1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những dữ kiện lịch sử của chiến dịch mùa xuân 1975

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi quyenlinh66, 04/01/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Những dữ kiện lịch sử của chiến dịch mùa xuân 1975

    Đọc lại các topic của box tôi rất ngạc nhiên khi không hề có một topic nào bàn về chiến dịch giải phóng miền nam năm 1975. Về các trận đánh, về các dữ kiện lịch sử của chiến dịch này.

    Tôi rất muốn có thêm các dữ kiện về chiến dịch này để hiểu được một trong những năm oanh liệt trong lịch sử của dân tộc ta.
  2. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Trước hết tôi đăng lại bài của Ông Merle L.Pribbenow), nguyên là chuyên gia về Đông Dương của CIA trên báo Quân đội nhân dân ngày 06 tháng 04 năm 2005.
    Trận chiến cuối cùng của chiến lược vô song


    Kể từ khi Việt Nam thống nhất, cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 đã là chủ đề của hàng nghìn cuốn sách, bài báo, tiểu luận. Mỗi tác giả với ý kiến chủ quan khác nhau đều có cách nhìn nhận riêng biệt về chiến thắng này của nhân dân và Quân đội nhân dân Việt Nam. Song, ngay cả các học giả Mỹ cũng phải thừa nhận rằng, trận chiến cuối cùng của cuộc chiến tranh thể hiện một chiến lược quân sự bậc thầy. Đặc biệt, điều này đã được nêu rõ qua bài viết Cuộc tấn công cuối cùng của Bắc Việt Nam: Một sự kết thúc chiến lược vô song của tác giả Mơ Príp-ben-nao (Merle L.Pribbenow), nguyên là chuyên gia về Đông Dương của CIA, đăng trên tạp chí Parameter số mùa đông 1999-2000. Với kinh nghiệm 5 năm làm việc tại Sứ quán Mỹ tại Sài Gòn cho đến khi lên trực thăng ngày 29-4-1975, cùng quá trình nghiên cứu công phu, Mơ Príp-ben-nao đã xây dựng được một bức tranh tổng thể khá hoàn chỉnh và đưa ra những đánh giá có độ chính xác cao. Xin giới thiệu với bạn đọc bài viết này.

    Cơ hội từ "ánh sáng cuối đường hầm"

    Những ý tưởng ban đầu về cuộc tấn công của Cộng sản năm 1975 đã được vạch ra trong hai cuộc hội nghị quân sự cấp cao được tổ chức ở Hà Nội vào tháng 3 và 4-1974 để xem xét lại tình hình quân sự. Hai cuộc hội nghị này đã đi đến kết luận là Quân đôi nhân dân Việt Nam đã giành lại được thế chủ động ở miền Nam lần đầu tiên kể từ sau cuộc tấn công vào dịp lễ Phục sinh năm 1972. Sau khi Hiệp định đình chiến được ký kết ở Pa-ri tháng 1-1973, Quân đội nhân dân Việt Nam đã triển khai mạnh mẽ tuyến đường vận chuyển hậu cần vào phía Nam - đường mòn Hồ Chí Minh. Do tầm quan trọng, tuyến đường này nhanh chóng trở thành mục tiêu tấn công của không quân Mỹ. Bắc Việt đã chuyển một khối lượng lớn đồ quân dụng và trang bị vũ khí vào Nam - riêng năm 1973 là 8 vạn tấn quân dụng, trong đó có 27.000 tấn vũ khí, 6.000 tấn xăng dầu và 40.000 tấn gạo. Mười vạn quân Bắc Việt mới nhập ngũ đã hành quân xuôi theo đường mòn vào Nam trong năm 1973 và 8 vạn quân cùng trên đường vào Nam trong nửa đầu năm 1974. Sức mạnh của các đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam sau những tổn thất năm 1972 giờ đây đã đạt được mức cao nhất trong chiến tranh - 40 vạn quân sẵn sàng ở tư thế chiến đấu. Quân đội nhân dân Việt Nam giờ đây có thể nhìn thấy ánh sáng ở cuối đường hầm. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để ra khỏi đường hầm đó.
    Sau những cuộc họp tháng 3 và tháng 4, vào tháng 5, Bộ Tổng Tham mưu ở Hà Nội đã hoàn thành phác thảo "Đề cương sơ bộ về một kế hoạch giành chiến thắng trong chiến tranh ở miền Nam". Tài liệu nghiên cứu này đã được trình lên Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, vị tướng huyền thoại Võ Nguyên Giáp. Ngày 18-7-1974, sau khi xem xét kỹ lưỡng bản phác thảo này, tướng Giáp đã đến thăm cấp phó của ông - tướng Hoàng Văn Thái, và ra lệnh chuẩn bị kế hoạch chiến dịch để giành toàn thắng ở miền Nam vào cuối năm 1976. Quan điểm của tướng Giáp là triển khai một cuộc tấn công hai giai đoạn, trước tiên là trận tấn công chủ yếu của quân chủ lực chính quy ở Tây Nguyên, tiếp theo là trận tấn công toàn lực đánh vào Sài Gòn.
    Ngày 26-8-1974, sau khi đã cân nhắc kỹ lưỡng, phân tích và mổ xẻ nhiều bản phác thảo trước đó, Bộ Tổng Tham mưu đã hoàn tất bản "Kế hoạch chiến lược cho hai năm 1975-1976" và đệ trình lên Ban lãnh đạo cấp cao của Quân đội và của ********************** để xin ý kiến. Bản kế hoạch sau khi hoàn tất lần cuối cùng đã được Bộ Chính trị ********************** thông qua sau một phiên họp kéo dài trong tháng 10-1974.

    Thiếu vũ khí tấn công-gánh nặng của các nhà hoạch định chiến lược

    Sự thiếu hụt các lực lượng pháo binh hạng nặng và thiết giáp, được xem là lực lượng cực kỳ quan trọng để tấn công vào các căn cứ công sự vững chắc của các trung đoàn và sư đoàn quân đội Việt Nam cộng hòa, vẫn đè nặng lên đầu óc của các nhà vạch kế hoạch của Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam. Mọi sự chú ý tập trung vào vai trò mà sự thiếu hụt đạn dược của quân đội Việt Nam cộng hòa có thể tác động đến sự sụp đổ của Sài Gòn, nhưng Sài Gòn nói chung cũng không biết rằng Quân đội Nhân dân Việt Nam cũng ở tình cảnh tương tự. Viện trợ quân sự của Liên Xô và Trung Quốc, đặc biệt là các loại "vũ khí tấn công" (pháo và thiết giáp) đã bị cắt giảm đáng kể từ sau Hiệp định ngừng bắn được ký ở Pa-ri. Những tổn thất của Quân đội nhân dân Việt Nam trong cuộc tấn công năm 1972 cùng với sự cắt giảm viện trợ càng làm cho sự thiếu hụt vũ khí, đạn dược trở nên nghiêm trọng. Hơn nữa, phần lớn pháo và thiết giáp của Quân đội nhân dân Việt Nam đều ở tình trạng kém chất lượng, thiếu phụ tùng thay thế. Nhiều đơn vị pháo binh của Quân đội nhân dân Việt Nam, đặc biệt là các đơn vị ở phía Nam, chỉ được trang bị các súng cối loại nhẹ, súng không giật hoặc các ống phóng rốc-két một nòng. Tại Trung ương Cục miền Nam, trên địa bàn tác chiến bao gồm nửa phía Nam đất nước, có bẩy sư đoàn bộ binh (các sư đoàn 3, 4, 5, 6, 7, 8 và 9) và một Bộ chỉ huy quân đoàn (Quân đoàn 4) chỉ được hỗ trợ bởi năm tiểu đoàn pháo binh dã chiến, hai trong số năm tiểu đoàn này chỉ được trang bị bằng những vũ khí lấy được của Mỹ với rất ít đạn, ba tiểu đoàn thiết giáp đều có trang bị hạn chế. Quân đoàn 2 của Quân đội nhân dân Việt Nam với ba trung đoàn pháo binh thuộc biên chế của ba sư đoàn bộ binh, một lữ đoàn pháo thuộc quân đoàn, một lữ đoàn tăng và một tiểu đoàn thiết giáp độc lập, chỉ có thể đưa vào chiến trường tổng cộng 89 xe tăng và xe vận tải bọc thép, và 87 khẩu pháo được kéo theo khi mở cuộc tấn công vào Sài Gòn tháng 4-1975.
    Tuy nhiên, vấn đề nghiêm trọng nhất là sự vô cùng thiếu thốn về đạn cho xe tăng và pháo hạng nặng (các pháo chiến trường và súng cối 85mm và cỡ đạn lớn hơn). Trong cuộc tấn công năm 1972, lực lượng Cộng sản đã sử dụng trên 22 vạn viên đạn cho xe tăng và pháo hạng nặng, chỉ riêng mặt trận Quảng Trị đã sử dụng hết 15 vạn viên đạn. Cho đến năm 1974, toàn bộ dự trữ đạn cho xe tăng và pháo hạng nặng của Quân đội nhân dân Việt Nam bao gồm toàn bộ số đạn cất giữ trong các kho ở tiền phương và số đạn dự trữ chiến lược ở miền Bắc, cũng chỉ có tổng cộng 10 vạn viên đạn. Vấn đề đạn dược thiếu hụt nghiêm trọng đến mức Bộ chỉ huy pháo binh của Quân đội nhân dân Việt Nam phải thay các vũ khí lớn bằng những khẩu pháo 76,2mm và 57mm lạc hậu hơn nhưng có lượng đạn dự trữ lớn hơn để khắc phục phần nào sự thiếu hụt.
    Mặc dù kế hoạch tháng 10-1974 đã được cân nhắc thận trọng, nó vẫn là một kế hoạch tùy thuộc rất lớn vào thời cơ. Mục tiêu toàn bộ của kế hoạch là phải tạo ra được, bằng mọi biện pháp có thể có, cái mà Quân đội nhân dân Việt Nam gọi là một "thời cơ chiến lược". Thời cơ chiến lược đó có thể là một cuộc đảo chính quân sự ở Sài Gòn, một biến động chính trị dẫn đến sự sụp đổ của chính phủ Việt Nam cộng hòa, hoặc một chiến thắng quân sự có ý nghĩa quyết định của các đơn vị chủ lực Quân đội nhân dân Việt Nam. Dù bằng cách nào và bất cứ khi nào thời cơ chiến lược xuất hiện, bản kế hoạch yêu cầu các lực lượng cộng sản phải ngay lập tức hành động và khai thác triệt để thời cơ, mở cuộc tấn công bằng mọi sức mạnh có thể có để giành toàn thắng trong thời gian ngắn nhất có thể được trước khi "đối phương có xu hướng can thiệp".

