1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những dữ kiện lịch sử của chiến dịch mùa xuân 1975

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi quyenlinh66, 04/01/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Quyết tâm của Bộ Chính trị tại Tổng hành dinh
    (Nguồn: Trích hồi ký của Thiếu tướng Phan Hàm)
    Sáng ngày 11 tháng 3 trong lúc Buôn Ma Thuột, tiếng súng truy quét tàn quân địch còn đang nổ giòn, thì ở Hà Nội, thường trực Quân uỷ Trung ương họp.
    Trở lại nền nếp cũ của những năm trước đây, mỗi lần bước vào những đợt hoạt động lớn, có ý nghĩa chiến lược như tết Mậu Thân, chiến dịch Quảng Trị, hàng ngày, đến giờ giao ban. Thường trực Quân uỷ nghe Bộ Tổng tham mưu báo cáo tình hình. Để giảm bớt bận rộn cho dưới, các đồng chí trong Bộ Chính trị cũng đến dự họp, trao đổi tình hình, thảo luận chủ trương và có ý kiến chỉ đạo kịp thời các chiến trường. Lần này có một số đồng chí vắng mặt, nên chỉ có anh Ba, anh Trường Chinh, anh Sáu Thọ, anh Văn, anh Hoàn và anh Nghị. Ngoài ra còn có anh Thái, anh Tấn và anh Đạo.
    Anh Thái và anh Tấn báo cáo rất ngắn gọn diễn biến trận đánh ngày hôm qua và nhận xét: ta chuẩn bị tốt, nghi binh giỏi, nên giữ được bất ngờ, nổ súng đúng thời gian. Địch không phán đoán nổi ý đồ của ta, sư đoàn dù vẫn còn đang bị giam chân ở Đà Nẵng, tinh thần chiến đấu xuống rất nhanh. Đề nghị phương hướng phát triển là Phú Bổn, đường 19, bao vây Plây Cu, Kon Tum. Trong lúc chưa điều động lực lượng lớn đến kịp thì dùng lực lượng đặc công và pháo binh đánh vào thị xã, làm cho địch nguy khốn, tiến tới dứt điểm hai thị xã này. Trước mùa mưa năm 1975, giải phóng toàn bộ Tây Nguyên.
    Đại tướng Võ Nguyên Giáp biểu lộ sự đồng tình, nhất trí, nói:
    -Mặc dù ta đã có dự kiến, nhưng vẫn chưa thấy được hết vấn đề là địch sẽ suy sụp nhanh. Mới chỉ là trận đánh mở đầu thôi, mà đã thấy xuất hiện tình hình mới? tình hình thường phát triển trước sự suy nghĩ của chúng ta. Đối với Phú Bổn, tôi đồng ý với đề nghị của Bộ Tổng tham mưu. Nhưng chưa nên lấy danh nghĩ của Bộ Chính trị hay Quân uỷ, mà chỉ lấy danh nghĩ của Bộ để khêu gợi với anh em trong đó trước đã. Còn chờ vài hôm nữa xem ra sao. Trong lúc này, ta cần phải đẩy mạnh hơn nữa việc phối hợp chiến trường. Trị Thiên bao giờ mới nổ súng? Khu 8 hãy còn im ắng quá. Bộ Tổng tham mưu cần giúp đỡ những nơi nói trên. Đối với chiến trường Tây Nguyên bây giờ không nhất thiết phải đánh vào công sự vững chắc, mà phải tìm cách bao vây rồi truy kích để tiêu diệt. Như vậy, ít tốn xương máu hơn.
    Đồng chí Lê Đức Thọ đứng dậy nói rất sôi nổi:
    -Phải mạnh dạn hơn nữa, thắng đến đâu, đẩy tới đó. Khu 5 phải tập kích vào Đà Nẵng, còn ở nam Tây Nguyên thì nên thực hiện đề nghị của Bộ Tổng tham mưu, nhưng trong tháng 5 này chứ không nên để chậm. Trước đây, ta dự kiến đến tháng 11, thì nay đã lạc hậu rồi. Ở miền Đông, sư đoàn 7 nên hướng ngay về phía đường 20, Bảo Lộc, Đà Lạt.
    Anh Trường Chinh:
    -Nắm vững tư tưởng cách mạng tiến công. Về cách đánh thì vẫn phải lấy vấn đề tiêu diệt là chính. Phải nắm vững mối quan hệ giữa tiêu diệt và tiêu hao: tiêu diệt và giải phóng đất đai.
    Anh nói tiếp:
    -Trong lúc này, nếu chỉ nắm vấn đề tiêu diệt không thôi, thì chủ quan, cứng nhắc và máy móc; nói tiêu diệt là bao gồm cả giết, bắt sống, làm tan rã, gọi hàng. Đánh rồi thì phải chiếm. Trong lúc này, ở miền Nam, hoàn toàn có khả năng mở rộng và hoàn chỉnh vùng giải phóng. Làm như vậy thì có vấn đề phải giải quyết đời sống cho nhân dân. Phải sớm nghĩ đến việc giải phóng Huế, Đà Nẵng, giải phóng Quảng Trị đến Quảng Nam.
    Khoan thai, anh Ba đứng dậy phát biểu, giọng đầy xúc động:
    -Trước đây ta đặt vấn đề hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ giải phóng miền Nam trong hai năm. Năm ngoái ta có Khu 9, Thượng Đức; năm nay ta có Phước Long, Buôn Ma Thuột. Ta còn có thể đẩy mạnh hơn nữa. Đây có phải là bước đầu của cuộc tổng tiến công không? Các đồng chí hãy suy nghĩ đi?
