp của tinh thần vô giá quên mình, xả thân vì nghĩa lớn”, thiếu tướng Phan Khắc Hy nhớ lại, và tâm tư: “Chưa phong anh hùng cho những người lính như Bang và những phi công hi sinh trong chiến dịch đó là một thiếu sót”.
  4. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Tài lệu Quân sử Mỹ có dựa theo tài liệu của Việt nam viết lại về IL-14 lập cầu hàng không nhưng không đề cập đến việc đánh tàu Mỹ. Họ chỉ ghi là không nhìn thấy mục tiêu để ném bom nên các máy bay ném bom mang bom ra biển vất bỏ.

    Do đó chuyện bác Long kể có thể chỉ là huyền thọai


    "Unknown to the allies, the Communists tried to use their own air power su pport the attack

    on Hue. On 7 February, the North Vietnamese sent four Soviet-made IL−14 medium-transport
    aircraft racing toward Hue from an airfield near Hanoi. The air crews had not been informed,
    however, that flying weather over Thua Thien Province was terrible. Two of the aircraft carrying
    explosives, antitank ammunition, and field telephone cables managed to find an opening in the
    cloud layer about ten kilometers north of Hue. They dropped their cargoes in a large lagoon for
    local forces to retrieve. One of the aircraft returned safely; but the other, flying through dense fog,
    crashed into a mountain, losing all on board. Meanwhile, the other two IL−14s, which had been
    modified to drop bombs, had orders to bomb General Truong’s headquarters. Neither flight crew
    could find the city in the fog, however, and both aircraft returned to North Vietnam without dropping
    their bombs. They tried again five days later, but once again, bad weather prevented them
    from locating the Mang Ca compound. The two aircraft radioed that they were scrubbing the mission,
    then headed out to sea to jettison their bombs. A short time later, their transmissions went
    dead and they were never heard from again."

    http://www.history.army.mil/html/books/vietnam/tet_battles/tet.pdf
  5. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Những phi công cảm tử trong chiến dịch Mậu Thân (kỳ 1)
    9:30, 12/03/2008





    Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân năm 1968, nhằm chi viện cho chiến trường, Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân đã tổ chức một số chuyến bay tiếp tế lương thực, vũ khí vào Trị Thiên - Huế.
    Từ bức thư của một cựu chiến binh
    Thực hiện nhiệm vụ này đối với các tổ bay quả là rất nguy hiểm, phải bay trong vùng kiểm soát của địch ở độ cao thấp để tránh rađa phát hiện nên rất dễ xảy ra tai nạn như va vào núi hay gặp phải hỏa lực phòng không, nhưng anh em các tổ bay vẫn quyết tâm thực hiện nhiệm vụ, họ coi những chuyến bay đó như những chuyến bay cảm tử. Và cuối cùng thì 4 chuyến bay cùng 32 chiến sĩ đã ra đi mà không trở về... Nhưng trong lòng người thân và đồng đội họ vẫn sống.
    Một ngày đầu tháng 6/2005, Quân chủng Phòng không - Không quân nhận được một bức thư gửi đồng chí Tư lệnh. Bức thư của ông Lại Văn Vượng ở 91 - Mê Linh, quận Lê Chân (TP Hải Phòng). Ông Vượng nguyên là chiến sĩ Sư đoàn 324 - đã có thời gian dài tham gia chiến đấu ở tây Thừa Thiên - Huế. Ông Vượng cho biết, trong chuyến về thăm lại chiến trường xưa hồi tháng 5/2005 ở vùng A Lưới (một huyện miền núi của tỉnh Thừa Thiên - Huế sát biên giới Việt - Lào) ông đã tình cờ biết được câu chuyện về một chiếc máy bay rất có khả năng là của ta bị rơi trên khu rừng gần xã Hồng Thượng. Theo bà con dân tộc Pa Kô kể lại thì thời điểm máy bay rơi khoảng năm 1965-1966 gì đó, thi thể tổ bay thu lượm được đã được một số đồng bào dân tộc chôn cất trên khu rừng đó.
    Ông Vượng cũng cho biết, hiện nay tại nhà của ông Nguyễn Xuân Toàn ở xã Hồng Thượng, huyện A Lưới còn giữ được một số hiện vật của chiếc máy bay nói trên. Riêng mấy ngôi mộ thì mấy chục năm qua vẫn yên vị ở chỗ cũ giữa khu rừng hoang lạnh, chẳng thấy ai đến thăm hỏi, cũng không đoàn quy tập nào đến tìm và bốc đi.
    Ông Vượng còn cẩn thận chụp một số ảnh bằng chiếc máy tự động của mình, khi trở về ông đã làm ảnh và gửi 5 bức ảnh kèm theo lá thư để thêm căn cứ, trong đó có bức ảnh ông Toàn đứng bên mảnh cánh máy bay tại nhà. Ông Vượng cho rằng, rất có thể đây là máy bay của ta bị gặp nạn trong chiến tranh mà chưa ai biết.
    [​IMG]
    Tổ bay của phi công Phạm Kế trước lúc lên đường làm nhiệm vụ
    Ông viết bức thư trên với hy vọng những thông tin ấy sẽ giúp cho Quân chủng Phòng không - Không quân xác minh và nếu đúng thì có thể sẽ tìm ra được tên tuổi tổ bay và đưa các anh về quê hương.
    Năm 1968, sau khi sự việc 4 tổ bay không trở về, Quân chủng Phòng không - Không quân đã gửi công văn đi khắp các đơn vị, tỉnh, thành đề nghị phối hợp tìm kiếm và thông báo giúp, mong tìm ra tung tích những chiếc máy bay mất tích nhưng sự việc vẫn rơi vào im lặng, không có hồi âm.
    Việc phi công chiến đấu gặp nạn trong chiến tranh không tìm thấy thi thể vẫn thường xảy ra, nhưng trong sự việc này thì quá đặc biệt, trong vòng 5 ngày cả 4 chiếc máy bay mất tích gồm 32 con người và gần chục tấn hàng mà không để lại một dấu vết gì thì quả là hy hữu. Các đồng chí tham gia các tổ bay đã được công nhận là liệt sĩ nhưng chẳng hề biết đích xác hy sinh ở đâu, một mẩu xương để cho người thân, đồng đội an lòng cũng là vô vọng. Gần 40 năm nay, người thân của các liệt sĩ vẫn sống trong niềm khắc khoải.
    Sau khi nhận được bức thư trên, Quân chủng Phòng không - Không quân đã tổ chức kiểm tra hồ sơ lưu, lần lại lịch sử và nhận định, nếu đúng như thông tin cung cấp thì rất có khả năng đó chính là 1 trong 4 tổ bay IL-14 mất tích vào tháng 2/1968.
    Ngay sau đó, Quân chủng Phòng không - Không quân đã thông báo và phối hợp cùng Đoàn bay 919 - là đơn vị chủ quản của tổ bay mất tích năm 1968, nay thuộc Tổng Công ty Hàng không Việt Nam để đi vào A Lưới xác minh sự việc. Sau hai lần đi lại, tìm đến địa điểm máy bay rơi và khu rừng anh em đã được chôn cất cũng như làm việc với cơ quan chức năng địa phương, ngày 11/7/2005, đoàn công tác đặc biệt của Quân chủng Phòng không - Không quân và Đoàn bay 919 đã lên đường vào Thừa Thiên - Huế để tiến hành tìm kiếm một số hiện vật và đưa hài cốt các liệt sĩ về an táng. Đoàn công tác gồm có ông Lê Xuân Đức - nguyên là một phi công cảm tử ngày ấy đã may mắn trở về; anh Lương Hữu Thuận, nguyên là kỹ thuật viên của loại máy bay IL-14, 2 cán bộ chính sách của Đoàn 919; anh Hùng - trợ lý chính sách của Quân chủng Phòng không - Không quân và tôi.
    * * *
    Huyện đội A Lưới nằm ngay ven đường Hồ Chí Minh mới. Nhờ sự giúp đỡ của Bộ chỉ huy quân sự huyện, chúng tôi tiếp tục xuống xã Hồng Thượng và xã Phú Vinh nhờ giúp đỡ. Tại địa bàn, những người dân trực tiếp tham gia mai táng tổ bay năm 1968 hầu hết đều đã mất. Theo chỉ dẫn trong bức thư của ông Lại Văn Vượng gửi đến Quân chủng Phòng không - Không quân, chúng tôi tìm đến nhà ông Nguyễn Xuân Toàn. Rất may, từ đây đã tìm ra manh mối.
    Đó là một gia đình dân tộc Pa Kô, dù có tham gia công tác xã thời gian dài nhưng giọng nói của ông và những người trong gia đình vẫn là thổ ngữ, ngọng nghịu rất khó khăn cho chúng tôi trong việc tiếp cận và tìm hiểu sự việc. Theo Toàn nói: “Lúc đó khoảng 7 giờ tối, tôi thấy một chiếc máy bay bay từ hướng thành phố Huế lên, một lúc sau một tiếng nổ rất lớn vang lên trong cánh rừng, sau đó những mảnh xác máy bay bắn tung tóe văng ra tận nơi gia đình tôi ở”.
    Nhà ông Toàn khi đó sơ tán vào rừng, ở ngay gần nơi xảy ra sự việc. Sau đó, ông cùng với một số người trong làng đã tìm đến hiện trường thấy mảnh xác máy bay văng mỗi nơi một ít, một số vũ khí như súng K54, AK và nhiều nhất là lựu đạn còn nguyên cả hòm. Sáng hôm sau, mọi người bảo nhau tìm kiếm thì thấy một số bộ phận cơ thể phi công rơi rải rác chẳng biết mấy người, ruột gan và tóc mắc cả trên cây rừng, ông Toàn phải trèo lên gỡ xuống. Ông còn nhớ một mảng tóc có màu hung và hơi dài.
    Sau đó, ông Toàn cùng với một người tên là Bo Hiêng và một số người khác đã tổ chức mai táng những gì tìm thấy. Trên mảnh cánh dài gần 3 mét, rộng gần 1 mét tại gia đình ông Toàn, anh Lương Hữu Thuận tìm được tất cả 13 vết đạn. Mảnh cánh này đã được ông Toàn lấy về, những năm trước nó được dùng làm giường ngủ. Sau này nó được dùng làm bàn, đứng trên 4 chiếc chân gỗ kê bên gốc cây gần bếp, gia đình ông vẫn dùng để... băm rau lợn. Trong nhà cũng còn một số hiện vật nữa của máy bay như tủ thuốc quân y trang bị trên máy bay vẫn còn màu đỏ của chữ thập sơn trên nắp hộp, một chiếc thùng đựng bình ắcquy được gia đình ông sử dụng đựng quần áo nhưng đã cho cô con gái làm “của hồi môn” khi đi lấy chồng ở xã bên...
    Tuy nhiên, chỉ căn cứ vào các hiện vật thì việc xác định đây là tổ bay nào trong 4 tổ bay cảm tử không trở về là rất khó, bởi các nhân chứng không nhớ ngày, tháng diễn ra sự việc. Ông Lê Xuân Đức, trưởng đoàn tìm kiếm cho rằng, căn cứ vào lời kể và một số hiện vật tìm được thì rất có thể đây là chiếc máy bay IL-14, mang số hiệu 506 do phi công Phạm Kế lái chính, xuất kích lúc 17 giờ ngày 7/2/1968 bởi trong tổ bay này có anh Nguyễn Văn Tê đầu bị hói nên anh thường để tóc dài rồi vuốt lên che phần hói đi nên khá khớp với lời kể của ông Toàn rằng có một mảng đầu tóc dài màu hung, còn việc màu tóc thì thực tế cho thấy trong những vụ tai nạn máy bay, tóc phi công và tổ lái bị đổi màu là chuyện thường, có vụ phi công tóc đen nhánh nhưng khi thu hồi thi hài, nhiều mảng đã trở nên bạc trắng. Tuy nhiên đó cũng chỉ là dự đoán. Kết thúc buổi tiếp xúc với gia đình ông Toàn, chúng tôi đặt vấn đề nhờ ông Toàn cùng một số thanh niên địa phương ngày hôm sau đưa vào nơi máy bay rơi.
    Sáng hôm sau, chúng tôi có mặt tại điểm tập kết trên đường Hồ Chí Minh thuộc xã Phú Vinh. Những thanh niên địa phương cũng có mặt. Lên đường. Chúng tôi lội qua rất nhiều con suối, len lách trong cây rừng, dù đã cẩn thận bôi thuốc chống côn trùng nhưng đi một đoạn, tôi vén chân lên thì đã thấy một vài chú vắt đang bám riết lấy bắp chân hút máu.
    Các thanh niên địa phương đi trước, chặt cây rừng mở đường, họ có mang theo các dụng cụ để tìm kiếm hài cốt. Hai tiếng cuốc bộ đường rừng, khi bàn chân tôi gần như không muốn bước nữa thì cũng là lúc đến nơi. Địa điểm máy bay rơi là một sườn núi cao, độ dốc lớn nên các bộ phận của máy bay cũng phân tán rất rộng: dưới khe suối là nơi “dừng chân” của phần động cơ, đạn cối; rải rác từ trên đỉnh xuống khe suối là các mảnh dù để thả hàng nay vẫn chưa bị phân hủy; bên những hốc đá và trên một số chạc cây rừng, vẫn còn mắc những mảnh dù thả hàng; rải rác đây đó là những mảnh nhựa có chữ tiếng Nga, một quả lựu đạn chày còn sót lại.
    Chiếc lốp máy bay thì đồng bào dân tộc đã cắt về làm dép cao su hết, chỉ còn một ít cao su sát vành sắt lủng liểng. Qua những gì còn lại tại hiện trường, ông Đức khẳng định đây chính là tổ bay của phi công Phạm Kế, vì xung quanh khu vực máy bay rơi còn nhiều mảng dù lớn để thả hàng nằm rải rác nay vẫn chưa bị phân hủy (tổ của anh Kế có nhiệm vụ thả dù hàng hóa, vũ khí nên cần rất nhiều dù). Sâu dưới lòng khe suối là hai chiếc “huyệt” còn mới do những người tìm phế liệu đào lấy động cơ để bán còn để lại miệng hố rộng hoác.
    Nguyễn Văn Hải, một thanh niên dân tộc PaKô thuộc xã Phú Vinh là người được chúng tôi nhờ tham gia đoàn tìm kiếm kể, tháng trước chính anh đã đào chiếc tuốcbin này cùng với mấy chục quả đạn, tất cả được hơn 2 tạ đi bán cho hàng đồng nát được hơn 200 ngàn đồng. Bà con dân tộc địa phương thì nhặt nhạnh, đào bới những phần có thể lấy đi được; còn lại những mảng lớn, gần đây một số người dân ở nơi khác đem cưa nhỏ mang đi, đến nay thì những bộ phận lớn của máy bay bằng sắt thép đã bị “thanh toán” sạch.
    Nhìn trước ngó sau một hồi, định vị lại địa hình theo trí nhớ, ông Nguyễn Xuân Toàn đã dẫn đoàn công tác đến vị trí mai táng. Chỉ một bãi đất trống, không có cây cổ thụ mà chỉ có những cây dại lúp xúp, ông gật đầu ra hiệu. Hai cán bộ của Đoàn 919 lụi cụi phát cây, tạo ra một khoảng trống, trải ra mảnh nilon màu xanh. Một chiếc thùng các-tông được úp ngược và trải giấy lên làm bàn, hoa quả, đồ lễ được bày ra.
    Ông Lê Xuân Đức thắp hương và quỳ lạy: “Kính thưa linh hồn các anh trong tổ bay cảm tử xuân Mậu Thân, tôi là Lê Xuân Đức, là đồng đội của các anh đây. 40 năm qua, chúng tôi và đơn vị đã tìm kiếm các anh mà vẫn bặt vô âm tín, nay nhờ bà con chỉ giúp mới tìm được đến đây, mong các anh xá tội. Các anh sống khôn chết thiêng, cho chúng tôi gặp mặt, để đưa các anh trở về với gia đình, với đồng đội và quê hương...”. Sau khi làm các thủ tục về tâm linh, đoàn tiến hành đào, khoảng 20 phút sau thì tìm được một bọc nilon gói tròn nằm sâu cách mặt đất khoảng 70 cm.
    Ông Toàn xác nhận đây chính là bọc mà ông cùng với những người dân chôn cất khi xưa. Tuy nhiên, khi mở bọc ra thì chỉ còn lại một số mảnh dù và đất đen, còn lại mọi thứ đã tiêu tan hết. Dưới những nhát cuốc khi thì hiện ra một chiếc tai nghe của phi công, khi thì một mảnh nhỏ bộ phận nào đó của máy bay có những hàng chữ tiếng Nga, khi thì một hộp dầu gió... Mười lăm phút sau đó, dưới nhát cuốc của một thanh niên, lại lộ ra một bọc nữa. Mọi người hồi hộp xúm lại, đất được bới nhẹ nhàng xung quanh, bọc nilon dần lộ ra. Ông Đức tay run run đỡ chiếc bọc màu xanh đưa lên mặt đất.
    Chiếc bọc được thận trọng cắt dây buộc và nilon đã đông cứng, từng lớp, từng lớp được mở ra. Tất cả bao trùm một sự yên lặng. Tôi cảm giác từng chiếc lá cây rừng Trường Sơn cũng bất động. Không một làn gió, chỉ có tiếng sột soạt của nilon được gỡ tiếp. Mọi người trong Đoàn gần như chết lặng khi bất ngờ hiện ra hai dải xương dài chừng gang tay khi mà mọi thứ đã gần như không còn hy vọng. Đó là hai đoạn xương cánh tay.
    Đoàn tìm kiếm cùng với thanh niên địa phương tiếp tục đào bới, nhưng không mang lại kết quả gì, ông Toàn cũng khẳng định đã hết. Như vậy là hài cốt toàn bộ tổ bay 8 người gom lại chỉ được bấy nhiêu. Hai dải xương cùng tất cả các hiện vật tìm thấy được chia làm 8 phần, cả những mảnh nilon và dù bay... 8 phần hài cốt tượng trưng được bọc vải đỏ, xếp thành hàng ngang. Ông Đức thắp một bó hương to cắm lên khói hương nghi ngút, những dải khói xanh uốn lượn len lách giữa màu xanh cây lá.
    Cả đoàn công tác cùng đứng nghiêm cúi đầu mặc niệm. Ông Đức khấn cảm tạ các liệt sĩ. Đúng lúc đó, nắm hương cắm trước 8 phần thi hài bỗng bùng cháy... Trời Trường Sơn bừng nắng, những giọt nắng lọt qua tán cây chiếu trên 8 bọc vải đỏ ngay ngắn trước khói hương.
    Khi trở về A Lưới, theo chỉ dẫn của Hải, chúng tôi tìm đến một điểm thu mua phế liệu nằm trên địa bàn trị trấn, quả nhiên đã thấy một số bộ phận của máy bay. Ông Lê Xuân Đức nhận ra một phần động cơ và bộ điều tốc của máy bay IL-14 nằm lẫn trong đám sắt vụn đủ chủng loại. Chủ hàng cho biết đã mua những hiện vật trên với giá 700 đồng 1 kg, nếu cần mua lại thì... giá 3.000/kg. Ông Đức đang đứng từ từ ngồi xuống, tần ngần mân mê những lá tuốcbin của động cơ. Tôi nhìn đống phế liệu là những bộ phận chiếc IL-14 của tổ bay cảm tử, nhìn ông Đức, cảm thấy xúc động dâng trào.
    (Còn tiếp)[​IMG]




