1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những điều có thể bạn chưa biết trong Kháng chiến chống Mỹ

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi dinhphdc, 03/01/2009.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. nhoccongsan

    nhoccongsan Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    18/03/2007
    Bài viết:
    1.551
    Đã được thích:
    101
    Trung đoàn 66 "Plây Me" nằm trong biên chế Sư 1, khi Sư 1 rời Tây Nguyên vào Nam sau 68 thì 66 vẫn ở lại Tây Nguyên cho đến.....bây giờ [:D]
  2. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Trước tiên bác tuhaovietnam xem qua cái này Lực lượng quân sự các bên trong CTVN.

    Lực lượng Lôi Hổ chính thức thành lập năm 1964 với sự huấn luyện và yểm trợ tối đa của các đơn vị cố vấn Hoa Kỳ nhưng tổ chức rất bí mật. Từ những đơn vị Liên đoàn 77, đến Biệt Kích Nhảy Bắc cuối cùng là những toán hoạt động được gọi Sở dưới danh xưng Nha Kỹ Thuật như Sở Bắc, Sở Công Tác, Sở Phòng Vệ Duyện Hải, Sở Không Yểm, Sở Tâm Lý Chiến …v…v…
    Nha Kỹ Thuật (NKT) là cơ quan tình báo chiến lược của QLVNCH, là một đơn vị đặc trách tổ chức, hoạt động sưu tầm tin tức tình báo, phản tình báo chiến lược từ nội bộ CSBV cũng như trong hậu tuyến CSBV, những nơi có cơ sở, đơn vị CSBV trong và ngoài lãnh thổ VNCH.
    Khởi đầu là Phòng 6 trong bộ TTM, thời ông Diệm là sở Liên-Lạc Phủ Tổng-Thống và Lực Lượng Ðặc Biệt do đại tá Lê quang Tung làm tư lệnh. Sau 11/63 cho đến tháng 4/75 lần lượt chỉ huy bởi các tướng Nghiêm, Quảng, Lam-Sơn, Phú, trung tá Lan, đại tá Hổ và cuối cùng là đại tá Nu. Danh xưng được đổi từ Phòng 6, đến sở Liên Lạc Phủ TổngThống, Lực Lượng Ðặc Biệt,sở Khai thác Ðiạ hình, và cuối cùng là Nha Kỹ Thuật.
    Trong thời ông Diệm, mọi hoạt động được đại tá Tung trực tiếp nhận chỉ thị cũng như phúc trình với ông Diệm và ông Nhu. Cũng trong thời gian này, mọi hoạt động được cố vấn và yểm trợ bởi cơ quan Trung-Ương Tình-Báo Hoa Kỳ.
    Sau tháng 11/63 mọi hoạt động đều trực tiếp qua đại tướng TTMT bộ TTM và được cố vấn, yểm trợ bởi cơ quan tình báo quân sự Hoa Kỳ SOG (Study and Observation Group). Các đơn vị, cơ sở thuộc NKT gồm: sở Công Tác, sở Liên Lạc, sở Phòng Vệ Duyên Hải, sở Tâm Lý Chiến, sở Không Yểm và trung tâm huấn luyện Quyết Thắng.
    Sở Công Tác đóng tại Sơn Trà, Ðà Nẵng, đoàn 11, 72 đóng tại Ðà nẵng, đoàn 75 đóng trên Pleiku và đoàn 68 tại Saigon. Các toán trong đoàn công tác được huấn luyện xâm nhập bằng hàng không hay đường bộ vào lòng địch tại Bắc Việt hay ngoại biên Lào, Miên hoặc Thái Lan.
    Sở Liên Lạc đóng tại Saigon, chiến đoàn 1 tạiÐà Nẵng, chiến đoàn 2 trên Kontum và chiến đoàn 3 tại Ban Mê Thuột.
    Các toán thuộc sở Liên Lạc xâm nhập vào hậu tuyến địch từ vĩ tuyến 17 trở vào cho đến mũi Cà Mau. Sở Phòng Vệ DuyênHải đóng tại Tiên Sa, Ðà Nẵng gồm Lực lượng Hải Tuần thuộc Hải Quân VNCH, sử dụng thuyền máy PCF, PT có tốc độ nhanh, hỏa lực mạnh để hoạt động phiá bắc hải phận vĩ tuyến 17. Lực lượng Biệt Hải được huấn luyện thành các toán Người Nhái để xâm nhập vào Bắc Việt bằng đường biển.
    Sở Tâm Lý Chiến đóng tại số 7 đường Hồng Thập Tự, Saigon tổ chức và điều hành đài Tiếng Nói Tự Do và đàiGươm Thiêng Ái Quốc. Ngoài ra sở TLC còn có nhiệm vụ gửi cán bộ ra Bắc hoạt động trong lãnh vực tâm lý chiến. Sở Không Yểm đóng tại Saigon thuộc Không Quân VNCH để phối trí phi đoàn trực thăng 219, phi đoàn quansát 110 tại Ðà Nẵng trong việc xâm nhập, liên lạc, hướng dẫn và triệt xuất các toán hoạt động trong lòng địch.