    Nhìn lên tấm bản đồ treo trên tường, anh vừa chỉ vừa nói:
    -Dân ta, quân đội ta phấn khởi. Ở Sài Gòn, nhân dân rất phấn khởi. Phía bắc: Huế, Đà Nẵng, ta có hai quân đoàn, phía nam ta cũng có hai quân đoàn? lúc này, phải nắm chắc lực lượng chủ lực trong tay, không nên phân tán nắm lấy thời cơ, đẩy mạnh Sài Gòn? chuẩn bị phát triển nhanh.
    Hội nghị bế mạc lúc 11 giờ 30 phút.
    Cùng lúc ấy ở thị xã Buôn Ma Thuột tiếng súng truy quét địch cũng chấm dứt.
    Sự nhất trí cao độ của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã đem đến sức mạnh vô cùng to lớn cho các chiến trường và tạo nên bước ngoặt lịch sử này. Dân tộc Việt Nam, lại phát huy truyền thống của Phù Đồng Thiên vương thuở trước, vươn mình đứng dây, cầm gậy sắt, nhảy lên ngựa sắt, lao lên phía trước.
    Được quyenlinh66 sửa chữa / chuyển vào 17:48 ngày 13/01/2006
  2. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Bước ngoặt của chiến cuộc 1975[ - cuộc rút lui trên đường 7
    (Nguồn: trích Hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)
    Sáng 11-3, ngay sau khi được tin Buôn Ma Thuột đã bị đánh chiếm, Nguyễn Văn Thiệu họp với Trần Thiện Khiêm, Thủ tướng, Cao Văn Viên, Tổng Tham mưu trưởng và tướng Đặng Văn Quang. Thiệu trở lại với một suy nghĩ đã có từ sau ngày Hiệp định Pa ri được ký kết: Trong tình hình nguy khốn, có thể từng bước bỏ Vùng I và Vùng II chiến thuật (Trị - Thiên, Tây Nguyên và các tỉnh phía bắc miền Trung), co về giữ Vùng III và IV chiến thuật, bao gồm cả đồng bằng sông Cửu Long.
    "Thà mất đất còn hơn chung sống với "cộng sản". Thiệu phác ra kế hoạch trên bản đồ và nói: "Với sức lực và khả năng của ta, chắc chắn ta không thể nào giữ được toàn bộ vùng đất theo ý muốn. Chúng ta phải triển khai lại lực lượng làm sao có thể giữ những vùng đông dân và trù phú này thôi. Chính những vùng này mới thật quan trọng".
    Chiến lược này của Thiệu còn được gọi nôm na là "đầu bé đít to", thả lỏng phần trên, giữ chặt phần dưới. Vùng ?otrên" tiếp giáp với miền Bắc vốn là vùng bất lợi về quân sự cũng như về kinh tế; vùng "dưới", chính là vùng đồng bằng sông Cửu Long trù phú, cung cấp lúa gạo, rau quả, cá tôm cho 75% dân số "Việt Nam cộng hòa".
    Không ai có ý kiến gì ?
    Cái phương án vạn bất đắc dĩ này, thực ra là một cơn ác mộng.
    Trở lại vấn đề Buôn Ma Thuột, Thiệu yêu cầu "tử thử'''', chiếm lại bằng mọi giá.
    Ngay chiều hôm ấy, Đài phát thanh Sài Gòn và đài ''''quân đội cộng hòa" kêu gào đến thất thanh: "Tử thủ Buôn Ma Thuột".
    Không may cho nhà báo Pháp Pôn Lêăngđri (Paul Léandri) lại đưa tin: Buôn Ma Thuột đã bị thất thủ ? Bản tin của hãng thông tấn AFP khác nào một gáo nước lạnh dội lên đầu Thiệu. Nhà báo Pháp đã phải trả giá đắt về một tin chiến sự kịp thời, chính xác, bằng tính mệnh của mình!
    Phạm Văn Phú, Tư lệnh Vùng II chiến thuật, tìm cách cứu vãn tình thế. Phú từng là một lính ngụy dưới thời Pháp, đã bị quân ta bắt tại Điện Biên phủ năm 1954, nay là một viên tướng tồi, không được giới quân sự tín nhiệm. Tuy vậy, Thiệu lại nâng đớ Phú, bởi vì cả hai cùng giúp nhau lên chức.
    Cuộc họp tiến hành tại Cam Ranh trưa 14-3 theo đề nghị của Phú, vì Plâyku không được an toàn, tại ngôi biệt thự xây cất trong dịp đón Tổng thống Mỹ L.B.Giônxơn hồi năm 1966. Cùng họp có Trần Thiện Khiêm, Cao Văn Viên, Đặng Văn Quang, ba cố vấn thân cận nhất của Thiệu. Cuộc họp được giữ tuyệt đối bí mật, kể cả với cố vấn MỸ.
    Tình hình Quân đoàn II ngụy rất đen tối. Hầu như toàn bộ Buôn Ma Thuột đã nằm dưới quyền kiểm soát của cộng sản. Các đường giao thông đều bị cắt đứt. Phú không dám trả lời dứt khoát khi Thiệu hỏi có thể chiếm lại Buôn Ma Thuột được hay không? Phú chỉ xin thêm quân và máy bay lên thẳng để hở quân, vì không thể tiếp viện bằng đường bộ.