    Đại tá Trịnh Nguyên Huân (trích dịch)
  3. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Kế hoạch vắt kiệt đối phương và tạo thời cơ chiến lược
    Kế hoạch tấn công đề ra trong năm 1975 được chia làm 3 giai đoạn và tiếp sau đó sẽ là một cuộc "Tổng tấn công và Tổng nổi dậy" vào năm 1976 để "giải phóng" hoàn toàn miền Nam. Giai đoạn Một của kế hoạch 1975, một cuộc tấn công hạn chế trong địa bàn tác chiến của Trung ương Cục miền Nam có thể kéo dài từ tháng 12-1974 đến tháng 2-1975. Giai đoạn Hai, trọng tâm của đợt tấn công năm 1975, sẽ bắt đầu vào tháng 3-1975 bằng một trận công kích cỡ quân đoàn vào tiền đồn biên giới Đức Lập nằm trên Đường 14 thuộc vùng cực nam Tây Nguyên. Trận công kích Đức Lập sẽ được hỗ trợ bằng một hoạt động tác chiến thứ hai nhằm đánh lạc hướng quân địch ở miền Đông Nam Bộ (khu vực rộng lớn từ Sài Gòn đến giáp ranh Tây Nguyên), vùng hạ du miền Trung Việt Nam, và vùng Trị Thiên (nơi đóng quân của Quân đoàn I quân lực Việt Nam Cộng hòa). Giai đoạn Ba, từ tháng 8 đến tháng 10-1975, là một giai đoạn hỗn hợp nhiều ý tưởng bao gồm những trận tấn công tiếp tục vào phía Bắc Trung Việt, củng cố các lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam trên toàn miền Nam và sẵn sàng cho việc thực hiện "những kế hoạch thời cơ" khi cần. Những mục tiêu đề ra kế hoạch 1975 là phá hủy một phần đáng kể toàn bộ sức mạnh của quân đội Việt Nam Cộng hòa; đánh bại chương trình bình định; mở rộng mạng lưới cung cấp hậu cần của Quân đội Nhân dân Việt Nam dọc theo Đường 14 cho đến toàn bộ các tuyến đường dẫn đến đồng bằng sông Cửu Long; cắt đứt các tuyến đường liên lạc của kẻ địch; làm tê liệt nền kinh tế Nam Việt Nam; và kích động sự chống đối chính trị đối với chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Tất cả những mục tiêu khác nhau này đều nhằm cùng một mục đích tối hậu: làm suy kiệt khả năng kháng cự của Sài Gòn và tạo mọi điều kiện cho sự xuất hiện một "thời cơ chiến lược".
    Mặc dù Bộ Chính trị đã thông qua kế hoạch của Bộ Tổng tham mưu trong phiên họp hồi tháng 10-1974, nhưng bản kế hoạch đó chưa hoàn toàn thỏa mãn, và Bộ Chính trị đã quyết định họp lại vào tháng 12-1974 để đánh giá lại tình hình triển khai và xem xét lại cả kế hoạch nếu cần. các sự kiện diễn ra lúc đó đã làm thay đổi căn bản kế hoạch của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Trong phiên họp toàn thể tháng 10, Bộ Chính trị đã kết luận căn cứ vào tình hình mới trong nội bộ nước Mỹ (hậu quả chính trị của việc Ních-xơn từ chức): Mỹ không có khả năng can thiệp trở lại vào cuộc chiến theo một phương cách có ý nghĩa nào. Nỗi băn khoăn chính yếu của các nhà vạch kế hoạch của Quân đội Nhân dân Việt Nam được giải tỏa, đã cho phép họ có quyền tự do lựa chọn những phương án táo bạo hơn. Hơn nữa, trong cuộc chiến kéo dài từ tháng 8 đến tháng 12-1974, Sư đoàn 304 của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã vượt qua cứ điểm then chốt Thượng Đức ở vùng núi phía Tây Đà Nẵng và đánh bại hàng loạt cuộc phản công có ý nghĩa quyết định của hai sư đoàn quân lực Việt Nam Cộng hòa-sư đoàn 3 và sư đoàn đổ bộ đường không thiện chiến. Chiến thắng Thượng Đức đã thuyết phục Ban lãnh đạo Quân đội Nhân dân Việt Nam về khả năng những người lính của họ giờ đây có thể đánh bại ngay cả những đội quân thiện chiến nhất, được trang bị tốt nhất và được sự hỗ trợ tối đa của quân lực Việt Nam cộng hòa.

