1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những dữ kiện lịch sử của chiến dịch mùa xuân 1975

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi quyenlinh66, 04/01/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Ban Mê Thuột đã trở thành sự lựa chọn của lịch sử
    (Nguồn: trích hồi ký của Thiếu tướng Phan Hàm)
    Từ chỗ ?ođánh cho nguỵ nhào mà Mỹ không vào?, hội nghị bước sang vấn đề thời cơ một cách rất tự nhiên. Mấy tháng nay, làm kế hoạch đến điểm này gần như bị tắc lại.
    Nó là cái gì đây?
    Lúc nào thì thời cơ đến, và sẽ đến như thế nào?
    Không thể nào làm kế hoạch tác chiến mà chỉ nói trong chủ trương, phương hướng không thôi-dù đó là kế hoạch tác chiến chiến lược-còn mục đích, yêu cầu, thời gian, biện pháp, sử dụng lực lượng, bảo đảm vật chất v.v? thì lại cứ nói chung chung: nếu có điều kiện thì? Như vậy kế hoạch thiếu chặt chẽ, và khi giao nhiệm vụ cho các đơn vị thì cũng chưa được dứt khoát, còn có chỗ hở, được thì làm, không thì thôi.
    Trong một lần nghỉ giải lao, đồng chí Võ Chí Công có trao đổi với tôi:
    ?oCác đồng chí dự kiến khi có thời cơ, thì dùng bao nhiêu lực lượng để giải quyết Đà Nẵng? Lấy ở đâu ra những lực lượng ấy, và sẽ đánh bằng chiến thuật gì??.
    Tôi chỉ trả lời được một cách rất chung chung là:
    ?oĐó là một căn cứ liên hiệp mạnh, địa thế rất thuận lợi cho bên phòng ngự vì có núi bao bọc chung quanh. Vả lại, địch có thể phát huy được mọi thứ hoả lực của lục quân, không quân, hải quân, nhưng nhân dân ra ở đây, vốn có truyền thống đấu tranh. Muốn đánh Đà Nẵng, phải có ít nhất 3 quân đoàn trở lên, diệt nó ở ngoài trước cho nhiều, rồi mới thọc vào trong được?. Lại đi vào nguyên tắc tác chiến rồi!
    Thực ra, trong quá trình làm kế hoạch, các đồng chí trong Bộ Chính trị, cũng như Quân uỷ Trung ương, cũng đã có những ý kiến khêu gợi, hướng dẫn chúng tôi: năm 1975, không loại trừ có khả năng sẽ có thời cơ thuận lợi.
    Điều kiện cụ thể là gì? Quân đội ngụy bị tiêu diệt một số lớn, các sư đoàn có nguy cơ tan rã; ở nông thôn đồng bằng và vùng núi, ta căn bản diệt được lực lượng kìm kẹp; làm chủ đại bộ phận, xây dựng lực lượng vũ trang, chính trị đều khắp; còn ở đô thị, phong trào quần chúng đấu tranh lên cao, buộc Thiệu phải đổ, hoặc Mỹ phải thay; hay là khi tình hình quốc tế cho phép.
    Có phải là chờ cho đến lúc, cả bốn điều kiện ấy xuất hiện, hay ít nhất cũng có một vài điều kiện xuất hiện, thì cục diện chiến trường mới thay đổi hẳn không? Lúc bấy giờ, ta sẽ nắm thời cơ và phát triển như thế nào?
    Ý kiến trao đổi trong hội nghị lần này, tương đối rõ ràng. Tinh thần chung là ta phải tạo ra thời cơ, chứ không thể nào bị động chờ thời cơ đến, đặt hy vọng vào một sai lầm của đối phương, một sự kiện ngẫu nhiên nào đó. Tất nhiên là logic của chiến tranh không chỉ nằm trong cái đúng của ta mà thôi, mà còn nằm trong cái sai của đối phương nữa.
    Năm 1975, đối phương sẽ ở trong tình thế khủng hoảng triền miền về mặt chính trị. Nhưng phong trào chính trị ở miền Nam, chỉ có thể buộc Mỹ phải thay Thiệu, chứ trước mắt thì chưa đủ mạnh để lật đổ Thiệu. Còn Thiệu là còn đàn áp. Giá có biểu tình, xuống đường, tuyệt thực, hay là có hành động gì khác, thì nó cũng không ngại gì mà không thẳng tay khủng bố, bắt bớ, chém giết. Đưa phong trào lên chưa đúng lúc, hay quá mức, thì sẽ bị đàn áp, nhưng làm chậm, hay làm yếu một chút, thì nó lại bỏ mất thời cơ.
    Trong điều kiện ở miền Nam lúc này, ta có lực lượng quân sự, chính trị mạnh, để tạo thời cơ, phải đánh mạnh. Trong một thời gian ngắn, tiêu diệt cho đươc từ 3-5 sư đoàn; mà phải diệt thật nhanh, để chúng không kịp khôi phục lại, mới đánh tụt được quân sự của chúng, mới có nguy cơ tan rã lớn; ở đồng bằng, thì phải phá kế hoạch bình định, dành bảy triệu dân trở lên; ở vùng ven, thì xây dựng được các lõm du kích; các lực lượng vũ trang chính trị, bám chắc trên địa bàn quan trọng. Đạt được tình hình nói trên, mới có bung ra và mới có chuyển biến lớn có lợi cho ta. Như vậy là trong một thời gian dài, thời cơ quân sự sẽ tạo ra thời cơ chính trị; và ngược lại, thời cơ chính trị binh vận lại tạo ra thời cơ quân sự, theo kiểu nổ dây chuyền. Mỹ thay Thiệu sớm, hay chờ đến tháng 10 năm 1975 mới thay, nhân dịp bầu cử; đều do hoạt động của ta cả và cũng đều là thời cơ tốt đối với ta.
    Về vấn đề này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói:
    - Lần này bàn kế hoạch 75-76, phải nắm vững yêu cầu. Tinh thần của ta là phải làm thật kiên quyết, thật tập trung. Đây là giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến tranh sống mái với kẻ địch. Năm 1972, trong chiến dịch Quảng Trị, ta cũng đã tạo ra được thời cơ rất tốt. Lúc đó Huế cũng đã rung động dữ, nhưng ta mới chỉ đưa được một lực lượng không lớn lắm, vượt qua sông Quảng Trị; vì đường sá chưa thông, công tác bảo đảm theo không kịp, nên nó gượng lại được, đưa được sư đoàn dù và thuỷ quân lục chiến ra phản kích chiếm lại Thành cổ?
    Thời cơ lúc đầu có thể đến với mức bình thường. Nếu ta lợi dụng tốt, sẽ tạo ra thời cơ mới cao hơn và từ đó mà phát triển thành đột biến. Cho nên nói thời cơ, phải có kế hoạch thật sự và có sự chuẩn bị đầy đủ, để lợi dụng triệt để.
    Kế hoạch phải ghi rõ: Phải có trận tiêu diệt lớn ở Tây Nguyên bằng đánh địch đang vận động. Cần nói rõ diệt từ 3-4 sư đoàn trong một đợt hoạt động mạnh, chứ không được kéo dài lê thê. Kế hoạch phải đạt mức cao: diệt địch ở Tây Nguyên .
    Có thể sau Buôn Ma Thuột, nó rút Tây Nguyên, Trị Thiên sẽ dao động. Ta sẽ giải phóng Huế. Nếu lúc đó ta mỏi mệt, chậm chạp, thời tiết mưa xuống, thì mất cả cơ hội. Cho nên, phải có kế hoạch bao vây, chia cắt lớn ngay từ bây giờ; không để cho địch co cụm chiến lược, rút về miền Đông. Không nhất thiết trong năm 1975 này, ta sẽ không cơ động quân đoàn 1. Phải tập trung nó lại, huấn luyện cho tốt, luôn luôn sẵn sàng. Phải hết sức khẩn trương, hết sức tập trung. Nếu có thời cơ thì ta lợi dụng, nếu chưa thì ta càng mạnh thêm.
  2. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Quyết tâm quan trọng trước chiến dịch 1975.
