1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những điều chưa biết về tai nạn máy bay ở Việt Nam

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi vaputin, 10/04/2010.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Trong khi ngành Hàng không Việt Nam còn rất non trẻ, kinh tế của đất nước gặp muôn vàn khó khăn, các sân bay ở miền Bắc hầu như chưa được khôi phục, trình độ quản lý, điều hành, đội ngũ phi công lái máy bay còn nhiều hạn chế. Song chỉ trong một thời gian ngắn, với tinh thần tự lực, tự cường, được sự chi viện kịp thời và có hiệu quả của ngành Hàng không dân dụng Trung Quốc, Liên Xô, Hàng không dân dụng Việt Nam đã thực hiện hơn4.500 chuyến bay với trên 20.000 giờ bay đưa đón BH, các đồng chí Lãnh đạo của Đ ảng, Nhà nước, Quân đội Việt Nam và bạn Lào đi công tác trong nước, ngoài nước bảo đảm bí mật, an toàn tuyệt đối.


    [​IMG]

    Khách VIP Pa thét Lào: ông hòang Đỏ Suphanouvong và phu nhân
  2. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Bí mật về chuyến bay MI4 bị lạc sang đất Thái Lan 1960




    Ngày 15 tháng 12 năm 1960, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trực tiếp giao nhiệm vụ cho Cục trưởng Cục Không quân và tổ bay Mi-4 đi đón khách đặc biệt ở Sen Sủn, cách Văng Viêng 25km, giáp biên giới Lào - Thái về Hà Nội. Trung đoàn không quân 919 điều ngay 1 Il-14 sang Sầm Nưa, mang theo xăng dầu để bảo đảm cho Mi-4, còn tổ bay Mi-4: lái chính Phạm Đình Cường-lái chính Hoàng Trọng Khai ngồi ghế lái phụ-dẫn đường trên không Lương Nhật Nguyễn-cơ giới trên không Lê Văn Lạo sẵn sàng chờ lệnh.

    Do thời tiết xấu, 11 giờ 30 phút ngày 16 tháng 12 năm 1960, Mi-4 mới cất cánh từ Gia Lâm và đến Sầm Nưa lúc 14 giờ 30 phút. Sau khi kiểm tra và nạp dầu, Mi-4 bay tiếp theo kế hoạch. Do gió trên cao thay đổi, lại gặp trời mù trong thời gian dài, dẫn đường trên không không phát hiện được sai lệch, nên đã bị lạc đường và tổ bay phải hạ cánh bắt buộc xuống một vùng đất lạ. Trong tình huống hết sức khó khăn, tổ bay đã quyết định thiêu hủy trực thăng và tổ chức thành một đơn vị chiến đấu, tìm đường trở về.

    Sau khi mất liên lạc với Mi-4, Cục Không quân quyết định sử dụng An-2 tiếp tục làm nhiệm vụ. Ngày 21 tháng 12 năm 1960, tổ bay An-2: lái chính Phan Như Cẩn-dẫn đường trên không Hoàng Cần-cơ giới trên không Trần Văn Nam-thông tin trên không Hồ A cất cánh. Tại điểm cuối của đường bay, tổ bay phải vòng đi vòng lại nhiều lần mới xác định được điểm hạ cánh và đón được khách đặc biệt, trong đó có ngài Ki-nim Phôn-sê-na (sau này là Bộ trưởng Ngoại giao trong chính phủ hòa hợp dân tộc ba phái do hoàng thân Xu-pha-na Phu-ma làm thủ t ướng) và đồng chí Chu Huy Mân - Đoàn trưởng Đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam tại Lào. Tổ bay An-2 trở về Gia Lâm an toàn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

    Sau 17 ngày đêm, tổ bay Mi-4 tuy không hoàn thành nhiệm vụ bay đón khách nhưng đã trở về đơn vị, mặc dù bị kẻ địch truy lùng và một người trong đoàn đã anh dũng hy sinh. Sau này, cả hai tổ bay An-2 và Mi-4 được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba, được Đại tướng Võ Nguyên Giáp tặng hoa và chụp ảnh lưu niệm.



    [​IMG]

    Mi-4 ở Lào
  3. nguoiquansat

    nguoiquansat Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    1.542
    Đã được thích:
    352
    Thanks bác Vaputin đã bổ sung thông tin về vụ IL-14 năm 1968
  4. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Bí mật về chuyến bay MI4 bị lạc sang đất Thái Lan 1961

    [​IMG]

    [​IMG]