    Yêu cầu của Phú không được đáp ứng, vì không còn quân dự bị, và 200 trong số 400 trực thăng của quân ngụy hoặc đã bị cộng sản bắn rơi, hoặc không hoạt động được nữa do thiếu phụ tùng thay thế.
    Kết thúc cuộc họp, Thiệu lệnh cho Phú rút bỏ Plâyku, Kon Tum, triển khai lực lượng tái chiếm Buôn Ma Thuột. Các đơn vị còn lại sẽ rút về Tuy Hòa. ở đó, sẽ tập hợp, củng cố lực lượng tiến hành một chiến dịch chiếm lại Buôn Ma Thuột.
    Phú chủ trương rút quân thcó đường số 7 để tranh thủ bất ngờ. Đây là con đường liên tỉnh từ lâu hầu như đã bị bỏ quên, nên hư hỏng nặng. Cầu cống trên đường bị sập. Rõ ràng, cuộc rút quân trên con đường mới lạ, xuyên qua rừng núi, đầy rủi ro, nguy hiểm này, không có một biện pháp trợ giúp tối thiểu nào của Bộ Tổng tham mưu, là một cuộc phiêu lưu lớn, nhưng đành phải chấp nhận vì không còn cách nào khác.
    Phú chỉ đề nghị với Thiệu một "ân huệ? cuối cùng. Đó là việc thăng chức thiếu tướng cho Phan Văn Tất, đại tá Tư lệnh biệt động quân Vùng II chiến thuật. Thiệu đồng ý.
    Thiệu có ngờ đâu, đây là "con bài chuồn", là một trò ?othế mạng? của Phú, vì khi trở về Plâyku, Phú lập tức giao quyền cho "tân thiếu tướng" Phan Văn Tất chỉ huy cuộc rút lui. Ngay sau đó, Phú rời Plâyku bằng trực thăng với lý do về trông coi sở chỉ huy mới ở Nha Trang, bỏ mặc Tất cùng toàn bộ binh sĩ ngụy ở Vùng II chiến thuật đi vào cõi chết ?
    Được quyenlinh66 sửa chữa / chuyển vào 17:50 ngày 13/01/2006
  3. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Sở chỉ huy chiến dịch Tây nguyên trước quyết định rút lui chiến lược của địch ở Tây nguyên.
    (Nguồn: theo hồi ký của Đại tướng Văn tiến Dũng)
    Ngày 13/3 năm 1975 tôi nhận được điện trả lời của đồng chí Võ Nguyên Giáp và Lê Đức Thọ. Đồng chí Võ Nguyên Giáp truyền đạt cho tôi ý kiến của Bộ chính trị và Quân ủy Trung ương sau khi đọc điện báo của tôi.
    Đồng chí cho biết các chiến trường khác bắt đầu phối hợp tốt và dặn chúng tôi kiểm tra việc đôn đốc việc tiêu diệt các đơn vị đến phản kích, tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch trong khu vực Ban Mê Thuột và phụ cận, nhanh chóng bao vây Phú Bổn.
    Đồng chí cũng dự kiến nếu địch bị tiêu diệt một bộ phận sinh lực lớn, Ban Mê Thuột bị mất, đường số 19 bị cắt thì lực lượng địch còn lại ở Tây Nguyên sẽ co cụm lại ở Plây- *****ặc cũng có thể chúng buộc phải rút lui chiến lược, rút bỏ Tây Nguyên. Do đó Bộ chính trị và Quân ủy Trung ương chỉ thị cần hình thành ngay việc bao vây Plây- Cu, triệt cả đường bộ lẫn đường không của địch, chuẩn bị tiêu diệt địch trong cả 2 tình huống.
    Như vậy Bộ chính trị và Quân ủy Trung ương đã sớm dự kiến một cuộc rút lui chiến lược của địch ở Tây Nguyên. Và thế chiến lược đã cài trước ngày nổ súng đánh Ban Mê Thuột cũng đã dự kiến đến việc cắt không cho địch tăng viện lên ứng cứu Tây Nguyên và càng không cho chúng rút bỏ Tây Nguyên dễ dàng.
    Sau khi nhận được điện, căn cứ vào tình hình mới ở Tây Nguyên, chúng tôi bàn những kế hoạch phát triển lên phía bắc. Bộ tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên rất nhất trí với kế hoạch đã đề ra. Trong ngày 15 và 16 tháng 3, chúng tôi nhận được một số tin kĩ thuật và một vài bài bình luận ngắn ở đài phương tây. Tuy lẻ tẻ, vụn vặt nhưng rất quan trọng đối với việc nhận định tình hình của địch lúc bấy giờ.
    Thí dụ một hãng thông tấn của Mỹ đưa tin về giá vé máy bay từ Plây- Cu đi Sài Gòn lên đến 40. 000 đồng. Tại sao người ta lại đổ xô mua vé đi Sài Gòn? Trưa ngày 16/3 ta lại bắt được tin của không quân địch cất cách ở Plây- Cu nhưng đồng loạt gọi nhau về hạ cánh ở Nha Trang. Tại sao máy bay địch cất cách ở một nơi, hạ cánh nơi khác xa hơn. Trong khi ngày 16/3 ta chưa đánh rát lắm vào sân bay Plây- Cu?15 giờ ngày 16/3, HN gọi điện báo cho chúng tôi biết là sở chỉ huy tiền phương của quân đoàn 2 ngụy và lãnh sự Mỹ cũng đã chuyển về Nha Trang. 16 giờ cùng ngày, một tin từ Thuần Mẫn báo về là đài quan sát của ta ở cầu I- a- leo nhìn thấy tại ngã ba Mỹ Thanh một đoàn xe dài đang chạy về Phú Bổn.