    (Nguồn: Hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)
    Sáng ngày 8-1-1975, đồng chí Bí thư thứ nhất kết luận hội nghị. vui vẻ linh hoạt, anh Ba nói:
    Cuộc họp này có đông đủ các đồng chí ở Nam Bộ và Khu V ra dự. Trong cuộc họp lần trước, Bộ Chính trị đã nhất trí về phương hướng chiến lược nhằm đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ đến toàn thắng. Lần này, chúng ta hạ quyết tâm trong hai năm hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước. Chúng ta rất phấn khởi đạt được sự nhất trí cao, sau khi suy nghĩ, bàn bạc nhiều lần, và nay lại càng nhất trí với các đồng chí chỉ huy lãnh đạo các chiến trường.
    ...Hiện nay, ta đã giừ chủ động, giành dân và giành quyền làm chủ. Ta đã tạo ra thế chiến lược liên hoàn từ Trị - Thiên đến đồng bằng sông Cửu Long. Ta đã xây dựng được những quả đấm chủ lực rất mạnh và cơ động. Ta đã tạo được một bàn đạp áp đảo xung quanh Sài Gòn, đó là một thế chiến lược lớn lắm. Những điều đó chứng tỏ chúng ta mạnh. Trên thế mạnh đó; ta chuẩn bị cho quyết tâm hai năm . . .
    Rõ ràng là địch đang xuống dốc về mọi mặt quân sự, chính trị, kinh tế, do ta tiến công và do cả bản thân nó nứa. Rồi đây có thể nó còn xuống dốc rất nhanh. Do đó ta thấy rõ thời cơ, khả năng cách mạng có thể tiến lên tiến công, vừa chiến thắng quân sự, vừa chiến thắng chính trị thcó những bước nhảy vọt.
    Lần trước cũng như lần này, Bộ Chính trị đã bàn, thấy chính xác và rất nhất trí.
    Về cách đánh chiến lược, anh Ba nhắc lại cần nắm vững phương châm, phương pháp của ta là: Tiến công, nổi dậy, nổi dậy, tiến công, ba mũi giáp công, ba vùng chiến lược, tiêu diệt, làm chủ, làm chủ, tiêu diệt, tiến lên tổng công kích, tổng khởi nghĩa.
    Vẻ quyết tâm và nhiệt tình hiện rõ trên nét mặt, anh nói rất nhanh: Phải nắm vững chiến lược tổng hợp để tạo ra sức mạnh tổng hợp, luôn luôn tạo ra sức mạnh mới, thế mới, đánh liên tục và bất ngờ, tiến tới tổng phản công và nổi dậy, thắng địch tại sào huyệt quan trọng nhất của chúng là Sài Gòn để kết thúc chiến tranh...
    Các đòn chiến lược quân sự sẽ diễn ra trong năm 1975 ?" 1976 như thế nào, chúng ta đồng tình với kế hoạch chiến lược năm 1975 Bộ Tổng tham mưu đã trình bày. ở Nam Bộ, có ba nhiệm vụ quan trọng: vừa đánh đồng bằng, vừa đánh chủ lực, vừa ép đô thị... ở Khu V, Tây Nguyên thì đồng tình đánh mạnh ở Tây Nguyên, mở đầu từ Buôn Ma Thuột.
    Cuối cùng, anh căn dặn: "Còn nhiều vấn đề phải bàn nữa. Bộ Tổng tham mưu còn phải làm việc nhiều hơn nữa và có vị trí rất quan trọng trong việc thực hiện nghị quyết này".
    Hội nghị hoàn toàn nhất trí với kết luận của đồng chí Bí thư thứ nhất. Bộ Chính trị ra Nghị quyết lịch sử:
    "Chúng ta đang đứng trước thời cơ chiến lược lớn.Chưa bao giờ ta có điều kiện đầy đủ về quân sự và chính trị như hiện nay, có thời cơ chiên lược to lớn như hiện nay để hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam để tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc".
    Bộ Chính trị hạ quyết tâm: "Động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ở cả hai miền trong thời gian 1975 - 1976, đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, kết hợp với đấu tranh ngoại giao, làm thay đổi nhanh chóng và toàn diện so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam theo hướng có lợi cho ta, tiến hành rất khẩn trương và hoàn thành công tác chuẩn bị mọi mặt, tạo điều kiện chín muồi, tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa, tiêu diệt và làm tan rã ngụy quân, đánh đổ ngụy quyền từ trung ương đến địa phương, giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng miền Nam Việt Nam".
    Nghị quyết nêu rõ: Cả năm 1975 là thời cơ, đòn tiến công quân sự mạnh tạo nên thời cơ, phong trào chính trị thúc đẩy thời cơ, tình hình thế giới và nội bộ nước Mỹ là thời cơ, từ bình thường đến vừa, đến cao, đến đột biến với tốc độ "một ngày bằng 20 năm", do đó cần phải khẩn trương, phải đánh nhanh hơn, nếu đã có thời cơ mà không kịp thời phát hiện, bỏ lớ thì có tội lớn đối với dân tộc.
    Bộ Chính trị thông qua kế hoạch chiến lược hai năm 1975 - 1976. Đây là một kế hoạch lớn được chuẩn bị công phu từ giữa năm 1973 qua tám lần dự thảo của Bộ Tổng tham mưu.
    Ngoài kế hoạch chiến lược 1975 - 1976, Bộ Chính trị còn dự kiến: "Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975".
  3. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Ban Mê Thuột đã chính thức trở thành hướng tiến công chủ yếu của chiến dịch mùa xuân 1975.
    (Nguồn: trích hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)
    Ngày 9-1-1975, Thường trực Quân ủy Trung ương họp để quán triệt và triển khai Nghị quyết của Bộ Chính trị . Cùng tham dự có các đồng chí Võ Chí Công, Chu Huy Mân, Lê Trọng Tấn, và Hoàng Minh Thảo.
    Vấn đề trọng tâm là bàn về chiến dịch Tây Nguyên. Từ khi chuẩn bị cho hội nghị lần thứ 21 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tôi (Đại tướng Võ Nguyên Giáp) và nhiều đồng chí trong Bộ Tổng tư lệnh đã nêu vấn đề chọn Tây Nguyên làm chiến trường chủ yếu. Ý kiến này được nhiều người ủng hộ.
    Qua trao đổi, thảo luận, mọi người đều thấy việc chọn Tây Nguyên làm hướng tiến công chủ yếu trong đó Buôn Ma Thuột là mục tiêu tiến công đầu tiên là một điều tất yếu không thể khác. Tôi đề ra hai tình huống:
    - Nếu Buôn Ma Thuột sơ hở thì đánh ngay.
    - Nếu địch tăng cường lực lượng và đề phòng thì tổ chức đánh quân tiếp viện trước, cả hai phía Buôn Ma Thuột và Plâyku, sau đó tiến công vào Buôn Ma Thuột.
    Chúng tôi đang họp thì anh Lê Đức Thọ đến. Biết hội nghị đang bàn về đánh Buôn Ma Thuột, anh Sáu cũng nhất trí như vậy.
    Tây Nguyên là một chiến trường rừng núi hiểm trở. Lúc này ở đây địch có một sư đoàn chủ lực, bảy liên đoàn quân biệt động và bốn thiết đoàn xe tăng và xe thiết giáp. Do đánh giá sai, phán đoán sai ý đồ của ta, chúng cho rằng năm 1975 ta chưa đủ sức đánh thị xã và thành phố, và nếu có đánh, thì cũng đánh ở phía bắc. Vì vậy, địch tập trung lực lượng giữ Plâyku, Kon Tum, còn Đắc Lắc, Buôn Ma Thuột vẫn sơ hở. Lực lượng ở đây không mạnh, phần lớn là quân hậu cứ của sư đoàn và trung đoàn, càng sâu vào phía trong lực lượng địch càng mỏng. Khó khăn chính là thiếu đường cơ động. Phải tính cực khắc phục, mở đường để đưa binh khí, kỹ thuật vào.