    Mi-4 ở Lào

    Tôi nhìn vào đồng hồ, lúc này là 17.40, từ trên cao nhìn xuống mặt đất đã nhá nhem, sương phủ lờ mờ trên các đỉnh núi. Theo ước tính thời gian, máy bay đã đến khu vực hạ cánh, nhưng vì bay ở độ cao trên ba nghìn mét, lại không có phương tiện chỉ huy từ mặt đất, chẳng có sông Mê Kông nào cả, mà đường quốc lộ số 13 cũng không thấy, chỉ có một con đường lạ. Lúc trước đã hiệp đồng không nhận ra địa điểm thì hạ cánh xuống khu vực đường quốc lộ số 13, đốt một đụn khói làm tín hiệu bắt liân lạc. Tôi cho chiếc Mi-4 hạ thấp độ cao, mặt đất hiện rõ hơn, có một cái sân bóng, máy bay lượn thêm một vòng nhỏ nữa rồi mới từ từ đáp xuống. Tất cả đoàn chưa biết đây là đâu? Trong phi hành của chúng tôi có bốn, cộng thêm năm hành khách tổng cộng thành chín người. Mở cửa bước xuống đất tôi nhận ra đây không phải đất Lào, phía trên sân bóng có một cột cờ, treo một lá cờ gạch chéo, tôi nhận định đây là đất Thái Lan. Thấy có chiếc máy bay lạ hạ cánh xuống, nhiều người kéo nhau ra xem, họ đã quây kín xung quanh chúng tôi. Rất may cho chúng tôi, trong đoàn có một người biết tiếng Thái, anh ta nhanh trí nói với họ: "Chúng tôi bay từ Pắc Xế đi Pắc San, đến đây vì trời tối nên phải hạ cánh để hỏi đường rồi đi ngay".
    Không có ai chỉ huy cả, chúng tôi nhận thấy rõ sự nguy hiểm, chốc nữa thôi tất cả sẽ bị bắt, tôi đã được quán triệt rất kỹ, tuyệt đối không để rơi vào tay địch, không được xưng khai, và không mang theo giấy tờ, tài liệu nào hết. Tôi bảo anh em nhanh chóng lên máy bay thoát khỏi vùng nguy hiểm. Ngay lập tức không ai nói với ai, máy bay khởi động rồi cất cánh bay ngược lại theo hướng MK30 độ. Tôi là phi công đã được đào tạo lái máy bay IL-14 hai động cơ tại Liên Xô, chuyển về đoàn M19 cấp trên giao cho tôi bay loại trực thăng Mi-4. Bay trong điều kiện đêm tối anh em rất lo lắng, ngay cả đồng chí Khai lái phụ cũng chưa gặp tình huống này bao giờ, nhưng tôi đã từng bay IL-14 ban đêm nên yên tâm hơn. Bay được một đoạn chừng hai mươi phút trên địa hình rừng núi, trời tối đen như mực không có điểm nào làm vật chuẩn, tôi không xác định được tọa độ, bắt buộc phải hạ cánh để tránh va vào núi. Tôi bật đèn pha soi xuống mặt đất, phát hiện có một khoảng đất rộng, máy bay từ từ hạ cánh xuống, kim đồng hồ chỉ 18.20. Tôi tắt khóa điện cho động cơ dừng hẳn, rất có thể rơi vào tay địch, vì tôi là lái chính quyết định số phận của mọi người, anh em trong đoàn nghe theo lệnh tôi như một người chỉ huy, tôi phân công mỗi người một việc, canh gác xung quanh máy bay, hủy toàn bộ giấy tờ có liên quan đến chuyến bay, riêng tấm bản đồ phải để lại. Dân quanh đó bắt đầu kéo nhau đến xem, tôi cử hai đồng chí biết tiếng đến liên hệ với họ, hỏi xem khu vực này thuộc địa phận nước nào? Qua một hồi trao đổi được biết; buổi chiều chúng tôi vừa hạ cánh xuống sân bóng của trường huấn luyện cảnh sát Thái Lan, đây vẫn thuộc đất của họ. Đang giữa thời chiến sự, quân đội Thái Lan đối địch với lực lượng cách mạng Lào, chúng tôi bay đi để bắt liên lạc với lực lượng cách mạng Lào, máy bay hạ cánh trên đất này khác nào vào khu rừng có nhiều cọp dữ. Tất cả đoàn ai cũng lo lắng, chúng tôi đã cầm chắc trong tay hơn nửa phần chết, hi vọng sống là nhỏ nhoi, đang chưa biết sử trí sa sao? Nhưng phán đoán thì chưa có lực lượng vũ trang nào của Thái Lan đánh hơi thấy, đây là những người dân hiếu kỳ ra xem, chúng tôi nói với họ tránh xa chiếc máy bay, chúng tôi đang bay đi Pắc San, đến đây trời tối quá đành phải hạ cánh xuống nghỉ, ngày mai lại tiếp tục. Lát sau dân về hết, tôi giao cho nhiệm vụ thông tin liên lạc cùng cơ yếu đánh "Mooc" báo về Bộ tổng tham mưu, nói rõ tình hình đang bị lạc. Viết đến bốn bức điện phát đi nhưng chẳng nhận được sự hồi âm nào cả, bặt vô âm tín, phương tiện duy nhất chúng tôi mang theo là chiêc máy 15W. Núi rừng trả lời là sự im phăng phắc, màn đêm sâu hun hút đến vô tận, đêm đầu tiên không ai chợp mắt nổi, chỉ cần một tiếng động nhỏ là tất cả lại dật mình, chỉ mong cho trời nhanh sáng.