  6. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Những phi công cảm tử trong chiến dịch Mậu Thân (kỳ 2)
    10:30, 12/03/2008

    [​IMG]
    Lễ truy điệu tổ bay cảm tử xuân mậu thân 1968 tại đoàn 919.


    Tối hôm đó, các ông đã đốt một đống lửa to, mãi không thấy máy bay đến nên lại dập đi, rồi lại đốt, rồi lại dập, tất cả đến 3 lần mà chẳng thấy máy bay đâu, đến 11 giờ đêm thì mọi người nản quá không đốt nữa.
    Trong ký ức đồng đội và người thân
    Chúng tôi đã tìm gặp một số cựu chiến binh không quân của các tổ bay IL-14 tham gia chiến đấu trong chiến dịch Mậu Thân. Ông Lê Ngọc Chuyền, nguyên là cơ giới trên không của tổ bay xuất kích lúc 16 giờ 50 phút, ngày 7/2/1968 (trước tổ của phi công Phạm Kế 10 phút) cho biết: Ngày 7/2 có tất cả 6 chiếc IL-14 xuất kích, trong đó 3 chiếc mang vũ khí có nhiệm vụ hạ đồn Mang Cá ở Huế, còn 3 chiếc mang hàng tiếp tế cho chiến trường.
    Tổ của ông Chuyền nằm trong nhóm đi hạ đồn Mang Cá do phi công Hoàng Liên lái chính. Theo kế hoạch, những chiếc IL-14 bay dọc biên giới Việt Lào, đến sông Sê-pôn thì thọc xuống biển rồi vòng vào Huế hạ thấp độ cao. Vì thời tiết xấu, nhóm đánh đồn Mang Cá không tìm thấy mục tiêu, 2 trong 3 chiếc đã bay trở ra cửa biển Cửa Việt (Quảng Trị) và bắn chìm 1 tàu chiến của địch, bắn 2 tàu khác bị thương rồi về sân bay Gia Lâm hạ cánh an toàn; còn chiếc của ông Chuyền trên đường quay về thì bị bắn thủng thùng xăng, phải hạ cánh bắt buộc xuống sân bay Sao Vàng (Thanh Hóa).
    Ông Nguyễn Bình Sen, nguyên là cơ giới trên không và ông Nguyễn Văn Sửu, nguyên là lái phụ của một trong nhóm 3 chiếc có nhiệm vụ thả hàng (cùng tổ của phi công Phạm Kế) thì nhớ lại: Tổ của các ông do phi công Võ Minh Chung lái chính, khi vào Quảng Trị, đến địa điểm giao ước đã nhận thấy 3 đống lửa ám hiệu của quân ta và tiến hành thả hàng và vũ khí.
    Thả xong, tổ bay của các ông còn liên lạc với tổ của phi công Phạm Kế một lần, khi tổ của Phạm Kế phát mật khẩu “bán hàng chưa” ông đã trả lời “bán rồi”. Sau đó chỉ có tổ của các ông trở về sân bay Gia Lâm, lần liên lạc là lần cuối cùng giữa ông và những người đồng đội trong tổ bay.
    Sáng hôm sau các ông biết tin Đoàn 559 điện ra thông báo đã nhận được hàng do chiếc máy bay của ông thả, còn 2 chiếc cùng nhóm được biết một chiếc về đến Đô Lương (Nghệ An) thì bị Hạm đội 7 của Mỹ bắn và rơi trên đất Lào, còn một chiếc không thấy trở về và cũng không có tin tức gì. Những ngày sau đó các tổ bay IL-14 tiếp tục cất cánh vào Trị Thiên - Huế. Kết thúc chiến dịch Mậu Thân, tất cả có 4 chiếc IL-14 không trở về và cũng không có tin tức gì cho đến nay.
    Tại lễ truy điệu các liệt sĩ được tổ chức tại Đoàn bay 919, ông Phạm Đình Đạt, nguyên là diễn viên múa Đoàn văn công Quân khu Trị Thiên - Huế, nay sống tại phường Nhân Chính (Hà Nội) cho chúng tôi biết, trong một đợt đi biểu diễn phục vụ mặt trận phía bắc Huế trong chiến dịch Mậu Thân, chính ông và 2 người nữa cũng được giao nhiệm vụ đốt lửa làm hiệu để máy bay thả hàng.
    Tối hôm đó, các ông đã đốt một đống lửa to, mãi không thấy máy bay đến nên lại dập đi, rồi lại đốt, rồi lại dập, tất cả đến 3 lần mà chẳng thấy máy bay đâu, đến 11 giờ đêm thì mọi người nản quá không đốt nữa.
    Ông Nguyễn Văn Sửu hiện ở ngõ 117, đường Nguyễn Sơn là người khá thân với phi công Phạm Kế, lái chính của tổ bay vừa được tìm thấy tại A Lưới. Ông kể: "Tôi và anh Phạm Kế cùng học ở Trường văn hóa Lạng Sơn về đơn vị cách nhau vài tháng. Ngày đó, chúng tôi được cán bộ Bộ Tổng tham mưu trực tiếp xuống giao nhiệm vụ. Sáu tổ bay được thành lập và tổ chức huấn luyện. Chúng tôi sơ tán về thôn Quán Khê, xã Dương Quang, cách sân bay Gia Lâm hơn 10km. Ở đó chúng tôi được học chính trị, học sơ đồ đường bay, tính toán trên bản đồ... Sau đó là tập bay đêm, một số đồng đội đã được bố trí đốt lửa làm địa tiêu để phi công bay tập nhận biết, tập thả hàng. Địa bàn huấn luyện và đốt lửa chủ yếu ở vùng tây bắc. Sau này chúng tôi mới biết tập để vào Trị Thiên thả hàng sẽ hiệp đồng đốt lửa như vậy.
    Đến tháng 2/1968 thì Tư lệnh Phùng Thế Tài cho gọi chúng tôi về sân bay Gia Lâm. Từng tổ được giao nhiệm vụ riêng. Chúng tôi hiểu rằng đây là nhiệm vụ hết sức đặc biệt và quan trọng. Các máy bay tham gia phải xóa hết Quốc kỳ, số hiệu; tổ bay phải bỏ lại mọi thứ tư trang hành lý, nhất là các giấy tờ tùy thân, mỗi người được phát một bộ quần áo Quân giải phóng để mặc. Các việc làm trên nhằm mục đích dù thế nào cũng không để lộ là quân từ Bắc vào. Trước khi xuất kích, các tổ bay đều được chụp ảnh kỷ niệm.
    Mọi người đều xác định tốt nhiệm vụ nên coi những chuyến đi ấy rất nhẹ nhàng. Trong đơn vị ai cũng xác định tư tưởng là vậy nhưng khi các tổ bay không trở về cả đơn vị buồn bã, mọi người nhìn nhau không nói được câu nào, cả nhà ăn vắng hoe. Chị nuôi quân nấu một nồi quân dụng cháo gà to ngồi chờ mãi nhưng chẳng ai trở về, chẳng ai đến ăn...". Ngày ấy ông Sửu cùng với phi công Phạm Kế ở cùng một phòng trong nhà trọ của ông Bảy ở thôn Quán Khê. Anh Kế là người hiền lành, trầm tính nhưng hay đùa, dí dỏm. Khi đó, anh đã có vợ và con.
    Chúng tôi đến thăm gia đình của liệt sĩ phi công Phạm Kế. Hiện nay vợ và 3 người con của ông vẫn sống ở Gia Lâm, cách Đoàn bay 919 không xa. Bà Hạnh, vợ của liệt sĩ, năm nay đã ở tuổi 70, dáng người khắc khổ lam lũ, đôi mắt đục mờ, nghẹn ngào kể: “Tôi và ông ấy tuy có với nhau 3 mặt con nhưng sống bên nhau chả được mấy ngày, vợ chồng còn chưa thuộc hết tính nết của nhau thì ông ấy đã hy sinh”.
    Quê ông bà ở xã Trung Lương, Đức Thọ (Hà Tĩnh). Ông sinh năm 1934, là con cả trong gia đình nông dân. Năm 1953, ông tình nguyện đi bộ đội, đơn vị đóng bên cầu Hiền Lương (Quảng Trị). Đến năm 1956 thì ông nghỉ phép về cưới bà, cưới nhau được 4 ngày thì ông trở lại đơn vị, khi ấy bà mới 20 tuổi. Sau đó ông chuyển ra một đơn vị pháo binh đóng quân ở Nghệ An, điều kiện gặp mặt giữa hai vợ chồng càng thưa thớt hơn.
    Năm 1957, ông được quân đội cho đi học văn hóa ở Lạng Sơn, rồi học lái máy bay và về công tác tại Đoàn bay 919. Năm 1962, bà lại ra Hà Nội ở nhờ nhà người anh trai để được gần chồng. Kết quả chuyến đi ấy là bà đã mang thai và sinh đứa con đầu. Cũng muốn ở lại Hà Nội cho vợ chồng con cái gần gũi nhưng ở quê còn mẹ chồng, cụ lại rất mong cháu nên bà đã bế con về quê ở. Năm 1965, lần đầu tiên ông được về quê ăn tết với gia đình, cũng dịp ấy bà có mang đứa con thứ hai. Đến năm 1966 thì bà chuyển ra Hà Nội để vợ chồng đoàn tụ, đứa con lớn để ở quê với bà nội. Mang tiếng là gần nhau thật nhưng do nhiệm vụ thời chiến căng thẳng, những người lính Không quân ngày đêm phải trực chiến và thực hiện các nhiệm vụ đặc biệt nên chồng bà cũng chẳng được đảo qua nhà mấy khi. Ra Hà Nội, bà xin vào làm công nhân tại Nông trường bò An Khánh gần sân bay Gia Lâm, mấy mẹ con mượn tạm gian nhà kho trải chiếu ra nền nhà ở tạm. Hôm nào ông về, người bảo vệ nông trường ở gần đó lại thương tình đi chỗ khác ngủ, nhường cho vợ chồng bà mượn tạm căn phòng cùng chiếc giường của mình. Những ngày trước tết Mậu Thân năm 1968 là những ngày vui vẻ của gia đình. Ông nói với bà, năm nay mà được nghỉ thì mùng 4 tết sẽ về để ăn tết với mấy mẹ con cho gia đình sum họp. Thế rồi, nhiệm vụ quá căng thẳng cứ cuốn đi, ông không tạt qua nhà được dù chỉ một lát. Cái tết lặng lẽ trôi qua.
    Năm ấy địch đánh nhiều, mẹ con bà phải sơ tán đến ở trong một chiếc lò gạch cũ ở Làng Nha. Một buổi tối, sau tết hơn một tuần, khi mấy mẹ con bà đã yên giấc thì ông về, lúc đó đã là 2 giờ sáng. Ông thông báo sắp đi công tác. Rồi ông kéo bà lại và bảo: “Nếu một tháng sau mà không thấy anh trở về thì anh không còn nữa đâu, em chịu khó nuôi con, sau này con lớn thì nhờ chúng nó...”. Bà vừa khóc vừa hỏi: “Sao anh lại nói thế, sao anh lại không về?”. Thấy thế ông cười bảo, anh nói đùa đấy mà, anh mà chết thì ai sống với mẹ con em?
    Bà đã ôm lấy ông mà khóc, linh cảm rằng ông sắp sửa nhận một nhiệm vụ rất quan trọng. Buổi tối mùng 10 tết năm đó là buổi tối cuối cùng bà được ở với ông. Sáng hôm sau, ông ra đi khi trời còn nhập nhoạng, và... không trở về. Sau đó, một tuần thì bà trở dạ sinh đứa con thứ ba. Đơn vị cử người ra thăm nói rằng ông đang học ở Trung Quốc không về được, có gửi cho chị và cháu chút quà gồm một cân miến, một gói chè, một bao thuốc lá, một gói kẹo và một lọ nước hoa, một lọ phấn rôm cho cháu bé mới sinh. Bà nghẹn ngào trong nước mắt: “Tôi biết chồng tôi hy sinh rồi, hãy cho tôi biết anh ấy hy sinh ngày nào để tôi còn cúng giỗ cho anh ấy... Đừng giấu tôi làm gì...”.
    Sau khi ông Kế hy sinh, biết bao khó khăn chồng chất lên vai bà Hạnh. Một mình bà phải làm nuôi 3 con cùng mẹ chồng và bố đẻ ở quê ra vì nhà cụ ở quê bị trúng bom Mỹ, cháy hết không còn gì. Đến năm 1978 thì bà chuyển từ Nông trường An Khánh về làm nuôi quân ở Đoàn bay 919 là đơn vị của ông. Tần tảo làm lụng, thờ chồng nuôi con, đến nay các con của bà đều đã trưởng thành và có gia đình riêng, tuy chưa khá giả nhưng cũng có nghề nghiệp ổn định. Cả 3 người con của ông bà hiện đều công tác trong Tổng Công ty Hàng không, anh cả Phạm Ngọc Hải làm lái xe, người con gái Phạm Phi Yến làm kế toán ở Đoàn tiếp viên, người con trai út Phạm Ngọc Lâm sinh năm 1968, ngay sau khi cha hy sinh, nay làm ở bộ phận kiểm soát không lưu.
    Một thành viên nữa của tổ bay là liệt sĩ Ngô Phượng Châu. Anh là người được những đồng đội còn lại và gia đình hết lời ca ngợi về tài năng và đức độ. Trong tổ bay của phi công Phạm Kế, Ngô Phượng Châu đóng vai trò dẫn đường. Ngay sau khi biết tin đã tìm được nơi tổ bay hy sinh, gia đình của liệt sĩ Ngô Phượng Châu gồm mẹ ông và 4 người em đã tìm đến cám ơn Quân chủng Phòng không - Không quân và Đoàn bay 919, tìm gặp những người đã trực tiếp đi vào A Lưới, nơi các anh hy sinh để tìm hiểu rõ hơn sự việc. Cụ Ngô Thị Tuyết là mẹ của liệt sĩ nay sống tại khu tập thể 1A - Đặng Thái Thân (Hà Nội) nghẹn ngào nói: “Gần 40 năm nay tôi tính từng ngày, biết rằng con là lính không quân, hy sinh thì cũng chẳng mong gì tìm thấy thi thể nhưng không ngờ sau bấy nhiêu năm lại có ngày tìm thấy nơi con ngã xuống, dù cho xương cốt không còn gì thì đó vẫn là một niềm an ủi lớn với gia đình”.