    Đánh Buôn Ma Thuột là một đòn bất ngờ đối với địch. Sẽ có nhiều khả năng phá vỡ hệ thống phòng ngự của chúng ở Vùng II chiến thuật, làm rung chuyển Tây Nguyên và toàn bộ thế trận của địch trên chiến trường, tạo ra thời cơ mới cho việc thực hiện kế hoạch chiến lược hai năm 1975 - 1976.
    Kết luận cuộc họp, tôi nhắc lại quyết định của Bộ Chính trị chọn nam Tây Nguyên làm hướng tiến công chiến lược chủ yếu, mục tiêu tiến công đầu tiên là Buôn Ma Thuột, hướng phát triển tiếp theo là phía đông. Sử dụng lực lượng cũng như cách đánh phải mạnh bạo, bí mật, bất ngờ, nghi binh tốt, hướng sự chú ý của địch vào bắc Tây Nguyên và Trị - Thiên.
    Về công tác chính trị, tư tưởng, công tác tổ chức trong chiến dịch, cần xây dựng quyết tâm giành thắng lợi lớn nhất, nắm vững tư tưởng đánh tiêu diệt, coi trọng công tác binh vận, đề cao tinh thần đoàn kết hiệp đồng, tôn trọng kỷ luật chiến trường, nghiêm chỉnh chấp hành chính sách vùng giải phóng, chính sách tù, hàng binh, chính sách chiến lợi phẩm... Công tác cán bộ cần sắp xếp, dự trữ đủ cán bộ có phẩm chất và năng lực, bảo đảm chỉ huy lãnh đạo bộ đội chiến đấu liên tục, sẵn sàng bổ sung phát triển lực lượng.
    Nhiệm vụ cụ thể của chiến dịch Tây Nguyên được xác định rõ:
    -Tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, loại khỏi vòng chiến đấu từ bốn đến năm vạn tên, diệt từ ba đến bốn trung đoàn, liên đoàn bộ binh, thiết giáp, đánh thiệt hại nặng từ một đến hai sư đoàn chủ lực địch, diệt nhiều tiểu đoàn bảo an, nhiều trung đội dân vệ, làm tụt nhanh quân số của địch.
    - Mở rộng hành lang chiến lược từ đường 14 qua Gia Nghĩa xuống đường 20 nối với miền Đông Nam Bộ và từ Tây Nguyên xuống ba tỉnh Khu V.
    - Giải phóng nhân dân và phần lớn vùng đất ở nam Plâyku và Cheo Reo, xung quanh Buôn Ma Thuột, đánh bại kế hoạch "bình định", nống lấn và giải tỏa của địch, giữ vững, phát huy quyền làm chủ chiến trường, thực hiện chia cắt chiến lược. Tích cực phối hợp với mặt trận chống bình định ở đồng bằng. Diệt từ ba đến bốn tiểu khu, chi khu quân sự, từ một đến hai tỉnh ly...
    - Đánh phá giao thông và hậu cứ, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, làm cho tiềm lực kinh tế của địch giảm sút trầm trọng. Khi có thời cơ, thực hiện chia cắt hẳn các đường 14, 19, 21, trọng điểm là đường 19.
    - Phát triển đấu tranh chính trị trong các thị xã. Ra sức xây dựng cơ sở tự vệ mật và các tổ chức biệt động, diệt ác ôn đầu sỏ, tạo thế làm chủ ở cơ sở.
    Xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, xây dựng vùng giải phóng, xây dựng các đường chiến lược, chiến dịch, hoàn thành mọi công tác chuẩn bị cho nhiệm vụ tiếp theo.
    Quyết tâm chiến lược của Đảng đã được cụ thể hóa. Các cơ quan Tổng hành dinh theo chức trách của mình, hướng mọi nỗ lực vào chiến trường chính Tây Nguyên, hướng vào mục tiêu Buôn Ma Thuột, khẩn trương chuẩn bị ngày đêm.
  4. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Đánh giá tình hình địch tại Tây nguyên để chuẩn bị cho mùa xuân toàn thắng 1975.
    Ông cha ta thường nói: Biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng.
    (Nguồn: trích hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)
    Sáng ngày 10-12, tôi (Đại tướng Võ Nguyên Giáp) cho gọi Cục Quân báo đến Sở Chỉ huy báo cáo thêm tình hình mới nhất ở Tây Nguyên, có anh Lê Ngọc Hiền, Tổng Tham mưu phó cùng dự.
    Bắt đầu làm việc, tôi dặn anh Phan Bình, Cục trưởng Cục Quân báo:
    - Các anh báo cáo ngắn gọn, vì Quân ủy không có nhiều thời gian để nghe dài. Thời gian bây giờ là lực lượng đấy
    Anh Phan Bình giới thiệu đồng chí Nguyễn Thanh, Trưởng phòng 70 (Phòng 70 là cơ quan tập trung mọi nguồn tin của Cục Quân báo để chọn lọc, phân tích, tổng hợp, báo cáo lên cấp trên.) báo cáo.
    Sau khi dẫn những biện pháp mà Nguyễn Văn Thiệu vừa đề ra trong cuộc họp khẩn cấp với các tư lệnh quân đoàn, quân khu hồi đầu tháng hòng đối phó với các hoạt động Đông Xuân 1975 của ta, đồng chí Trưởng phòng 70 báo cáo cụ thể trên bản đồ lực lượng địch bố trí ở Tây Nguyên theo nguồn tin mới nhất:
    Ở bắc Tây Nguyên, chúng điều Trung đoàn 47 ở đồng bằng Khu V và Liên đoàn 4 biệt động quân ở Sài Gòn tăng cường cho Plâyku, lập bộ chỉ huy chiến trường Kon Tum trực tiếp chỉ huy bốn liên đoàn biệt động quân số 6, 21, 22, 23, lập bộ chỉ huy Plâyku - Quảng Đức trực tiếp chỉ huy ba trung đoàn của Sư 23 và ba liên đoàn biệt động quân số 4, 24, 25.
    Sư đoàn 23 có nhiệm vụ giữ Plâyku là chủ yếu. ở nam Tây Nguyên, địch chỉ để Trung đoàn 53 thuộc Sư 23 đóng ở Buôn Ma Thuộc và Liên đoàn 24 biệt động quân ở Quảng Đức, do sở chỉ huy nhẹ Sư đoàn 23 chỉ huy.
    Thiệu đang cho gấp rút thành lập ba lữ đoàn tồng trù bị ở Sài Gòn và tập trung toàn bộ sư dù ở Đà. Nẵng, hình thành hai khối cơ động chiến lược quy mô sư đoàn trên hai hướng, sẵn sàng cơ động đối phó với ta.
    Vừa nghe báo cáo, tôi vừa xem kỹ bản đồ bố trí binh lực của địch, hỏi thêm một vài điều, rồi kết luận:
    - Thế là rõ. Địch bố trí binh lực rất phân tán, dàn mỏng. Lực lượng cơ động chiến lược đang gặp khó khăn vì các sư đoàn tổng trù bị đều phải gắn vào các chiến trường, mâu thuẫn giữa phân tán và tập trung rất căng thẳng. Tinh thần quân ngụy bắt đầu suy yếu, mất ổn định. Đặc biệt tình hình nội bộ Mỹ khủng hoảng và viện trợ Mỹ giảm nhiều đã tác động sâu sắc đến ngụy quân, ngụy quyền. Những nhân tố trên là lò lửa đang âm ỷ cháy trong lòng địch: Nó sẽ bùng lên thiêu cháy chúng khi thời cơ đến .
    Quay sang anh Lê Ngọc Hiền, tôi nói tiếp:
    - Các anh chú ý hướng Tây Nguyên rất yếu, song lại hiểm yếu. Địch tập trung nhiều ở bắc Tây Nguyên, còn nam Tây Nguyên rất yếu và sơ hở. Còn ở Mỹ thì thế lực chống chiến tranh chiếm ưu thế cả trong Quốc hội. Mỹ không dễ gì đã rút đi lại quay trở lại. Nhưng Cục 2 vẫn phải hết sức chú ý, theo dõi hoạt động của không quân và hải quân Mỹ.
