1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những điều có thể bạn chưa biết trong Kháng chiến chống Mỹ

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi dinhphdc, 03/01/2009.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. SilentEagle

    SilentEagle Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    12/11/2009
    Bài viết:
    386
    Đã được thích:
    5
    Đơn sơ quá nhìn muốn rơi nước mắt
  2. minh91

    minh91 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    20/10/2006
    Bài viết:
    1.205
    Đã được thích:
    906
    Đấy là cái lươn của bạn mình, mới đầu tổng cộng là 300K lượt người, bạn mình chế lại là cao điểm là lên 300K quân để chống chế với cao điểm lên đến 1m quân của phe bên kia. Bạn thông cảm, tính bạn mình xưa nay nó vưỡn thế
  3. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Lá thư của cụ Ngạc gửi vợ năm 66

    [​IMG]
  4. baogt_khucquanhanh.vn

    baogt_khucquanhanh.vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/10/2010
    Bài viết:
    68
    Đã được thích:
    0
  5. TamXichLo

    TamXichLo Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/12/2010
    Bài viết:
    21
    Đã được thích:
    0
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Gần 60 quan tham, chỉ truy tố 5 người[/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Friday, December 24, 2010 [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif][/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif][/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]
    CÀ MAU 25-12 (TH) - Tổng cộng gần 60 quan tham đã chia nhau xâu xét tiền viện trợ “khuyến ngư” ở tỉnh Cà Mau, nhưng chỉ có 5 quan bị truy tố.
    Theo tin của Bee.net, “Ngày 24 tháng 12, cơ quan CSÐT Bộ Công An triển khai quyết định khởi tố bị can, bắt tạm giam ông Nguyễn Thông Nhận, nguyên PGÐ Sở NN- PTNT và ông Nguyễn Trung Chánh, nguyên PGÐ Trung Tâm Khuyến Ngư tỉnh Cà Mau. Ba cán bộ khác của Trung Tâm Khuyến Ngư là ông Hà Phú Lợi, Lê Quốc Tuấn và bà Hoàng Thị Bút cũng bị khởi tố bị can nhưng cho tại ngoại. 5 vị quan chức này bị khởi tố về hành vi tham ô tài sản theo điều 278 Bộ luật Hình sự.”
    Bee.net dựa vào tin từ cơ quan điều tra nói rằng, dự án “Nâng cao năng lực nuôi trồng thủy sản tại tỉnh Cà Mau” do chính phủ Ðan Mạch tài trợ (2006-2008) “đã bị lập chứng từ khống” để chia nhau nuốt 2.1 tỷ đồng, chi sai nguyên tắc 1.9 tỷ đồng. Trong đó, ông Nguyễn Thông Nhận là giám đốc dự án “chiếm đoạt 55 triệu đồng, ông Nguyễn Trung Chánh là phó giám đốc dự án chiếm đoạt 129 triệu đồng”.
    Ngoài 5 người bị truy tố, vẫn theo tin của Bee.net, dính trong vụ này “có gần 60 cán bộ thuộc ngành NN-PTNT tỉnh Cà Mau” nhưng chỉ “bị xử lý hành chính và buộc hoàn trả tiền chiếm đoạt”.
    Mỗi khi có “dự án” là có tiền đút túi nên quan chức đủ mọi ngành đã đua nhau lập các dự án để chia chác, tham nhũng. Trong cuộc họp cấp viện ở Hà Nội hồi đầu tháng, chế độ Hà Nội đã bị đòi hỏi chống tham nhũng mạnh mẽ nhưng tình hình không có gì thay đổi.
    Mới đây, ngày 16 tháng 12, 2010 tờ báo điện tử VietNamNet trực thuộc Bộ Thông Tin Truyền Thông đã phải đăng lời xin lỗi vì loan tin hôm 14 tháng 12, 2010 là công an CSVN tham nhũng nhất, dựa theo bản phúc trình của Tổ Chức Minh Bạch Thế Giới.
    Tổng biên tập VietNamNet nhận biện pháp kỷ luật tự “khiển khách”, một kiểu tự tay tát má mình. Còn ký giả dịch tóm tắt bản phúc trình của Tổ Chức Minh Bạch Quốc Tế thì cũng bị cảnh cáo và sẽ không được tái cấp thẻ hành nghề ký giả khi hết hạn.
    Ngày 8 tháng 12, đại sứ Thụy Ðiển tại Việt Nam Staffan Herrstrom nói trong cuộc họp cấp viện rằng hiệu quả chống tham nhũng sẽ gia tăng nếu Quốc Hội của chế độ thông qua luật về quyền tiếp cận thông tin. Bởi vì quyền tự do thông tin thật sự là yếu tố hàng đầu để chống tham nhũng.
    Toàn bộ guồng máy thông tin tuyên truyền ở Việt Nam đều nằm ở trong tay nhà nước.

    [/FONT]
  6. TamXichLo

    TamXichLo Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/12/2010
    Bài viết:
    21
    Đã được thích:
    0
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Từ Bảo Ðại đến **************: Hai bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập[/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Monday, September 13, 2010 [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif][/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif][/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]


    Sáu mươi năm nhìn lại

    * Phạm Cao Dương

    Trong lịch sử tranh đấu giành độc lập của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ hai mươi, hai lần nước ta đã được các nhà cầm quyền đương thời chính thức tuyên bố độc lập. Lần thứ nhất vào ngày 11 tháng 3 năm 1945 bởi Hoàng Ðế Bảo Ðại và lần thứ hai vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 bởi Chủ Tịch Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa **************. [​IMG]Cựu hòang Bảo Đại ( trái) tới Hà Nội, năm 1945 ( Hình : AFP/Getty Images )
    Hai lần cả thảy, nhưng đa số người Việt chỉ biết hay chỉ được học có một lần. Họ chỉ biết hay chỉ được học bản tuyên ngôn của ************** ngày 2 tháng 9 mà không biết hay không được học bản tuyên ngôn của Bảo Ðại ngày 11 tháng 3. Lịch sử do đó chỉ được biết có một nửa thay vì toàn vẹn. Bài này nhằm bổ khuyết cho tình trạng thiếu sót đó, đồng thời phân tích nội dung và ý nghĩa của từng bản.