    Trung tâm huấn luyện Quyết Thắng tại Long Thành, Biên Hoà huấn luyện về chiến tranh ngoại lệ cho các toán, các phương pháp xâm nhập vào đãt địch, hoạt-động nơi hậuphương địch, du kích chiến, ám sát, bắt cóc, phá hoại, chiến tranh tâm lý v.v...
    Vì lý do bảo mật, tuy cùng đơn vị, nhiều quân nhân NKT không được phép tiếp xúc hay tìm hiểu nhiệm vụ của một số chiến hữu khác. Các cơ quan, đơn vị NKT đồn trú trên khắp bốn vùng chiến thuật hạn chế tối đa sự liên lạc với các cơ quan quân, dân, chính điạ phương. Vì vậy ít người biết về NKT hoặc chỉ biết mà không hiểu rõ về các hoạt động của NKT.
    Quân nhân, dân sự được tuyển chọn về NKT đều trải qua một cuộc điều tra tỉ mỉ về quá khứ và liên hệ. Tãt cả đều thuộc thành phần tình nguyện (có lần nhà tớ từng viết về vấn đề lực lượng Biệt Cách Nhảy Dù ở những trang trước và có bác nào đó từng thắc mắc về nguồn gốc thông tin, nay có thể xem đây là bổ xung về thông tin đó).
    Những “bóng ma biên giới” là danh từ ám chỉ lực lượng Biệt Cách Nhảy Dùhay Biệt Kích Lôi Hổ, họ thường tự gọi là những "Kinh Kha", họ được Hoa Kỳ tuyển mộ, đào tạo để dùng cho các hoạt động bí mật, khoảng 700 Lôi Hổ đã được gửi ra miền bắc để phát động một cuộc chiến tranh du kích nơi hậu phương miền bắc Việt Nam, trong kế hoạch mang bí danh 34A, kéo dài từ năm 1961 đến năm 1970. Chương trình hoạt động bí mật này liên tục gặp thất bại, khiến cho giới chức lãnh đạo Hoa Kỳ hoài nghi.
    Con số chính xác về số lượng Lôi Hổ làm việc cho Hoa Kỳ thật khó biết, tất cả hồ sơ về cuộc chiến bí mật vẫn còn được giấu kín trong những trung tâm lưu trữ hồ sơ. Những tài liệu đã hết hạn bảo mật chỉ hé mở phần nào về số phận của những biệt kích quân này.
    Kế hoạch hành quân đầu tiên của Lôi Hổ là “34 Alpha”, bắt đầu từ năm 1961 là một kế hoạch bí mật của CIA, tổ chức và võ trang cho biệt kích ở miền Bắc Việt Nam. Nhưng những hoạt động bí mật của Hoa Kỳ, thực sự bắt đầu từ năm 1954, sau khi hiệp định Genève ký kết.
    CIA lập ra những nhóm chống CS để tổ chức những đội quân du kích, bắt cóc, ám sát viên chức chính quyền miền Bắc. Thiết lập những đường dây tình báo và tuyên truyền chống chế độ. Những điệp viên đã không tránh né được hệ thống phản gián của miền Bắc. Rất ít điệp viên thoát được, và những cố gắng này kết thúc vào cuối thập niên 1950 với sự thất bại hoàn toàn.
    Theo Pentagon papers, vài năm sau, CIA mở lại các hoạt động bí mật, sau khi Tổng Thống John F. Kennedy chấp thuận cho các hoạt động bí mật ở miền Bắc Việt Nam và Lào. Cựu giám đốc cơ quan CIA, William E. Colby lúc đó đang làm trưởng phòng đặc trách trông nom khu vực Đông Nam Á, bắt đầu xúc tiến một kế hoạch mới trong năm 1961.
    Trần Quốc Hùng là một trong những người đầu tiên được tuyển mộ. Trong năm 1961, Hùng được người Hoa Kỳ đặt cho mật danh “Columbus” và được lệnh tuyển mộ những người miền Bắc di cư, căm thù CS làm gián điệp, để gửi ra miền Bắc nhằm trao một số tài liệu mật cho những người chống C ộng ở Hà Nội.
    Một chiếc tầu nhỏ của CIA đưa Hùng vào bờ biển miền Bắc tháng 5/1961, với đầy đủ giấy tờ là một học sinh, Hùng tìm đường ra đến Hà Nội. Anh ta trao được một tài liệu mật, nhưng ngay tối hôm đó đã bị nhân viên an ninh miền Bắc theo dõi và tóm cổ, Trần Quốc Hùng không ngờ được là làm sao an ninh miền Bắc nhanh như thế.