    Ngày hôm sau, mới 05.00 ánh sáng bắt đầu le lói, nhưng trời đất vẫn còn mù sương, tầm nhìn còn bị hạn chế, cả đoàn rất nóng lòng muốn cất cánh nhưng điều kiện thời tiết không cho phép, nếu không nhanh chóng thì rất có thể địch biết tin đến bắt sống, mỗi giây phút kéo dài là nỗi sợ lại nhân lên cấp số nhân. Mãi đến 07.00 sương mù bắt đầu tan, nhưng ngoài trời vẫn còn lạnh cóng, máy bay khó khởi động, phải nổ máy động cơ ba mươi phút mới cất cánh được. Khi máy bay đã bốc lên, tôi không dám nâng độ cao, chỉ bay là là với khoảng cách mặt đất 300mét, vì càng nâng độ cao càng tốn xăng, đồng hồ báo đã chỉ ở vạch đỏ. Bay được khoảng năm phút đồng hồ đo xăng báo động mức nguy hiểm, mối đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng cả đoàn, nhìn xuống dưới mặt đất chẳng có vị trí nào để hạ cánh cả, tôi vẫn liều lĩnh cho máy bay tiếp tục tiến, sự sống và cái chết của chúng tôi cân bằng nhau, thêm một đoạn nữa tôi thấy có một dải đất bằng, nhưng không thể hạ cánh được vì cây cối mọc lởm chởm, nếu có hạ cánh rồi cũng chẳng có cơ hội bay tiếp. Trong suy nghĩ của tôi bắt đầu nảy sinh nhiều toan tính, một ý nghĩ táo bạo lóe sáng trong đầu. Chiếc máy bay như con chuồn chuồn đuối sức, cánh quạt quay chậm dần, toàn thân đè lên đám cây kêu răng rắc, cánh quạt chém lá bay tứ tung, kết thúc là một tiếng "khực", một cảm giác khủng khiếp, đồ đạc trong máy bay loảng xoảng, người ngồi trong dúi dụi, giây phút ấy diễn ra trong chốc lát rồi trả lại bình yên, nhưng mặt mũi ai nấy cũng đều tái xanh. Anh em chúng tôi bỏ máy bay, mang đồ đoàn mở cửa bước ra. Vẫn đang ở đất Thái. Từ đâu đó năm người chĩa súng thẳng vào chúng tôi:

    - Thăng môt dưn kôông! (Tất cả đứng yên).
    Mặt mũi bọn họ đằng đằng sát khí, những họng súng đen ngòm sẵn sàng khạc lửa thẳng vào mặt chúng tôi. Như hiểu ý nhau, tất cả chín anh em ngoan ngoãn đứng dậy giơ hai tay lên quá đầu. Không khí bớt căng thẳng, họ bớt cảnh giác hơn.
    - Chúng tôi đi khảo sát địa chất, máy bay bị hết xăng rơi xuống đây. Chúng tôi nói bằng tiếng Thái.
    Nhóm người giãn ra, họ bỏ súng xuống, tôi ra hiệu cho một đồng chí đốt máy bay. Nhiên liệu trong khoang máy chỉ còn dính đáy, phải thò tấm vải bông vào thùng thấm, nhóm người kia nhìn nhau ngơ ngác, họ chẳng biết gì. Tôi châm thuốc hút, rồi tiện đà mời họ hút thêm, thái độ họ thân thiện hơn. Trong lúc đang chuyện trò, chúng tôi nháy nhau chuần bị cướp súng, tất cả hiểu ý định, trà trộn giáp lá cà với họ thành từng nhóm nhỏ, chỉ cần hiệp đồng đúng thời cơ. Không chần chừ, tôi hô lớn một tiếng, năm người thổ dân bị đè nghiến xuống đất. Từ lúc nãy, mảng bông tẩm xăng được vứt sẵn trong buồng lái, chúng tôi châm lửa rồi cùng nhau mang súng bỏ chạy. Không ai nói câu nào, chúng tôi cúi đầu chạy một mạch, đằng sau có tiếng nổ lớn, xác máy bay đã tan tành, không biết năm người dân kia làm gì? Chúng tôi cứ thế chạy thẳng vào rừng sâu.
    Khi đã xa lắm rồi, không ai còn đủ sức chạy tiếp, cả đoàn nằm vật xuống dưới tán một bụi cây lớn. Chuyến bay đó rất gấp, chúng tôi không kịp chuẩn bị gì, trước đó tôi được thủ trưởng giao cho nhiệm vụ bay đến Xẻn Xum phía bắc Viên Chăn, cách bờ sông Mê Kông khoảng hai mươi kilomet, ngoài ra tôi chẳng biết gì hơn. Họ chỉ nói với tôi, đây là nhiệm vụ đặc biệt! **** và nhà nước tin tưởng đồng chí…Cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng nói thế. Thực ra nhận nhiêm vụ tôi rất lo, điều kiện đảm bảo nhiên liệu cho máy không có, quãng đường lại quá xa, phải chăng đây là một chuyến bay cảm tử? Tôi được chỉ huy gọi lên quán triệt liên tục, đến gần giờ bay tôi mới biết chuyến bay đó có bốn người cùng đơn vị, thêm năm người khách nưa nhưng không biết họ là ai. Ăn cơm trưa song chúng tôi cùng ra máy bay, mang theo ba chiêc địa bàn, bốn chiếc bình tông đựng nước uống, một khẩu súng tiểu liên AK, lương thực chẳng có gì, một ai đó trong đoàn mua được năm chiếc bánh chưng, năm người khách lạ đi cùng có mang theo hai hộp sữa, một ít bánh bicquy. Ở trong khu rừng chúng tôi bắt đầu nảy sinh mâu thuẫn, nhiều quan điểm khác nhau, có người bảo cứ hành quân theo đường quốc lộ, người khác lại bảo vào dân hỏi đường và xin lương thực. Tất cả những ý kiến đó đều không khả thi, đây là vùng đất địch. Cuối cùng mọi vấn đề đều được thống nhất, trong đoàn của chúng tôi có chín, tám người là **** viên, một người là đoàn viên ưu tú, chi bộ lâm thời được thành lập, đồng chí Đạt có thâm niên lâu hơn được đề cử làm bí thư, tôi làm phó bí thư. Chúng tôi thống nhất phương trâm, "Chết đống còn hơn sống một". Đói quá có anh em bắt đầu lả đi, nhưng lương thực quá ít ỏi không dám dùng hết, đành phải cắt một miếng bánh chưng nhỏ cho ăn, phần còn lại phải để dành những ngày tiếp theo. Chúng tôi lại bắt đầu đi. Sông Mê Kông nằm ở phía đông, buổi sáng mặt trời mọc ở hướng đó, buổi chiều lăn phía sau lưng. Rừng ở Thái Lan không rậm lắm, chủ yếu là cây khôộc và nhiều loại cây khác nữa, người khỏe thay phiên nhau dìu người yếu. Cứ vậy chúng tôi hành quân về phía sông Mê Kông. Đi được một quãng khá xa thì bất ngờ nghe tiếng nổ lớn, tất cả anh em tản ra nằm rạp xuống, hóa ra là một khẩu súng kíp anh em cướp được của thổ dân bị nảy cò nổ, may mắn không ai bị dính đạn. Sau tiếng nổ ấy chúng tôi lại tiếp tục chạy, sợ nhỡ địch nghe thấy súng ập đến bao vây. Lúc ấy đang là mùa đông, buổi chiều thời tiết ấm hơn, mùa này rừng cũng chẳng có loại hoa quả gì có thể ăn được, không thể tiếp tục đi mãi khi bụng đói tóp teo, chúng tôi tản ra tìm bất cứ loại gì đút vào miệng sống qua ngày.
    [​IMG]