    Tuyên ngôn của Hoàng Ðế Bảo Ðại

    Hoàn cảnh được công bố

    Bản tuyên ngôn độc Lập của Hoàng Ðế Bảo Ðại được công bố ngày 11 tháng 3 năm 1945, hai ngày sau khi Nhật đảo chính Pháp ở Ðông Dương và sau một thời gian dài hơn bốn năm, từ tháng 9 năm 1940, sau khi quân Nhật vào phần đất này của Ðông Nam Á, gần năm tháng trước khi Nhật Bản đầu hàng và Thế Chiến Thứ Hai kết thúc. Trong thời gian này Việt Nam bị sống dưới sự cai trị của cả người Pháp, từ sau khi Hòa Ước 1884 được ký kết, lẫn người Nhật, từ ngày 22 tháng 9 năm 1940, với một hậu quả khủng khiếp là Trận Ðói Tháng Ba Năm Ất Dậu. Hoàn cảnh này đã làm cho không chỉ riêng những người Cộng Sản, vốn chủ trương đánh đổ chế độ quân chủ để cướp chính quyền (chữ của chính người Cộng Sản) để từ đó thực thi cách mạng vô sản mà luôn cả những người không những không có cảm tình với chế độ quân chủ đương thời mà còn chủ trương lật đổ chế độ này để thay thế bằng một chế độ dân chủ, không nhìn nhận giá trị đích thực của bản tuyên ngôn này. Lý do là vì Bảo Ðại luôn luôn bị coi như một ông vua bù nhìn, trước kia trong tay người Pháp và lúc đó trong tay người Nhật. Theo họ trước kia người Pháp bảo sao, ông làm vậy và sau đảo chính 9 tháng 3 năm 1945, người Nhật bảo ông tuyên bố độc lập thì ông tuyên bố độc lập, thế thôi. Người ta hiểu hay được học đơn giản như vậy. Nền độc lập mà Bảo Ðại tuyên bố theo họ chỉ là do người Nhật ban cho và bản tuyên ngôn của ông chẳng có một giá trị gì trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của người Việt. Thực chất của nó chỉ là “sự tuyên bố công khai việc thay thầy đổi chủ của triều đình Bảo Ðại” (1) không hơn không kém. Sự thực không đơn giản như vậy. Người Nhật có lý do làm đảo chính lật đổ người Pháp và Bảo Ðại có lý do phải chấp nhận yêu cầu của người Nhật tuyên bố Việt Nam độc lập. Lý do của Bảo Ðại đã được ông giải thích khi tiếp kiến Trần Trọng Kim và cố gắng thuyết phục ông này chấp nhận làm ************** đầu tiên của chính phủ Nam Triều độc lập. Nguyên văn câu nói của Bảo Ðại được Trần Trọng Kim kể lại như sau:
    - “Trước kia nước Pháp giữ quyền bảo hộ nước ta, nay đã không giữ được nước cho ta, để quân Nhật đánh đổ, vậy những điều trong hiệp ước năm 1884 không có hiệu quả nữa, nên bộ thượng thư đã tuyên hủy hiệp ước ấy. Trẫm phải đứng vai chủ trương việc nước và lập chính phủ để đối phó mọi việc.” (2)
    Người ta cần phải nhớ là hơn mười năm trước đó, sau khi du học từ Pháp về tới Huế được hai ngày, ngày tháng 10 tháng 9 năm 1932, Bảo Ðại đã ra Dụ số 1 tuyên bố chấp chính và khẳng định chế độ quân chủ của Nam Triều hủy bỏ Quy Ước 6 tháng 11 năm 1925 do Hội Ðồng Phụ Chính, đứng đầu là Tôn Thất Hân, ký với Toàn Quyền Ðông Dương thời ông còn nhỏ tuổi và đang du học bên Pháp, tước bỏ hầu hết các quyền hành còn lại của nhà vua trừ các quyền có tính cách nghi lễ, ân xá, sắc phong, tế lễ... kèm theo nhiều dụ khác nhằm thực hiện những cải cách qui mô trong nền hành chánh của chính phủ Nam Triều, nhưng đã bị người Pháp ngăn cản và bị thất bại. Ðảo chính 9 tháng 3 năm 1945 và lời yêu cầu tuyên bố độc lập của người Nhật dù gì đi chăng nữa cũng là điều vị hoàng đế còn trẻ tuổi từ lâu mong đợi. Ngoài ra theo nhận định và giải thích nhằm thúc đẩy Trần Trọng Kim chịu khó lập chính phủ mới. Ông nói:
    - “Trước kia người mình chưa độc lập. Nay có cơ hội, tuy chưa phải độc lập hẳn, nhưng mình cũng phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập. Nếu không có chính phủ thì người Nhật bảo mình bất lực, tất họ lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta. Vậy ông nên vì nghĩa vụ cố lập thành một chính phủ để lo việc nước.” (3)
    Hai tiếng “cơ hội” Bảo Ðại dùng ở đây cho ta thấy ông từ lâu mong có dịp này. Ðồng thời ông cũng hiểu rằng nền độc lập mà ông tuyên cáo chưa phải độc lập hẳn. Chưa hết, tuyên bố rồi ông còn có nhu cầu phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập và nhất là để tránh không cho người Nhật “lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta.” (3) Một sự e ngại chỉ có những người có kiến thức về lịch sử và chính trị học mới biết được. Ngoài ra những tiếng “rất có hại cho nước ta” cũng cho người ta thấy đối tương của hành động tuyên cáo độc lập của ông không phải là ngôi vua mà là đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam, đất nước của ông và thần dân của ông. Cái nhìn và quan điểm này cũng như sự hiểu biết của ông về tình hình thế giới và thế thất bại của người Nhật về sau đã được ông nói rõ trong hồi ký của ông. Riêng đối với người Nhật, ông đã không tin tưởng ở họ cũng như chiêu bài Ðại Ðông Á của họ. Nói cách khác Bảo Ðại ở vị thế phải chấp nhận nhập cuộc dù ông hiểu rõ sự phức tạp của vấn đề. Phần khác như ông cũng nói tới trong hồi ký của ông: Ðộc lập là ước mơ của tất cả mọi người Việt Nam thời đó.