    Đã có thêm nhiều dữ kiện và tham số giúp cho Bộ thống soái tối cao hạ quyết tâm chiến lược.
  5. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Quyết định thay đổi quan niệm vấn đề "đánh tiêu diệt" trong chuẩn bị chiến dịch mùa xuân năm 1975.
    Trích ý kiến của TBT Lê Duẩn với các cán bộ cao cấp của Bộ Tổng tham mưu tại Đồ sơn.
    (Nguồn: trích hồi ký của Thiếu tướng Phan Hàm)
    Anh Ba hỏi:
    -Các đồng chí quan niệm vấn đề đánh tiêu diệt ngày nay như thế nào?
    Thượng tướng Hoàng Văn Thái đáp:
    -Từ trước đến nay, chúng ta định nghĩa đánh tiêu diệt một đơn vị thì phải diệt cho được 70% lực lượng của đơn vị đó và phải diệt cho được ban chỉ huy để chúng không khôi phục lại được đơn vị như cũ, hoặc có khôi phục lại, cũng phải mất một thời gian khá lâu. Chính vì vậy, mà anh em dưới các sư đoàn, quân đoàn rất lo lắng và cũng có thắc mắc. Diệt đơn vị thì được, quy định 70% chứ hơn nữa cũng có khả năng; nhưng diệt cho được ban chỉ huy thì rất khó, vì bọn này thường nằm ở phía sau rất xa. Muốn diệt được bộ chỉ huy sư đoàn chẳng hạn, thì phải giải quyết được thị xã, thị trấn, hay là các căn cứ lớn của chúng. Vì vậy, chúng tôi thấy cũng cần xem lại, nhất là trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh, có nhất thiết phải như thế không?
    -Đúng, đúng! Ta phải đặt vấn đề đánh tiêu diệt một bộ phận quan trọng chủ lực nguỵ, vì đây là chỗ dựa chính của nguỵ quân nguỵ quyền, có tiêu diệt lớn thì mới có sự thôi động mạnh, và đến một lúc nào đó, tuy số ta diệt được ít, nhưng nó sẽ tan ra nhiều, tan rã về tinh thần, về tổ chức, tan rã trong dân. Không phải chỉ binh sĩ mà thôi, chỉ huy cũng chạy, mà chạy còn xa hơn, nhanh hơn lính là đằng khác. Như vậy, thì có xem như là đã tiêu diệt được đơn vị đó không? Đánh tan rã như vậy, để tạo điều kiện tiêu diệt những đơn vị địch lớn hơn. Thực ra, ta cũng chưa đánh giá hết chỗ yếu của địch. Các đồng chí thử xem, đến lúc nào đó, ta dùng mấy quân đoàn, diệt cho được mấy sư đoàn như: sư đoàn 5, sư đoàn 18, sư đoàn 25, rồi chớp nhoáng thọc vào Sài Gòn, địch không kịp trở tay. Có được không? Tôi nghĩ rằng, ta có khả năng và cũng có lúc, cần thiết phải làm như vậy. Bộ Tổng tham mưu cần nghiên cứu trước những khu vực đánh lớn, tập trung vài quân đoàn chứ không nên phân tán. Khi ta làm mạnh, ta làm nhanh, hợp với tình hình thế giới hơn, nếu không sẽ phức tạp.
    Được quyenlinh66 sửa chữa / chuyển vào 11:45 ngày 07/01/2006
  6. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Ý kiến chỉ đạo của TBT Lê Duẩn về vấn đề Đô thị cho việc chuẩn bị chiến dịch mùa xuân năm 1975.
    Trích ý kiến của TBT Lê Duẩn với các cán bộ cao cấp của Bộ Tổng tham mưu tại Đồ sơn.
    (Nguồn: trích hồi ký của Thiếu tướng Phan Hàm)
    - Bây giờ tôi (TBT Lê Duẩn) nói thêm vài ý kiến về vấn đề đô thị về mặt quân sự. Ở ven đô, phải có những đội đặc công thật mạnh, thật tinh nhuệ, tổ chứ thành đơn vị tiểu đoàn, trung đoàn đứng vững chắc trên các địa bàn. Việc này, các anh trong ấy đang làm và theo báo cáo của các thành uỷ, thì kết quả rất tốt.
    - Đây không phải như người ta đoán là: lấy nông thôn bao vây thành thị. Theo quan điểm của ta, thành thị không phải chỉ có đầu sỏ Mỹ, nguỵ, tư sản mại bản, mà còn có cả một lực lượng quần chúng cách mạng đông đảo bao gồm công nhân, dân nghèo thành thị, học sinh, sinh viên, phụ nữ, trí thức cách mạng v.v? Tại sao lại nói bao vây họ? Nói như vậy là vô nghĩa.
    - Song song với việc xây dựng lực lượng, xây dựng các bàn đạp ở ngoại ô, phải tạo ra và nắm lấy các lõm giải phóng ở trong các phường, các khóm trong nội thành, phát triển các đội biệt động trong nội thành. Những việc này ta đã làm từ năm 1968, nay phải làm rộng rãi hơn, mạnh hơn, nhiều hơn. Như thế là trong và ngoài, tạo ra được thế liên hoàn hỗ trợ nhau và mới có thể phát huy được sức mạnh của ba thứ quân sau này.
    - Cũng có người lo rằng, năm 1975, phong trào chính trị ở thành phố cũng sẽ không làm được gì. Nghĩ như thế là sai. Địch yếu, còn do mâu thuẫn nội bộ, yếu về chính trị, yếu cả về kinh tế. Thời Ngô Đình Diệm, nó đưa lực lượng từ miền Bắc vào, tiếp đó thì Mỹ vào, cho nên Sài Gòn nó mạnh. Bây giờ, Sài Gòn lại là nơi yếu nhất. Ở đấy, đã có lực lượng của ba thứ quân mà trước đây ta chưa hề có; lại có cả ba thành phần. Trước đây, có ai giành quyền nổi với Diệm đâu? Ở Sài Gòn cũng như ở các đô thị lớn ở miền Nam, có khả năng tình hình sẽ phát triển một cách đội biến khi có thời cơ, hoặc là do thắng lợi của những cuộc phản công của quân đội cách mạng đưa lại; hoặc là do chính phong trào cách mạng ở đó phát sinh ra do lợi dụng được mâu thuẫn trong bội bộ địch.
    - Trong cách mạng, luôn luôn có những bước phát triển nhảy vọt. Lê-nin nói: ?oMột ngày bằng 20 năm? là nói về chính trị. Trường hợp Sài Gòn khởi nghĩa thắng lợi năm 1945, hay Ngô Đình Diệm bị lật đổ 1963, hay nhân dân Đà Nẵng làm chủ thành phố này trong 76 ngày năm 1966, đã chứng minh điều đó. Tôi e rằng rồi đây phong trào chính trị lên mà quân sự lại không theo kịp. Năm 1971-72, Thiệu còn mạnh mà ta đã thắng được như thế, thì năm 1975, nếu biết làm, tình hình sẽ khác đi nhiều?
    - Tôi nhắc lại nhé! Ta cần nhận định đầy đủ hơn nữa vị trí cực kỳ quan trọng của thành thị, và đấu tranh chính trị ở thành thị, trong việc đánh bại chính sách Việt Nam hoá chiến tranh của Mỹ trong giai đoạn mới, để có sự chỉ đạo hết sức linh hoạt, chủ động và kịp thời khi có những động thái mới của tình hình. Làm công tác đô thị, phải biết kết hợp cho tốt giữa bí mật và công khai. Bí mật là chính, là cơ bản, nhưng công khai là quan trọng. Bí mật là tồn tại của Đảng, còn càng công khai bao nhiêu càng mạnh bấy nhiêu. Vừa rồi, Bộ Chính trị đã có Nghị quyết về đô thị. Rồi đây, Quân uỷ Trung ương và Quân uỷ Miền sẽ thảo luận nghị quyết này. Nhất định năm 1975 phải làm cho phong trào đô thị mạnh lên gắn liền với phong trào nông thôn thúc đẩy, hỗ trợ tiến lên.