    Theo lời cựu giám đốc cơ quan CIA, những điệp viên khác gửi ra Bắc cũng không hiệu quả. Cơ quan an ninh, phản gián miền Bắc bắt giữ gần hết những điệp viên do CIA đưa từ trong miền Nam ra.
    Theo hồ sơ lưu trữ của Bắc Việt, 34 điệp viên trong số 17 đường giây tình báo của cơ quan CIA đã bị tiêu diệt, 140 người khác bị bắt giữ, và con số này chỉ tổng kết riêng cho năm 1963 mà thôi. Nhiều người trong số bị bắt này quay sang làm việc cho tình báo miền Bắc nên không thấy họ xuất hiện trước các phiên tòa ở Hà Nội.
    Mặc dầu vậy, Hoa Kỳ cố gắng tổ chức các hoạt động bí mật lần thứ ba, trao trách nhiệm cho quân đội từ ngày 20/11/1963, khi bộ trưởng Quốc Phòng Robert S. McNamara ra lệnh tổ chức một chương trình quy mô, rộng lớn cho những hoạt động bí mật chống lại miền Bắc Việt Nam. Lúc đó, W. Colby đang giữ chức vụ trưởng phòng CIA trong khu vực Viễn Đông đã lên tiếng cảnh cáo rằng kế hoạch đó sẽ không thành công. Ông ta giải thích thêm, những thất bại của cơ quan CIA tại Việt Nam cũng tương tự như những thất bại trong các hoạt động bí mật của cơ quan này tại Trung Hoa và Hàn Quốc vào cuối thập niên 1940, đầu thập niên 1950.
    Trong tháng Giêng 1964, bộ Tổng Tham Mưu quân lực Hoa Kỳ chấp thuận kế hoạch 34A, những hoạt động bí mật nơi miền bắc Việt Nam. Những hoạt động trong kế hoạch này được Ủy Ban 303 dưới quyền Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Mc George Bundy thông qua. Ủy ban này bao gồm viên chức cao cấp thuộc cơ quan CIA, bộ Quốc Phòng và bộ Ngoại Giao. Tất cả những hoạt động hàng ngày được CIA trao cho bộ tư lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại Việt Nam thi hành. Và đơn vị được trao cho nhiệm vụ này là Đoàn Nghiên Cứu Quan Sát (Study and Observation Group) – đơn vị VNCH chính là Nha Kỹ Thuật.
    Ăn mặc quần áo như nông dân, được trang bị tiểu liên Thụy Sĩ K-9, súng lục, lựu đạn, các biệt kích Lôi Hổ được trực thăng hoặc tầu nhỏ đưa vào miền Bắc Việt Nam. Cũng như CIA đã làm trước đây, thường tuyển mộ người gốc miền Bắc di cư, còn trẻ, hăng say, căm thù CS. Sau khi được huấn luyện các biệt kích Lôi Hổ được đưa đi xâm nhập vào miền Bắc để tổ chức phá hoại các trại binh, căn cứ Hải Quân, theo dõi các cuộc chuyển quân, phá cầu, nhà máy điện, nước, v.v... Các toán biệt kích thường được trao cho nhiệm vụ hoạt động có thể kéo dài nhiều ngày cho đến vài năm.
    Vẫn theo Pentagon papers, trong tháng 12/1963, bộ trưởng Quốc Phòng McNamara gửi văn thư cho Tổng Thống Lyndon B. Johnson nói về kế hoạch 34A: “Xuất sắc... phá hoại miền Bắc Việt Nam... bằng nhiều cách...”. Đại tướng Hoa Kỳ Earn Wheeler và tướng Maxwell Taylor, Tổng Tham Mưu Trưởng quân lực đồng ý với kế hoạch.
    Đến tháng 6/1964, những thất bại trong kế hoạch 34A bắt đầu lộ diện. Theo tài liệu Hải Quân, nhiều trận đột kích của Người Nhái, Biệt Hải vào các mục tiêu dọc theo bờ biển miền Bắc, không đem lại kết quả. Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam lên tiếng “Có lẽ, được huấn luyện rất tốt, nhưng không gây được ảnh hưởng”. Đại tướng Westmoreland, sau này lên chức Tham Mưu Trưởng Lục Quân, đã bắt đầu nghi ngờ về thành quả của kế hoạch 34A trong tháng 4/1964. Cuối cùng, bộ trưởng Quốc Phòng McNamara bắt đầu lo ngại từ tháng Tám.
    Trong vụ vịnh Bắc Bộ, Bắc Việt bị tố cáo xử dụng tầu phóng thủy lôi tấn công hai chiến hạm Hoa Kỳ. Nay đã biết đó là một cái cớ ngụy-tạo để Hoa Kỳ gia tăng mức độ tham chiến tại Việt Nam. Tổng Thống Johnson, nói rằng chuyện xẩy ra trong vịnh Bắc Bộ là hành động gây hấn, ra lệnh thả bom miền Bắc trả đũa. Đó là bước đầu tiên trong việc đưa quân đội Hoa Kỳ vào miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, theo tài liệu của Hải Quân Hoa Kỳ, các biệt kích hải quân miền Nam trong kế hoạch 34A đã đánh phá các mục tiêu dọc theo bờ biển miến Bắc từ nhiều tháng trước. Những trận đột kích này, miền Bắc cho rằng có sự phối hợp với các chiến hạm của Hải Quân Hoa Kỳ.