    Nội dung bản Tuyên ngôn

    Ðây là một bản văn tương đối ngắn so với những bản văn cùng loại, nhằm ba mục tiêu chính yếu là hủy bỏ một hòa ước Triều Ðình Huế đã ký với nước Pháp, tuyên bố Việt Nam độc lập, đứng vào khối Ðại Ðông Á trong chương trình phát triển chung, đồng thời bày tỏ sự tin tưởng vào lòng thành của nước Nhật với nguyên văn như sau:
    - Cứ tình hình chung trong thiên hạ, tình thế riêng cõi Ðông Á, chính phủ Việt Nam tuyên bố từ ngày này điều ước bảo hộ với nước Pháp bãi bỏ và nước Nam khôi phục quyền độc lập.
    - Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập và theo như lời tuyên ngôn chung của Ðại Ðông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vượng chung.
    - Vậy chính phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc, quyết chí hợp tác với nước Nhật, đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên. (4)
    Bản tuyên bố được đề ngày 11 tháng 3 năm 1945 tức ngày 27 tháng 1 năm Bảo Ðại thứ 20 được Bảo Ðại ký tên với sáu thượng thư phó thự. Sáu vị thương thư gồm có: Phạm Quỳnh, bộ Lại, Hồ Ðắc Khải, bộ Hộ, Ưng Úy, bộ Lễ, Bùi Bằng Ðoàn, bộ Hình, Trần Thanh Ðạt, bộ Học, và Trương Như Ðịnh, bộ Công. Theo Bảo Ðại đây là lần đầu tiên trong lịch sử một văn kiện được ký bởi nhà vua và tất cả các nhân vật quan trọng nhất trong triều đình.
    Ðọc bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập này của Bảo Ðại, người ta cần chú ý tới những chi tiết sau đây:
    Thứ nhất: Gọi là tuyên ngôn nhưng thực sự đây chỉ là một văn kiện hủy bỏ một điều ước đã được ký kết trước đó vì do tình hình biến chuyển một trong hai phía đã không tôn trọng những gì mình đã ký kết hay không thực thi được những gì mình đã ký kết trong một sinh hoạt quốc tế. Ðiều ước bị hủy bỏ ở đây là Hòa Ước Giáp Thân được ký kết giữa Triều Ðình Huế và người Pháp ngày 6 tháng 6 năm 1884, đặc biệt hai điều khoản của hòa ước này là điều khoản thứ nhất, theo đó Việt Nam công nhận và chấp nhận Quyền Bảo Hộ của nước Pháp và điều khoản thứ mười lăm, theo đó nước Pháp cam kết bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ của các xứ do vua Việt Nam cai trị và bảo vệ nhà vua chống lại những sự xâm nhập từ bên ngoài và những cuộc nổi loạn từ bên trong... (5). Sự hủy bỏ này phải được hiểu là do người Pháp bất lực không bảo vệ được Việt Nam trước sự bành trướng của quân đội Nhật và cuối cùng là chính người Pháp đã bị người Nhật lật đổ trong cuộc Ðảo Chính ngày 9 tháng 3 năm 1945. Sự hủy bỏ này cũng có tính cách đơn phương từ phía Bảo Ðại với tư cách là người kế vị chính thống của Triều Ðình Nhà Nguyễn căn cứ vào những gì đã xảy ra vào thời điểm này. Ðiểm cần được lưu ý ở đây là từ ngữ hòa ước trong văn kiện này được dùng theo số ít, trong tiếng Việt, không có chữ “các” hay “những” đi kèm và trong tiếng Pháp không có chữ “s” theo sau. Ðiều này có nghĩa là bản tuyên cáo chỉ hủy bỏ hòa ước bảo hộ tức Hòa Ước Giáp Thân 1884 mà thôi thay vì hủy bỏ tất cả các hòa ước đã được ký kết trước đó. Ðó là các Hòa Ước Nhâm Tuất 1862 và Hòa Ước Giáp Tuất 1874 liên hệ tới xứ ******** theo đó xứ này đã bị nhường dứt cho người Pháp và trở thành thuộc địa của họ, không còn thuộc quyền cai trị của Vua và Triều Ðình Huế nữa. Vấn đề thâu hồi xứ ******** do đó chưa được giải quyết ngay nhưng đã trở thành mối bận tâm và một phần hành quan trọng của chính Bảo Ðại ngay từ buổi nhà vua tiếp kiến Ðại Sứ Nhật Yokoyama và của Chính Phủ Trần Trọng Kim trong gần suốt thời gian chính phủ này tồn tại. Xứ ******** chỉ được người Nhật trao trả trong những ngày cuối của chính phủ này và chỉ chính thức trở về với lãnh thổ quốc gia Việt Nam ngót năm năm sau, vào giữa tháng 6 năm 1949, và do Bảo Ðại với tư cách Quốc Trưởng tiếp nhận từ tay người Pháp. Ðây cũng là một sự kiện ít người biết đến.
    Thứ hai: “Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập... giúp cho cuộc thịnh vượng chung.” Câu này xác định phương thức hoạt động nhằm thực hiện tư cách độc lập (tự phát triển như một quốc gia độc lập không phụ thuộc vào nước ngoài cho xứng đáng một quốc gia độc lập) và thế đứng của Việt Nam trên trường quốc tế (tự coi mình là một phần tử Ðại Ðông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vượng chung). Nên để tới khẩu hiệu Châu Á của Người Á do người Nhật đưa ra trong thời gian này, một khẩu hiệu hàm chứa sự độc lập của các nước Á Châu lúc đó còn là thuộc địa của các đế quốc Âu Châu. Ðây cũng là một cách nói trước một cách khéo léo để ngăn chặn trước sự can thiệp vào nội tình Việt Nam của người Nhật.
    Thứ ba: “Chính phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc...” Câu này nhằm buộc chặt lời hứa của người Nhật bằng cách nhấn mạnh vào sự trung thành với những gì họ đã nói, với quan niệm trung thành như một truyền thống chung của các dân tộc Á Ðông.
    Thứ tư: “Quyết chí hợp tác với nước Nhật đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên.” Mục đích như trên là mục đích gì? Phải hiểu mục đích này bao gồm hai phần là “tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập” và “giúp cho cuộc thịnh vương chung” như là một phần tử của khối Ðại Ðông Á.
    Nói cách khác, đây là một bản văn tuy ngắn ngủi, cô đọng nhưng rất quan trọng vì nó vừa mang tính cách pháp lý, có liên hệ tới nhiều văn kiện ngoại giao khác đã được hình thành trước đó, vừa biểu lộ chủ trương của một quốc gia được trao trả độc lập trong một hoàn cảnh không nhận không được, vô cùng tế nhị và phức tạp vào lúc tình hình thế giới biến chuyển quá nhanh và hoàn toàn bất lợi cho quân đội và quốc gia đảm nhận sự trao trả nền độc lập này. Mỗi điều nói ra, mỗi chữ được viết đều đòi hỏi người soạn thảo phải vô cùng thận trong và ước tính kỹ càng.