  5. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133

    Sau một giấc ngủ mê mệt, khí lạnh tràn về khắp khu rừng, chúng tôi tỉnh giấc lại giữa mà đên tối om om, bầu trời bắt đầu hiện đầy sao. Bỗng dưng tôi khát khao sự sống đến thê? Cả nhà (vợ, con) không ai biết tôi đang ở đâu, tôi không kịp thông báo chuyến đi này, hình ảnh những đứa con đang ríu rít vui đùa khiến tôi ứa nước mắt, nếu tôi chết thì chúng sẽ sống ra sao? Anh Đạt cũng tỉnh từ lúc nào, đang ngồi trầm tư nghĩ ngợi bên gốc cây. Chúng tôi túm tụm lại thành một nhóm. Cơn khát lại kéo về dày vò, một đồng chí nữa lại lả đi. Cuộc hành trình của chúng tôi theo tinh thần của nghị quyết chi bộ. Để đảm bảo ăn dè sẻn số lương thực mang theo, chúng tôi bầu một đồng chí làm quản lý, phân phối tiêu chuẩn ăn mỗi người một bữa chỉ được một nhúm bicquy, một cái bánh chưng phải chia ra thành chín xuất, tính như thế cũng chỉ đảm bảo được hai ngày, riêng hai hộp sữa phải để dành khi đến bờ sông Mê Kông ăn để lấy sức vượt. Giữa rừng sâu không có một dấu chân người, tất cả bốn bi đông nước không còn lấy một giọt, xung quanh không có dòng suối nào cả, không thê kiếm nước ở đâu uống qua cơn khát, một đồng chí đã quá yếu không dậy được. Chúng tôi không thể ngồi nhìn nhau chết dần trên đường về, không còn cách nào khác đành phải đái ra lấy nước đổ vào mồm đồng đội.

    Đi trong rừng nhìn thấy dây củ mài mọc mà không có cách nào đào lên được, trong tay chúng tôi chẳng có gì, mấy khẩu súng kíp cướp được cúng đành phải bỏ lại vì không đủ sức mang theo. Thật may mắn anh em trong đoàn chúng tôi có một người cầm bật lửa, dọc đuờng đi hễ cứ tìm được thứ gì ăn được là anh em cùng nhau kiếm, kể cả những loại cây thú rừng ăn nham nhở cũng hái bỏ vào ống nứa non nấu. Một hôm chúng tôi qua mảnh nương cũ của dân bỏ lại, lấy được bí đỏ ăn no nê một bữa, thế rồi ba hôm sau không kiếm được thứ gì nên người mệt mỏi vô cùng, lê từng bước trong rừng, cứ đi được năm đến mười phút lại phải nghỉ giải lao hàng tiếng. Lúc đứng dậy mắt hoa đom đóm, đầu óc choáng váng, một đống chí không biết ăn phải quả dại nên ngộ độc; mặt tái xanh, hôn mê, nôn mửa, chân tay run lật bật tưởng chết nhưng qua khỏi. Dọc đường đi gian khổ cũng có một vài đồng chí nảy sinh tư tưởng muốn vào nhà dân xin cơm, nhưng nghị quyết chi bộ đã quán triệt nên nhất nhất phải nghe, "Chúng ta đi theo tinh thần của người Đ**** viên Cộng sản".