    - Như tôi đã nói hôm qua, do tính chất của cuộc chiến tranh, đô thị là nơi quyết định. Nó thua ở đâu, chứ nếu không dứt điểm được Sài Gòn thì chiến tranh sẽ còn tiếp tục. Cho nên nhất định Sài Gòn phải chuyển mạnh, nếu không thì mất thời cơ, phải chủ động gây phong trào, chứ không phải ngồi chờ cho phong trào nổi lên. Khi ta đánh mạnh thì phong trào đô thị sẽ khác ngay. Phải có người dám làm, vào hẳn trong thành phố. Không xông vào thì xa rời quần chúng, xa phong trào. Phải xông vào mà nắm lấy chỗ yếu nhất của địch, để kịp thời và có biện pháp cụ thể lợi dụng, khoét sâu thêm.
  7. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Tình hình địch trước chiến dịch 1975 - Xuân năm con Mèo trong Phủ đầu rồng.
    (Nguồn: báo QĐND ngày 28 tháng 01 năm 2005)
    Ngày 9-1-1975, ********* hoàn toàn làm chủ tỉnh Phước Long. Sự kiện mất Phước Long, tuy quy mô, tầm vóc... không lớn lắm nhưng đủ sức chấn động mạnh vào Phủ đầu rồng và tới tận Nhà trắng, vì đây là lần đầu tiên ở miền Nam một tỉnh hoàn toàn bị Cộng sản làm chủ, lại ở ngay cửa ngõ Sài Gòn. Nguyễn Văn Thiệu khẩn cấp triệu tập cuộc họp hội đồng ?omất an ninh?.
    Đại tá Phạm Bá Hoa là tham mưu trưởng Tổng cục tiếp vận quân đội Việt Nam cộng hòa (quân ngụy) nói toạc: ?oCái chính là thất bại Phước Long đã nói lên thế và lực của quân lực cộng hòa. Chỉ mới bị đánh một điểm mà đã không đủ lực lượng đối phó, thử hỏi bị đánh mạnh nhiều nơi thì sẽ ra sao? Phước Long là sự kiện nói lên khá rõ hiệu quả chiến lược ?oViệt Nam hóa? thực hiện trong 6 năm qua của Mỹ... Nếu nói Phước Long là một đòn thử sức đôi bên thì kết quả đã rõ...?.
    Các cánh quân ngụy được tung lên cứu Phước Long đều bị đánh tơi bời, nên trước các tướng tá, Thiệu đành phải tuyên bố không tăng viện hay cố gắng lấy lại tỉnh này vì phải trả giá quá cao. Nhưng muốn tăng viện cho Phước Long, chỉ còn cách phải rút quân từ nơi khác, mà vùng chiến lược nào cũng thấy Bắc Việt đang sửa soạn tấn công lớn, nên Thiệu đành tuyệt vọng ôm hận tuyên bố, đây chỉ là ?otai nạn?, ?odành ba ngày truy điệu, cầu nguyện cho Phước Long?...
    Phủ đầu rồng đang u ám lễ ?otruy điệu? và ?ocầu nguyện? thì từ Oa-sinh-tơn vọng sang tuyên bố ?obuồn? của người phát ngôn Nhà trắng: ?oTổng thống G.Pho không có ý vi phạm những điều cấm chỉ (của Quốc hội) về việc sử dụng lực lượng quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam??. Sự thờ ơ của Mỹ làm cho Phủ đầu rồng thêm thất vọng, càng thúc đẩy nhanh hơn đà suy sụp về tinh thần của quân ngụy. Một tuần sau, ngày 14-1, Thiệu lại nhận thêm lời cố tình đánh giá thấp sự kiện Phước Long của Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Sle-xinh-giơ: ?oBây giờ tình hình ở Nam Việt Nam cho thấy Bắc Việt Nam không muốn tung ra một cuộc tiến công rộng khắp, quy mô... Điều mà chúng tôi tiên đoán trong vài tháng tới chỉ là một số trận đánh lớn. Lúc này, tôi không tiên liệu sẽ có cuộc tiến công quy mô lớn như hồi năm 1972??.
    Thiệu đau như bị hoạn, còn Cao Văn Viên ngán ngẩm vì Viên đã ngửa tay xin Bộ trưởng quốc phòng Sle-xinh-giơ, tướng tham mưu trưởng C.A-bram, thiếu tướng phụ tá quân sự Bộ quốc phòng Giôn Uých tăng quân viện, nhưng bị từ chối thẳng thừng, vì quyết định ?okhông viện trợ vũ khí nữa? của Quốc hội Mỹ, khác nào là cáo phó báo trước cho Thiệu ngày tàn của quân đội Sài Gòn, dù nó còn đông tới 1,3 triệu người.
    Hồi Diệm, thiếu tướng Đỗ Mậu, giám đốc an ninh quân đội, đã giải lá số ?ođại quý? cho Thiệu: ?oCó đến 4 chữ Tý: Tuổi Giáp Tý-sinh 1924, sinh giờ Tý-nửa đêm, tháng Tý-11 âm lịch, và cung Mệnh viên cũng nằm ở Tý?. Nay Thiệu thấy ngán ngẩm quá với lá số ?ođại quý? của mình, khi trả lời thư kêu cứu của Thiệu, Pho chỉ hứa hẹn chung chung:
    ?oTôi chia sẻ với ngài nỗi lo lắng về Bắc Việt không thực thi những điều khoản căn bản nhất của hiệp định Pa-ri và về những áp lực quân sự của Bắc Việt ở mức độ trầm trọng... Tôi muốn bảo đảm với ngài rằng, chính quyền chúng tôi sẽ tiếp tục áp lực để việc thi hành hiệp định được thật đầy đủ??.
    Thiệu nghe, khác nào sắp chết chìm mà chỉ vớ được gọng rơm Pho vứt xuống nước...
    Đề phòng một biến cố kiểu ?oTết Mậu Thân? trong năm con mèo này, Thiệu ra lệnh cấm đốt pháo và cho báo động đỏ cả trước-trong và sau Tết. Tết năm con mèo, Sài Gòn cấm đốt pháo, nhưng sự kiện Phước Long trôi qua hơn tháng là vết thương nặng vẫn rỉ máu, râm ran.
    Ngày 18-2-1975, Thiệu lại họp với các tướng cầm đầu quân đội, trấn an:
    ********* sẽ mở cuộc tấn công xuân hè, trọng điểm là quân khu 2, đề phòng ********* sẽ đánh Quảng Đức, Plây-cu, Kon Tum là các mục tiêu ?ođiểm?, còn Buôn Ma Thuột nếu có bị tấn công cũng chỉ là ?odiện?... Thiệu cho rằng ********* sẽ đẩy mạnh tiến công quy mô lớn hơn năm 1974, nhưng có thể chưa bằng 1972?
    Một ?oTết Mậu Thân? đã không xảy ra trong những ngày Tết năm con mèo, nên Thiệu và đám cận thần thở phào.
    Ai ngờ, biến cố đã tới:
  8. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Lực lượng của ta khi Ban Mê Thuột chính thức được chọn làm mục tiêu đầu tiên trong chiến dịch mùa xuân 1975
    (Nguồn: Trích hồi ký của thiếu tướng Phan Hàm)
    Theo tinh thần Nghị quyết của Bộ Chính trị xác định hướng tiến công chiến lược ở Buôn Ma Thuột, như thế là Bộ Tổng tham mưu phải đặt vấn đề chuẩn bị chiến trường ở Buôn Ma Thuột một cách gấp rút hơn nữa và có lực lượng chuyên trách.
    Cách đây hai tháng, khi trực tiếp hướng dẫn cho đồng chí thượng tá Nguyễn Quốc Thước, tham mưu phó mặt trận Tây Nguyên, Bộ Tổng tham mưu đã xác định phương hướng, nhiệm vụ trước mắt đều nhằm vào Đức Lập, vì lúc bấy giờ lực lượng chỉ có hai sư đoàn 10 và 320; còn sư đoàn 968 thì mới ở Lào sang. Hướng phát triển, có thể là Gia Nghĩa, Kiến Đức, Buôn Ma Thuột, có thể làm nhiệm vụ tiếp sau.