    Mặc dầu đã có dấu hiệu thất bại trong kế hoạch 34A, nhưng cuộc chiến lan rộng và quân đội Hoa Kỳ được đưa sang Việt Nam ồ ạt với những đơn vị lớn. Tướng Westmoreland cho biết, ông được nghe thuyết trình về các hoạt động biệt kích ngoài Bắc nhiều lần, nhưng lúc đó quá bận trong việc đưa các đơn vị lớn qua Việt Nam. Vài sĩ quan cao cấp khác, chỉ huy Đoàn Nghiên Cứu Quan Sát (SOG) như đại tá Donald Blackburn, sau này lên tướng và về hưu sống ở tiểu bang Florida, nói rằng có sự nghi ngờ, nhưng vẫn cứ gửi thêm biệt kích ra ngoài Bắc. Ông ta nói thêm. Sau này chính ông ta ra lệnh rút ngắn hành quân biệt kích lại chỉ còn một tuần. (biệt kích STRATA, đoàn 11 Nha Kỹ Thuật).
    Đến năm 1968, toán biệt kích cuối cùng trong kế hoạch 34A được gửi ra miền Bắc. Theo Tourison, toán biệt kích này bị thả lầm xuống một vị trí phòng không. “Các biệt kích quân Việt Nam rất can đảm, nhưng kế hoạch không thể nào thành công được”. Cựu trùm cơ quan CIA Colby nói thêm “Tôi đã cố gắng dẹp bỏ kế hoạch này sau một, hai năm thực hiện, nhưng quân đội muốn làm lại từ đầu. Theo tôi, họ cũng thất bại. Nhưng trong một cuộc chiến, bạn phải tìm... đủ mọi cách”.
    Một biệt kích Lôi Hổ tên là Đinh Hùng Nhi kể lại sau khi đã sang Mỹ theo diện H.O năm 1990, ngay từ lúc còn bé, sống ở miền Bắc Việt Nam, Đinh Hùng Nhi đã muốn làm người anh hùng. Trong thời gian huấn luyện, cố vấn Hoa Kỳ nói rằng “Bất cứ chỗ nào anh đến, đều có... (quân bạn)”. Nhưng khi đặt chân xuống miền Bắc Việt Nam, biệt kích Đinh Hùng Nhi chẳng thấy ai...
    Là một biệt kích trong kế hoạch 34A, chuyến công tác đầu tiên dành cho Đinh Hùng Nhi cũng là nhiệm vụ cuối. Ngày 19/11/1965, toán biệt kích Romeo được trực thăng đưa đi xâm nhập miền Bắc Việt Nam. Nhiệm vụ của toán biệt kích, nằm vùng hai năm, dò thám và phá hoại. Nhưng khi xuống, toán biệt kích bị thất lạc trong rừng sáu tuần lễ vì bị đưa vào không đúng điạ điểm xâm nhập. Đến tuần lễ đầu tiên trong tháng 1/1966, toán biệt kích Romeo rơi vào ổ phục kích của đơn vị biên phòng Bắc Việt Nam.
    Cả toán biệt kích bị đưa đến một trại giam ở tỉnh Quảng Bình. Chín tháng sau, Nhi được chuyển đến trại giam Thanh Trì gần Hà Nội, biệt giam thêm một năm. Đinh Hùng Nhi được trả tự do năm 1982. Đinh Hùng Nhi kể hôm được tha về, anh được phát 20 đồng và anh đã dùng cả số tiền đó để ăn tô phở.
    Một năm sau khi toán biệt kích Romeo bị bắt, đại tá John K. Singlaub, sau này lên trung tướng, lên làm chỉ huy trưởng đơn vị SOG, trông coi kế hoạch 34A, nói rằng, chỉ một thời gian ngắn trong chức vụ, ông ta đã biết số phận các toán biệt kích ra ngoài bắc đã bị địch bắt. Nhiều nhân viên truyền tin trong các toán biệt kích gửi những báo cáo sai lạc về cho đơn vị SOG. Thường họ dụ thả các toán biệt kích khác vào khu vực phục kích của họ, hoặc yêu cầu tái tiếp tế cho các toán biệt kích mà thực sự đã nằm trong tay họ. Đại tá về hưu, Fred Caristo, trước đó là đại úy làm việc trong kế hoạch 34A kể lại, có một lần họ nhận được công điện yêu cầu tiếp tế 30 khẩu súng lục cùng với ống hãm thanh, 200 cây thuốc lá Salem, 20 đồng hồ Seiko và một tá giầy da.