    Ai là tác giả của bản tuyên ngôn này?

    Người được nói đến nhiều nhất là Phạm Quỳnh, lúc đó đang giữ chức thượng thư bộ lại. Ðiều này có nhiều phần đúng nếu người ta để ý tới khả năng nghị luận và viết văn, viết báo kèm theo sự hiểu biết và kinh nghiệm của một học giả, một người làm báo, và sau đó là một ngự tiền văn phòng tổng lý của nhà vua cũng như thượng thư bộ lại trước đó. Nó cũng được Phạm Khắc Hòe, đương thời là ngự tiền văn phòng tổng lý của Bảo Ðại, trong hồi ký của ông này xác nhận. (6)

    Bản tuyên ngôn của Chủ Tịch Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa **************

    Hoàn cảnh được công bố

    Bản tuyên ngôn này đã được ************** một mình soạn thảo, một mình đứng tên và đọc tại Quảng Trường Ba Ðình ở Hà Nội vào buổi chiều ngày 2 tháng 9 năm 1945, ngót năm tháng sau bản tuyên ngôn của Bảo Ðại, hơn hai tuần lễ sau khi Nhật Bản đầu hàng, mười ba ngày sau khi *********** cướp được chính quyền ở Hà Nội và hai ngày sau khi Bảo Ðại chính thức thoái vị. Vì được công bố sau bản tuyên ngôn của Bảo Ðại, sau khi người Nhật đã đầu hàng cũng như chế độ bảo hộ của người Pháp đã bị người Nhật lật đổ trước đó, bản tuyên ngôn này đã bị nhiều người cho là thừa, không cần thiết, chưa kể tới sự kiện là chính phủ mới do ************** thành lập là kế vị chính phủ Nam Triều do Bảo Ðại thoái vị nhường cho dựa theo chiếu thoái vị của Bảo Ðại. Chiếu này đã được ************** và chính phủ mới của ông chấp nhận. Chính Phủ Lâm Thời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong những điều kiện này đương nhiên kế tục những gì Bảo Ðại và chính phủ Trần Trọng Kim đã làm trước đó, trong đó có Bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập ngày 11 tháng 3 năm 1945. Lập luận như vậy là hoàn toàn hợp lý đứng trên phương diện công pháp quốc tế. Một lập luận đơn giản và hoàn toàn dễ hiểu.
    Câu hỏi được đặt ra là **************, và những cộng sự viên của ông, khi đưa ra bản tuyên ngôn của mình có biết là trước đó Bảo Ðại đã làm công việc này rồi hay không? và biết như vậy tại sao ông lại còn làm lại việc đó một lần nữa? Cho câu hỏi thứ nhất, câu trả lời là chắc chắn có; ************** chắn phải biết là Bảo Ðại trước đó đã tuyên cáo hủy bỏ hòa ước bảo hộ 1884 rồi. Nhưng ông vẫn làm lại công việc này vì ông có nhu cầu phải làm. Những nhu cầu đó là những nhu cầu gì? Thứ nhất là vì từ lâu toàn dân ai nấy đều khao khát được thấy nước nhà độc lập, đúng như Bảo Ðại đã viết trong hồi ký của ông, độc lập là ước mơ của mọi người dân Việt (7), cũng như nó được phản ảnh ở khắp nước ngay trước và sau ngày 2 tháng 9 năm 1945. Nói tới độc lập vào lúc đó là gõ đúng tần số của bất cứ một người dân Việt Nam nào từ đó đem lại công lao và thanh thế cho người chính thức công bố ra điều đó. Thứ hai là cho tới ngày 2 tháng 9 năm 1945, cái tên ************** hoàn toàn xa lạ ở trong nước cũng như ở ngoài nước. Võ Nguyên Giáp, một trong những cộng sự viên thân cận nhất của ************** trong thời gian này, đã viết trong hồi ký của mình rằng: “Ba tiếng ************** không bao lâu đã vang đi khắp thế giới với những truyền thuyết mà người ta thường dành cho các bậc vĩ nhân. Nhưng vào ngày hôm ấy, cái tên mới của Bác vẫn còn mới lạ với nhiều đồng bào. Số người biết Bác chính là đồng chí Nguyễn Ái Quốc khi đó không nhiều.” (8)
    Ngay vua Bảo Ðại ngày 23 tháng 8 năm 1945, khi nhận được điện tín của của các ông Nguyễn Xiển, Nguyên Văn Huyên, ****** Như Kon-Tum và Hồ Hữu Tường nhân danh Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng, yêu cầu nhà vua thoái vị nhường quyền lãnh đạo quốc gia cho Chính Phủ Nhân Dân Cách Mạng với chủ tịch là “********* Chí Minh” đã không biết ************** là ai. Còn Phạm Khắc Hòe, người được *********** gài vào cạnh nhà vua cũng không biết nốt, phải chạy đi hỏi Tôn Quang Phiệt, một ******* viên Cộng Sản, rồi Ðào Duy Anh nhưng Tôn Quang Phiệt đi vắng và Ðào Duy Anh lục lọi, truy tìm các tài liệu, sách vở ông có nhưng cũng không ra tên này. Cuối cùng Vũ Văn Hiền, ở Bắc về mới xác nhận ************** là Nguyễn Ái Quốc. (9)
    Tuyên bố Việt Nam độc lập đối với Hồ Chi Minh vào thời điểm này do đó là cách tự giới thiệu mình tốt nhất và hữu hiệu nhất vói toàn thể đồng bào và để được nhìn và được chấp nhận như là lãnh tụ đầu tiên đã mang lại được độc lập cho tổ quốc và cho toàn dân Việt Nam, một nhu cầu tối cần thiết, dầu rằng nền độc lập này hoàn toàn không phải do ông hay do Mặt Trận *********** tạo ra mà là do những biến cố khác của lịch sử, trong đó quan trọng nhất là Ðảo Chính 9 tháng 3 năm 1945, trong đó người Nhật đã loại bỏ người Pháp, kèm theo là bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập của Hoàng Ðế Bảo Ðại nói trên, và cuối cùng là sự bại trận sau này của người Nhật. Chúng ta cũng cần để ý là đối với đa số người Việt Nam thời đó, ngày 2 tháng 9 là Ngày Ðộc Lập, đúng như Nguyễn Hữu Ðang, người được ************** chỉ định tổ chức ngày này, gọi qua các văn thư chính thức ông đã gửi cho các cơ quan liên hệ, trong đó có thư gửi cho Thị Trưởng Hà Nội (10) và theo bìa in bản tuyên ngôn của bản đầu tiên năm 1945, do Chủ Tịch Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam ************** đọc trong Ngày Ðộc Lập.” (11)
    Nhưng đối với ************** ngày 2 tháng 9 còn có một ý nghĩa quan trọng hơn nữa. Ðó là “ngày khép lại cuộc Cách Mạng Tháng Tám, và khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa,” theo lời ông nói với Nguyễn Hữu Ðang, “Chú phải nhớ... (12).” Tại sao vậy? Tại vì ************** phải làm chuyện này trước khi quân Ðồng Minh kéo vô Việt Nam, đặc biệt là thủ đô Hà Nội, nhằm đặt họ trước một sự đã rồi, không thể đảo ngược được... Sự kiện vua Bảo Ðại thoái vị được nhắc tới và câu “Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng, kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp” là nhằm vào mục tiêu này.