    Đối với chúng tôi lúc đó, vẫn chưa rời mắt khỏi khu vực Ban Mê Thuột. Nhưng khu vực Plây- Cu, đường số 14, 19 lại bắt đầu được chú ý. Tin tức liên quan đến Plây- Cu, đến quân đoàn 3 ngụy, đến các con đường chiến lược nối với đồng bằng đều được quan tâm.
    Khoảng 19 giờ ngày 16/3, sau khi nhận được các tin trên, trong sở chỉ huy có cuộc tranh luận sôi nổi giữa các đồng chí cán bộ tham mưu. Tuy chưa dám kết luận, khẳng định nhưng ai nấy đều cảm thấy là địch ở Tây Nguyên đang làm cái gì đấy sau 2 đòn thất bại đau đớn liên tiếp.
    Có đồng chí nêu lên khả năng là địch tập trung số quân còn lại ở Tây Nguyên rút về Nha Trang rồi sẽ cùng với quân tổng dự bị chiến lược phản kích tái chiếm Ban Mê Thuột theo đường 21.
    Một đồng chí khác lại cho rằng:
    "điện của Quân ủy Trung ương nêu 3 điểm. Một là địch sẽ tăng cường lực lượng rồi phản kích. Hai là sẽ co cụm về Plây- Cu, nếu là vậy ta phải bao vây Plây- Cu. Ba là chúng sẽ buộc phải dự tính một cuộc rút lui chiến lược. Vậy những tin tức ta nhận được hôm nay cho thấy nghiêng về khả năng địch tăng quân để phản kích sau khi rút về Nha Trang.
    Và nếu địch rút thì rút cả quân đoàn hay chỉ có bộ tư lệnh quân đoàn. Nhất là chúng sẽ rút bằng cách gì, theo đường nào? Còn nếu đi theo đường 21 để phản kích ta thì đâu có dễ! Chúng sẽ gặp quân thua trận chạy về cũng đủ làm cho chúng mất hết tinh thần rồi. "
    Mấy đồng chí khác thì thiên về ý kiến một cuộc rút lui chiến lược của địch vì trong điện của Quân ủy Trung ương nêu lên 3 khả năng, nhưng thực tế đến lúc này đánh quân phản kích ta đã làm và sẵng sàng để làm tiếp, ta lại cũng chuẩn bị bao vây, tiêu diệt Plây- Cu. Cũng có thể sau 2 trận đại bại vừa rồi, địch đau quá, không tăng viện lên được, cảm thấy trước sau cũng sẽ bị tiêu diệt cho nên không có cách gì hơn là rút bỏ Tây Nguyên. Vậy ta phải làm tốt cả 2 việc, một mặt tiêu diệt thật nhanh quân phản kích nếu có và nhanh chóng triển khai lực lượng bao vây Plây- Cu. Tốt nhất là địch rút chạy, vì thế chiến dịch ta đã cài sẵn rồi, các đường chiến lược đã bị cắt, địch lên không được mà xuống cũng không xong..
    Chúng tôi suy nghĩ nhiều về những mẫu thông tin kể trên và chú ý lắng nghe cuộc tranh luận. Đúng là Quân ủy Trung ương đã dự kiến 3 khả năng và chúng tôi đã triển khai thế chiến dịch như sau:Diệt Ban Mê Thuột xong thì sẵng sàng diệt viện, không phải một lần mà là nhiều lần, không phải chỉ đánh với quân đoàn 2 ngụy mà tính cả việc đánh luôn quân tổng dự bị của Sài Gòn đổ bộ đường không(do các đường chiến lược số 19, 21, 14 đều đã bị ta cắt và chốt giữ vững chắc, không cho địch lên mà cũng không cho địch rút)
    Bây giờ tình huống có thể chuyển biến rất nhanh vì địch từ chổ chủ quan, sau 2 trận thua đau có thể đi đến chỗ hoảng hốt và có những chủ trương sai lầm lớn hơn. Tăng thêm quân để phản kích thì càng khó khăn, sa lầy và chắc chắn sẽ bị ta tiêu diệt. Nhưng rút chạy thì càng chết.
    Tin tức còn quá ít nhưng cũng hé ra được nhiều căn cứ để suy nghĩ và hành động.
    Chúng tôi cho kiểm tra lại các hệ thống thông tin, các đài thu tin của địch, gọi về HN hỏi thêm tình hình chung trên các chiến trường, cho mở đài thu thanh nghe các bản tin trong ngày của các đài trên thế giới, đôn đốc bộ tư lệnh Tây Nguyên nắm chặt tình hình các trung đoàn 95, 25, các sư 320, sư 10 trên các đường số 19, 14, 21 và dặn tăng cường lực lượng cho trung đoàn 25 đang chốt đường 21.
    21 giờ ngày 16/3, đồng chí trực ban nhận được tin là địch đang rút chạy khỏi Plây- Cu, một đoàn xe đã qua ngã ba Mỹ Thanh theo hướng đường số 7, kho đạn Plây- Cu đang nổ và có nhiều đám cháy trong thị xã.
    Sở chỉ huy nhộn nhịp hẳn lên.