    Thêm một ngày là sức lực chúng tôi thêm kiệt quệ, phải vượt qua nhiều địa hình hiểm trở, đường cao, dốc thẳm. Tôi còn nhớ một hôm gặp dãy núi đá rất cao, người bình thường cũng khó lòng để vượt qua. Thế mà chúng tôi những người sức lực đã yếu, chi bộ phải chụm lại bàn bạc. Lúc đầu chúng tôi đi vòng quanh hình chữ Z nhưng suốt một ngày không lên đến mỏm, cuối cùng phải quyết tâm leo. Nhích từng bước một chúng tôi cồng kênh nhau, nếu chẳng may ai trượt chân ngã xuống coi như đã mặc niệm. Thế rồi cũng lên được đỉnh, không ai bị sơ xuất.

    Rồi có một đồng chí bị đi kiết, người rũ rượi không đủ sức đi tiếp, rút súng ngắn định tự sát: "Thôi các đồng chí cứ đi tiếp, chúng ta phải trở về với tổ quốc. Còn tôi…" Tôi lại phải kể tiếp, mỗi đồng chí chúng tôi trước lúc lên máy bay đã giắt sẵn trong người một khẩu súng ngắn. Lúc ấy tinh thàn quyết tâm lại chỗi dậy, anh em xúm lại, nhìn đồng đội thoi thóp mà nước ứa đầy hai khóe mắt. "Thà chết đống còn hơn sống một" Cả đoàn lại đứng lên dìu dắt nhau đi bằng được.

    Nhìn trên bản đồ quân sự, chúng tôi ước tính chỉ đi bộ khoảng hai hoặc ba ngày là đến bờ sông Mê Kông, nhưng đã trải qua chín ngày vẫn chưa tới nơi. Vào một buổi chiều, khi mặt trời đã chuẩn bị chìm xuống dãy núi phía sau, phía trước mặt xuất hiện một cánh đồng rộng, tôi nghĩ thầm là sắp đến bờ sông. Cánh đồng đó rất rộng, xung quanh nhà dân mọc lên san sát, chúng tôi không thể ngang nhiên vượt qua đó được. Anh em ngồi lại đó quan sát kỹ lưỡng. Thế là chúng tôi nghỉ lại ở một mép rừng, trong bản có tiếng chó sủa nhiều, phía xa có ánh đèn pha, mọi người bắt đầu thấy lo, lúc chiều đột nhiên gặp một số người dân, có thể đã bị lộ, địch đang tiến hành truy kích. Phương án của chúng tôi vạch ra: Tất cả nằm bất động, cử hai người cảnh giới, phải vượt qua cánh đồng trong đêm nay. Đợi mãi đên 01.00 chúng tôi mới bắt đầu thực hiện, lúc này có sương xuống chó không thể đánh hơi người. Trước lúc lên đường bắt tất cả mọi người phải cởi giầy. Tôi đã quen đi giầy, da bàn chân mỏng như tờ giấy, dẫm lên gốc cây bàn chân cảm thấy nhói buốt, chẳng hiểu thế nào mà tôi đã cùng đồng đội đi suốt đoạn đường dài hai tiếng không nghỉ. Đêm trên đồng tối mờ mịt, bản đồ và địa bàn không thể đối chiếu với bên ngoài được, nhìn lên bầu trời có vì sao Bắc đẩu, chòm Đại hùng tinh, Tiểu hùng tinh cùng chùm sao Chiến sĩ rất sáng, chúng tôi căn vật chuẩn vào đỉnh núi phía sau và ngọn cây phía trước để hành quân. Đến gần sáng thì chúng tôi đến một khu rừng.

    Đây có lẽ là một cuộc thoát hiểm hiếm có trong chiến tranh, đã là ngày thứ mười chúng tôi sống trong nỗi sợ hãi, cái đói, khát cứ liên tục dày vò, không còn đủ sức mà tiếp tục, bờ sông Mê Kông đang vẫy gọi chúng tôi tiến đến. Khu vực này địch rất có thể ập đến bất cứ lúc nào, đã kiệt sức quá rồi nhưng không thể quên cảnh giới. Tối hôm sau chúng tôi lại tiếp tục vượt qua một rừng tranh, thêm hai người nữa mệt quá bị ngất đi, nhưng ước vọng lớn nhất của chúng tôi là nhìn thấy bờ sông Mê Kông, đã mười ngày trôi qua mà vẫn chưa nhìn thấy gì, niềm thất vọng lan ra khắp cả đoàn.

    Ngày hôm đó chúng tôi gặp một người dân, họ đến gần hỏi chuyện:
    - Các ngài đang đi đâu?
    - Chúng tôi là đoàn địa chất của chính phủ. Từ đây đến Vang Sa Phông có xa không? Người trong đoàn biết tiếng Thái nói.
    - Đường lên huyện và ra bờ sông bằng nhau, đi bộ mất khỏang một ngày.
    Họ nói thế và mời chúng tôi vào bản nhưng phải từ chối. Đợi họ đi khuất rồi chúng tôi lần vào rừng sâu.

    Sau cuộc gặp gỡ chúng tôi đã mừng thầm, nhẩm tính chắc chỉ đi bộ thêm ba ngày nữa. Nhưng thực tế không phải như vậy, chúng tôi đi hơn năm ngày nữa mới đến bờ sông, sức chúng tôi đã quá kiệt quệ mất rồi, đi bộ chừng mười lăm phút phải nghỉ mất hàng tiếng đồng hồ, gặp gì ăn nấy. Những khi gặp được một con suối chúng tôi nghỉ lại cả buổi, anh em nào khỏe thì xuống mò ốc bắt cua, nhái nấu để ăn, lúc đó không ai còn biết ghê tởm điều gì hết.