    Cú lừa ngoạn mục Buôn Ma Thuột
    Sau chiến thắng Phước Long, đánh giá của Bộ Chính trị cho rằng: Mỹ không có khả năng can thiệp trở lại vào cuộc chiến, đã được chứng minh là đúng đắn. Những điểm yếu trong hệ thống phòng thủ của quân đội Việt Nam Cộng hòa đã bộc lộ rõ. Và điều quan trọng là cuối cùng đã tìm được giải pháp khắc phục sự thiếu hụt nghiêm trọng nhất về đạn dược, đó là đánh chiếm các kho vũ khí và đạn pháo của quân đội Việt Nam Cộng hòa. Ngoài ra, trận đánh chiếm Phước Long càng làm cho Bộ Chính trị thấy rõ kế hoạch tấn công chính trong năm 1975 của quân chủ lực, cuộc tấn công đánh Đức Lập vào tháng 3-1975 bằng ba sư đoàn giờ đây cần thay đổi. Kế hoạch được thông qua hồi tháng 10-1974 đã đề ra hai mục tiêu chính cho trận tấn công Đức Lập: thứ nhất là dọn sạch Đường 14 để sử dụng làm đường vận chuyển chiến lược cho trận tấn công cuối cùng vào Sài Gòn, và thứ hai là thu hút và tiêu diệt một bộ phận đáng kể quân lực Việt Nam Cộng hòa khi họ cố gắng giành lại những vùng đất đã bị mất. Với những bài học rút ra từ trận đánh Phước Long, giờ đây rõ ràng là nếu Đức Lập bị tấn công thì mục tiêu thứ hai sẽ không đạt được. Trận Phước Long cho thấy, Việt Nam Cộng hòa đã sẵn sàng rời bỏ những vùng xa và không quan trọng về mặt chiến lược, như Đức Lập chẳng hạn. Nếu quân đội Việt Nam không cố chiếm lại Đức Lập thì cả ba sư đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam sẽ bị giam chân vào một nơi trống vắng chẳng có kẻ thù để chiến đấu, và yếu tố bất ngờ sẽ biến mất. Kế hoạch đánh Ban Ma Thuột được hình thành.
    Buôn Ma Thuột là một thành phố có trên 10 vạn dân, là "thủ phủ" của các bộ tộc ở Tây Nguyên. Nơi đặt bản doanh và các căn cứ hậu cần của sư đoàn 23 quân lực Việt Nam Cộng hòa, bao gồm cả tổ hợp tiếp vụ Mai Hắc Đế với những kho đạn pháo lớn. Thành phố giữ vai trò một đầu mối giao thông quan trọng, nơi Đường 14 từ Kon-Tum chạy xuôi xuống phía Nam đến vùng ngoại vi phía Bắc Sài Gòn, gặp Đường 21 chạy sang phía đông đến thành phố biển Nha Trang rộng lớn. Nếu chiếm được Buôn Ma Thuột, các lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam có thể vận động rất nhanh theo đường phía Bắc đánh úp Plei-cu từ phía sau, tiến sang phía Đông cắt Việt Nam làm hai phần, hoặc xuôi về phía Nam để tấn công Sài Gòn. Quân đội Việt Nam Cộng hòa sẽ không chịu để mất một vị trí chiến lược quan trọng như vậy và sẽ buộc phải phản công.
    Một khi thành phố đã bị chiếm, các lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam có thể triển khai để phong tỏa và đánh tan những cuộc phản công của quân lực Việt Nam Cộng hòa trong khi lực lượng quân tiếp viện của Nam Việt bị chặn đứng từ ngoài, bị phơi bầy lực lượng mà không thể tiến sâu vào được.
    Ngày 7-1-1975, tại phiên họp kết thúc, Bộ Chính trị đã thông qua một kế hoạch mới. Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đã trình bày những mục tiêu của cuộc tấn công mới: Ở quân khu V và Tây Nguyên sử dụng 3 sư đoàn chủ lực để tấn công Tây Nguyên, mở một hành lang nối Nam Tây Nguyên với Đông Nam Bộ, và tạo moi điều kiện cho các đơn vị chủ lực tiến nhanh vào Đông Nam Bộ phối hợp với các đơn vị chủ lực (của Trung ương Cục miền Nam) khi tiến công vào Sài Gòn. Trận đánh mở màn sẽ nhằm chiếm Buôn Ma Thuột, đột phá Tuy Hòa và Phú Yên, cắt phía hạ du thuộc Quân khu V (và Việt Nam) làm hai, và mở ra một hướng khác để tiến nhanh về phía Nam, tạo thành sức ép vào Sài Gòn.
    Trước triển vọng tương lai đầy hứa hẹn, Bộ Chính trị, theo đề nghị của tướng Giáp, đã ra lệnh cho Bộ Tổng tham mưu chuẩn bị một "kế hoạch thời cơ mới" để giải phóng toàn bộ miền Nam Việt Nam trước khi kết thúc năm 1975.Để biểu thị tầm quan trọng của chiến dịch này, Ban lãnh đạo đã ra lệnh cho Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng ngay lập tức lên đường tới Buôn Ma Thuột với tư cách là đại diện của Bộ Chính trị và nắm toàn quyền chỉ huy chiến dịch Tây Nguyên. Kế hoạch mới của Quân đội Nhân dân Việt Nam là một kế hoạch đã hoàn toàn thay đổi và táo bạo. Một viên tướng chỉ huy của Việt Nam Cộng hòa, sau khi Sài Gòn bị thất thủ, nói rằng ông ta nhận thấy trong chiến lược của Quân đội Nhân dân Việt Nam sự phản ánh tư duy chiến lược cách tiếp cận gián tiếp. Đòn then chốt của Quân đội Nhân dân Việt Nam không đánh trực tiếp vào lực lượng chủ lực của quân địch, mà đánh vào điểm yếu về phòng thủ nhưng lại có tầm quan trọng chiến lược mà kẻ địch không dám để mất. Bản kế hoạch nhấn mạnh những nguyên tắc: tập trung hỏa lực đánh đồng loạt, thần tốc, bất ngờ và đánh lạc hướng kẻ địch. Cuối cùng, việc chiếm được Buôn Ma Thuột đã cho phép Quân đội Nhân dân Việt Nam có thể lựa chọn nhiều phương án khác nhau cho những bước tiến tiếp theo, buộc quân đội Việt Nam Cộng hòa vốn đã bị dàn mỏng, không thể đoán được các đòn đánh tiếp theo của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Việc ban bố bản kế hoạch đó đã đặt Sài Gòn vào thế phải xoay xở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan. Tình thế đó dễ làm cho các chỉ huy của quân đội Việt Nam Cộng hòa phạm phải sai lầm và bảo đảm cho Quân đội Nhân dân Việt Nam sẵn sàng khai thác bất cứ thời cơ nào.
    Các sự kiện từ đây bắt đầu diễn ra nhanh chóng. Các đơn vị tham gia vào cuộc tấn công bao gồm các Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 ở Mặt trận Tây Nguyên; Sư đoàn 958 từ Lào tiến về; Sư đoàn 316 được đưa từ miền Bắc vào Nam bằng phương tiện cơ giới; bốn trung đoàn bộ binh độc lập; các đơn vị công binh, pháo binh và thiết giáp; và 8.000 lính mới tuyển từ miền Bắc Việt Nam đã tới các địa điểm tập kết. Được bảo đảm bởi một mạng lưới tình báo tuyệt vời làm cho phía Nam Việt Nam không phát hiện được ý đồ thực sự của đối phương. Biết rằng không thể giữ hoàn toàn bí mật việc chuẩn bị hậu cần và tiếp tế trên quy mô lớn, những người Cộng sản đã tổ chức một chiến dịch đánh lạc hướng tinh vi nhằm đánh vào điểm mạnh nhất trong bộ máy tình báo của kẻ địch: các trang bị trinh sát điện tử và thám sát trên không của Việt Nam Cộng hòa và đồng minh Mỹ. Đài phát thanh được lệnh phải im lặng tuyệt đối, không được để lộ tin tức về những đơn vị tham gia vào cuộc tấn công. Các nhân viên làm nhiệm vụ đánh lạc hướng của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã gửi đi hàng trăm bức thông điệp giả qua sóng vô tuyến, cố ý để lộ những hoạt động vận chuyển cơ giới và những hoạt động làm đường được ngụy tạo, tất cả những thông tin giả đó nhằm làm cho phía Nam Việt yên tâm là các Sư đoàn 10 và 320 của Quân đội Nhân dân Việt Nam vẫn đang tập trung quanh Plei-cu và Kon Tum và hai thành phố phía Bắc Tây Nguyên này chắc chắn là những mục tiêu đích thực của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Hoạt động đánh lạc hướng hiệu quả đến mức hàng loạt báo cáo lấy tin khai thác từ các tù binh và do các điệp viên chìm gửi về đều cho rằng Quân đội Nhân dân Việt Nam thực sự sắp tấn công Buôn Ma Thuột, nhưng những tin tức tình báo đó đã không được các tướng chỉ huy quân đội Việt Nam Cộng hòa quan tâm đến.
    Đại tá Trịnh Nguyên Huân (trích dịch)
  4. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Nguyễn Văn Thiệu bối rối trước ?omê hồn trận?
    Khoảng cuối tháng 2-1975, tất cả các đơn vị của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã vào vị trí chiến đấu. Ngày 1-3, Sư đoàn 968 đã tấn công một số đồn bốt nhỏ ở phía Tây Plei-cu, thu hút sự chú ý của quân đội Việt Nam Cộng hòa vào mối đe dọa đối với thành phố này. Ngày 4-3, cuộc tấn công của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã mở đầu bằng trận công kích của Trung đoàn 95A, sau khi trung đoàn này vừa đánh chiếm một số đồn nhỏ của lực lượng Việt nam Cộng hòa đang bảo vệ Đường 19 trên đèo Mang Yang, nhờ đó đã đe dọa nghiêm trọng con đường tiếp vận chính của quân lực Việt Nam Cộng hòa cho vùng Tây Nguyên. Xa hơn về phía Đông trên Đường 19, Sư đoàn 3 của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã tung ra một trận tấn công, tạo thêm nhiều vết cắt nữa trên con đường vận chuyển sống còn và giam hãm Sư đoàn 22 của quân lực Việt Nam Cộng hòa. Ngày hôm sau, Trung đoàn 25 của Sư đoàn 22 của quân lực Việt Nam đã cắt đứt Đường 21, một con đường khác duy nhất nối Tây Nguyên với vùng ven biển, nằm giữa Buôn Ma Thuột và Nha Trang. Quân lực Việt Nam Cộng hòa ở Tây Nguyên giờ đây đã bị cô lập và phụ thuộc hoàn toàn vào việc tiếp tế bằng đường không. Các phương tiện vận tải đường không của không lực Việt Nam Cộng hòa vừa ít về số lượng vừa kém về chất lượng hoàn toàn không có khả năng đảm đương việc vận chuyển quân cụ và binh lính ở quy mô lớn như vậy. Tổng thống Việt Nam Cộng hoà Nguyễn Văn Thiệu và Bộ Tổng Tham mưu của ông ta đều hiểu rằng nếu Đường 19 và Đường 21 không được mở lại sớm thì quân lực Việt Nam Cộng hòa đóng ở Tây Nguyên sẽ nhanh chóng bị cạn lương thực, nhiên liệu và đạn dược. Ngày 8-3, Sư đoàn 320 của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã đánh chiếm một thị trấn nằm trên Đường 14 ở phía Bắc Buôn Ma Thuột, cắt đứt con đường đi đến Plei-cu và cô lập hoàn toàn Buôn Ma Thuột. Tình thế đã sẵn sàng cho một trận tấn công cuối cùng, nhưng quân đội Việt Nam Cộng hòa vẫn không đoán được Buôn Ma Thuột đã trở thành mục tiêu.
    Theo dõi tình hình tiến triển từ Sài Gòn, Tổng thống Thiệu và Bộ Tổng tham mưu của ông ta vẫn không đoán được đòn tấn công chính của cộng sản sẽ rơi vào đâu. Một phần hiệu quả của chiến dịch đánh lạc hướng của Quân đội Nhân dân Việt Nam là đã ngăn chặn quân lực Việt Nam Cộng hòa điều động lực lượng dự bị lên tăng cường cho Tây Nguyên. Vài ngày trước khi tấn công Buôn Ma Thuột, lực lượng cộng sản đã tung ra một đợt sóng tấn công trên khắp miền Nam Việt Nam. Ở phía Bắc (miền Nam Việt Nam), ngày 5-3, lực lượng du kích nằm vùng đã tấn công vùng hạ du Quảng Trị và Thừa Thiên. Ngày 8-3, Sư đoàn 324 của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã giáng một đòn mạnh vào tuyến phòng thủ chính của quân lực Việt Nam Cộng hòa ở phía Tây-Nam Huế. Ở phía Nam, ngày 8-3, lực lượng Cộng sản đã tổ chức hàng loạt cuộc tấn công trên địa phận Sài Gòn và vùng Đồng bằng sông Cửu Long, chiếm được một huyện lỵ then chốt ở Tây-Bắc Sài Gòn. Tổng thống Thiệu và các tướng lĩnh của ông ta vô cùng bối rối. Một cuộc tấn công của cộng sản trên toàn quốc chắc chắn sẽ xảy ra, nhưng mục tiêu chính của cộng sản là ở đâu? Nơi nào sẽ gặp nguy hiểm lớn nhất? Đối với Thiệu và các tướng lĩnh của ông ta, câu trả lời có vẻ hiển nhiên: Thủ đô, Sài Gòn. Kế hoạch đánh lạc hướng của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã được thực hiện hoàn hảo.
    Ngày 9-3, Sư đoàn 10 Quân đội nhân dân Việt Nam với hai trung đoàn bộ binh (E28 và E66) chỉ được yểm trợ bởi hai khẩu phái 105mm với 50 viên đạn pháo, đã đánh chiếm Đức Lập cùng với toàn bộ các cứ điểm phòng thủ vòng ngoài trong vòng 24 giờ. Quân lực Việt Nam Cộng hòa bị tổn thất ở Đức Lập tổng cộng 3 đại đội, 14 khẩu pháo và 20 xe thiết giáp. Sau khi củng cố lực lượng, Sư đoàn 10 vừa giành được chiến thắng lại tiếp tục hành quân về phía Bắc, hướng đến Buôn Ma Thuột.
    Trong vòng vài giờ sáng sớm ngày 10-3, 12 trung đoàn của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã đồng loạt tung ra một trận tấn công bất ngờ vào Buôn Ma Thuột. Trung đoàn bám trụ 198 và hai tiểu đoàn bộ binh chính quy đã bí mật xâm nhập vào hai sân bay của thành phố Buôn Ma Thuột đang trong tình trạng giới nghiêm, kho tiếp vận Mai Hắc Đế và Bộ chỉ huy Sư đoàn 23. Năm trung đoàn bộ binh (3E lấy từ Sư đoàn 316, E24 thuộc Sư đoàn 10 và những chiến binh dày dạn kinh nghiệm của E95B thuộc Sư đoàn 325) tiến nhanh vào thành phố theo ba hướng, dẫn đầu bởi 64 xe tăng và xe vận chuyển bọc thép của Trung đoàn thiết giáp 273 được yểm trợ dưới hỏa lực của 78 khẩu pháo hạng nặng của các Trung đoàn pháo binh 40 và 675. Các Trung đoàn phòng không 232 và 234 cùng phối hợp tấn công đã giương lên một chiếc ô hỏa lực phòng không mạnh đến mức lực lượng không kích ném bom của quân lực Việt Nam Cộng hòa không những bị vô hiệu hóa mà chính lực lượng này còn gây thêm tổn thất cho các đơn vị quân đội Sài Gòn. Sau 32 giờ chiến đấu, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã chiếm được sở chỉ huy của Sư đoàn 23 và bắt sống viên phó tư lệnh sư đoàn. Tướng Dũng thông báo với Hà Nội rằng lực lượng của ông đã thu giữ được 12 khẩu pháo và 100 tấn đạn pháo ở Buôn Ma Thuột bảo đảm với Bộ Tổng Tham mưu vốn đang lo lắng là cuộc tấn công có thể tiến hành mà không gặp khó khăn gì về đạn dược. Trong cuộc họp Bộ Chính trị ngày 11-3 ông Lê Duẩn đã đưa ra thảo luận về khả năng có thể xuất hiện thời cơ chiến lược, thời điểm tung ra cuộc tổng tấn công cuối cùng. Trong chiến tranh, chiến thắng sẽ thuộc về bê nào sẵn sàng để giành lấy nó. Bắc Việt Nam đã chuẩn bị sẵn sàng.