    Bản đồ mạng đường sá Tây Nguyên được trải rộng ra trên bàn. Đèn pin, kính phóng đại soi dọc theo các con đường số 19, 14, 7 để tìm các nút chặn, các đường vòng, các đường xuất kích, đo cự ly giữa đơn vị gần nhất với đường số 7 để tính thời gian vận động.
    Tôi cầm máy điện thoại nói chuyện trực tiếp với đồng chí Kim Tuấn, sư trưởng sư 320 lúc đó. Trước khi đánh Ban Mê Thuột tôi đã mấy lần hỏi về con đường số 7 thì được báo cáo: đường số 7 đã bỏ từ lâu, cầu hỏng, phà qua sông không có, địch không đi lại. Cách đây 2 ngày đồng chí cũng trả lời như trên.
    Bây giờ nghe tin địch rút theo đường số 7 mà đơn vị chưa thể nắm con đường đó một cách cụ thể, chưa khẩn trương đuổi địch, cho nên tôi phát cáu. Tôi nói rất nghiêm khắc với người chỉ huy sư đoàn 320, đồng chí Kim Tuấn:
    "Đó là một thiếu sót, một sơ hở đáng khiển trách. Lúc này mà do dự một chút, sơ hở một chút, ngại khó một chút, chậm trễ một chút là hỏng việc. Nếu để địch chạy thoát là một tội lớn mà đồng chí là người chịu trách nhiệm.
    Trong những lúc này tôi không muốn cấp dưới trình bày những lý do này nọ để thiếu cố gắng mà chỉ muốn cấp dưới hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách nghiêm túc và trọn vẹn nhất.
    Đã cùng nhau tham gia nhiều trận đánh, nhiều chiến dịch, gặp những tình huống phức tạp và khẩn trương nhất. Là tư lệnh tôi có những đòi hỏi nghiêm khắc đối với anh em và anh em cũng hiểu được tôi. Cho nên có lệnh là các đồng chí phải kiên quyết thực hiện "
    Buông máy điện thoại ra, trong ký ức tôi hiện lên nhiều hình ảnh rút chạy của địch trong chiến tranh chống Pháp- Mỹ :cảnh thoát chạy của Sác- tông và Lơ- Pa- Giơ trên đường số 4 hồi chiến dịch Biên Giới 1950;cảnh tháo chạy của trung đoàn TQLC Mỹ ở Khe Sanh - 1968;cảnh tháo chạy của các sư 1, lữ dù, lữ TQLC ngụy trên đường số 9- Nam Lào; cảnh tháo chạy của sư 3 ngụy ở chiến trường Quảng Trị- 1972. Địch đã phải nhiều phen rút chạy trước sức tiến công của ta và thường áp dụng những thủ đoạn nghi binh trước khi rút.
    Nhưng giờ đây, cả một quân đoàn chủ lực của ngụy rút chạy hộc tộc, bỏ cả Tây Nguyên- một địa bàn chiến lược rất quan trọng thì vì sao? Theo lệnh ai? Hai đòn sấm sét ta đánh ở Tây Nguyên đã làm quân địch rúng động đến thế ư? Đúng là đòn đánh trúng huyệt, địch bắt đầu ngấm chỉ sau có mấy ngày.
    Đúng là địch đã choáng váng và rối loạn về chiến lược. Lại một sai lầm rất lớn của chúng về chiến lược.
    Lệnh rút quân đoàn 2 phải do ngụy quyền Sài Gòn phát ra, vậy thì vấn đề đã vượt quá phạm vi chiến dịch và lên tới tầm chiến lược.
    Lần đầu tiên trong cuộc chiến tranh ở Đông Dương, trong phạm vi chiến dịch, một quân đoàn được trang bị hiện đại đã phải bỏ địa bàn chiến lược quan trọng mà rút chạy. Tình hình này sẽ dẫn đến nhiều sự kiện quan trọng khác, có thể dẫn đến việc ta kết thúc thắng lợi nhanh chóng cuộc chiến tranh.
    Sự kiện sẽ gây phản ứng dây chuyền cà về quân sự và chính trị, sẽ đụng đến cả Mỹ. Mỹ cũng không thể gỡ cái rối này thay chúng.
    Thời cơ lớn bắt đầu từ đây rồi. Muốn nắm chắc thời cơ, trước mắt phải tiêu diệt bằng được quân địch rút chạy, phải diệt chúng ngay trên chiến trường Tây Nguyên, không để chúng thoát về đồng bằng. Phải diệt cho nhanh, cho gọn để sớm thúc đẩy quá trình chuyển biến cục diện chiến tranh.
    Nhớ lại chuyện đã qua và suy nghĩ chuyện hiện tại, chúng tôi vừa mừng vừa sốt ruột.
    Suốt đêm 16/3, chúng tôi đôn đốc sư 320 hành động khẩn trương, ra lệnh cho bộ chỉ huy mặt trận Tây Nguyên huy động thêm xe bọc thép, xe vận tải, thêm pháo và vật chất để đảm bảo cho sư 320 truy kích tiêu diệt địch. Đồng thời lệnh cho sở chỉ huy tiền phương quân khu 5 ở bình định, điều động bộ đội địa phương Phú Yên lên chốt đường số 7, không cho địch chạy thoát về Tuy Hoà. Sư 968 cũng được lệnh tiến nhanh về Plây- Cu, vượt qua các vị trí dọc đường để bám sát đội hình rút chạy của địch và từ phía sau đánh tới. Bộ tư lệnh 559 cho sư công binh 470 tiến vào tiếp quản Công Tum, Plây- Cu, dập các đám cháy, đưa đón quân dân ra vùng an toàn, tiếp quản các kho tàng của địch để lại.