    Mười lăm ngày trôi qua là một cuộc đấu tranh vô cùng ác liệt, sáng sớm ngày thứ mười bảy tôi thức dậy rất sớm, lợi dụng sương mù dày đặc tranh thủ men theo con đường nhỏ đi thám thính xem có phải bờ sông không. Đúng như dự tính bờ sông Mê Kông đang ở ngay trước mặt tôi. Lúc đầu chúng tôi nghi ngờ nhưng mang bản đồ đối chiếu với thực địa thì quả thật đúng như vây. 09.00 rồi mà sương mù vẫn bao phủ khắp mặt nước, bờ sông đoạn này hai bên có rừng cây rậm rạp và các tảng đá to. Chúng tôi ngồi ở đó quan sát sang phía bờ sông bên kia.

    Đến lúc này chỉ cần vượt sang bên kia sông là sự sống của chúng tôi có nhiều hi vọng. Nhưng không thể nôn nóng mà liều lính rơi vào tay địch. Trong đoàn lại nảy sinh nhiều ý kiến, có ngời bảo lợi dụng thuyền của dân, ý kiến khác cho rằng thế là nguy hiểm, thỉnh thoảng lại có thuyền với ca nô chạy qua đoạn sông chúng tôi đang ngắm.

    Nhiều ý kiến đề xuất nên chủ trương chính của chúng tôi vẫn dùng thuyền để vượt sông, e rằng dùng bè chuối một số anh em yếu không đủ sức bơi. Chúng tôi phân công nhau thành nhiều nhóm. Đồng chí Đạt cùng hai người nữa ra mép sông trinh sát và lấy nước cho anh em. Ở dưới sông có năm người dân đang đóng bè nứa, tổ trinh sát thương lượng để họ chở bè nứa qua sông nhưng không được, đồng chí Đạt bào về cần khẩu súng AK, bộ phận sau chuẩn bị mang hành lý lên bè sang sông. Lúc ấy đã là 17.30, mặt sông đã nhá nhem tối. Lúc sau nghe một loạt AK, chúng tôi dồn cả về phía có tiếng nổ, nghĩ rằng tổ trinh sát đã bắn chết năm người dân để cướp bè nứa. Một cuộc đọ súng giữa ta với địch nổ ra. Họ bắn nhau dữ dội! Khi hai đồng chí trong tổ trinh sát quay lại:

    - Đồng chí Đạt đâu? Tôi hỏi.
    - Không biết. Một đồng chí nói rồi nằm vật xuống đất ngất đi.
    Địch trên sông triển khai đội hình chiến đấu, súng của địch bốn phía bắn liên tiếp về phía bờ sông, cả đạn cối cũng nổ tung các cột nước trắng xóa. Tôi nghe thấy chúng hô hoán om xòm nhưng không biết tiếng, con đường phía sau xe tăng chạy ầm ầm. Trời đã buông màn đêm đen kịt xuống từ lúc nào, chúng tôi phải im lặng nằm tại vị trí chờ đồng chí Đạt trở lại. Chúng tôi chờ mãi cho đến 24.00 không thấy đồng chí Đạt quay lại mới tiếp tục đi. Trong suy nghĩ của tôi đoán có lẽ đồng chí ấy đã bị lạc hoặc chết vì bị lộ. Chúng tôi quay lại rừng không dám vượt sông ngay đêm ấy.

    Phải mất thêm hai ngày nữa chúng tôi mới tổ chức vượt sông được. Chúng tôi lê từng bước đi cách chỗ cũ khoảng mười kilomet mới đến bờ sông. Đoạn này cũng hẹp! Chỗ đấy là một cái khe nhỏ, hai bên khe có nhiều chuối rừng mọc, có cả cây đu đủ rất sai, đói quá chúng tôi thi nhau ăn, đến sau này tôi mới biết vì thế mà mình mắc chứng đau dạ dày. Quan sát thấy bờ sông vắng lặng, chúng tôi họp lại, họ phân công tôi làm bí thư chi bộ. Cả đoàn lúc này chỉ còn lại tám người, chia làm hai nhóm vượt sông, tổ chức hiệp đồng cẩn thận song xuôi đây đấy. Đúng đến 02.00 thì hai chiếc bè chuối được hoàn thành, chúng tôi chỉ có 2 con dao díp nhỏ để tiện thân chuối, còn anh em khác dùng mồm để cắn dây buộc cốn bè.

    Mặt sông bồng bềnh trong sương lạnh, tất cả súng đạn cùng đồ đoàn chất lên trên, mỗi người phải lấy một sợi dây buộc mình vào bè chuối phòng mệt bị nước cuốn đi. Lờ mờ sáng thì sang đến bờ bên kia, một số anh bị ngất đi, những người khỏe hơn thì khuân vác đồ cùng cõng anh em vào trong bờ cất giấu, vừa song việc có một chiếc ca nô của địch đi tuần tiễu trên sông. Theo hiệp đồng thì bè nào sang trước ở bên trên thì đi xuôi xuống tìm bạn, bè nào phía dưới thì đi ngược lên, tôi đi ngược tìm những người bên tổ bạn nhưng không thấy, ba anh em trong tổ bị ngất đi mãi đến 15.00 mới tỉnh lại. Chúng tôi tiếp tục ngược lên phía trên tìm bạn, tối hôm ấy bắt đầu có trăng, dưới tán rừng ánh trưng soi mờ ảo, chúng tôi vẫn đi đến khoảng 21.00 thì nghe có tiếng huýt sáo, (lúc trước đã hiệp đồng gọi nhau bằng tiếng huýt, người gọi bằng một tiếng, đáp lại bằng hai tiếng). Tôi huýt lại hai tiếng, thế là anh em gặp được nhau. Đáng lẽ chúng tôi phải cười lên mới đúng. Nhưng chúng tôi chẳng nở được một nụ cười nào. Tất cả lặng đi nhìn về phía bên kia nhớ thương đồng chí Đạt.