    Nội dung bản Tuyên Ngôn

    Bản Tuyên Ngôn Ðộc lập của **************, vì được phổ biến rộng rãi và hầu như được coi là duy nhất gắn liền với ngày 2 tháng 9, ngày Quốc Khánh của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa r ồi Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nên đã được nhiều người đọc, phân tích và tìm hiểu. Trong phần này người viết chỉ nêu lên những gì ít được mọi người nhắc hay để ý đến.
    Trong khi Tuyên Cáo của Bảo Ðại đơn giản chỉ là một bản văn thuần túy pháp lý nhằm hủy bỏ hòa ước bảo hộ mà triều đình Huế đã ký trước đó căn cứ vào sự bất lực của người Pháp, vì người Pháp đã không giữ được cam kết ghi trong điều khoản thứ nhất và điều khoản thứ mười lăm của hòa ước này, mà không nhằm vào một đối tượng-quần chúng hay quốc tế, thì bản Tuyên Ngôn của ************** nhằm vào toàn thể người Việt qua lời mở đầu “Hỡi đồng bào cả nước...” Tuy nhiên ở những đoạn cuối tác giả lại nhắm vào các nước Ðồng Minh. Ðiều này phải tinh ý người ta mới nhận ra được. Về tư cách, Bảo Ðại nhân danh Hoàng Ðế Việt Nam, người đứng đầu của một quốc gia độc lập đã tồn tại từ trước khi người Pháp xâm ***** và là người kế thừa chính thống của các vua Nhà Nguyễn, thì ************** đã nhân danh “Lâm Thời Chính Phủ của nước Việt Nam mới.” Mới là vì đến ngày đó chính phủ này mới chính thức được ra mắt trước quốc dân. Lời văn do đó phản ảnh hai tư cách của hai bản chất con người khác nhau. Một người là hoàng đế kế thừa chính thống của một triều đại đã trị vì một quốc gia từ hơn một trăm năm trước dù cho là chỉ còn hư vị; người kia là lãnh tụ của một phong trào cách mạng vừa chủ trương chống Pháp, vừa chủ trương chống Nhật và lật đổ chế độ quân chủ để giành chính quyền. Văn phong trong bản tuyên ngôn của Bảo Ðại là văn phong bình thường của người cầm quyền; còn văn phong của ************** mang tính cách kêu gọi và ở một mức độ nào đó có tính cách bình dân, kể lể dài dòng và nhất là sách động.
    Mở đầu cho bản tuyên ngôn, ************** đã trích dẫn một số câu trong phần đầu của Bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập của người Mỹ và một câu trong Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách Mạng Pháp. Sự trích dẫn này, vào lúc mà sự hiểu biết của quần chúng Việt Nam còn thấp kém, đặc biệt là về lịch sử Hoa Kỳ và thế giới, chắc chắn không nhằm vào quần chúng người Việt mà nhằm vào người Mỹ và người Pháp. Lý do là ************** như là một ******* viên Cộng Sản Quốc Tế chắc chắn đã hiểu hơn ai hết là người Mỹ vào thời điểm này đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong chính tình ở Á Châu, trong đó có Việt Nam. Ðược người Mỹ công nhận là coi như làm chủ được chính quyền. Hiểu được như vậy, ngay từ khi còn ở chiến khu ************** khi tiếp xúc với người Mỹ đã yêu cầu họ cung cấp cho ông một bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập của nước Mỹ, đồng thời nói về lịch sử nước Mỹ như là một cách để chinh phục cảm tình của họ. Cũng vậy, với những gì chứa đựng trong bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của người Pháp. Có điều sự trích dẫn này chỉ nhằm mục tiêu lôi cuốn sự chú ý và cảm tình của người Mỹ mà thôi. ************** không cần đi xa hơn nữa và rất có thể ông cũng không hiểu rõ hơn hay cố tình không hiểu sự khác biệt trong quá trình giành độc lập của mười ba thuộc địa của người Mỹ vào cuối thế kỷ XVIII và của nước Việt Nam thời ông. Vì vậy ông đã áp dụng quan điểm của người Mỹ về quyền bình đẳng, quyền được sống tự do và mưu cầu hạnh phúc của mọi-người -như-là-những-cá-nhân vào trường hợp Việt Nam như một-quốc-gia đòi quyền độc lập một cách gượng ép hay ít ra là suy luận theo quan điểm chủ quan của mình với dụng ý riêng của mình. Cũng vậy với những gì ông trích dẫn từ bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách Mạng Pháp.