    Được quyenlinh66 sửa chữa / chuyển vào 19:57 ngày 13/01/2006
  4. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Địch - sai lầm chiến lược, ta-phân tích đúng, chớp nhanh thời cơ
    (Nguồn: theo hồi ức của Thượng tướng Lê Ngọc Hiền thành viên của đoàn A75)
    Trong chiến đấu thì thời cơ là vô cùng quan trọng. Thời cơ có thể xuất hiện nhờ những nỗ lực chủ quan của ta. Thời cơ cũng có thể đến do địch mắc phải sai lầm mà ta triệt để khai thác được.
    Đúng là đối phương đã phạm sai lầm khi rút Quân đoàn 2 ra khỏi Tây Nguyên. Họ tính rằng nếu dồn lực lượng quân đoàn 2 về giữ 3 nơi hiểm yếu là đèo An Khê trên đường 19, đèo Tu Na hoặc Cung Sơn trên đường 7, đèo Phượng Hoàng trên đường 21 thì ta sẽ bị chặn lại, phải tổ chức chiến dịch mới. Khi đó mùa mưa đến, ta sẽ gặp khó khăn, khiến chiến tranh sẽ kéo dài.
    Điều sai lầm là họ không tính đến tinh thần bạc nhược, kỷ luật kém của binh sĩ. Ý định của họ là chủ động rút quân có tổ chức, có kế hoạch nhưng khi thực hiện lại trở thành một cuộc tháo chạy hỗn loạn.
    Sau khi ta giải phóng xong thị xã Buôn Ma Thuột, tình hình hết sức khẩn trương. Mặc dù, lúc đó có nhiều nguồn tin cho rằng quân ngụy sẽ tăng viện hòng chiếm lại Buôn Ma Thuột, nhưng bộ phận thông tin lại nhận được những tin tức của chúng hỏi nhau kiểu như: ?oCó đốt tài liệu không??, ?oXe cộ giải quyết thế nào??. Từ đó, chúng tôi nhận định rằng quân ngụy sẽ rút lui chiến lược, và điều này ngày càng rõ ra.
    Ngay tối 16-3, khi không liên lạc được với Bộ chỉ huy chiến dịch Tây Nguyên, anh Văn Tiến Dũng và tôi trực tiếp gọi điện thoại xuống Sư đoàn 320 ra lệnh nhanh chóng chuyển đội hình từ đánh địch tăng viện hòng phản kích chiếm lại Buôn Ma Thuột sang hành quân gấp lên hướng Bắc, tiến công địch trên đường rút lui. Nhưng lúc ấy, sư 320 có khó khăn khi cả 3 trung đoàn đều phân tán cách xa nhau, nhanh nhất chỉ có thể huy động được một tiểu đoàn. Anh Văn Tiến Dũng ra lệnh phải xuất kích ngay.
    Thực tế, lực lượng đánh địch rút chạy của ta lúc đầu chỉ có một tiểu đoàn 9 thuộc Trung đoàn 64. Lực lượng của trung đoàn 48 và trung đoàn 64 (thuộc Sư 320) đến sau. Một tiểu đoàn chặn cả một quân đoàn- quân khu địch với đầy đủ xe tăng, máy bay, pháo binh...! Đây có lẽ là một điều chưa từng xảy ra trong lịch sử. Tuy lực lượng ít hơn địch nhiều lần nhưng tinh thần chiến đấu quả cảm, kỹ thuật, chiến thuật của ta lại hơn hẳn. Vì thế, chiến sĩ ta đã không hề nao núng, kiên trì cắm chốt, chặn đứng đường rút chạy, chờ lực lượng ta ở phía sau vận động tới tiêu diệt địch.
    Trước khi ta nổ súng, đài quan sát của ta báo về cho tôi biết: ?oĐầu đội hình địch đang đi vào Cheo Reo, bảy, tám xe một hàng ngang. Đuôi đội hình địch thì ở tít tận chân trời phía Plei-cu, không thể trông thấy hết?. Tôi mừng không tả xiết. Vậy là trúng rồi. Đội hình hành quân kéo dài hàng trăm cây số của địch nhất định sẽ bị ta đánh tan tác.
  5. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Đánh trận then chốt - tiêu diệt quân địch rút chạy trên đường 7
    (từ 17 đến 24 tháng 3).

    (Nguồn: Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước )
    Buôn Ma Thuột bị chiếm, sư đoàn 23 địch bị ta tiến công dữ dội, đường 19 bị cắt, Plây Ku, Kon Tum bị bao vây uy hiếp, hướng Nha Trang - Cam Ranh bị bỏ ngỏ, địch rơi vào thế bị động lúng túng.
    Ngày 14 tháng 3, Nguyễn Văn Thiệu, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa bay ra Nha Trang thị sát và quyết định rút toàn bộ lực lượng ở Tây Nguyên theo đường 7 về giữ đồng bằng. Và, ngay trong đêm 14 rạng ngày 15, tướng Phú đã bí mật triển khai kế hoạch rút quân. Đi đầu là các lực lượng sửa đường và bảo vệ đường, đi sau là toàn bộ lực lượng còn lại của quân khu 2 ở Tây Nguyên
    Ngay từ ngày 13 tháng 3, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã dự kiến tình huống địch rút chạy và đã chỉ thị cho Bộ Tư lệnh chiến dịch chuẩn bị kế hoạch đánh địch rút chạy. 19 giờ ngày 16, sau khi nhận được điện của Đại tướng Văn Tiến Dũng thông báo địch rút chạy trên đường 7, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã nhanh chóng hạ quyết tâm sử dụng sư đoàn 320 truy kích tiêu diệt toàn bộ quân địch rút chạy, đồng thời yêu cầu bộ đội địa phương Phú Yên chặn đánh địch ở Củng Sơn.