    Nếu tôi kể tiếp thì chuyện còn dài lắm, sang đất Lào chúng tôi may mắn gặp được một du kích Pa Thét, lúc đầu họ vẫn chưa tin chúng tôi là quân đội Bắc Việt, họ nghi là Phỉ của Việt Nam Cộng Hòa. Mãi về sau một người trong đoàn gặp một người bạn học hồi còn ở Trung Quốc họ mới tin, chúng tôi còn phải tiếp tục hành quân bộ hơn 300kilomet nữa, về đến cánh đồng Chum bắt được liên lạc về nước. Về sau tôi được biết đồng chí Đạt đã chết trong lần đụng độ ngày hôm ấy (Theo nguồn tin quân sự), chuyến bay đó tôi không bao quên trong ký ức…
    Phạm Đình Cường

    [​IMG]
  6. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Lịch sử KQ VN có ghi về chuyện này:

    Ngày 15 tháng 12 năm 1960, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trực tiếp giao nhiệm vụ cho Cục trưởng Cục Không quân và tổ bay Mi-4 đi đón khách đặc biệt ở Sen Sủn, cách Văng Viêng 25km, giáp biên giới Lào - Thái về Hà Nội. Trung đoàn không quân 919 điều ngay 1 Il-14 sang Sầm Nưa, mang theo xăng dầu để bảo đảm cho Mi-4, còn tổ bay Mi-4: lái chính Phạm Đình Cường-lái chính Hoàng Trọng Khai ngồi ghế lái phụ-dẫn đường trên không Lương Nhật Nguyễn-cơ giới trên không Lê Văn Lạo sẵn sàng chờ lệnh.

    Do thời tiết xấu, 11 giờ 30 phút ngày 16 tháng 12 năm 1960, Mi-4 mới cất cánh từ Gia Lâm và đến Sầm Nưa lúc 14 giờ 30 phút. Sau khi kiểm tra và nạp dầu, Mi-4 bay tiếp theo kế hoạch. Do gió trên cao thay đổi, lại gặp trời mù trong thời gian dài, dẫn đường trên không không phát hiện được sai lệch, nên đã bị lạc đường và tổ bay phải hạ cánh bắt buộc xuống một vùng đất lạ. Trong tình huống hết sức khó khăn, tổ bay đã quyết định thiêu hủy trực thăng và tổ chức thành một đơn vị chiến đấu, tìm đường trở về.

    Sau khi mất liên lạc với Mi-4, Cục Không quân quyết định sử dụng An-2 tiếp tục làm nhiệm vụ. Ngày 21 tháng 12 năm 1960, tổ bay An-2: lái chính Phan Như Cẩn-dẫn đường trên không Hoàng Cần-cơ giới trên không Trần Văn Nam-thông tin trên không Hồ A cất cánh. Tại điểm cuối của đường bay, tổ bay phải vòng đi vòng lại nhiều lần mới xác định được điểm hạ cánh và đón được khách đặc biệt, trong đó có ngài Ki-nim Phôn-sê-na (sau này là Bộ trưởng Ngoại giao trong chính phủ hòa hợp dân tộc ba phái do hoàng thân Xu-pha-na Phu-ma làm Thủ tướng) và đồng chí Chu Huy Mân - Đoàn trưởng Đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam tại Lào. Tổ bay An-2 trở về Gia Lâm an toàn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

    Sau 17 ngày đêm, tổ bay Mi-4 tuy không hoàn thành nhiệm vụ bay đón khách nhưng đã trở về đơn vị, mặc dù bị kẻ địch truy lùng và một người trong đoàn đã anh dũng hy sinh. Sau này, cả hai tổ bay An-2 và Mi-4 được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba, được Đại tướng Võ Nguyên Giáp tặng hoa và chụp ảnh lưu niệm.

    Tài liệu của Thái cũng có ghi chép về vụ này. Do máy bay không mang ký hiệu gì nên họ không biết là máy bay của Lào hay Việt Nam nhưng họ mô tả rõ máy bay màu bạc hai bên thân có sọc đỏ và xanh

    http://www.thai-aviation.net/files/Air_Accidents.pdf

    [​IMG]


    [​IMG]






    [​IMG]
  7. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Năm ấy BH không đi thăm rừng Cúc Phương





    Sinh thời, các chiến sĩ và cán bộ Cục Hàng không thường đưa Bác đi công tác trên chiếc máy bay của nhân dân Liên Xô tặng mang biển số Mi-4 VN 50D. Trong các chuyến đi gần và ít người, các chú phụ trách đã đề nghị Bác dùng trực thăng như trong các chuyến đưa Bác đến Lạng Sơn, Tân Trào, Quảng Ninh...