    Bộ tư lệnh Tây Nguyên đã cử các đoàn cán bộ của sư đoàn 10 đi chuẩn bị chiến trường trên hướng Đức Lập, cán bộ của sư đoàn 320 đi trinh sát trên hướng đường 14 thậm chí, đã có một bộ phận công binh, đang làm đường trên hướng Gia Nghĩa. Cơ quan hậu cần, cũng lót được một ít lương thực, đạn dược trên hướng ấy rồi. Nay theo yêu cầu của Bộ Chính trị đề ra, tung thâm và chính diện của chiến dịch sâu rộng hơn nhiều; đến cả mục tiêu chủ yếu ban đầu cũng thay đổi.
    Tuy nhiên, nhiệm vụ của các đơn vị thì không thể thay đổi được. Mặc nhiên, sư đoàn 316 phải nhận lãnh trách nhiệm chính trên mục tiêu chính Buôn Ma Thuột. Điều này, không phải không làm cho các đồng chí trong Bộ tư lệnh phải lo lắng. Mặc dù được xây dựng từ hồi kháng chiến chống Pháp, có truyền thống và kinh nghiệm chiến đấu tốt, nhưng sư đoàn 316 cũng có một số nhược điểm nhất định. Sau một thời gian đi làm nhiệm vụ quốc tế về, đơn vị đang trong thời kỳ củng cố. Gần đây, có chủ trương sẽ đưa vào tăng cường cho Nam Bộ, nên phải rút số cán bộ và chiến sĩ lớn tuổi ra, để giải quyết chính sách, cho phù hợp với chiến trường hơn. Do đó, số tân binh chiếm một tỷ lệ khá cao. Bộ tư lệnh sư đoàn, gần như mới hoàn toàn. Cấp trên giữ lại đại tá Đàm Văn Nguỵ, vừa có kinh nghiệm chiến đấu, vừa quen thuộc với chiến trường Nam Bộ làm tư lệnh; cán bộ tiểu đoàn, một nửa là mới, còn cán bộ trung và đại đội, thì phần lớn, mới ở trường ra.
    Nỗi lo lắng của Bộ Tổng tham mưu lúc bấy giờ là làm thế nào để điều chỉnh lại kế hoạch chuẩn bị chiến trường theo quyết tâm mới. Nguyên tắc là phải tuyệt đối giữ bí mật, không ai được tiết lộ tí gì về kế hoạch qua điện đài. Được sự đồng ý của trên, hôm sau, thiếu tướng Lê Ngọc Hiền lên đường, cấp tốc hành quân chẳng kể ngày đêm, để vào Tây Nguyên sớm ngày nào hay ngày ấy, để cho kịp với thời gian quy định.
    Nhiệm vụ cắt đường 19, muốn được bảo đảm hơn, không thể giao cho một mình trung đoàn 95A. Quân khu 5 phải giao cho sư đoàn 3 (thiếu) nhiệm vụ quan trọng này. Khó khăn của quân khu là, một mặt phải chuẩn bị cho các lực lượng của quân khu hoạt động từ Quảng Ngãi trở ra hướng bắc, mặt khác lại phải vận chuyển một khối lượng vũ khí, đạn dược khá lớn vào sâu thêm hàng trăm cây số, giữa mùa mưa lũ và đường sá thì cũng chỉ mới khai thông.
  9. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Chuẩn bị cho chiến dịch Tây Nguyên 1975 lịch sử
    (Nguồn: Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước)
    Qua các đợt hoạt động của ta trên chiến trường trong hai năm 1973 - 1974, quân ngụy Sài Gòn ngày càng bị lúng túng cả trong tác chiến và trong xây dựng lực lượng. Từ giữa năm 1974 trở đi, chúng hầu như không còn tiến hành được cuộc hành quân lấn chiếm nào. Viện trợ của Mỹ giảm, kéo theo phương tiện chiến tranh, hỏa lực chi viện cho chiến đấu và sức chiến đấu của chủ lực ngụy giảm sút mạnh.
    Về ta, trong năm 1974 việc xây dựng lực lượng, chuẩn bị chiến trường tiếp tục được tiến hành tập trung, với nhịp độ ngày càng khẩn trương. Ba quân đoàn chủ lực lần lượt ra đời, một khối lượng vật tư chiến tranh gần 50 vạn tấn được chuyển vào miền Nam, mạng đường chiến lược, chiến dịch phát triển nhanh và ngày càng hoàn thiện. Trong năm 1974, bộ đội ta ở chiến trường vẫn tiếp tục giành được những thắng lợi quan trọng, tạo ra thế và lực mới trên toàn miền Nam. Nắm vững thời cơ cách mạng đang đến, từ ngày 18 tháng 12 năm 1974 đến ngày 8 tháng 1 năm 1975, Bộ Chính trị đã họp quyết định về quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam, trong đó nam Tây Nguyên là hướng chiến lược chủ yếu trong cuộc tổng tiến công lớn trong năm 1975.
    Ngày 9 tháng 1 năm 1975, Thường trực Quân ủy Trung ương họp và mời các đồng chí Võ Chí Công, Chu Huy Mân, Lê Trọng Tấn, Hoàng Minh Thảo dự để quán triệt và tổ chức thực hiện nghị quyết Bộ Chính trị về chiến dịch Tây Nguyên. Tại hội nghị này, ý định đánh Buôn Ma Thuột hình thành rõ rệt và chiến dịch Tây Nguyên chính thức được quyết định mở với mật danh ?oChiến dịch 275?.
    Tây Nguyên thuộc dải đất phía tây miền Trung Trung Bộ, là vùng cao nguyên, rừng núi nối tiếp nhau theo hướng bắc nam. Bắc Tây Nguyên, núi cao, rừng rậm hiểm trở, nam Tây Nguyên (từ đường 19 trở vào, địa hình bằng phẳng hơn). Tây Nguyên gồm các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Phú Bổn, Quảng Đức. Đường 14 chạy dọc từ bắc xuống nam, nối các thị xã của Tây Nguyên xuống miền Đông Nam Bộ. Các con đường ngang đường 21, 19, 7 nối Tây Nguyên với các tỉnh đồng bằng ven biển, trong đó đường 7 có đoạn hư hỏng nặng, lâu ngày không sử dụng. Tây Nguyên có 2 sông lớn là sông Pô Kô và sông Sê Rê Pốc. Vào mùa mưa, dòng chảy của sông rất lớn, nên việc cơ động các phương tiện lớn rất khó khăn.
    Tây Nguyên là vùng đất chiến lược quan trọng, vì vậy Mỹ ngụy đã biến Tây Nguyên thành một căn cứ chiến lược lớn hòng đè bẹp phong trào cách mạng của 3 nước Đông Dương, ngăn chặn sự chi viện của ta từ miền Bắc vào và từ rừng núi xuống đồng bằng. Sở chỉ huy quân đoàn 2, quân khu 2 ngụy được đặt ở Plây Ku. Dọc theo biên giới Việt Nam - Campuchia là các trại biệt kích, dọc theo đường 14 là hệ thống các căn cứ quân sự dày đặc trong đó có các căn cứ cấp sư đoàn và quân đoàn được tổ chức vững chắc thành tuyến phòng ngự cơ bản làm nòng cốt cho hệ thống phòng thủ của địch ở Tây Nguyên. Trên các trục đường ngang như 19, 21 cũng được địch tổ chức thành các tuyến phòng thủ mạnh để đảm bảo giao thông từ Tây Nguyên xuống đồng bằng. Toàn bộ lực lượng địch ở Tây Nguyên có sư đoàn bộ binh 23 (3 trung đoàn: 44, 45 và 53), 7 tiểu đoàn biệt động quân (21, 22, 23, 24, 45, 4, 6), 36 tiểu đoàn bảo an, 4 thiết đoàn thiết giáp, 230 khẩu pháo, sư đoàn 6 không quân với 150 máy bay các loại. Nhìn tổng thể, địch bố trí mạnh ở phía bắc, còn khu vực phía nam được xem như là hậu phương, chúng bố trí lực lượng mỏng hơn.