    Liệt sĩ Ngô Phượng Châu sinh năm 1942. Gia đình anh là hậu duệ đời thứ bảy của Ngô Thời Nhậm. Mẹ anh vẫn nhớ như in hình ảnh cậu con trai ngộ nghĩnh khi nhà còn ở phố Khâm Thiên những năm đầu kháng chiến chống Pháp, mặc dù mới 5 tuổi đầu nhưng đã cầm cờ kháng chiến chạy dọc hành lang trên gác hô to “ủng hộ Việt Minh, ủng hộ HCM. Khi gia đình chuyển lên sinh sống tại Việt Bắc, Phượng Châu được đi học Trường thiếu sinh quân ở Quế Lâm, Trung Quốc. Trước ngày lên đường anh còn tranh thủ vào rừng lấy củi cho mẹ chứa đầy gian bếp vì bà sắp đến ngày sinh nở. Cho đến trước lúc lên xe, được chia mỗi người một mũ lạc rang, anh còn tách khỏi các bạn chạy về đưa qua cửa sổ cho các em của mình. Trước khi mất, bố của liệt sĩ Ngô Phượng Châu chỉ mong sao có một ngôi mộ của anh trong một nghĩa trang nào đó, dù là mộ tượng trưng, để tưởng nhớ đến người con của gia đình.