    Chốn tử địa và mệnh lệnh ngu ngốc

    Tiếng trống tấn công nổi liên hồi, thoạt tiên hình như nhằm vào Plei-cu, sau đó là Sài Gòn và Huế, và tiếp đến, thật bất ngờ, tấn công vào Buôn Ma Thuột, những đòn tâm lý đã làm choáng váng các nhà lãnh đạo Nam Việt Nam. Lúng túng, vô vọng và trong tình trạng thực sự bị choáng, Tổng thống Việt Nam Cộng hoà Nguyễn Văn Thiệu đã đưa ra hai quyết định trọng yếu trong hai ngày 10 và 11-3 ấn định số phận của miền Nam Việt Nam. Cho đến lúc đó, Thiệu vẫn không nghĩ rằng Buôn Ma Thuột lại là mục tiêu chính của Quân đội nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên Thiệu biết chắc rằng ông ta đang phải đương đầu với một cuộc tấn công toàn lực và mục tiêu cuối cùng của Quân đội Nhân dân Việt Nam sẽ là Sài Gòn. Hành động đầu tiên của Thiệu là ra lệnh triệu hồi ngay lập tức Sư đoàn không vận của quân lực Việt Nam Cộng hòa, bộ phận phòng thủ thiết yếu của Vùng một chiến thuật, để gánh vác nhiệm vụ bảo vệ Sài Gòn. Khi các tướng chỉ huy cố gắng điều động các đơn vị và bố trí lại để lấp khoảng trống do sự rút đi của Sư đoàn không vận để lại, hệ thống phòng thủ của Quân đoàn Một bắt đầu chuệch choạc, chẳng khác gì một ngôi nhà bằng bìa các tông. Hành động thứ hai mà phía Bắc Việt tin chắc sẽ diễn ra, Thiệu đã ra lệnh ngay lập tức mở cuộc phản công để chiếm lại Buôn Ma Thuột "bằng mọi giá". Do đường đến Buôn Ma Thuột bị cắt đứt, Tư lệnh Vùng hai chiến thuật của quân lực Việt Nam Cộng hòa, tướng Phạm Văn Phú đã buộc phải gửi hai trung đoàn còn lại của Sư đoàn 23 đến mặt trận bằng máy bay trực thăng, cho năm tiểu đoàn nhảy dù đổ bộ xuống trận địa phía đông Buôn Ma Thuột trong những ngày từ 12 đến 14-3, không có thiết giáp và chỉ được pháo binh yểm trợ hạn chế. Hai trung đoàn nhảy dù đổ bộ đã lọt vào chính giữa vùng "tử địa" mà Quân đội nhân dân Việt Nam đã bày sẵn. Sư đoàn 10 vừa từ Đức Lập đến, được yểm trợ bởi một lực lượng thiết giáp và pháo binh hùng mạnh, đang nằm chờ sẵn. Trong bốn ngày tấn công như vũ bão, Sư đoàn 10 đã nghiền nát và tiêu diệt tất cả những gì còn sót lại của Sư đoàn 23 và Liên đoàn biệt động của quân lực Việt Nam Cộng hòa. Trong lúc đó, những tàn quân cuối cùng của đội quân hùng mạnh thuở nào của quân lực Việt Nam Cộng hòa trên vùng cao nguyên (Tiểu đoàn biệt động 19, một tiểu đoàn bộ binh, ba sư đoàn thiết giáp và sáu tiểu đoàn pháo binh), khi mọi con đường tiếp vận đã bị cắt đứt, không một chút hy vọng được tiếp tế hoặc được giải cứu, đã hoàn toàn suy sụp. Mệnh lệnh mà Thiệu đưa ra ngày 14-3 là rút các lực lượng này khỏi Plei-cu chạy theo tỉnh lộ 7B, một con đường hầu như không còn sử dụng được, để ra vùng ven biển là một hành động vô vọng nhằm vớt vát phần nào lực lượng còn lại ở Tây Nguyên. Một mệnh lệnh ngu ngốc, việc thực hiện mệnh lệnh thì tồi tệ, nhưng trong bối cảnh đó, một mệnh lệnh như vậy là có thể hiểu được.

    Chiến dịch cuối cùng đóng vào cỗ quan tài

    Khi các lực lượng của tướng Dũng đã đánh tan hoàn toàn đội ngũ quân lực Việt Nam Cộng hòa đang rút chạy khỏi Plei-cu, tướng Giáp đã ra lệnh cho các lực lượng chủ lực ở gần Huế làm con đường vòng qua tuyến phòng thủ vùng núi của quân đội Việt Nam Cộng hòa theo đúng ý đồ tấn công ban đầu của Quân đội nhân dân Việt Nam. Tướng Giáp đã lệnh cho Quân đoàn II điều động Sư đoàn 324 và Sư đoàn 325 đánh thẳng vào vùng đất thấp ven biển, cắt Đường I, con đường rút lui chính của quân lực Việt Nam Cộng hòa, và đánh tan các lực lượng rút chạy không để chúng co cụm lại và củng cố. Bị bắt trong lúc tháo chạy, bị đánh chặn và bị cô lập, các đơn vị đang rút chạy của quân lực Việt Nam Cộng hòa đã bị quét sạch trong cơn hoảng loạn. 29-3, Huế, Đà Nẵng và toàn bộ vùng một chiến thuật của quân đội Việt Nam Cộng hòa đã rơi vào tay Cộng sản.
    Trong phiên họp lịch sử của Bộ Chính trị ngày 18-3, tướng Giáp đã đóng chiếc đinh cuối cùng vào cỗ quan tài của Nam Việt Nam bằng quyết định chiến lược quan trọng trong cuộc đời binh nghiệp sáng chói của ông. Tướng Giáp đề nghị thời cơ chiến lược mong đợi từ lâu giờ đây đã xuất hiện nên quân đội triển khai ngay lập tức một cuộc tổng tấn công trên cả nước để giành quyền kiểm soát toàn bộ miền Nam Việt Nam trước khi kết thúc năm 1975. Quân đoàn 1 tinh nhuệ, lực lượng dự trữ chiến lược cuối cùng của Bắc Việt Nam giờ đây sẽ được giao nhiệm vụ chiến đấu. Bộ Chính trị chấp thuận đề nghị của tướng Giáp và ra mệnh lệnh triển khai cuộc Tổng tấn công vào Sài Gòn. Với quyết định đó, kết cục của cuộc chiến tranh chẳng còn gì phải bàn cãi. Trong bản kê khai báo tử, ngày 30-4-1975 được coi là giờ chết.
    Đại tá Trịnh Nguyên Huân (trích dịch)
  5. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Những đánh giá của Ông F.Xnép, chuyên viên phân tích tình báo của CIA về chiến dịch năm 1975.
    Bậc thầy về yếu tố bất ngờ trong nghệ thuật tác chiến