    Khi nhận lệnh, sư đoàn 320 đang triển khai đội hình chiến đấu từ Chư Phao đến Cẩm Ga, cách Cheo Reo khoảng 50km. Với tinh thần hết sức khẩn trương, sư đoàn đã điều động toàn bộ lực lượng cơ động về hướng Cheo Reo truy kích địch. Tiểu đoàn 9 của trung đoàn 64, đang đứng chân ở đông đường 7B, được lệnh vận động lên trước để chặn địch. 11 giờ ngày 17, tiểu đoàn 9 ra đến đường 7, tại khu vực đèo Mơ Ria (đông Cheo Reo 4km), cắt ngang đội hình địch và chặn đứng khối lượng lớn địch ở khu vực thị xã Cheo Reo (chỉ có liên đoàn 6 biệt động quân, thiết đoàn 19, 1 tiểu đoàn pháo và một bộ phận công binh chạy thoát về Củng Sơn).
    Rạng sáng ngày 18, trung đoàn 9 triển khai tiến công quận lỵ Phú Thiện thực hiện chia cắt từ phía sau đội hình địch; trung đoàn 48 đã chặn địch ở Chư Pa và tiến vào áp sát bao vây địch ở Cheo Reo từ phía bắc; trung đoàn 64 đã đến đông Cheo Reo, cùng tiểu đoàn 9 đến trước, hình thành hướng vây địch từ phía nam. Đúng 11 giờ ngày 18, trung đoàn 48 bắt đầu tiến công cụm địch ở Cheo Reo. Pháo cối của ta bắn dồn dập vào các mục tiêu trong thị xã, địch hoảng loạn tranh nhau tháo chạy. Đến 18 giờ 30, quân ta làm chủ sân bay, trại Ngô Quyền, đài phát thanh, tiêu diệt và đánh tan liên đoàn 23 biệt động quân, sau đó phát triển làm chủ hoàn toàn thị xã lúc 24 giờ. Số tàn binh rút chạy trên đường 7 bị trung đoàn 64 đánh bật lại, chúng co thành hai cụm ở nam Cheo Reo 2km. 6 giờ 30 ngày 19 tháng 9, sư đoàn 320 tổ chức tiến công tiêu diệt hai cụm quân này, tiêu diệt hoàn toàn cụm quân địch ở thị xã Cheo Reo. Cùng thời gian trên, trung đoàn 9 đánh chiếm Phú Thiện và phối hợp với lực lượng ta ở Cheo Reo tiêu diệt gọn quân địch rút chạy.
    Sau khi vượt thoát qua khu vực Cheo Reo, liên đoàn 6 biệt động quân (thiếu), thiết đoàn 19, tiểu đoàn pháo binh và một bộ phận công binh địch định chạy về Tuy Hòa nhưng bị tiểu đoàn 9 bộ đội Phú Yên phá cầu chặn đánh, chúng phải dừng lại ở Củng Sơn và cùng lực lượng tại chỗ ở đây gồm 1 tiểu đoàn bảo an và lính biệt kích, dân vệ của quận Sơn Hòa tổ chức phòng ngự và tìm cách sửa cầu, đường để rút chạy. Về phía ta, sau khi giải phóng Cheo Reo, sư đoàn 320 tiếp tục truy kích Địch. Trung đoàn 64 cùng 1 đại đội thiết giáp đi đầu đội hình. Trên đường hành tiến, ngày 21, trung đoàn giải phóng quận lỵ Phú Túc, ngày 22, diệt một bộ phận địch chốt ở gần Ca Lúi. Ngày 23, trung đoàn tiến đến Củng Sơn, bắt liên lạc với tiểu đoàn 96 bộ đội Phú Yên tại đây. 11 giờ ngày 24 tháng 3, phát hiện địch ở Củng Sơn chuẩn bị rút chạy, mặc dù ít hơn địch nhưng trung đoàn 64 cùng tiểu đoàn 96 đã táo bạo đưa 1 đại đội sang sông chặn địch, đồng thời tổ chức hai mũi tiến công vào cụm quân địch. Địch hoang mang, rối loạn và nhanh chóng bị tiêu diệt, chỉ có một số rất ít chạy được về Tuy Hòa. Như vậy đến ngày 24, quân ta đã hoàn thành thắng lợi trận truy kích quân địch rút chạy trên đường 7, đập tan ý định bỏ Tây Nguyên về co cụm ở đồng bằng của địch, tạo nên bước ngoặt chiến lược của cuộc chiến tranh, thúc đẩy nhanh quá trình tan rã và sụp đổ của chúng.
    Phối hợp với hướng chính, ngày 12, sư đoàn 3 của Quân khu 5 giải phóng An Khê; ngày 17, trung đoàn 19 cùng lực lượng vũ trang địa phương giải phóng thị xã Kon Tum, trung đoàn 95A cùng lực lượng vũ trang địa phương giải phóng Plây Ku; ngày 20, trung đoàn 271 giải phóng Kiến Đức và ngày 22 giải phóng Gia Nghĩa.