    Đơn vị SOG phải loại bỏ những toán biệt kích bị nghi ngờ đang làm việc với địch quân (cắt liên lạc). Singlaub cho rằng, hệ thống an ninh của Bắc Việt rất chặt chẽ, rất khó thực hiện những hoạt động bí mật.
    Ngày 27/1/1973, hiệp định đình chiến được, trong đó có điều khoản trao trả tù binh trong vòng 60 ngày. Mặc dầu với gần 600 tù binh Hoa Kỳ được trả tự do, các tù biệt kích vẫn không được trao trả, có người đã bị bắt trước khi các phi công Hoa Kỳ bị bắt.
    Thực ra, trong bàn hội nghị, người Hoa Kỳ không thể nào lên tiếng đòi hỏi miền Bắc trả tự do cho các biệt kích quân Lôi Hổ. Người Hoa Kỳ đổ lỗi cho phiá VNCH “Làm sao chúng tôi mở miệng được. Kế hoạch 34A là những hoạt động bí mật, phải chối cãi. Mặc dầu chúng tôi tuyển mộ, huấn luyện, trả lương cho họ. Nhưng các biệt kích quân là người Việt Nam, Tổng Thống Thiệu là người phải đem họ về”.
    Dường như, có đôi lần phiá VNCH đã muốn nói đến số phận các biệt kích quân bị giam giữ ngoài Bắc. Theo lời một vị đại tá VNCH, ẩn danh, hiện đang sống ở Orange County (Quận Cam), VNCH đã soạn một danh sách hơn 100 biệt kích quân bị bắt ngoài Bắc để đem lên bàn hội nghị. Nhưng sau đó, không nhắc đến.
    Tourison, người viết quyển sách “Cuộc Chiến Bí Mật, Đạo Quân Bí Mật” nói rằng, có bằng chứng rõ ràng, Hoa Kỳ biết các biệt kích quân Lôi Hổ vẫn còn sống, nhưng không thương thuyết để họ được trao trả. Những phiên tòa xử biệt kích đã được đăng tải trên báo chí, và phát thanh trên hệ thống truyền thanh miền Bắc. Caristo cũng nhìn nhận, có những buổi phát thanh xử biệt kích trên làn sóng phát thanh, sau khi gia đình họ đã được thông báo người lính biệt kích đã chết và trả tiền “tử” cho gia đình họ. “Hoạt động của chúng tôi đã thất bại và chúng tôi đã nói dối gia đình của họ”. Tourison nói thêm “Khi chúng ta có cơ hội đem họ về (hiệp định Paris), chúng ta lại bỏ qua”.
    John Madison, một đại tá về hưu, trưởng phái đoàn Hoa Kỳ sang Việt Nam để bảo đảm tất cả các tù binh Hoa Kỳ được trả tự do. Ông ta nói rằng, không nghe ai nói đến tù biệt kích, và phái đoàn ông ta qua Việt Nam, cũng không được lệnh đòi hỏi về họ. Theo ông ta, trách nhiệm về các tù biệt kích nằm trong tay VNCH. Ông ta không nhớ rõ, phiá VNCH có lần nào nói đến các tù biệt kích không. Đại tá về hưu Harry J. Summers, Jr. cùng đi với phái đoàn Hoa Kỳ nói rằng, các tù binh biệt kích đúng ra phải được trả về. Trong danh sách tù binh lại không có tên họ. Tôi không rõ, phiá Hoa Kỳ, hay các phái đoàn khác nhắc đến họ. Họ bị chính quyền miền Bắc kết tội làm gián điệp... có lẽ vì thế không có tên trong danh sách tù binh.
    Tổng hợp từ nhiều nguồn.
  3. tuhaovietnam

    tuhaovietnam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/10/2010
    Bài viết:
    86
    Đã được thích:
    1
    May mắn quá! Tính tuần sau cụ nhà em về mới trả lời các bác dc nhưng sáng nay cụ nhà em từ DBP về rồi nên nhà em có hỏi cụ và trả lời các bác như sau :
    1./ TD 66 là con đẻ của sư đòan 304 _quả đấm thép của vùng Bình trị thiên _ khi qua sông Bến Hải thì TĐ 66 mang phiên hiệu TĐ 66 A còn TĐ 66 vẫn đóng ở Quảng trị là TĐ 66 B
    2./ TĐ 66 B tham gia chiến dịch Đác tô sau đó xuống Nha Trang_Khánh Hóa rồi về Tây Ninh vẫn mang phiên hiệu TĐ 66B nhưng khi xuống miền tây nam bộ thì đổi phiên hiệu là TĐ 61C_ giai đọan này bắc Năm Thắng là Trung đòan trưởng!
    3./ Sau khi bác Ba chân bị bác thì sư trưởng sư 1 là bác Bảy Mai sau đó mới là bác Bảy Sơn đến khi sư đòan 1 giải tán vào năm 1973
    4./ Khi sư 1 giải tán thì TĐ 61C nhập vào đòan 195 do bác Lê Đức Anh làm đòan trưởng!