    Ông F.Xnép, chuyên viên phân tích tình báo của CIA tại Sài Gòn trong những giây phút cuối cùng của chế độ Việt Nam Cộng hòa kể lại trong cuốn "Việt Nam cuộc chiến tranh mười nghìn ngày" của tác giả Mai-cơn Mác-lia rằng: "Những ngày đầu năm 1975, chúng tôi linh tính rằng, Cộng sản đã đưa vào miền Nam một lực lượng to lớn hơn nhiều so với những gì mà chúng tôi biết đang có ở đây. Họ đã tập trung số quân tại phía tây cao nguyên. Chúng tôi hiểu rằng, Buôn Ma Thuột luôn luôn là điểm tựa cho việc phòng thủ của chính quyền trên cao nguyên. Buôn Ma Thuột mất thì sự phòng thủ có thể bị đánh ngay sườn. Tuy nhiên, Bắc Việt rất khôn ngoan. Họ chuyển quân mà không sử dụng liên lạc vô tuyến. Họ đưa vào vùng Buôn Ma Thuột 3 sư đoàn mà chúng tôi không hề biết. Sau khi bí mật bố trí lực lượng đánh tạt sườn quân đội Sài Gòn, cuối cùng Tướng Văn Tiến Dũng phá vỡ sự im lặng vô tuyến và cho chuyển đi các bức điện giả. Những bức điện này tiết lộ cho biết ông sẽ đánh Plây-cu. Do đó, chúng tôi bắt đầu coi Plây-cu là một khu vực nguy hiểm, nhiều khả năng bị tấn công".
    Dù Buôn Ma Thuột là một trung tâm chiến lược, quân đội Sài Gòn không chuẩn bị trước, chỉ triển khai có 4.000 quân ở đó. Đúng 1 giờ 55 phút ngày 10-3, Buôn Ma Thuột bị tấn công. Không được tăng viện, quân đội Sài Gòn đã đầu hàng sau 30 giờ bị vây hãm. "Một khi Buôn Ma Thuột thất thủ, cộng sản ở vị trí có thể lướt tới chiếm vùng duyên hải miền Trung và tiếp đó quay sang phải, hướng về Nam, tiến về Sài Gòn. Thực tế, đó là điểm khởi đầu của sự kết thúc chiến tranh. Quân đội Sài Gòn từ cao nguyên đã tràn ra phía bờ biển và bị tan vỡ giữa đường", ông F.Xnép nói.
    Báo QĐND
  6. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Đánh giá của Tổ Trung tâm thuôc Bộ Tổng tham mưu khi chuẩn bị kế hoạch tác chiến năm 1975.
    (Nguồn QĐND)
    ...........
    Tổ Trung tâm nhất trí, sau khi quân chiến đấu của Mỹ và chư hầu rút khỏi miền Nam thì quân ngụy đã bắt đầu suy yếu hơn trước nhiều. Nhưng cũng phải công nhận ngụy quân và ngụy quyền Sài Gòn còn có một số điểm mạnh:
    - Một là, quân số còn đông, có tổ chức, có kinh nghiệm chiến đấu. Chúng đang có kế hoạch tăng quân chủ lực ngụy lên 70 vạn, gồm 13 sư đoàn và 14 trung đoàn, có khả năng đưa lên đến 14-15 sư đoàn; địa phương quân có 369 tiểu đoàn và liên đội, sẽ thành lập 30-40 trung đoàn; phòng vệ dân sự là 1,1 triệu (có 23 vạn vũ trang) sẽ đưa lên 1,5 triệu (có 40 vạn vũ trang). Khả năng cơ động còn cao với sự tiếp tục viện trợ của Mỹ. Không quân ngụy hiện có 51 phi đoàn, với 1.110 máy bay, sẽ tăng máy bay chiến đấu lên gấp đôi. Xe tăng thiết giáp có 22 thiết đoàn (1.789 xe), sẽ tăng 3 thiết đoàn M-48. Pháo binh có 66 tiểu đoàn (1.360 khẩu), sẽ tăng thêm 4 tiểu đoàn pháo nòng dài 175mm.
    - Hai là, chúng còn chiếm và kiểm soát nhiều vùng đông dân, các thành phố, các thị xã, các trục giao thông quan trọng.
    - Ba là, hệ thống ngụy quyền từ trung ương đến cơ sở có nhiều kinh nghiệm chống phá cách mạng, kìm kẹp nhân dân vùng chúng kiểm soát.
    Nhưng vì là đội quân tay sai nên địch cũng đã bộc lộ những điểm yếu rất cơ bản: mâu thuẫn giữa phân tán và tập trung nên quân số đông mà nhiều vùng quan trọng chưa được củng cố.
    Đặc biệt, gần 60 vạn quân chiến đấu Mỹ và chư hầu phải rút, cùng phần lớn binh khí kỹ thuật hiện đại, làm cho quân ngụy mất chỗ dựa trực tiếp và chủ yếu, nên thế và lực của quân ngụy suy yếu rất nhiều. Nội bộ quân ngụy, kể cả ngụy quyền dễ bị phân hóa nếu bị đánh đau, đánh mạnh.
    Qua thảo luận về tình hình địch, nổi lên 2 điểm mà tổ Trung tâm tranh luận rất sôi nổi:
    - Một là, quân ngụy bắt đầu suy yếu, nhưng yếu đến mức độ nào? Có phải yếu đến mức ta mới đánh mạnh, đánh đau, tiêu diệt một bộ phận sinh lực là chúng bắt đầu đổ vỡ, hay còn có sức chống đỡ kéo dài một thời gian? Nghiêng về khả năng địch còn có sức chống đỡ, nên ta phải chuẩn bị mọi mặt để có thể chiến đấu liên tục trong 2 năm (có khi phải qua năm thứ 3), bằng nhiều chiến dịch chiến lược, liên tục tiêu diệt một bộ phận sinh lực lớn, làm thay đổi nhanh so sánh lực lượng có lợi cho ta trong một thời gian ngắn, thì mới có khả năng giành thắng lợi trọn vẹn.
    - Hai là, khi quân ngụy bị đánh đau, có nguy cơ bị sụp đổ, liệu Mỹ có dám đem quân chiến đấu trở lại không? Nếu có là bao nhiêu và nhằm mục đích gì? Mỹ đã thua và phải rút quân chiến đấu về nước thì đưa quân trở lại không phải dễ, nhưng ta phải luôn luôn cảnh giác với lực lượng răn đe của Mỹ ở Đông Nam Á, gồm không quân, hải quân ở các căn cứ: Thái Lan, Phi-líp-pin, Đài Loan, Nam Triều Tiên... (56 tàu chiến, 1.020 máy bay kể cả máy bay oanh tạc chiến lược và 15.200 quân). Trong chiến tranh ở Triều Tiên, khi quân Mỹ cùng Nam Triều Tiên bị quân dân Bắc Triều Tiên cùng Giải phóng quân Trung Quốc đánh mạnh, phải rút về cực Nam bán đảo Triều Tiên, thì Mỹ đổ bộ lên Nhân Xuyên để cứu (ngày 16-9-1950, 2 sư đoàn thủy quân lục chiến Mỹ). Điều cần chú ý là, bán đảo Triều Tiên ở phía đông cũng như phía tây phần lớn là bờ biển; ở nước ta, bờ biển cũng dài hơn 3.000km, nếu từ Cửa Việt vào mũi Cà Mau cũng gần 1.800km, lại có nhiều bãi đổ bộ thuận lợi.
    Tổ Trung tâm kết luận:
    Mỹ không dám đưa quân chiến đấu vào gây lại chiến tranh, nhưng có thể chiếm đóng một vài vùng dọc ven biển miền Trung, nhằm ngăn chặn, làm chậm cuộc tấn công chiến lược của ta, tạo điều kiện để chúng có thời gian củng cố khu vực rộng lớn Đồng bằng sông Cửu Long, hòng mặc cả với ta trong thế thua.
    Vấn đề Mỹ có dám đưa quân chiến đấu trở lại không và nhằm mục đích gì, được các hội nghị thông qua của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương thảo luận, cân nhắc kỹ. Cụ thể thông qua lần thứ nhất ghi rõ: ?oLúc đầu, Mỹ cố dùng quân ngụy trực tiếp đối phó với ta, Mỹ viện trợ trang bị kỹ thuật. Nếu ngụy khó khăn, Mỹ mới chi viện bằng không quân, hải quân, tiếp theo là cố vấn và quân chư hầu. Trước nguy cơ ngụy sụp đổ thì Mỹ mới dùng bộ binh?. Lần thông qua thứ hai nhấn mạnh: ?oPhải chú ý đến lực lượng răn đe của đế quốc ở Đông Nam Á?. Lần thứ ba và thứ tư nhận định: ?oQuân đội đế quốc không còn trên đất nước ta nhưng lực lượng không quân, hải quân răn đe của Mỹ ở Đông Nam Á có thể sẵn sàng can thiệp?.
    ...
    Trung tướng Lê Hữu Đức - nguyên Cục phó Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu
  7. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Bản đề cương Kế hoạch đầu tiên của Bộ Tổng tham mưu trình hội nghị Bộ Chính trị khai mạc tại Tổng hành dinh ngày 30-9-1974.
    (Nguồn: trích Hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)
    ----------------
    Căn cứ vào tinh thần chỉ thị của Bộ Chính trị, Bộ Tổng tham mưu bồ sung kế hoạch chiến lược. Một bản đề cương mới: "Kế hoạch giành thắng lợi ở miền Nam" mang số 172/TGL đã làm xong ngày 26-8-1974.
    Kế hoạch chiến lược gồm hai bước:
    Bước 1 (1975): Tranh thủ bất ngờ, tiến công lớn và rộng khắp nhằm:
    1. Đánh bại về cơ bản kế hoạch "bình định" của địch, tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận quan trọng quân ngụy, giải phóng và làm chủ phần lớn nông thôn đồng bằng sông Cửu Long, vùng ven Sài Gòn, đồng bằng Khu V và Trị - Thiên.
    2. Mở thông hành lang chiến lược từ nam Tây Nguyên xuống miền Đông Nam Bộ và ba tỉnh phía nam Khu V, từ Tây Ninh xuống bắc Sài Gòn, từ Tây Ninh xuống Long An, xuống tây nam Sài Gòn, từ Kiến Phong, Kiến Tường đến Mỹ Tho. Mở các căn cứ bàn đạp, áp sát các đô thị và căn cứ trọng yếu của địch.
    3. Phá hủy một bộ phận quan trọng phương tiện chiến tranh, tiềm lực kinh tế, cắt giao thông địch.
    4. Thúc đẩy phong trào đô thị phát triển.
    5. Xây dựng lực lượng, củng cố vùng giải phóng, chuẩn bị chiến trường, tạo điều kiện cho bước hai.
    Kế hoạch chiến lược năm 1975 chia làm ba đợt:
    Đợt 1: Từ tháng 12-1974 đến tháng 2-1975, là đợt tiến công có mức độ. Hoạt động chủ yếu ở đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ.