    Sau khi hạ quyết tâm mở chiến dịch Tây Nguyên, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã ra quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên, Trung tướng Hoàng Minh Thảo được giao trọng trách làm Tư lệnh, đại tá Đặng Vũ Hiệp làm Chính ủy, Bí thư Đảng ủy chiến dịch. Khu ủy Khu 5 cử đồng chí Bùi San, Phó Bí thư khu ủy và đồng chí Nguyễn Cần, Bí thư Tỉnh ủy Đắc Lắc đi cùng Đảng ủy, Bộ Tư lệnh chiến dịch trực tiếp chỉ đạo các tỉnh phối hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực, trong chuẩn bị cũng như trong tác chiến. Bộ phận đại diện của Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh do Đại tướng Văn Tiến Dũng chủ trì cũng được đặt tại Tây Nguyên để trực tiếp chỉ đạo chiến dịch.
    Lực lượng tham gia chiến dịch gồm các sư đoàn bộ binh 10, 320, 316, 3 và 968; bốn trung đoàn bộ binh (25, 29B, 271, 95A), trung đoàn đặc công 198, hai tiểu đoàn đặc công 14, 27, hai trung đoàn pháo binh 40, 675, ba trung đoàn phòng không 232, 234, 593, trung đoàn xe tăng thiết giáp 273, hai trung đoàn công binh 7, 575, trung đoàn thông tin 29, trung đoàn ô-tô vận tải và lực lượng vũ trang tỉnh Đắc Lắc, Kon Tum và Gia Lai.
    Sau khi được thành lập, Đảng ủy Bộ Tư lệnh chiến dịch đã nhanh chóng quán triệt nhiệm vụ và xây dựng quyết tâm chiến dịch. Nhiệm vụ chủ yếu mà Bộ Chính trị và Quân ủy giao ngày 21 tháng 1 là tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch (diệt sư đoàn 23, đánh thiệt hại nặng quân đoàn 2 ngụy), giải phóng các tỉnh Đắc Lắc, Phú Bổn, Quảng Đức; mục tiêu then chốt là thị xã Buôn Ma Thuột và ba quận lỵ Đức Lập, Cẩm Gia, Kiến Đức, mở rộng hành lang, nối liền Tây Nguyên với miền Đông Nam Bộ, thực hiện chia cắt chiến lược, tạo cục diện mới về chiến lược.
    Căn cứ vào nhiệm vụ được giao, Bộ Tư lệnh chiến dịch xác định quyết tâm và kế hoạch chiến dịch như sau: hướng và khu vực tác chiến chủ yếu là Buôn Ma Thuột - Đức Lập; mục tiêu đánh mở đầu là Đức Lập, mục tiêu chủ yếu quyết định là thị xã Buôn Ma Thuột. Hướng và mục tiêu quan trọng là Thuần Mẫn (Cẩm Gia) nhằm cắt đứt đường 14, chia cắt địch về chiến dịch, ngăn chặn dự bị của địch từ Plây Ku xuống Buôn Ma Thuột. Hướng phát triển: Phú Bổn, Quảng Đức, chủ yếu là Phú Bổn, bao gồrn cả thị xã Cheo Reo. Hướng bao vây chia cắt chiến dịch là cắt đường 19 từ đông Plây Ku qua An Khê tới đông Bình Khê, cắt đường 21 trên đoạn đông tây Chư Cúc. Hướng kiềm chế nghi binh, giam chân khối chủ lực của quân đoàn 2 ngụy là Kon Tum, Plây Ku.
    Cách đánh cụ thể được xác định là tiến công nghi binh vào Plây Ku và Kon Tum, cắt đường 14, thu hút và giam chân phần lớn chủ lực địch ở bắc Tây Nguyên; cắt đứt hai trục đường 19 và 21 để ngăn chặn, tiêu diệt lực lượng dự bị của địch từ đồng bằng lên Tây Nguyên và quân địch ở Tây Nguyên rút chạy; đánh chiếm Đức Lập, Thuần Mẫn nhằm cô lập thị xã Buôn Ma Thuột; tập trung lực lượng chủ yếu giáng đòn quyết định giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột, sẵn sàng đánh bại phản kích của địch. Trận then chốt đánh thị xã Buôn Ma Thuột được dự kiến trong trường hợp địch chưa kịp tăng cường phòng ngự dự phòng, và ngay cả trong trường hợp địch đã tăng cường phòng ngự dự phòng.
    Công tác chuẩn bị chiến dịch được tổ chức hết sức công phu và tiến hành theo hai bước: bước chuẩn bị trước và bước chuẩn bị trực tiếp. Trong bước chuẩn bị trước ta đã mở rộng và hoàn chỉnh vùng giải phóng, củng cố hậu phương tại chỗ, dồn ép địch vào các thị xã, thị trấn. Trên hướng Plây Ku, ta diệt các căn cứ Chư Nghé, Lệ Ngọc, Ia Súp. Trên hướng Kon Tum, ta diệt cứ điểm Kon Rốc, đánh chiếm quận lỵ Măng Đen và Đắc Pét. Bộ đội địa phương bức rút quận lỵ Măng Bút. Đến đầu năm 1975, vùng giải phóng của ta đã được mở rộng vào sát các thị xã, thị trấn và đường giao thông chiến lược quan trọng của địch ở hầu hết các tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc và Gia Nghĩa.
    Một công việc hết sức quan trọng trong bước chuẩn bị trước là xây dựng hệ thống đường cơ động và hệ thống kho tàng dự trữ hậu cần. Từ sau Hiệp định Pa-ri, Mặt trận Tây Nguyên cùng Đoàn 559 khẩn trương hoàn chỉnh đường chiến lược Hồ Chí Minh đoạn đi qua Tây Nguyên. Con đường này không chỉ nhằm bảo đảm về hậu cần cho chiến dịch mà còn là con đường cơ động quan trọng của khối chủ lực từ bắc Tây Nguyên xuống nam Tây Nguyên. Từ tháng 9 năm 1974, ta triển khai xây dựng hệ thống đường chiến dịch ở nam Tây Nguyên gồm các đường 68, 28, N1, N5, 140, 22, 23, 128 và các đường nhánh về từng đơn vị. Từ tháng 11 năm 1974, ta đã bắc 3 cầu Pô Kô Hạ, Diên Bình, Đắc Mót và tiếp đó đã bắc cầu phao có trọng tải 50 tấn qua sông Pô Kô và Sê Rê Pốc. Từ ngày 31 tháng 1 năm 1975, ta đã khôi phục đường 50 và 48 ở bắc Buôn Ma Thuột. Đến tháng 2 năm 1975, ta đã mở thêm các đường mới: 503, 500: 508 dài 61km, đường 51, 57B, 57C dài 75km. Khó khăn nhất là làm đường 20C ở tây sông Sê Rê Pốc. Con đường này chỉ được phép đánh dấu và cưa sẵn 2 phần 3 thân các cây lớn, chờ khi nổ súng mới đổ cây và dọn đường cho xe tăng đi. Tính đến khi nổ súng (4 tháng 3), ngoài hệ thống đường có sẵn, bộ đội và nhân dân Tây Nguyên đã làm thêm khoảng 560km đường phục vụ chiến dịch.
    Nhu cầu vật chất cho chiến dịch Tây Nguyên rất lớn (ước khoảng 14.000 tấn). Với nỗ lực của Đoàn 559, số hàng nhận theo kế hoạch đã vượt 10% cho cả năm 1975. Đến đầu tháng 3, hậu cần chiến dịch đã chuyển giao cho các đơn vị đạt 78% kế hoạch, trong đó quân lương đạt 1 14%, vũ khí đạt 83%, xăng dầu đạt 24%. Hậu cần chiến dịch đã tổ chức căn cứ ở suối Đak Đam và phân cụm ở tây Ea H?Tleo bảo đảm cho hai hướng của chiến dịch. Đặc biệt số đạn pháo cần cho trận Buôn Ma Thuột, ngoài kế hoạch chuyển từ hậu phương vào, ta còn dự trữ được một số lượng khá lớn, đồng thời hoàn thành bảo dưỡng, kiểm tra các loại xe pháo.