    5./ TĐ 46 mà bác chiangsan nói ở trên đã từng tham gia đuổi Mỹ ở Cửa Việt nhưng khi về miền tây nam bộ và qua Campuchia thì bị lính khome đỏ làm mất sức chiến đấu
    6./ Nhà em có hỏi cụ về việc thay đổi phiên hiệu và các thông tin chính thống trong quân sử mà các bác có cho biết thì cụ nói là sư đòan và các TĐ thay đổi lính hay phiên hiệu thường xuyên tùy vào từng chiến trường thậm chí từng trận đánh_các cụ chỉ biết chỉ huy trực tiếp thôi, còn những gì quân sử công bố thì các cụ không hề biết!
    Kính các bác
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------
    Bác chiangsan cho nhà em hỏi 1 câu : Bác có bao giờ nghe thấy sách quân sử của mình nhắc đến Út Thới chỉ huy sư đòan 9 chưa ah? Nếu bác có nghe thì cho nhà em biết, nhà em sẽ cho bác biết tiểu sử của ông này
  4. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Út Thới - Nguyễn Thới Bưng - [FONT=arial, helvetica, sans-serif]Trung tướng Nguyễn Thới Bưng đã từng giữ các chức vụ: Tư lệnh Quân khu 9, Tư lệnh Quân khu 7, Tư lệnh chiến trường Campuchia, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Ủy viên Trung ương Đảng (các khóa VI, VII), Đại biểu Quốc hội khóa VIII…
    [/FONT][FONT=arial, helvetica, sans-serif]Nơi chôn nhau cắt rốn của ông là xã An Tịnh, huyện Trảng Bàng (tỉnh Tây Ninh). Cả xã lẫn huyện này đều đã 2 lần được phong Anh hùng. Riêng xã An Tịnh có 1.200 liệt sĩ, 54 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, 5 Anh hùng lực lượng vũ trang, hầu hết các gia đình đều có công với cách mạng… An Tịnh còn nổi tiếng với sự kiện 27 thanh niên tiền phong cùng mở Hội thề Rừng Rung vào năm 1945, thề chiến đấu đến hơi thở cuối cùng vì độc lập tự do của Tổ quốc.[/FONT][FONT=arial, helvetica, sans-serif] Sau hội thề năm ấy, ông cùng 26 bạn bè đã lên đường chiến đấu và trở thành những lãnh đạo chủ chốt của các quân khu ở chiến trường miền Đông Nam bộ suốt hai thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ.[/FONT] (Những ngày cuối cùng ở Căm Xe)
    Năm 1965, ông là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 5, chính ủy là Ba Cúc (Thếu tướng Nguyễn Văn Cúc sau này) đa phần là lính miền Tây Nam Bộ, cá rô kêu “cá gô’, cái rổ gọi là “cái gổ”. Bởi thế có tên “Trung đoàn Cá Gô”.
    Ngày 23/11/1965, tại chiến khu Đ, Trung đoàn 5 hợp với Trung đoàn 4 thành Sư đoàn 5. Trung đoàn 4 thành lập ngày 2/3/1965 tại sông Đồng Nai, thuộc chiến khu Đ, còn gọi là trung đoàn Đồng Nai. Trung đoàn trưởng là anh Năm Tâm (Trần Minh Tâm), chính ủy là anh Ba Kỷ (Đặng Kỷ). Trung đoàn toàn lính tình nguyện miền Đông và khung cán bộ “Mùa thu”. Gọi là lính “Mùa thu” vì trong bài hát “Nam Bộ kháng chiến” của Tạ Thanh Sơn có câu “Mùa thu này, ngày 23, ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến”. Anh em đi lính từ ngày ấy, nên gọi là lính “Mùa thu”. Họ đã lớn tuổi lại từ miền Bắc trở về nên có chút kinh nghiệm chỉ huy chiến đấu, hầu hết đã học qua trường Lục quân Trần Quốc Tuấn ở Sơn Tây.
    Trung đoàn 4 đóng quân gần sư bộ nhất, chỉ đi hết hai ngày là tới “Dốc 30” trên đường 20, vượt đường, vượt lô cao su là vào tới rừng râm “Tam giác Sắt”. Khu rừng này nằm lọt trong một tam giác có 3 cạnh là ba huyết lộ: lộ 20, lộ số 1 và tỉnh lộ Biên Hòa (đường 16 Bình Mỹ - Tân Uyên). “Tam giắc Sắt” là cánh cửa bảo vệ phía Nam chiến khu Đ, chỉ cách sân bay Biên Hòa 4 km, cho nên địch đánh phá ác liệt và trung đoàn 4 cũng chiến đấu ngang ngửa, giành nhiều chiến công, được tặng danh hiệu “Trung đoàn Quyết Thắng”.