    Đợt 2: Là đợt chủ yếu. Từ tháng 3 đến tháng 6-1975, mở chiến dịch tiến công quy mô lớn trên chiến trường nam Tây Nguyên và các chiến dịch phối hợp ở miền Đông Nam Bộ, bắc Khu V và Trị - Thiên. ở đồng bằng sông Cửu Long, tiếp tục tiến công và nổi dậy, mở mảng, mở vùng, đánh phá "bình định".
    Đợt 3: Từ tháng 8 đến tháng 10-1975 là đợt phát triển thắng lợi bằng đẩy mạnh hoạt động ở Trị - Thiên và Khu V, đồng thời chuẩn bị lực lượng sẵn sàng thực hiện phương án thời cơ.
    Bước 2 (1976): Thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
    Vê hướng chiến lược và nhiệm vụ của từng chiến trường, Bộ Tổng tham mưu đề nghị:
    - Trị - Thiên, Quảng Đà là chiến trường đánh phá "bình định", tiêu diệt lực lượng địch, giải phóng đại bộ phận nông thôn, chia cắt chiến lược.
    - Tây Nguyên (trọng điểm là nam Tây Nguyên) là chiến trường chủ yếu của chủ lực tiêu diệt lực lượng địch. .
    - Nam Bộ: Đồng bằng sông Cửu Long và vùng ven Sài Gòn là chiến trường chủ yếu đánh phá "bình định" nhằm hoàn thành thế bao vây và cô lập Sài Gòn.
    - Miền Đông là chiến trường của chủ lực, tiêu diệt lực lượng định, mở mảng, mở vùng, mở hành lang Tây Ninh và phối hợp với Khu VIII mở hành lang Kiến Phong - Kiến Tường, tạo bàn đạp áp sát Sài Gòn, Mỹ Tho.
    Về thời cơ chiến lược, Bộ Tổng tham mưu dự kiến thời cơ có thể xuất hiện trong ba tình huống:
    1. Khi ta đánh mạnh nhất vào đợt hai năm 1975.
    2. Ngay trong mùa mưa ở Nam Bộ.
    3. Những tháng cuối năm 1975, khi ngụy tổ chức bầu tổng thống.
    Phương hướng là: "Kiềm chế Mỹ, đánh đổ ngụy, hạn chế chiến tranh ở phạm vi miền Nam, đồng thời sẵn sàng đối phó phản ứng quyết liệt của Mỹ bằng không quân, hải quân và quân cứu hỏa".
    Trong bản báo cáo, Bộ Tổng tham mưu cũng trình bày cụ thể kế hoạch hậu cần chiến lược làm cơ sở cho việc đặt kế hoạch tác chiến chiến lược và những mục tiêu cần đạt tới, nhất là trong năm 1975, về khả năng can thiệp trở lại của Mỹ khi ta đánh lớn, khả năng vật chất kỹ thuật của ta để đánh lớn, về khả năng nổi dậy của quân chúng ở các đô thị, nhất là ở Sài Gòn.
    Tôi (Đại tướng Võ Nguyên Giáp) phát biểu ý kiến bổ sung, nêu rõ lúc này thế và lực của ta đang phát triển nhanh chóng theo chiều hướng có lợi Tình hình đó cho phép ta chuẩn bị ngay kế hoạch tiến tới tổng công kích, mở đầu là tổ chức các đợt tiến công tiêu diệt lớn quân địch, sau đó đánh vào các thành phố.
    Địch còn có những chỗ mạnh. Xương sống của địch là quân đội ngụy, được coi là mạnh nhất trong các đội quân tay sai của đế quốc. Bên cạnh chúng, vẫn còn cố vấn và nhân viên quân sự Mỹ. Đầu não của chúng đang ở các đô thị, nhất là ở Sài Gòn. Kế hoạch bình định được chúng coi là cơ sở, tạo nguồn dự trữ để thực hiện "Việt Nam hóa chiến tranh".
    Tuy nhiên, địch đang trên đà đi xuống. Viện trợ Mỹ không ngừng bị cắt giảm. Tinh thần quân ngụy rêu rã, binh sĩ phần lớn bị bắt buộc đi lính, sức chiến đấu sút kém rõ rệt. Ngụy quyền cũng suy yếu trầm trọng. Mâu thuẫn giữa chúng với chủ Mỹ ngày càng tăng. Ngụy quyền Sài Gòn đang đứng trước những khó khăn về kinh tế - xã hội vô phương cứu vãn. Đế quốc Mỹ đang lúng túng. Phong trào phản chiến từ sau Hiệp định Pa ri càng lên cao. Nạn lạm phát xuất hiện. Đảng Dân chủ bị vụ bê bối Oatơghết trói chặt chân tay. Mỹ rất khó đưa quân trở lại miền Nam. Đây là hoàn cảnh khách quan hết sức thuận lợi, ta cần tận dụng, không được bỏ lớ.
    Khó khăn của địch là thuận lợi của ta. Cách mạng miền Nam đang chuyển mạnh theo hướng đi lên. Chiến trường Nam Bộ bước vào một mùa mưa chưa từng có. Bất chấp thời tiết khó khăn, quân và dân ta đẩy mạnh mọi mặt hoạt động tạo thế mới và lực mới, cả vật chất và tinh thần. Ta tiêu diệt một bộ phận khá lớn sinh lực của địch, giữ vững các "lõm giải phóng" ở đồng bằng sông Cửu Long, xung quanh Sài Gòn, giữ vững vùng giải phóng và căn cứ địa rộng lớn, duy trì được thế uy hiếp địch về mặt chiến lược.
    Việc chuẩn bị cơ sở vật chất, dự trữ cho chiến đấu cũng rất khả quan. Ngành hậu cần, đoàn Trường Sơn đã vận chuyển với khối lượng lớn, "lót ổ" hàng vạn tấn đạn dược, lương thực, xăng dầu tạo thêm thế mạnh, chuẩn bị đủ cho bộ đội chiến đấu trong một năm rưỡi, xây dựng lực lượng, nhất là xây dựng những "quả đấm chủ lực", thu được nhiều kết quả. Bộ đội chủ lực đã triển khai hầu hết ở miền Nam.
    Tôi đặc biệt lưu ý hội nghị về trận Thượng đức, qua đó thấy rõ khi không dựa được vào sự chi viện lớn của không quân Mỹ, khi không còn nhiều đạn pháo để sử dụng thì sức chiến đấu của quân ngụy rất yếu cả trong tiến công cũng như trong phòng ngự.
    Cuối cùng, tôi khẳng định thời cơ chiến lược đã đến, cần khẩn trương chuẩn bị mọi mặt, đi đôi với đáy mạnh đấu tranh chính trị, cần có những trận quyết chiến chiến lược tiêu diệt lớn quân địch để giành toàn thắng.
    Được quyenlinh66 sửa chữa / chuyển vào 10:25 ngày 05/01/2006
  8. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Bản dự thảo kế hoạch tiếp theo của Bộ Tổng tham mưu có bổ sung một vài điểm về tình hình mới nhất; điều chỉnh một vài chỉ tiêu sau khi đã thống nhất ý kiến với các Bộ chỉ huy các chiến trường.
    Bản này đã được thiếu tướng Lê Ngọc Hiền, thay mặt Bộ Tổng tham mưu, trình bày tại hội nghị Bộ Chính trị mở rộng ngày 18 tháng 12 năm 1974.
    (Nguồn: Trích hồi ký của thiếu tướng Phan Hàm)
    ..............
    Sau khi tóm tắt tình hình trong một năm qua, đồng chí thiếu tướng Lê Ngọc Hiền báo cáo:
    - Năm 1975, nhất là khoảng từ tháng 8 đến tháng 10, quân ngụy bị suy yếu, phong trào quần chúng ở nông thông, đô thị lên mạnh, Mỹ có thể thay Thiệu một cách êm thấm, có thể phát triển thành một phong trào đấu tranh lớn hơn.
    Về mặt tác chiến, thì năm 1975 là năm bản lề. Cần đẩy mạnh tiến công quân sự, chính trị, ngoại giao lên, làm biến chuyển so sánh lực lượng, có lợi cho ta, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho năm 1976.
    Yêu cầu cụ thể là:
    Giải phóng làm chủ mạnh từ 5 triệu đến 6 triệu dân, hay nếu có thể, thì nâng lên 7 triệu. Muốn làm được việc đó, phải giải quyết 4.500-5.000 đồn bốt; giải phóng 3.500-4.000 ấp, 300-400 xã; diệt 15-20 chi khu quận lỵ; 4-5 tỉnh lỵ; diệt và làm bị thương 30-35 vạn địch, đánh tụt 5-10 vạn tổng quân số, trong đó gồm 14-15 trung đoàn bộ binh, 4-5 trung đoàn, lữ đoàn xe tăng, đánh thiệt hại nặng 4-5 sư đoàn; làm tan rã 70-80 phần trăm phòng vệ dân sự; đốt 7 vạn tấn kho, phá huỷ 500 đến 600 máy bay địch?
    Mở rộng và củng cố vùng giải phóng miền núi; có thể giải phóng một số thị xã, mở rộng hành làn chiến lược, nối liền Tây Nguyên với miền Đông; miền Đông với đồng bằng sông Cửu Long, cải thiện một bước thế chiến lược của ta.
    Phát triển và đẩy mạnh phong trào đô thị.
    Ra sức xây dựng ba thứ quân, làm chuyển biến nhanh so sánh lực lượng, có lợi cho ta.
    Kết hợp với tiến công ngoại giao, buộc địch lập chính phủ thi hành hiệp định, hoặc chính phủ liên hiệp ba thành phần, thực hiện các quyền tự do dân chủ, để có điều kiện đẩy mạnh phong trào đô thị lên nữa.
    Về kế hoạch tác chiến cụ thể: năm 1975 tổ chức ba đợt tiến công.
    Đợt 1, từ tháng 12 năm 1974 đến tháng 2 năm 1975: tiến công có mức độ. Ở đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ. Mục đích của đợt này là mở vùng đồng bằng Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre và các vùng cũ Chương Thiện-Rạch Giá-Cần Thơ-Cà Mau-các kênh Dương Văn Dương, Nguyễn Văn Tiếp, nam bắc lộ 4-Mỹ Tho. Ở miền Đông, sư đoàn trung đoàn hay sư đoàn, đánh từng trận chắc thắng, diệt Bù Na-Bù Đăng, giải phóng một đoạn đường 14, từ Bù Đăng đến Đồng Xoài.
    -Đợt 2. Như vậy là đợt đầu, mới tập dượt cho chiến trường miền Đông, diệt 1 vài chi khu quận lỵ. Ở các chiến trường khác: Trị Thiên-Khu 5-Tây Nguyên, chỉ hoạt động nhỏ của lực lượng địa phương, còn lực lượng chủ lực, thì chuẩn bị cho đợt 2.