    Phần kế tiếp, ************** lên án người Pháp và người Nhật, đồng thời ông kể công cho ***********: “Trước ngày mồng 9 tháng 3, đã bao lần *********** đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật...,” sau đó “đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ” và kết luận rằng “Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.” Ðiều như người viết đã nói ở trên là không đúng sự thật. Sự thật là Chính Phủ Bảo Ðại-Trần Trọng Kim đã lấy lại được toàn thể nước Việt Nam từ trước khi người Nhật đầu hàng kể cả lấy lại xứ ******** và *********** đã cướp chính quyền từ trong tay của chính phủ Bảo Ðại-Trần Trọng Kim trong những ngày 17 và 19 tháng 8 năm 1945 sau đó. Lý do là vì *********** “đã có đường riêng của họ rồi,” nói theo Phan Anh, bộ trưởng Thanh Niên trong chính phủ Trần Trọng Kim và sau này là bộ trưởng Bộ Quốc Phòng trong Chính Phủ Liên Hiệp của **************.
    Trong những đoạn này ************** đã dùng các từ ngữ ta hay “dân ta” hay “đất nước ta,” nhưng mục đích không nhằm vào người Việt Nam mà vào người Pháp.
    Phần cuối cùng của bản văn, từ “Bởi thế cho nên...” cho đến hết, lời văn cho người ta thấy ************** không hướng về người Việt mà về cả thế giới. Trong phần này ông xưng là “chúng tôi, Lâm thời Chính phủ, đại biểu cho toàn dân Việt Nam” để tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, kêu gọi các nước Ðồng Minh công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam... Phần này ************** thay vì quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của mọi-người-như-những-cá-nhân do Tạo Hóa ban cho, những quyền phải hiểu là tự nhiên ai cũng có, đã nói về quyền hưởng tự do và độc lập của- cả-nước-Việt-Nam. Ðiều này hoàn toàn không đúng với tinh thần của bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập của Người Mỹ và nhất là của bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách Mạng Pháp mà danh xưng của nó đã nói lên một cách rõ ràng: Nhân Quyền và Dân Quyền, không thể hiểu sai được. Ðộc lập không phải luôn luôn đồng nghĩa với tự do, dân quyền và nhân quyền. Không những thế, thay vì coi những quyền này là do Tạo Hóa ban cho, ************** lại lý luận là vì dân tộc Việt Nam là “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Ðồng Minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc ấy phải được độc lập!”
    Lý luận như vậy người ta phải hiểu, theo **************, rằng những dân tộc không gan góc chống lại những thế lực đè nén, áp bức mình và không gan góc đứng về phe Ðồng Minh, chống phát-xít là không đáng được tự do, độc lập. Cũng vậy, với các quyền độc lập, tự do và mưu cầu hạnh phúc của con người như là những cá nhân trong xã hội. Chính vì vậy Luật Sư Trần thanh Hiệp, khi được Ðài Á Châu Tự Do phỏng vấn ngày 2 tháng 9 năm 2007, đã có lý khi ông gọi bản tuyên ngôn của ************** này là một bản tuyên ngôn phi nhân quyền, (13) dù cho là nó đã được chính tác giả của nó trích dẫn và soạn thảo theo của bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách mạng Pháp. Nhưng dù nói thế này hay thế khác sự kiện này đã phản ảnh chủ trương cách mạng bạo lực của những người Cộng Sản mà ************** ở đây là một trường hợp điển hình.
    Người ta có thể giải thích sự thiếu rõ ràng trong bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập của ************** kể trên là do nó đã được soạn thảo trong một thời gian quá ngắn và trong tình trạng tác giả của nó còn phải bận rộn với nhiều vấn đề cấp bách khác. Ðiều này không đúng vì trước đó từ lâu, khi tiếp xúc với một sĩ quan người Mỹ, ************** đã xin một bản tuyên ngôn nhân quyền của người Mỹ rồi. Nói cách khác, ************** đã nghĩ tới và đã thai nghén bản tuyên ngôn của ông từ lâu chứ không phải chỉ ít ngày trước ngày 2 tháng 9 năm 1945. Do đó những gì ông nói tới, những từ ngữ ông dùng đều được cân nhắc kỹ càng và đều có dụng ý riêng với những mục tiêu riêng mà chỉ sau này phải phân tích kỹ, đối chiếu kỹ và có thể sau này khi mọi việc liên hệ đã xảy ra rồi, người ta mới có thể hiểu được.
    Phạm Cao Dương