    Bộ chỉ huy sư đoàn 5 đóng ở khu rừng Buôn thuộc Bà Rịa, giáp Lâm Đồng (nay là rừng cấm thiên nhiên quốc gia Cát Tiên). Cây Buôn giống cây cọ, nhưng thấp hơn, lá nó to bằng chiếc chiếu đôi, vì thế ở đây suốt ngày không thấy mặt trời; mà dã kín như thế thì chỉ tổ sốt rét. Anh Năm Truyện Tư lệnh sư đoàn, anh Sáu Lựu (sau này là trung tướng Nguyễn An) chính ủy sư đoàn.
    Anh Năm Truyện còn có tên “Năm Sài Gòn”, vì khi còn làm trung đoàn trưởng trung đoàn 1 đánh trận Bình Giã đầu năm 1965, sở chỉ huy của anh lấy mật danh “Sài Gòn”. Tên anh là Nguyễn Thế Truyện, người cao ráo sáng sủa, đeo kính trắng, ăn nói nhỏ nhẹ dễ gần. Anh rất được các anh trong Bộ Tư lệnh Miền như các anh Sáu Di (Nguyễn Chí Thanh), Tư Chi (Trần Văn Trà), Ba Long (Lê Trọng Tấn), Chín Vinh (Trần Độ), chị Ba Định, anh Năm Thạch (Hoàng Cầm) v.v… cưng chiều. Anh là cán bộ cấp cao nhất của “Việt C ộng” dám đóng giả đại thương gia, đi đường công khai từ Bàu Đồn Tây Ninh theo quốc lộ 1 vào Sài Gòn để nghiên cứu việc bố phòng sân bay Tân Sơn Nhất, chuẩn bị cho quân ta tấn công trong dịp Tết Mậu Thân 1968. Người đưa đường cho anh là anh Ba Lễ, chủ tịch Ủy ban Cựu chiến binh trong Thượng viện Sài Gòn, một tình báo viên của ta. Anh Năm Truyện hy sinh ngay đợt đầu Mậu Thân, khi giữ chức Tư lệnh Phân khu I (cánh quân Tây Bắc Sài Gòn), bởi người đồng chí của anh là thượng tá chính ủy Tám Hà ra chiêu hồi địch ngày 4/2/1968 đã chỉ đường cho xe tăng Mỹ vây Sở Chỉ huy Phân khu đóng ở đồng mía gần gò Chùa.
    ...
    Còn “Dàn nhạc Tân Tây Lan” là gì ? Đầu năm 1965, lữ đoàn bộ binh Hoàng gia số 1 của Úc và tiểu đoàn pháo binh hạng nặng Tân Tây Lan vào Miền Nam Việt Nam, đóng quân ở Núi Đất, Bà Rịa. Lữ đoàn là trung đoàn tăng cường thêm một tiểu đoàn cơ giới, một tiểu đoàn pháo binh, hai đại đội công binh, nên quân số của nó bằng hai trung đoàn của ta. Bon Úc mới sang, muốn ra oai với đàn em Hàn quốc, Thái Lan, ngụy quân, nên chúng đánh nhau khá gan dạ. Trung đoàn 4 cùng bộ đội địa phương quyết đánh trận phủ đầu, dạy cho nó một bài học. Chẳng ngờ, vùng Núi Đất địa hình trống trải, Mỹ lại chi viện phi pháo tối đa, kể cả hải pháo 203 ly (mỗi quả đạn nặng 90kg, lắp đạn bằng máy nâng) từ chiến hạm đậu ngoài biển Đông cũng bắn chi viện. Đặc biệt lợi hại là tiểu đoàn pháo binh Tân Tây Lan oanh tạc pháo bầy, tức 24 khẩu 155 ly bắn cấp tập không nghỉ. Trận ấy quân ta thương vong khá nặng, hơn 600 người, đến nỗi bệnh viện quân y 1.500 (của đoàn hạu cần chiến khu Đ555, sau đổi phiên hiệu là đoàn 1.500) lớn cỡ nhất Miền Đông cũng không còn chỗ cho thương binh điều trị. Tôi đã đến quân y 1.500 và thấy đúng là không còn chỗ cho thương binh nữa.
    Năm 2005, nghe nói có đoàn cựu chiến binh Úc dự trận Núi Đất năm xưa xin phép ta được thăm lại chiến trường cũ cách nay đã 40 năm, nhưng ta từ chối, vì không muốn gợi lại vết thương cũ. Vả lại quan hệ Việt-Úc ngày nay đang phát triển tốt đẹp.