    Một lần Bác đi công tác Vĩnh Phú, theo chương trình thì chiều là Bác đi ô tô về Hà Nội. Nhưng lần ấy, tối mịt Bác mới xong việc. Anh em trong đoàn vừa lo đường sá, vừa sợ Bác mệt, nên xin điều một máy bay trực thăng để đưa Bác về. Trực thăng đỗ ở sân bóng đá Vĩnh Yên. Tỉnh ủy thưa với Bác và đề nghị Bác lên trực thăng về Hà Nội. Bác cảm ơn rồi nói:

    - Bác có ô tô. Bác về Hà Nội bằng ô tô. Chú nào đã điều máy bay lên thẳng thì chú ấy ra ngồi máy bay mà về...

    Đầu năm 1969, sau khi nghe Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp báo cáo tình hình rừng cây bị phá hoại, phần thì bom đạn, phần thì dân đốt phá, đẵn làm gỗ, làm củi và “cứ đà này, vài năm nữa ta sẽ hoàn thành kế hoạch... tiêu diệt rừng”. Nhân đó, Tổng cục trưởng mời Bác vào thăm rừng Cúc Phương. Tuy sức không còn khỏe, nhưng Bác vẫn vui vẻ nhận lời và nói:

    - Phải đi thăm hang người Việt cổ...

    Bác đề nghị bác Nguyễn Lương Bằng thu xếp cho chuyến đi. Anh em đề nghị Bác không đi ô tô nữa mà đi bằng “trực thăng”. Trước hết, Bác uốn nắn:

    - Tại sao chú không gọi là “lên thẳng” mà cứ gọi là “trực thăng” ? “Trực thăng” thì hơn gì “lên thẳng”?

    - Bác đi ô tô. Các chú cứ cho rằng hễ là Chủ tịch ****, ************* đi đâu, muốn “đi” gì cũng được à? Không phải thế đâu! Để Bác khỏe lên, Bác đi ô tô đến thăm Cúc Phương. Đi máy bay lên thẳng thì thôi, chờ dịp khác. Máy bay lên thẳng để dành khi nào có đồng bào bị tai nạn, bị đau nặng ở vùng rừng núi hẻo lánh khó chạy chữa thì đưa đồng bào nhanh chóng vào bệnh viện. Sau khi mưa bão, lũ lụt cần hộ đê, cứu dân thì dùng.

    Lần ấy chỉ vì không chịu đi máy bay lên thẳng mà Bác đã không đến được Cúc Phương. Mãi mãi anh chị em công nhân, cán bộ trông nom rừng Cúc Phương không đón được Bác để thực hiện một điều mong ước nhỏ.

    Ngày nay, trong rừng Cúc Phương vẫn còn có cái thang của công nhân, cán bộ làm để Bác leo lên thăm hang người Việt cổ. Cái thang ấy không được in dấu chân Người. Ngày ngày, mỗi khi nhìn vào thang, mọi người càng thương nhớ Bác. Họ đặt tên cho cái thang ấy là “Cái thang thương nhớ”.

    Phải bảo vệ từng cành cây

    Hôm ấy, tôi có nhiệm vụ mắc đường dây điện thoại qua vườn Phủ Chủ tịch. Tôi đang trèo lên một cây ở ngay cạnh đường thì nghe có tiếng chân người. Tôi nhìn về phía đó thì thấy Bác đi tới. Tôi loay hoay định tụt xuống thì Bác đã giơ tay ra hiệu dừng lại và nhẹ nhàng hỏi:

    - Cẩn thận kẻo ngã. Chú trèo cây làm gì?

    - Thưa Bác, cháu mắc dây điện thoại ạ!

    Trong lúc ấy, tay tôi vít chặt làm gẫy một cành cây nhỏ. Tôi giật mình nhìn Bác, lo lắng. Bác không nói gì chỉ chú ý xem từng động tác của tôi ra dây, mắc dây vào cành cây. Sau đó, Bác chỉ vào một cành cây to ở cạnh ngay chỗ tôi, nói:

    - Sao chú không mắc dây vào cành kia, vừa to vừa chắc chắn hơn. Các chú mắc dây cần phải chú ý bảo vệ từng cành cây nhỏ, nếu không làm gì có cây to, cành to mà mắc dây.

    Nói xong, Bác đi vào nhà làm việc. Tôi nhìn theo Bác cho đến khi Bác vào hẳn trong nhà. Nhìn vào cành cây vừa gẫy, nhìn vào đường dây đang mắc, tôi càng thấm thía hơn lời dạy của Bác.

    Theo cuốn “***********- Một huyền thoại kỳ vĩ”, NXB Lao động



    [​IMG]
  8. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [​IMG]
    Chủ tịch Mao Trạch Đông chào đón Chủ tịch HCM tại sân bay.
    Xa xa là hai chiếc Li-2


    IL-14 của TQ
    [​IMG]

    [​IMG]
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------
  9. Malogs

    Malogs Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/10/2008
    Bài viết:
    9.910
    Đã được thích:
    3.063
    ko tính để comment, như hay quá nên...
    hồi ký về MI 4 hay tuyệt! vào tay bọn Hollywood là có phim hoành tráng rồi
  10. tee87

    tee87 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/01/2011
    Bài viết:
    33
    Đã được thích:
    0
    Cảm ơn bác phía trên về sự chia sẽ tuyệt vời này. Đối với lớp trẻ như tụi em điều này thật đáng quý. Thật nể phục các bác các chú. Cái này mà cho thành phim thì đúng là tuyệt.

Chia sẻ trang này