    Phòng họp im phăng phắc. Mọi người đang chờ đợi một cái gì. Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền, bước lại gần tấm bản đồ quyết tâm treo trên giá, vừa tiếp tục báo cáo vừa chỉ:
    -Đợt 2, từ tháng 3 năm 1975 đến tháng 6 năm 1975, là đợt chủ yếu. Ta tập trung lực lượng sư đoàn 10, sư đoàn 320 và các trung đoàn độc lập 95A, 25, mở chiến dịch quy mô lớn ở nam Tây Nguyên. Đây là hướng tiến công chủ yếu của toàn miền. Tính chất của chiến dịch rất kiên quyết, nhiệm vụ của chiến dịch là tiêu diệt cụm cứ điểm Đức Lập, mở thông hành lang đường 14 nối liền Tây Nguyên với miền Đông Nam Bộ; diệt vài trung đoàn; đánh thiệt hại nặng sư đoàn 23 nguỵ; giải phóng một số quận lỵ trong tỉnh Đắc Lắc; có thời cơ thì chiếm Buôn Ma Thuột. Trên hướng bắc Tây Nguyên, sử dụng sư đoàn 968, nghi binh, kéo dài lên hướng này, kìm chân chúng lại, tạo điều kiện cho chiến trường chính hoàn thành nhiệm vụ. Các trung đoàn 95A và 25 thì cắt đường 19, đường 21 lâu dài. Hướng phát triển là Gia Nghĩa ở phía nam, Cẩm Ga ở phía bắc Buôn Ma Thuột. Sau khi làm nhiệm vụ ở Đức Lập, hai sư đoàn sẽ đánh quân giải toả, có thời cơ thì mở rộng vùng nông thôn Phú Bổn, giải phóng Cheo Reo.
    Phối hợp với chiến trường nam Tây Nguyên, trên chiến trường Trị Thiên, Quảng Đà, Quân đoàn 2 và lực lượng địa phương đẩy mạnh hoạt động nhằm tiêu diệt và giữ chân hai sư đoàn dự bị của nguỵ là sư đoàn dù và sư đoàn thuỷ quân lục chiến; đồng thời, tạo điều kiện cho lực lượng địa phương phá bình định. Trị Thiên cũng còn một nhiệm vụ rất quan trọng nữa là cắt dài ngày đường quốc lộ số 1, đoạn Huế-Đà Nẵng.
    Ở Khu 5, giải phóng các quận lỵ ở vùng giáp ranh, nằm lọt sâu vào trong căn cứ của ta như Tiên Phước, Phước Lâm, Sơn Hà.
    Trực tiếp, phối hợp với nam Tây Nguyên sẽ dùng sư đoàn 3 của Khu 5 cắt dài ngày đường 19 đoạn Phú Phong-An Khê.
    Ở đồng bằng sông Cửu Long, tổ chức chiến dịch tổng hợp với quy mô hai sư đoàn: sư đoàn 5 và sư đoàn 3, diệt các yếu khu, chi khu, mở rộng hành lang biên giới Kiến Phong-Kiến Tường, tạo điều kiện cho đồng bằng trực tiếp phá bình định, giành dân, mở vùng, hoàn thành thế liên hoàn Vĩnh Trà-Bến đã tạo được trong đợt 1, áp sát Cần Thơ, khôi phục lại vùng 4 Kiến Tường, có điều kiện thì giải phóng Cà Mau.
    Ở miền Đông Nam Bộ, dùng sư đoàn 9 (thiếu) và trung đoàn 26 diệt Dầu Tiếng hoặc Bến Củi, Bầu Đồn, Chà Rày, mở thông hành lang qua Hậu Nghĩa, phối hợp với mặt trận biên giới Kiến Phong-Kiến Tường, có điều kiện thì giải phóng Mộc Hóa. Trên quốc lộ 14, sử dụng sư đoàn 7, tiêu diệt Kiến Đức; phối hợp với lực lượng ở nam Tây Nguyên, tiêu diệt Gia Nghĩa.
    Về phía Đông, dùng một bộ phận của sư đoàn 7 và lực lượng tập trung của Khu 6, giải phóng khu vực Vỏ Đắc-Tánh Linh, hoàn chỉnh cho được một khu vực giải phóng rộng lớn, đã tạo ra được trong đợt 1, cắt đường quốc lộ 1 ở đoạn Long Khánh-Bình Tuy.
    Đợt 3, sẽ diễn ra từ tháng 8 đến tháng 10 năm 1975, phát triển thắng lợi đã đạt được, ta tiếp tục đẩy mạnh hoạt động ở Trị Thiên, Khu 5, diệt địch, giữ vững và mở rộng hành lang, tiếp tục mở vùng mở mảng ở đồng bằng, đánh giao thông, hậu cứ; đồng thời, tranh thủ thời gian, củng cố lực lượng, sẵn sàng phương án đón thời cơ.
    Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền vừa nói đến ?othời cơ?, cả hội nghị đều ngước mắt lên nhìn đồng chí.
    Thiếu tướng nói:
    Như Bộ Chính trị đã dự kiến, thời cơ có thể xuất hiện sát gần, hoặc ngay trong thời gian ta đánh mạnh nhất; cũng có thể xảy ra ngay trong mùa mưa ở Nam Bộ; trong đợt 3 hoặc trong những tháng cuối năm 1975 như khi bầu cử tổng thống nguỵ. Ta sẽ thực hành chia cắt chiến lược, tiêu diệt quân phòng thủ, đánh quân giải toả, đồng thời đẩy mạnh tiến công binh vận, đẩy binh biến, ly khai?
    Để được cụ thể hơn,đồng chí nhấn mạnh:
    -Tập kích những đòn thật mạnh, diệt các cơ quan đầu não, trung tâm thông tin, sân bay, căn cứ, hậu cứ, kho tàng? diệt và làm rối loạn các hoạt động ứng cứu lẫn nhau, sẵn sàng lực lượng, kịp thời hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy và binh sĩ nguỵ ở những nơi có điều kiện, bung ra lớn. Các quân khu, quân đoàn, có kế hoạch kết hợp nổi dậy và tiến công ở trọng điểm và các đô thị, nhằm diệt cơ quan đầu não, diệt nhiều sinh lực địch, hỗ trợ cho phong trào quần chúng và binh sĩ nguỵ?
  9. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Những thảo luận về việc lựa chọn Tây nguyên là mục tiêu chính trong khi chuẩn bị kế hoạch tác chiến năm 1975 của Bộ Tổng tham mưu.
    (Nguồn: trích hồi ký của Trung tướng Nguyễn Hữu Đúc)
    ................
    Tư tưởng quân sự thời đại Hồ Chí Minh qua 28 năm đánh Pháp và đánh Mỹ rút ra: "Phải chọn đúng hướng địch yếu, sơ hở và rất hiểm yếu, vì không hiểm yếu, có thể địch không ứng cứu, tức không đưa những đơn vị tinh nhuệ nhất của chúng đến cứu nhau, thoát ly công sự thì ta mới có điều kiện tiêu diệt chúng trong vận động, tức đánh theo sở trường của bộ đội chủ lực ta.
    Một kinh nghiệm rất quý là phải tìm bằng mọi cách bắt địch phải ứng cứu, đó là điều kiện cơ bản hàng đầu, nhưng đồng thời lại phải có kế hoạch ngăn chặn chia cắt địch: gần xa, chìm nổi, dày đặc, nhiều tầng nhiều lớp đi đến bắt địch chỉ ứng cứu lần lượt, đủ sức chủ lực ta lần lượt tiêu diệt chúng. Nếu để địch ào ạt đưa quân ứng cứu lớn thì chủ lực ta không đủ sức tiêu diệt gọn, chiến sự có thể kéo dài, ta có thể thương vong nhiều, mặt khác cũng để thu hút Mỹ đưa một bộ phận quân chiến đấu trở lại cứu bọn ngụy.
    Cụ thể, không để xảy lại tình hình như đợt 2 năm 1972 ở bắc Quảng Trị, bắc Kon Tum và bắc An Lộc".
    Kinh nghiệm sốt dẻo của chiến dịch Biên giới và Điện Biên Phủ là khi ta tiêu diệt được một lực lượng gồm những đơn vị tinh nhuệ nhất của địch, thuộc lực lượng dự bị chiến lược của chúng, tương đương một sư đoàn thì ta tạo được một sự đổ vỡ lớn, đập nát hệ thống phòng ngự cơ bản của địch trên một diện rộng, tạo một bước ngoặt đột biến, tạo thời cơ lớn cho chiến tranh. Sau chiến dịch Biên giới, Pháp phải cử tướng Revers- Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp nghiên cứu tình hình tại chỗ. Revers đã đề nghị bỏ cả miền Bắc Đông Dương về vĩ tuyến 16 còn sau Điện Biên Phủ ta giải phóng được nửa nước.
    Với lực lượng còn lại, toàn miền Nam, địch tổ chức và bố trí thành 4 quân khu-quân đoàn theo kiểu "nặng hai đầu, nhẹ ở giữa". Tập trung lực lượng mạnh ở quân khu 1-quân đoàn 1 (từ thành cổ Quảng Trị đến Huế-Đà Nẵng và tỉnh Quảng Ngãi) để sẵn sàng đối phó với khối chủ lực của ta ở miền Bắc và ở quân khu 3-quân đoàn 3 (miền Đông Nam Bộ) để bảo vệ Sài Gòn-Gia Định. Còn lực lượng quân ngụy thuộc quân khu 2-quân đoàn 2 (từ Bình Định đến sau Bình Thuận và Tây Nguyên) và quân khu 4-quân đoàn 4 (đồng bằng sông Cửu Long) tương đối yếu hơn.
    Lực lượng cụ thể và thế bố trí của quân ngụy trên từng quân khu-quân đoàn như sau:
    - Quân khu 1-quân đoàn 1 có 5 sư chủ lực (có 2 sư tổng dự bị chiến lược), 4 liên đoàn biệt động quân, 21 tiểu đoàn và một số đại đội, trung đội pháo lẻ, có 418 khẩu; 5 thiết đoàn và 6 chi đội xe tăng thiết giáp, có 449 xe; 1 sư đoàn không quân có 96 máy bay chiến đấu. Phần lớn lực lượng quân chủ lực giữ Huế-Đà Nẵng.
    - Quân khu 2-quân đoàn 2 có 2 sư chủ lực, 7 liên đoàn biệt động quân; 5 thiết đoàn và 13 chi đội xe tăng thiết giáp, có 447 xe; 14 tiểu đoàn và một số đại đội, trung đội pháo có 382 khẩu; 2 sư đoàn không quân có 138 máy bay chiến đấu. Phần lớn chủ lực rải ra giữ Tây Nguyên và các thành phố, các thị xã lớn ở đồng bằng ven biển miền Trung.
    - Quân khu 3-quân đoàn 3 có 3 sư chủ lực, 7 tiểu đoàn biệt động quân; 14 tiểu đoàn và một số đại đội pháo có 376 khẩu; 7 thiết đoàn và 15 chi đội xe tăng thiết giáp có 655 xe; 2 sư đoàn không quân có 250 máy bay chiến đấu. Toàn bộ lực lượng chủ lực triển khai theo vòng cung từ tây bắc, bắc và đông bắc bảo vệ thành phố Sài Gòn từ xa trên 50km.