    Sau trận Núi Đất tháng 3/1965, tên gọi “Dàn nhạc Tân Tây Lan” xuất hiện, để chỉ trận oanh tạc pháo hạng nặng của địch, kiểu pháo bầy, chử cứ là của Tân Tây Lan. Muốn dựng được “Dàn nhạc Tân Tây Lan’ thì phải có nhiều đạn, mà muốn có nhiều đạn thì phải có nhiều tiền. Ai nhiều tiền ? Mỹ chứ còn ai ? Nghe nói một trái đạn 15 ly giá những 2 cây vàng, “Việt C ộng” ta lấy đâu ra tiền để dựng “Dàn nhạc Tân Tây Lan”? Anh Phan Lĩnh, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2 trung đoàn 209, là trung đoàn đánh trận mở màn Điện Biên Phủ lẫy lừng năm xưa, gặp tôi trong trận Cầu Vịnh, Tây Ninh năm 1968, sau khi nghe tôi kể chuyện “dàn nhạc Tân Tây Lan” ở Núi Đất, anh bảo tôi: “Hôm tớ đánh trận Him Lam ở Điện Biên năm 1954, 24 khẩu pháo 105 ly của ta do Trung Quốc viện trợ, chở từ Côn Minh, Vân Nam về; cố vấn Trung Quốc ngồi tại chỗ chỉ huy bắn, cũng chỉ dám bắn có 1.000 quả đạn. Ấy vậy mà tên quan tư chỉ huy pháo binh Pháp đã phải tự sát rồi. Huống hồ bây giờ bọn Tân Tây Lan bắn 5.000 quả trong một trận đánh thì hãi thật, mà lại là đại pháo 155 ly nữa chứ ! Hãi thật, hãi thật !” …(Miền Đông Nam Bộ khói lửa - H.B, cựu phóng viên báo Quân Giải phóng)
  5. tuhaovietnam

    tuhaovietnam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/10/2010
    Bài viết:
    86
    Đã được thích:
    1
    Hình như ông này hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ _ nếu là sư trưởng sư 9 !
  6. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Ông nào hả bác? Trung tướng Nguyễn Thới Bưng thì còn mà, Họp mặt kỷ niệm 64 năm Hội thề Rừng Rong có ông mà.
    Về Lôi Hổ, bác nào quan tâm có thể xem cuốn Cuộc chiến bí mật - Hồ sơ lực lượng biệt quân ng-ụy do NXB Lao Động ấn hành, bản dịch của một cựu biệt kích quân VNCH - Giáo sư Vũ Đình Hiếu, hiện bác baogt đang số hóa bên Khucquanhanh.vn http://khucquanhanh.vn/diendan/viewtopic.php?f=17&t=113&start=0 hoặc cuốn Cuộc chiến tranh bí mật chống Hà Nội - The secret war against Hanoi do NXB Văn hoá - Thông tin ấn hành, bản điện tử do ptlinh, chuongxedap thực hiện bên quansuvn.net http://www.quansuvn.net/index.php/topic,1291.msg16598.html#msg16598
  7. tuhaovietnam

    tuhaovietnam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/10/2010
    Bài viết:
    86
    Đã được thích:
    1
    Lính Lôi Hổ phải nói là khá gan dạ và liều lĩnh! Khi mới giải phóng và đến những năm 9x khu vực gia binh Lôi Hổ là khu vực tương đối lộn xộn của tp BH!
    Thôi để nhà em nói tiếp những gì nhà em biết!
    Đặc điểm của chiến trường miền Tây thời kỳ trực thăng vận là trực thăng hay đi " vồ " người, không phân biệt dân hay lính, thêm 1 điều nữa khi bị lính Mỹ bắt nếu là bộ đội Bắc việt thì lính Mỹ đối xử khá đàng hòang và đưa ra Phú Quốc, tuy nhiên nếu là du kích thì chuyển qua cho VNCH_đưong nhiên là bị đánh đập chẳng theo quy chế nào cả_ vì điều này nên du kích bị bắt hay khai là bộ đội BV để không bị chuyển qua cho VNCH.
    Sau hiệp định Giơnevơ 1973 có trao trả tù binh ở 2 nơi là sông Thạch Hãn và Lộc An ( Tây Ninh), để sàng lọc lực lượng này, nhà ta có chính sách thẩm tra bí mật ( ví dụ như khai là lính của sư đòan nào thì gửi giấy về cho quân lực của sư đòan đó kiểm tra xem trong giai đọan đó có tham gia ở vùng đó không? có tên trong biên chế hay không?.......) Những bác nào được xác nhận là Có thì cho về đơn vị chiến đấu_ Bác nào đơn vị xác nhận Không thì được chuyển qua TK60_Tây Ninh
  8. nhoccongsan

    nhoccongsan Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    18/03/2007
    Bài viết:
    1.551
    Đã được thích:
    101
    Coi mấy cái đặc biệt này hay đấy, mà reg nick bên http://khucquanhanh.vn/diendan cũng có coi được đâu ^:)^
  9. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
  10. nhoccongsan

    nhoccongsan Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    18/03/2007
    Bài viết:
    1.551
    Đã được thích:
    101
    Phải kích hoạt mới vào 4rum đc chứ, toàn gặp cái này: Bạn không được cấp phép để xem chuyên mục này.

    Nhà bác copy qua đây luôn cho anh em cùng xem, để nguồn web họ là được :-bd
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này