    Với thế bố trí của ta từ sau Hiệp định Pa-ri, địch đã tập trung phần lớn chủ lực ở bắc Tây Nguyên để đối phó với chủ lực ta. Trong thời gian chuẩn bị trước, ta đã tiến hành một loạt các biện pháp nghi binh để củng cố thêm sai lầm này của địch và bảo đảm bí mật cho việc vận chuyển vật chất và di chuyển lực lượng của ta xuống nam Tây Nguyên.
    Đoàn 559 sử dụng hai sư đoàn công binh 473 và 470 mở đường cơ giới từ A Sầu vào Đắc Tô, Kon Tum. Khu 5 huy động công binh và hơn chục ngàn dân công mở các đường nhánh, gùi thồ rầm rộ tới các vùng căn cứ ở ngoại vi bắc Tây Nguyên. Sư đoàn 968 vào thay thế vị trí và duy trì các hoạt động ở bắc Tây Nguyên của hai sư đoàn 10 và 320, để hai sư đoàn này di chuyển vào nam Tây Nguyên.
    Bước chuẩn bị trực tiếp được tiến hành từ ngày 21 tháng 1 năm 1975. Trong bước chuẩn bị này Bộ Tư lệnh chiến dịch hoàn chỉnh thêm một bước quyết tâm chiến dịch, tiếp tục hoạt động nghi binh và điều chỉnh, bố trí lực lượng thành các cụm theo nhiệm vụ chiến dịch.
    - Cụm lực lượng trên hướng Buôn Ma Thuộc có sư đoàn 316, trung đoàn 95B, trung đoàn 24 (thiếu 1 tiểu đoàn), tiểu đoàn 21 của Đoàn 559, trung đoàn đặc công 198 và tiểu đoàn đặc công 27, trung đoàn xe tăng thiết giáp 273 (thiếu 1 tiểu đoàn), 2 trung đoàn pháo 40 và 675, hai trung đoàn phòng không 232, 234, hai trung đoàn công binh (7,575) và lực lượng vũ trang tỉnh Đắc Lắc.
    - Cụm lực lượng trên hướng Đức Lập - Quảng Đức có sư đoàn 10 (thiếu trung đoàn 24), trung đoàn 271, một tiểu đoàn pháo của trung đoàn pháo 40, tiểu đoàn đặc công 14.
    - Cụm lực lượng trên đường 14 - Thuần Mẫn có sư đoàn 320.
    - Cụm lực lượng trên đường 21 có trung đoàn 25.
    - Cụm lực lượng trên đường 19 có sư đoàn 3 (thiếu 1 trung đoàn) ở Bình Khê và trung đoàn 95A ở Lây Pôn.
    - Hướng Kon Tum và Plây Ku do sư đoàn 968 và lực lượng vũ trang hai tỉnh đảm nhiệm.
  10. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Quyết tâm vượt mọi khó khăn tiêu diệt bằng được Ban Mê Thuột
    (Nguồn: Trích hồi ký của thiếu tướng Phan Hàm)
    Trước khi lên đường vào chiến trường, tôi (thiếu tướng Phan Hàm) đến gặp được Đại tướng chỉ thị thêm:
    -Đồng chí vào chờ tôi ở bộ tư lệnh Trường Sơn. Bàn trước với đồng chí Đổng Sĩ Nguyên về vấn đề bảo đảm hậu cần cho chiến dịch và bảo đảm cơ động lực lượng? nhớ bố trí đón cho được đồng chí Lê Ngọc Hiền đang trên đường từ Tây Nguyên ra. Chúng ta sẽ họp ở đấy bàn tiếp một số vấn đề.
    Như vậy, có nghĩa là phương án đã được thông qua hôm 9 tháng 1 thì cứ thế mà tiến hành, không mảy may thay đổi. Đối với Buôn Ma Thuột, dù có khó khăn thế nào cũng phải dứt điểm.
    Khi tôi đến bộ tư lệnh Trường Sơn thì đồng chí Hiền đã có mặt ở đấy rồi. Đồng chí rất lo lắng: việc chuẩn bị đánh Buôn Ma Thuột Bộ đề ra gấp quá, đoàn cán bộ sư đoàn 316 thì vào chậm, nên mãi đến ngày 6 tháng 2 mới bắt đầu đi trinh sát địa hình, chưa biết ngày nào về kịp để hạ quyết tâm lần cuối cùng.
    Với tình hình như hiện nay, nghĩa là chỉ có vài trung đoàn chủ lực quân đội Cộng hoà ở Đắc Lắc, số còn lại là quân địa phương thì lực lượng ta, ngoài sư đoàn 316 ra, cần phải có thêm một sư đoàn bộ binh nữa hay ít ra là hai trung đoàn. Các đơn vị thuộc Bộ tư lệnh Tây Nguyên thì đều đã có nhiệm vụ cả rồi, cũng đang xúc tiến việc chuẩn bị, nên không còn lấy đâu ra được nữa. Nếu để chậm lại mươi ngày, nửa tháng nữa để điều cho được sư đoàn 10 ra Buôn Ma Thuột, sau khi giải phóng xong Đức Lập, thì tình hình sẽ khác đi nhiều, đối phuơng sẽ tăng thêm lực lượng, như trước đây họ đã từng làm, thì rồi chẳng biết tình hình sẽ ra sao đây.
    Vấn đề bảo đảm vật chất, cũng khá nan giải. Số lượng hậu cần chiến dịch tiếp nhận được còn quá ít, lại còn để ở đâu đâu. Với khả năng hiện có, từ lúc hạ quyết tâm đến lúc triển khai được công tác vận chuyển, đưa vật chất đến địa điểm theo yêu cầu của kế hoạch, phải mất cả tháng nếu mọi việc đều được trót lọt. Đặc biệt công tác đưa được một số gạo, đạn tối thiểu vào phía Nam và phía đông Buôn Ma Thuột, trên đường quốc lộ 21 và 21 Bis thì hầu như không thực hiện nổi vì các hành lang vượt qua đường quốc lộ 14 đều bị phong toả rất chặt.
    Đồng chí Hiền muốn xin trực thăng, ra ngay Hà Nội, dù chỉ một buổi chiều thôi, để báo cáo hết các vấn đề với Quân uỷ Trung ương và xin ý kiến.
    Đại tướng trả lời qua điện thoại: không đồng ý vì Quân uỷ cũng đã có sự cân nhắc kỹ trước khi hạ quyết tâm, và một khi đã hạ quyết tâm thì Bộ Tổng tham mưu và Tổng cục Hậu cần phải tìm đủ mọi cách khắc phục khó khăn mà triển khai lực lượng.
    Sáng hôm sau Đại tướng cùng vào. Đoàn lấy bí danh là A75. Cùng đi, có đồng chí Đinh Đức Thiện vừa là uỷ viên Quân uỷ Trung ương vừa là chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần. Cuộc họp diễn ra chóng vánh. Sau khi nghe đồng chí Hiền báo cáo tình hình chuẩn bị và nêu lên những khó khăn như trên, Hội nghị thảo luận kỹ và đi đến kết luận: chủ động điều địch hơn nữa, tăng cường công tác nghi binh, giữ nguyên hiện trang ở Buôn Ma Thuột để bằng mọi cách nổ súng đánh Buôn Ma Thuột sớm, chậm nhất là 24 tiếng đồng hồ sau Đức Lập.
    Về lực lượng, sau khi đã cân nhắc kỹ, Đại tướng đồng ý tăng cường thêm cho chiến dịch trung đoàn bộ binh 95B, lấy ở mặt trận Trị Thiên đưa vào ngay; còn về vấn đề bảo đảm vật chất, bảo đảm cơ động thì các đồng chí Đinh Đức Thiện và đồng chí Đổng Sĩ Nguyên hứa sẽ giải quyết đầy đủ các yêu cầu.

Chia sẻ trang này