    Chú thích:
    (1) Dương Trung Quốc. Việt Nam: Những Sự Kiện Lịch Sử (1919-1945). Hà Nội: Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 202.tr. 388.
    (2) Lệ Thần Trần Trọng Kim. Một Cơn Gió Bụi (Kiến Văn Lục). Saigon, Nhà Xuất Bản Vĩnh Sơn, 1969. tr. 49.
    (3) - nt - , tr. 51.
    (4) Dương Trung Quốc, Việt Nam... tr. 388; Nguyễn Vỹ. Tuấn, Chàng Trai Nước Việt (Chứng Tích Thời Ðại Từ 1900 đến 1970, Quyển II. Saigon, ? , 1970. Fort Smith, AR tái bản ở Hoa Kỳ, ?. tr. 512.; S.M. Bao Dai. Le Dragon d'Annam. Paris, Plon. 1990. Cameron, Allan W. Viet-Nam Crisis, A Documentary History, Volume I: 1940-1956. Ithaca, N.Y. Cornell University Press, 1971.. tr. 31-32. Hai bản tiếng Việt in trong tác phẩm của Dương Trung Quốc và tác phẩm của Nguyễn Vỹ hơi khác nhau về ngôn từ nhưng hoàn giống nhau về nội dung. David G. Marr trong Vietnam 1945, The quest for Power (Berkeley, University of California Press, 1995, tr. 71) có nói tới các bản tiếng Việt và tiếng Pháp ở văn khố Pháp và bản đăng trên tờ Dân Báo, ngày 12 tháng Ba. Vũ Ngự Chiêu cũng nói tới tờ Tin Mới, nhưng nhất thời người viết bài này chưa đến được các nơi cần đến để tìm kiếm.
    (5) Taboulet, Georges. La Geste Francaise en Indochine,Histoire par les textes de la France en Indochine des origines 1914, tome II, Paris, Adfrien - Maisonneuve, 1956. tr. 809 - 812; Phan Khoang, Việt Nam Pháp Thuộc Sử, 1884 - 1945.Saigon, ? ,1961. Tái bản ở Hoa Kỳ. tr. 322 - 328.
    (6) Phạm Khắc Hòe, Từ Triều Ðình Huế Ðến Chiến Khu Việt Bắc. Huế, Thuận Hóa, 1987, tr. 16.
    (7) Bảo Ðại, Le Dragon d'Annam, đã dẫn, tr. 103.
    (8) Võ Nguyên Giáp, “Những Năm Tháng Không Thể Nào Quên,” trong Tổng Tập Hồi Ký. Hà Nội, Nhà Xuất Bản Quân Ðội Nhân Dân, 206, tr.. 255.
    (9) Phạm Khắc Hòe, Từ Triều Ðình Huế..., tr. 76.
    (10) Phùng Quán, Ba Phút Sự Thật. Thành Phố **************, Nhà Xuất Bản Văn Nghệ, 2006, tr. 114 - 115.
    (11) **************, Tuyên Ngôn Ðộc Lập Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Hà Nội, Nhà Xuất Bản Sự Thật, 1976, tr.13. Nguyễn Khánh Toàn và Lữ Huy Nguyên, Tổng Tập Văn Học Việt Nam, Tập 36. Hà Nội, 1980. tr. 812 - 823.
    (13) Trần Thanh Hiệp và Trương Giang, “Một Bản Tuyên Ngôn Phi Nhân Quyền,” trên Nhật Báo Người Việt, số 7940, ngày Thứ Hai, 3 tháng 9 năm 2007.