    Chị Ngô Thanh Tâm là em gái của liệt sĩ Ngô Phượng Châu, hiện công tác tại Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng thì lại nhớ về hình ảnh anh trai mình như một người anh ân cần tận tụy. Lá thư cuối cùng Ngô Phượng Châu gửi cho em trước khi hy sinh trong chuyến bay cảm tử, anh đã dặn dò em gái nhiều điều, đặc biệt còn chép tặng chị bài hát “Em là hoa pơ lang” và bốn câu thơ mừng sinh nhật lần thứ 20 của em gái. Trước khi lên đường thực hiện chuyến bay ngày 7-2-1968, anh mới cưới vợ được 10 ngày. Gia đình và vợ anh, chị Trịnh Thơ Thơ, lâu không thấy anh về thì sốt ruột lắm nhưng không biết làm sao. Sáu tháng sau ngày anh hy sinh, gia đình mới nhận được giấy báo tử. Chị Trịnh Thơ Thơ mãi sau này mới đi bước nữa, nhưng vẫn là một thành viên trong gia đình anh Ngô Phượng Châu.
    Sau khi biết tin tìm thấy tổ bay cảm tử trong chiến dịch Mậu Thân, chị Trần Thị Mây Lai ở thị trấn Bố Hạ, Yên Thế (Bắc Giang) cũng đã tìm về Đoàn bay 919 để thắp hương cho anh trai mình là liệt sĩ Trần Văn Thái trong tổ bay của phi công Phạm Kế. Chị Lai cho biết, bố mẹ chị chỉ có hai anh em. Anh Thái sinh năm 1945. Bố của anh chị là liệt sĩ chống Pháp, anh là con trai duy nhất trong diện được miễn nghĩa vụ quân sự nhưng khi Bộ đội Không quân về tuyển quân, vì rất yêu thích nên anh đã tình nguyện đi học lính dù. Sau này anh về nhận công tác tại Sư đoàn dù B05.
    Trong chiến dịch Mậu Thân 1968, sư đoàn anh có nhiệm vụ phối hợp cùng Đoàn bay 919 để bay vào Trị Thiên - Huế thả hàng cho chiến trường. Trước tết năm đó anh được về thăm nhà mấy ngày. Anh nói với mẹ: Nhà mình dột lắm rồi, để con đi mấy ngày rồi con về con sửa cho mẹ, cho em. Và anh dặn chị Lai, anh đi ở nhà mẹ có ốm đau gì thì em nhờ hàng xóm, họ hàng giúp đỡ. Thế rồi anh đi, và đi mãi không về...
    Khi từ A Lưới, Thừa Thiên - Huế trở về, chúng tôi đi trên con đường HCM mới mang theo 8 phần hài cốt tượng trưng của các thành viên trong tổ bay cảm tử trong chiến dịch Mậu Thân 1968. Bốn mươi năm, dù vật đổi sao dời, nhưng các anh - những tổ bay cảm tử - vẫn được tạc bia trong lòng đồng đội, trong lòng những người thân yêu[​IMG]


    Nguyễn Xuân Thủy
  7. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Tìm thấy 2 chiếc máy bay mất tích trong chiến dịch Mậu Thân 1968

    Từ lá thư của một cựu chiến binh mà Quân chủng Phòng không - Không quân đã tìm ra 2 chiếc máy bay mất tích trong chiến dịch Mậu Thân đầu năm 1968 và một phần thi hài tổ lái được mai táng tại A Lưới (Thừa Thiên-Huế).