    - Quân khu 4-quân đoàn 4 có 3 sư chủ lực, 18 liên đoàn biệt động quân; 15 tiểu đoàn và 55 đại đội pháo lẻ có 380 khẩu; 5 thiết đoàn và 17 chi đội xe tăng thiết giáp có 493 xe; 1 sư đoàn không quân có 72 máy bay chiến đấu; chủ lực tập trung bảo vệ Cần Thơ và Chương Thiện.
    Thế địch đã suy yếu, chúng lại phạm một sai lầm lớn là đánh giá thấp khả năng ta:
    "Năm 1975, ********* không thể đánh lớn khắp miền Nam như Mậu Thân 1968, càng không thể như năm 1972. Chỉ có thể hoạt động ở một số vùng trọng điểm ở Tây Nguyên hoặc miền Đông Nam Bộ. Không thể có khả năng tấn công các thành phố lớn, chỉ có thể tấn công các thành phố, thị trấn như Gia Nghĩa... Mục tiêu chính của ********* là đánh chiếm một số căn cứ nhỏ xung quanh Tây Ninh để xây dựng trụ sở Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam, chính là giành lại 2 triệu dân ở vùng đồng bằng Sông Cửu Long". Chính vì thế, chúng không điều chỉnh lại bố trí chiến lược của quân ngụy.
    Được anh Tấn chỉ định phát triển trước về chọn hướng tiến công chủ yếu, anh Vũ Lăng đề nghị loại trừ quân khu 4-quân đoàn 4 của địch, vì đây là "sân sau" của địch, nhiều sơ hở, yếu và rất hiểm yếu, nhưng vì ta không có điều kiện đưa pháo lớn, xe tăng, thiết giáp nên không thể đánh lớn, hoàn toàn không thể đáp ứng yêu cầu tiêu diệt lớn để giải phóng miền Nam.
    Có lẽ đây là vấn đề được nhất trí nhanh nhất.
    Anh Lăng cũng đề nghị không mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đánh ngay vào quân khu 3-quân đoàn 3 ngụy, mặc dầu ở đây có cơ quan đầu não của ngụy quyền, ngụy quân trung ương.
    - Vì đây là hướng địch mạnh, trước mắt có 3 sư đoàn chủ lực, nhưng chỉ một vài ngày sau địch có thể điều thêm 2-3 sư đoàn, trước hết là điều một sư đoàn của quân khu 4-quân đoàn 4 lên ngay, tiếp đến khi phát hiện hướng tấn công chủ yếu của ta là Sài Gòn-Gia Định, địch sẽ điều hai sư đoàn dự bị chiến lược ở quân khu 1-quân đoàn 1 về.
    - Mặt khác, là một chiến trường được Mỹ-ngụy tổ chức khá chặt chẽ, hệ thống sân bay nhiều: Biên Hòa, Tân Sơn Nhất, Mỹ Tho, Vũng Tàu; đường sá vững chắc; hệ thống pháo binh và sân bay dã chiến cho trực thăng chiến đấu nhan nhản. Địa hình lại bằng phẳng, phần lớn là rừng cao su; từ Sài Gòn-Gia Định lên Tây Ninh, Sa Mát, Lộc Ninh, An Lộc, Phước Long, Biên Hòa-Xuân Lộc... chỉ 100-200km.
    - Ta khó chia cắt ngăn chặn địch, khó tiêu diệt gọn từng trung đoàn, lữ đoàn trong một thời gian ngắn. Đặc biệt khó bảo đảm giành thắng lợi lớn mở đầu có tính chấn động lớn đến thế bố trí chiến lược của địch.
    Toàn tổ nhất trí thế trận giằng co có thể diễn ra khi địch có 5 sư đoàn chủ lực; mặt khác đã không tiêu diệt lớn quân ngụy ngay từ đầu thì quân Mỹ sẽ can thiệp bằng không quân, hải quân, thậm chí huy động đội quân cứu hỏa nhanh hơn.
    Hơn nữa ta tập trung lực lượng tấn công quân khu 3-quân đoàn 3 ngụy, trong khi toàn bộ đội hình chưa bị đánh đau, địch có điều kiện tổ chức tấn công, phản công đánh phá tuyến hậu cần chiến lược của ta ở những khu vực nhạy cảm như đường 9, ngã ba Đông Dương: tây đường 18-Hạ Lào-Đông Bắc Miên vùng Bản Hét. Chỉ cần chúng chốt giữ một tuần cũng đã ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của cuộc tổng tấn công.
    Tuy phải tranh luận gay gắt vì cũng có đồng chí muốn tấn công từ đầu vào Sài Gòn-Gia Định theo gợi ý của cấp trên.
    Tôi nhớ anh Tấn đã "nổi nóng" là "sao Buôn Ma Thuột nhỏ lại cô lập thì cậu cho khó mà cậu lại ưng húc vào Tây Ninh, Thủ Dầu Một trước khi vào được Sài Gòn. Cậu thử vạch kế hoạch làm sao mà diệt, đánh quỵ 5 sư đoàn ngụy để chiếm giữ được Sài Gòn...".
    Cuối cùng toàn tổ cũng thống nhất không thể mở đầu cuộc tấn công vào Sài Gòn-Gia Định. Tôi nhớ mãi câu nói của anh Vũ Lăng: "Đề nghị anh Tấn cứ báo cáo cấp trên nếu mở đầu vào Sài Gòn-Gia Định nhất định thất bại".
  10. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Anh Vũ Lăng cũng đề nghị không mở đầu tấn công vào Quân khu 1, Quân đoàn 1.
    - Vì đây là khu vực mạnh nhất của địch, luôn luôn sẵn sàng đối phó với khối chủ lực ở miền Bắc. Địa hình lại hẹp, bằng phẳng, khá trống trơn, ta khó phát huy được sức mạnh của binh khí kỹ thuật.
    - Là chiến trường, địch cũng đã chuẩn bị khá kỹ; hệ thống đường sá, hệ thống hỏa lực của không quân và pháo binh khá dày đặc, chặt chẽ, các sư đoàn ngụy dễ ứng cứu cho nhau. Ngoài hỏa lực trên đất liền thì hỏa lực của Hạm đội 7 Mỹ rất dễ can thiệp.
    - Dẫu ta có khắc phục làm đường từ Nam Đông-Khe Tre đánh thẳng xuống quốc lộ 1A, cắt đường ở quãng Phú Lộc-bắc đèo Hải Vân, đánh đúng hướng rất hiểm, cắt đôi thế trận chiến lược của địch ở Huế-Đà Nẵng thì ta cũng chỉ đạt được bất ngờ có tính chiến thuật đối với tập đoàn Huế-Đà Nẵng.
    - Đối với địch trên toàn miền Nam, tấn công vào Quân khu 1-Quân đoàn 1 là không bất ngờ về chiến lược, là đánh theo kiểu "bóc vỏ" từ Bắc vào Nam, lực lượng ta sẽ bị hao mòn, còn sức đâu mà đánh vào hang ổ cuối cùng của địch ở Sài Gòn.
    Năm 1972, đánh theo kiểu này là hay, là sáng tạo nhưng đối với yêu cầu và mục đích cơ bản của cuộc tổng tấn công và nổi dậy lần này là phải tiêu diệt bằng được một triệu quân ngụy thì không nên mở đầu tấn công vào Quân khu 1-Quân đoàn 1 địch. Cuộc tổng tấn công cũng sẽ thất bại.
    Tuy cũng có ý kiến cho rằng tấn công vào Quân khu 1-Quân đoàn 1 có điều kiện thuận lợi là hậu phương chiến dịch gần miền Bắc, có điều kiện đánh lâu dài vì đạn dược, vũ khí lớn, phương tiện chiến tranh, hậu cần trang bị, lương thực và quân bổ sung dễ, kịp thời. Đúng là điều kiện bảo đảm hậu cần rất quan trọng nhưng quyết định là có chắc thắng không, có thể tiêu diệt một bộ phận sinh lực quan trọng của địch trong một thời gian nhất định không, đặc biệt là có thể tạo điều kiện cho các trận tiêu diệt tiếp theo để thực hiện tiêu diệt và làm tan rã hơn một triệu quân ngụy không?
    Cuối cùng, toàn tổ nhất trí mở đầu cuộc tổng tấn công không nên tấn công vào Sài Gòn-Gia Định và Huế-Đà Nẵng, nhất định sẽ thất bại.
    Vậy chỉ còn quân khu 2-quân đoàn 2 của địch.
    Chiến trường này của địch có hai khu vực. Khu vực Tây Nguyên có 5 tỉnh và khu vực đồng bằng miền Trung dọc bờ biển có 7 tỉnh.
    Là chiến trường yếu, sơ hở nhất của địch trong 4 quân khu-quân đoàn. Sơ hở yếu, nhưng lại rất hiểm yếu, vì mất "mái nhà nam Đông Dương" thì thế bố trí chiến lược của địch ở miền Nam bị cắt làm đôi. Tây Nguyên nối liền vùng đồng bằng bằng mấy đường giao thông chiến lược: 19, 21 và 14. Nếu các tuyến đường huyết mạch ấy bị cắt đứt, thì Tây Nguyên bị tách rời không chỉ với đồng bằng miền Trung mà cả chiến trường miền Nam nói chung.
    Nói đến quân khu 2-quân đoàn 2 của địch, trước hết phải nói đến khu vực Tây Nguyên, vì có chiếm được "mái nhà nam Đông Dương" này thì ta mới có điều kiện đưa binh khí kỹ thuật lớn đánh chiếm vùng đồng bằng miền Trung, thực hiện đòn chia cắt chiến lược vô cùng quan trọng (sau này đồng chí Trường Chinh thường gọi là "Mũi giáo chia cắt chiến lược quyết định"). Ở Tây Nguyên, địa hình rừng núi, nhiều đèo, nhiều dốc hiểm trở, kín đáo, hạn chế tối đa các trang bị hiện đại của địch; trái lại, phát huy tối đa binh khí kỹ thuật lớn của ta, hệ thống vận chuyển chiến lược 559 đã đi qua Tây Nguyên, đảm bảo hậu cần-kỹ thuật cho phép quân ta chiến đấu lâu dài.
    Tiến công vào Tây Nguyên nhất định địch phải ứng cứu, vì vai trò quyết định của "mái nhà nam Đông Dương", nhưng có một điều rất quan trọng là địch không thể ào ạt tăng quân khi các trục đường huyết mạch: 19, 21 và 14 bị ta khóa chặt; chỉ có thể đổ quân bằng không vận, mà tăng viện bằng đường không thì rất hạn chế: 2-3 ngày mới đổ được một trung đoàn hay lữ đoàn có đầy đủ trang bị. Mặt khác, không thể chở các loại trang bị nặng như: xe tăng, pháo 155mm trở lên.
    Xét nhiều mặt, ta có điều kiện giành thắng lợi lớn cho đòn mở đầu, tạo điều kiện rất thuận lợi cho những trận tiếp, vì ta có điều kiện tiêu diệt trong vận động...

Chia sẻ trang này