    [/FONT]
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Dưới chế độ thực dân Pháp, Việt Nam đã từng có tự do báo chí[/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Friday, October 29, 2010 [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif][/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif][/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]

    Phạm Quế Dương​

    Gần đây dư luận khá sôi động về việc Thủ Tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo liên tiếp đưa ra những phát biểu hô hào cho dân chủ, tự do và kêu gọi giới lãnh đạo Ðảng Cộng Sản Trung Quốc nhanh chóng tiến hành cải cách chính trị.
    [​IMG]Bìa báo Nam Phong Tạp Chí năm 1971. (Hình:Langtucodoc/Wikimedia/Public Domain)

    Trong cuộc trả lời phỏng vấn gần đây của đài CNN, Thủ Tướng Ôn Gia Bảo khẳng định rằng tự do ngôn luận là một quyền không thể thiếu ở tất cả mọi nước, bất kể là nước đang phát triển hay đã phát triển, nước nghèo hay nước giàu.
    Trong giới học giả Trung Quốc cũng có nhiều người phát biểu, viết bài và viết kiến nghị tập thể ủng hộ ý kiến của Thủ Tướng Ôn Gia Bảo. Có người còn nói rằng: “Ôn Gia Bảo muốn trở thành Mikhail Gocbachev chăng?”
    Sự thật thì vấn đề tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam hiện nay dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng Sản Việt Nam vẫn còn bị ngăn cấm. Song dưới thời thống trị của thực dân Pháp, ở nước ta đã có thời kỳ tự do báo chí. Báo của Ðảng Cộng Sản Việt Nam lúc đó gọi là Ðảng Cộng Sản Ðông Dương ở cả Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ đều đã từng xuất hiện. Tên các tờ báo đó là: Ðọc, Le Peuple, Tin Tức, Dân Tiến, Dân Muốn, Ðời Nay, Ðiện Tín... Ðấy là những thông tin rút ra từ tờ báo Dân Chúng của Ðảng Cộng Sản Việt Nam xuất bản ở Sài Gòn, lúc đầu ra tuần hai số, sau ra hàng ngày. Trụ sở của báo ghi công khai ở số nhà 51-E Clorel Gimaud - Saigon, nay là phố Phạm Ngũ Lão.
    Xin gửi lại độc giả bài: “Từ đây nhân dân Ðông Dương được hưởng hoàn toàn tự do báo chí” đăng trên số 15, ngày 10 tháng 9 năm 1938 của báo Dân Chúng:
    “Từ đây nhân dân Ðông Dương được hưởng hoàn toàn tự do báo chí.”
    “[...]Sức tranh đấu oanh liệt hàng bao nhiêu năm của dân chúng xứ này hiệp với sức tranh đấu ủng hộ của bình dân Pháp đã đem đến cho nhân dân Ðông Dương sự tự do báo chí, một điều trong các quyền tự do dân chủ mà chúng tôi, là những người cộng sản, nhiệt liệt bênh vực và luôn luôn đi tiên phong trong sự chiến đấu để thực hiện những nguyện vọng thiết tha ấy.[...]
    “Căn cứ vào sức tranh đấu của nhân dân Ðông Dương , sức ủng hộ của bình dân Pháp , dựa vào lời quyết nghị của Tòa Thượng Thẩm Paris về vụ Dân-Quyền ngày 22 juillet 1938, chúng tôi đã cho xuất bản tờ Dân-Chúng, một tên lính tiên phong cho sự tự do báo chí, không phải xin phép trước. Toàn thể dân chúng xứ này đều hoan nghênh.
    “Hơn một tháng sau, Quan Bảo Hộ ở Pháp ngày 6 tháng 9, 1938 ấn hành đạo sắc lịnh 30 tháng 8, 1938 bãi bỏ những điều khoản 2, 4 của sắc lịnh 30 tháng 12, 1898 về chế độ báo chí ở Ðông Dương, nhìn nhận chánh thức sự tự do xuất bản báo chí quốc âm.
    “Nhân dân Ðông Dương!
    “Chúng ta được thêm một khí cụ để mạnh mẽ tiến bước đến sự thi hành triệt để các quyền tự do dân chủ khác. Tiến lên.”
    (Nguồn: Thông Luận 2010)
    Phạm Quế Dương
    [/FONT]
  7. Daccongm1

    Daccongm1 Thành viên rất tích cực Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    17/06/2010
    Bài viết:
    388
    Đã được thích:
    90
    Mod đâu hết rồi ,vào cho cái thèng ********* lên cây đi vì tội ị lung tung
  8. marsandmoon

    marsandmoon Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    31/12/2007
    Bài viết:
    492
    Đã được thích:
    0
    Cho tớ biết tại sao có các hầm vũ khí lại đi nào ? dân quân nào mà huy động tới 300 k hay thế^:)^
    Hay cũng như đám @ kia lại giở trò gân cổ lên là không có vũ khí =)) ,
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------
    Đồng chí minh91 mấy hôm trước còn hỏi tớ sao không có cái xác nào mà giờ chạy vào chỉ giáo tớ, thật khâm phục quá đi, hay là đã dám bật google lên xem , không sợ bị cấm như trước nữa à [:P]
  9. altair

    altair Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/08/2007
    Bài viết:
    224
    Đã được thích:
    166
    Hồi đi học quân sự có nghe mấy ông thầy kể chuyện này rồi, tụi TQ sang làm đường rồi tiện thể đào luôn mấy cái hầm chứa vũ khí, đến năm 79 lúc tụi nó qua thì đào lên đánh mình, mà hình như bên quân sử cũng có nói chuyện này rồi thì phải
  10. yukiter1408

    yukiter1408 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    14/11/2010
    Bài viết:
    2.203
    Đã được thích:
    3
    hầm vũ khí nào thế ? đấy không biết nhỉ?
    làm ơn cho 1 cái nguyền có uy tín hoặc đáng tin cậy của phía bắc Việt nói là có hầm chứa VK của quân TQ [:D]
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này