    Địa điểm 2 chiếc máy bay rơi chỉ cách Huyện đội hiện nay hơn 10 km, cách đường *********** mới 4 km về phía đông nhưng vì nhiều lý do nên đã ở đây gần 40 năm để rồi những bộ phận cuối cùng được người dân vô tư đào bới, cưa xẻ đem đi... bán sắt vụn.
    Một ngày đầu tháng 6, Quân chủng Phòng không - Không quân nhận được một bức thư đề gửi đồng chí “Tư lệnh trưởng”. Bức thư trên của ông Lại Văn Vượng ở 91, Mê Linh, quận Lê Chân, (Tp. Hải Phòng). Ông Vượng nguyên là chiến sĩ Sư đoàn 324 - Quân đoàn 2, đã có thời gian dài tham gia chiến đấu ở tây Thừa Thiên - Huế.
    Ông Vượng cho biết, trong chuyến về thăm lại chiến trường xưa hồi tháng 5/2005 ở vùng A Lưới (một huyện miền núi của tỉnh Thừa Thiên - Huế sát biên giới Việt - Lào) ông đã tình cờ biết được câu chuyện về một chiếc máy bay rất có khả năng là của ta bị rơi trên khu rừng gần xã Hồng Thượng. Theo bà con dân tộc Pa Cô kể lại thì thời điểm máy bay rơi khoảng năm 1965-1966, xác tổ bay đã được một số đồng bào dân tộc chôn cất trên khu rừng đó. Ông Vượng cũng cho biết, hiện nay tại nhà của ông Nguyễn Xuân Toàn ở xã Hồng Thượng, huyện A Lưới, còn giữ được một số hiện vật của chiếc máy bay nói trên. Riêng mấy ngôi mộ thì mấy chục năm qua nó vẫn ở chỗ cũ giữa khu rừng hoang lạnh, chưa được ai đến hỏi, cũng không đoàn quy tập nào đến tìm và bốc đi. Ông Vượng cũng cẩn thận chụp một số kiểu ảnh bằng chiếc máy tự động của mình, khi trở về ông đã làm ảnh và gửi 5 chiếc kèm theo lá thư để thêm căn cứ, trong đó có bức ảnh ông Toàn đứng bên mảnh cánh máy bay tại nhà.
    [​IMG]
    Làm lễ trước lúc khai quật mộ.
    Ông cho biết thêm, đoàn MIA của Mỹ (chuyên tìm hài cốt quân nhân Mỹ mất tích trong chiến tranh VN) đã tới đây tìm kiếm, ông Toàn đã đưa họ đến nơi máy bay rơi, những người Mỹ có xem xét nhưng không “quan tâm” gì đến chiếc máy bay cũng như tổ lái đã được chôn cất. Ông Vượng cho rằng, rất có thể đây là máy bay của ta bị gặp nạn trong chiến tranh mà chưa ai biết.
    Từ bức thư của ông Vượng, Quân chủng Phòng không – Không quân đã cử cán bộ đi khảo sát, xác minh và kết quả là không chỉ tìm ra 1 mà những 2 chiếc máy bay bị mất tích khi làm nhiệm vụ cách đây gần 40 năm.
    Trong chiến dịch Mậu Thân năm 1968, thực hiện hiệp đồng chiến đấu, chi viện cho chiến trường, BTL Phòng không - Không quân đã tổ chức một số chuyến bay tiếp tế lương thực, vũ khí cho Trị Thiên - Huế. Cụ thể, từ ngày 7 đến ngày 12/2/1968 đã liên tục tổ chức hàng chục chuyến bay, trung bình mỗi chiếc mang hơn 2 tấn hàng. Việc hiệp đồng với Trị Thiên - Huế được xác định bằng việc đốt lửa vào ban đêm để máy bay nhận biết địa điểm mà thả hàng. Thực hiện nhiệm vụ này đối với các tổ bay thấp quả là rất nguy hiểm, phải bay trong vùng kiểm soát của địch để tránh rađa phát hiện thì rất dễ xảy ra tai nạn như va vào núi hoặc gặp phải hỏa lực phòng không, nhưng anh em tổ bay vẫn quyết tâm thực hiện nhiệm vụ, họ coi những chuyến bay đó như những chuyến bay cảm tử. Và cuối cùng thì 4 chuyến bay cùng 32 chiến sĩ đã có đi mà không trở về.
    Sau khi sự việc xảy ra, Quân chủng Phòng không - Không quân đã đánh công văn gửi đi khắp các đơn vị, tỉnh thành đề nghị phối hợp tìm kiếm và thông báo giúp mong tìm ra tung tích những chiếc máy bay mất tích nhưng sự việc vẫn rơi vào im lặng, không có một hồi âm. Các đồng chí tham gia các tổ bay đã được công nhận là liệt sĩ nhưng chẳng hề biết đích xác hy sinh ở đâu. Gần 40 năm nay, người thân của các liệt sĩ vẫn sống trong niềm khắc khoải.
    Sau khi nhận được bức thư trên, Quân chủng Phòng không - Không quân đã tổ chức kiểm tra hồ sơ lưu, lần lại lịch sử và nhận định, nếu đúng như thông tin cung cấp thì rất có khả năng đó chính là một trong 4 chiếc máy bay IL-14 mất tích đầu năm 1968. Ngay sau đó, Quân chủng đã thông báo và phối hợp cùng Đoàn bay 919 - là đơn vị chủ quản của những tổ bay mất tích năm 1968 nay thuộc Tổng Công ty Hàng không Việt Nam để đi vào A Lưới để xác minh sự việc.
    Sau hai lần đi lại, tìm đến địa điểm máy bay rơi và khu rừng anh em đã được chôn cất cũng như làm việc với cơ quan chức năng địa phương, ngày 11/7/2005, đoàn công tác đặc biệt của Quân chủng Phòng không - Không quân và Đoàn bay 919 đã lên đường vào Thừa Thiên - Huế để tiến hành tìm kiếm một số hiện vật và đưa hài cốt các liệt sĩ về đơn vị.--PageBreak--
    Những người dân đã trực tiếp tham gia mai táng tổ bay năm 1968 nay đều đã mất. Rất may mắn là ông Nguyễn Xuân Toàn - dân tộc Pa Cô -người chứng kiến việc chôn cất và tham gia trong việc tìm thu gom hài cốt nay vẫn còn và sinh sống trên địa bàn.
    Ông Toàn nhớ lại: “lúc đó khoảng 7 giờ tối tôi thấy một chiếc máy bay bay từ hướng thành phố Huế lên, một lúc sau một tiếng nổ rất lớn vang lên trong cánh rừng, sau đó những mảnh xác máy bay bắn tung toé văng ra tận nơi gia đình tôi ở”. Nhà ông Toàn khi đó sơ tán vào rừng, ở ngay gần nơi xảy ra sự việc. Sau đó ông cùng với một số người trong làng đã tìm đến hiện trường thấy mảnh xác máy bay văng mỗi nơi một ít, một số vũ khí như súng K54, AK và nhiều nhất là lựu đạn còn nguyên cả hòm. Sáng hôm sau, mọi người tìm kiếm thấy một số bộ phận cơ thể rơi rải rác. Và ông còn nhớ một mảng tóc có màu hung và hơi dài. Sau đó ông Toàn cùng với một người tên là Bo Hiêng và một số người khác đã tổ chức mai táng những gì tìm thấy, có cả cán bộ của huyện đội chứng kiến.
    Ngày đó, ông Nguyễn Xuân Toàn đã mang một số hiện vật từ máy bay về dùng trong gia đình, trong đó có khẩu K54 được xác định là của tổ bay (sau này ông Toàn làm xã đội trưởng xã Hồng Thượng) khi nghỉ công tác ông mới bàn giao lại, hiện nay khẩu súng này cũng đã thất lạc.
    Tại hiện trường vụ việc, gần 40 năm trôi qua, mọi thứ phần lớn đã bị xoá nhoà nhưng những gì còn lại cũng đủ để khẳng định chắc chắn đó là 1 trong 4 chiếc IL-14 bị mất tích. Địa điểm máy bay rơi là một sườn núi cao, độ dốc lớn nên các bộ phận của máy bay cũng phân tán rất rộng: dưới khe suối là nơi “dừng chân” của phần động cơ, đạn cối; rải rác từ trên đỉnh xuống khe suối là các mảnh dù để thả hàng nay vẫn chưa bị phân huỷ; những mảnh nhựa có chữ tiếng Nga, một quả lựu đạn chày còn sót lại. Chiếc lốp máy bay thì đồng bào dân tộc đã cắt về làm dép cao su, chỉ còn lại một ít cao su sát vành sắt. Sâu dưới lòng khe là hai chiếc “huyệt” còn mới do những người tìm phế liệu đào lấy động cơ để bán còn để lại miệng hố rộng hoác.
    Nguyễn Văn Hải, một thanh niên dân tộc Pa Cô thuộc xã Phú Vinh kể, tháng trước chính anh đã đào chiếc tuốc-bin này cùng với mấy chục quả đạn, tất cả được hơn hai tạ đi bán cho hàng đồng nát được hơn hai trăm ngàn đồng. Theo chỉ dẫn của Hải, chúng tôi tìm đến một điểm thu mua phế liệu nằm trên địa bàn trị trấn A Lưới, quả nhiên đã thấy một số bộ phận của máy bay. Ông Lê Xuân Đức nhận ra một phần động cơ và bộ điều tốc của máy bay IL-14 nằm lẫn trong đám sắt vụn đủ chủng loại.
    Về nguyên nhân máy bay rơi, theo nhận định của đoàn công tác thì chắc chắn đã bị trúng đạn bởi trên mảnh cánh dài 2,4 mét, rộng 0,8 mét tại gia đình ông Toàn, anh Lương Hữu Thuận - nguyên là một nhân viên kỹ thuật của loại máy bay này - tìm được tất cả 13 vết đạn. Tuy nhiên, việc xác định đây là tổ bay nào thì rất khó bởi các nhân chứng không nhớ ngày tháng diễn ra sự việc. Ông Lê Xuân Đức, trưởng đoàn tìm kiếm thuộc Đoàn bay 919, nguyên là một học viên phi công tham gia chiến đấu năm 1968 cùng các phi công trong 4 tổ bay trước ngày họ mất tích cho rằng, căn cứ vào lời kể và một số hiện vật tìm được thì rất có thể đây là chiếc máy bay IL-14 mang số hiệu 506 do phi công Phạm Kế lái chính, xuất kích lúc 17 giờ ngày 7/2/1968, vì xung quanh khu vực máy bay rơi còn nhiều mảng dù lớn để thả hàng nằm rải rác nay vẫn chưa bị phân hủy (tổ của anh Kế có nhiệm vụ thả dù hàng hóa, vũ khí), và quan trọng hơn, trong tổ bay này có anh Nguyễn Văn Tê đầu bị hói nên anh thường để tóc dài rồi vuốt lên che phần hói đi nên khá khớp với lời kể của nhân chứng, còn màu tóc thì thực tế cho thấy trong những vụ tai nạn máy bay tóc bị đổi màu là chuyện thường, có vụ phi công tóc đen nhánh nhưng khi thu hồi thi hài nhiều mảng đã trở nên bạc trắng.
    Trong khi làm việc với xã đội Phú Vinh, địa bàn có chiếc máy bay rơi, vô tình chúng tôi được xã đội trưởng Hồ Chính Bảy cho biết còn một chiếc máy bay nữa, cũng giống chiếc mà đoàn công tác đang tìm, rơi cách đó khoảng 3 km. Quá bất ngờ trước thông tin trên, đoàn công tác đã chia thành hai nhóm, một nhóm cùng ông Toàn và các thanh niên địa phương vào tìm hài cốt tổ bay của chiếc thứ nhất, còn cử hai đồng chí đi theo anh Bảy tìm đến địa điểm có chiếc máy bay đã nói. Tuy nhiên, cũng giống như chiếc thứ nhất, tại hiện trường chỉ còn lại một số quả đạn cối và những mảnh nhựa, mảnh, gỗ phíp nhỏ, còn những gì có thể bán sắt vụn được người dân đã mang đi sạch. Căn cứ vào những hiện vật tìm được có thể khẳng định chắc chắn đây chính là một chiếc IL-14 nữa mất tích trong chiến dịch Mậu Thân.--PageBreak--
    Khi về Hà Nội chúng tôi đã tìm gặp một số cựu chiến binh không quân của các tổ bay IL-14 tham gia chiến đấu trong chiến dịch Mậu Thân và trở về an toàn. Ông Lê Ngọc Chuyền, nguyên là cơ giới trên không của tổ bay xuất kích lúc 16 giờ 50 phút, ngày 7/2/1968 (trước tổ của phi công Phạm Kế 10 phút) cho biết: Ngày 7/2 có tất cả 6 chiếc IL-14 xuất kích, trong đó 3 chiếc mang vũ khí có nhiệm vụ tấn công đồn Mang Cá ở Huế, còn 3 chiếc mang hàng tiếp tế cho chiến trường. Tổ của ông Chuyền nằm trong nhóm đi hạ đồn Mang Cá do phi công Hoàng Liên lái chính. Theo kế hoạch, những chiếc IL-14 bay dọc biên giới Việt Lào, đến sông Sêpôn thì rẽ ra hướng biển rồi vòng vào Huế hạ thấp độ cao. Vì thời tiết xấu, nhóm đánh đồn Mang Cá không tìm thấy mục tiêu, 2 trong 3 chiếc đã bay trở ra cửa biển Cửa Việt (Quảng Trị) và bắn chìm một tàu chiến của địch, bắn hai tàu khác bị thương rồi về sân bay Gia Lâm hạ cánh an toàn; còn chiếc của ông Chuyền trên đường quay về thì bị bắn thủng thùng xăng, phải hạ cánh bắt buộc xuống sân bay Sao Vàng (Thanh Hoá).
    Ông Nguyễn Bình Sen, nguyên là cơ giới trên không và ông Nguyễn Văn Sửu, nguyên là lái phụ của 1 trong nhóm 3 chiếc có nhiệm vụ thả hàng (cùng tổ của phi công Phạm Kế) thì nhớ lại: Tổ của các ông do phi công Võ Minh Chung lái chính, khi vào đến Quảng Trị, đến địa điểm giao ước đã nhận thấy 3 đống lửa ám hiệu của quân ta và tiến hành thả hàng. Thả hàng hoá, vũ khí xong, tổ bay của các ông còn liên lạc với tổ của phi công Phạm Kế một lần, khi tổ của Phạm Kế phát mật khẩu “bán hàng chưa” ông đã trả lời “bán rồi”. Sau đó chỉ có tổ của các ông trở về sân bay Gia Lâm, lần liên lạc ấy đã thành lần gặp gỡ cuối cùng giữa ông và những người đồng đội trong tổ bay. Sáng hôm sau các ông biết tin Đoàn 559 điện ra thông báo đã nhận được hàng do chiếc máy bay của ông thả, còn hai chiếc cùng nhóm được biết một chiếc về đến Đô Lương (Nghệ An) thì bị hạm đội 7 của Mỹ bắn rơi trên đất Lào, còn một chiếc không thấy trở về và cũng không có tin tức gì. Những ngày sau đó còn có nhiều tổ bay IL-14 nữa cất cánh vào Trị Thiên-Huế. Kết thúc chiến dịch Mậu Thân, tất cả có 4 chiếc IL-14 không trở về và cũng không có tin tức gì cho đến nay.
    Tại lễ truy điệu các liệt sĩ được tổ chức tại Đoàn bay 919, ông Phạm Đình Đạt, nguyên là diễn viên múa đoàn văn công Quân khu Trị Thiên-Huế, nay sống tại phường Nhân Chính (Hà Nội) cho chúng tôi biết, trong một đợt đi biểu diễn phục vụ mặt trận phía Bắc Huế trong chiến dịch Mậu Thân, chính ông và hai người nữa cũng được giao nhiệm vụ đốt lửa làm hiệu để máy bay thả hàng. Tối hôm đó các ông đã đốt một đống lửa to, mãi không thấy máy bay đến nên lại dập đi, rồi lại đốt, rồi lại dập, tất cả đến 3 lần mà chẳng thấy máy bay đâu, đến 11 giờ đêm thì mọi người nản quá không đốt nữa.
    Trở lại với chiếc máy bay đã tìm ra địa điểm rơi và nơi chôn cất thi hài các liệt sĩ. Ông Nguyễn Xuân Toàn đã dẫn đoàn công tác đến vị trí mai táng. Sau khi làm các thủ tục, đoàn tìm kiếm tiến hành đào, khoảng 20 phút sau đã tìm được một bọc ni lông gói tròn nằm sâu cách mặt đất khoảng 70 cm. Ông Toàn xác nhận đây chính là bọc mà ông cùng với những người dân chôn cất khi xưa. Cả đoàn công tác cùng đứng nghiêm cúi đầu mặc niệm.
    Việc tìm ra vị trí rơi cũng như nơi hi sinh của các liệt sĩ trong hai tổ bay đã giải tỏa được bao nỗi niềm của gia đình, người thân các liệt sĩ. Tuy nhiên còn tổ bay thứ 2, mặc dù đã tìm được nơi máy bay rơi nhưng việc xác định mộ chí của các liệt sĩ thì trở nên bế tắc vì không có cơ sở nào để tìm kiếm. Đoàn công tác đành trở về với hy vọng một ngày nào đó sẽ gặp được những người được chứng kiến sự việc. Rất mong qua bài báo này ai đó có biết sự việc trên thì liên lạc về Quân chủng Phòng không - Không quân (171, đường Trường Chinh, HN) hoặc Đoàn bay 919 (118, Nguyễn Sơn, Gia Lâm, HN) để phần mộ các liệt sĩ được đưa về quê hương

    Nguyễn Xuân Thuỷ

  8. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Quay lại với những chiếc máy bay chở VIP của VNDCCH

    Những chiếc máy bay đầu tiên của KQ Việt Nam

    Năm 1958, Liên Xô viện trợ cho ta 1 chiếc II-14, 2 chiếc Li-2, 1 chiếc An-2 và 1 chiếc Mi-4, trong đó có 1 chiếc II- 14, 1 chiếc Li-2 và 1 chiếc Mi-4 là quà của Chính phủ Liên Xô tặng Chủ tịch HCM. Trong ảnh này từ trái qua phải An-2 Li 2 IL-14 Li-2.

    Xa hơn còn có 2 chiếc Li-2 do Trung Quốc viện trợđầu năm 1956, Đây là những chiếc máy bay đầu tiên của Không quân nhân dân Việt Nam dùng để thay thế các máy bay của hàng không Pháp, làm nhiệm vụ phục vụ ủy ban Quốc tế kiểm soát và giám sát việc thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ trên miền Bắc Việt Nam. Tuy nhiên, các chuyến bay của ta trong thời gian đầu đều do các tổ bay của Trung Quốc đảm nhiệm.

    Như vậy, tính đến thời điểm chụp ảnh (1958) không quân ta có tất cả 11 chiếc máy bay và trực thăng các loại.



    [​IMG]


    [​IMG]

    Chiếc IL-14 này là của Liên Xô tặng BH?


  9. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [​IMG]


    Li-2 của CAAC TQ


    [​IMG]

    Sơn cờ VN lên đuôi Li-2 được viện trợ
  10. Hoa_Vu.nw

    Hoa_Vu.nw Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/02/2011
    Bài viết:
    837
    Đã được thích:
    27
    [​IMG]

    Sân bay Gia Lâm,đúng không ạ?

Chia sẻ trang này