    Ngày 24 tháng 3, Tây Nguyên hoàn toàn giải phóng, chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch mở đầu cuộc Tổng tiến công chiến lược năm 1975 giành thắng lợi rực rỡ.
    Kết quả, ta đã diệt và làm tan rã quân đoàn 2, quân khu 2 ngụy cùng một bộ phận cơ động chiến lược của chúng. Tiêu diệt sư đoàn 22 và 23, lữ đoàn 3 dù, 8 liên đoàn biệt động quân, 1 liên đoàn công binh, 4 thiết đoàn thiết giáp, 10 tiểu đoàn pháo binh, đánh thiệt hại nặng sư đoàn 6 không quân. Tiêu diệt và làm tan rã 7 tiểu khu, 26 chi khu, 50 tiểu đoàn và 51 đại đội bảo an cùng toàn bộ lực lượng cảnh sát, dân vệ và phòng vệ dân sự trong 7 tỉnh. Loại khỏi vòng chiến đấu hơn 20.000 tên địch, thu và phá hủy 154 máy bay, 1.096 xe, 17.188 khẩu súng cùng toàn bộ các cơ sở hậu cần kỹ thuật, kho tàng của địch ở Tây Nguyên. Giải phóng 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Phú Bổn, Quảng Đức.
    Chiến dịch Tây Nguyên kết thúc thắng lợi đã tạo ra sự thay đổi cơ bản về so sánh lực lượng và về thế chiến lược giữa ta và địch. Chiến thắng Tây Nguyên đã dẫn tới sự sụp đổ về chiến lược và về tinh thần của ngụy quyền Sài Gòn, tạo ra một bước ngoặt quyết định đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đến thắng lợi hoàn toàn.
    Được quyenlinh66 sửa chữa / chuyển vào 18:52 ngày 13/01/2006
  6. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Tiêu diệt quân đoàn 2 ngụy trên đường rút chạy khỏi Tây nguyên
    (Nguồn: Trích hồi ký của thiếu tướng Phan Hàm)
    Chiều ngày 14 và suốt cả ngày 15 tháng 3, thực hiện giai đoạn đầu của cuộc rút lui, tham mưu trưởng Quân đoàn 2, đại tá Lê Khắc Lý ra lệnh cho 2 liên đoàn biệt động quân số 6 và 23 rút khỏi Kon Tum. Nhiệm vụ của hai đơn vị này là cùng với 1 tiểu đoàn công binh mở đường từ Phú Túc đến Sơn Hoà giáp giới với Phú Yên và bảo đảm cạnh sườn phía Thuần Mẫn, chiếm lĩnh trước các trận địa có lợi như đèo Chu Tsê trên đường 7B.
    Từ Sơn Hoà trở đi, thì có lực lượng quân địa phương tỉnh Phú Yên đảm trách. Tại Kon Tum, chỉ còn lại có 2 liên đoàn biệt động quân thuộc quyền chỉ huy của tiểu khu trưởng.
    Sau khi tư lệnh quân đoàn Phạm Văn Phú rời khỏi đại bản doanh, thì sư đoàn 6 không quân, với phương tiện rất hiện đại nắm sẵn trong tay, cũng ồ ạt theo chân Phạm Văn Phú. Một số gia đình binh sĩ không quân ở trong thị xã, được đưa vào sân bay để di tản, đã làm tiết lộ việc rút bỏ thị xã này. Tin giật gân lan ra rất nhanh chóng, như một bệnh dịch, chẳng mấy chốc mà cả thị xã và các vùng lân cận đều biết cả. Những cảnh tượng rùng rợn mà trong mấy ngày qua người ta đã có tưởng tượng ra để mô tả trên đường phố Buôn Ma Thuột đã làm cho mọi người hoang mang khủng khiếp.
    Mới 8 giờ sáng, nhiều người dân đã tràn vào sân bay Cù Hanh. Khi thấy chiếc máy bay C-130 chở thương binh vừa cất cánh, họ thấy rõ ngay là cuộc rút bỏ Plây Cu không còn là tin đồn đại nữa. Biết là bị bỏ rơi, các đơn vị địa phương và dân vệ cũng bắt đầu làm loạn. Nhân dân, binh lính trở nên vô kỷ luật. Đục nước béo cò, bọn kiêu binh bại trận tha hồ đi hiếp dâm, đốt nhà, cướp của. Mạng người rẻ như bèo. Sân bay ở trong tình trạng hỗn loạn. Một chiếc máy bay vận tải vừa hạ cánh, nhưng rồi lại không tài nào cất cánh lên được, người ta chen lấn xô đẩy, đấm đá nhau túi bụi, giẫm lên nhau, chửi bới kêu khóc, để được lọt vào cửa máy bay quá hẹp.
    Xe nhà binh, xe tải, xe du lịch, xe honda, không đi xe thì đi bộ: gồng, gánh, bồng bế dắt nhau mà đi. Tai nạn có thể xảy đến với bất cứ ai và bất cứ lúc nào. Nhiều nhân chứng đã kể lại: cả thị xã hỗn loạn như mặt biển trong ngày mưa bão, còn trên đường đi, từng đợt sóng người, xô tới đẩy lui, ùn lại rồi dạt dần về phương nam: tắc nghẽn. Cảnh tượng thật là kinh khủng. Nhiều ông già, bà già, trẻ con, chết gục bên đường; xe tăng, xe thiết giáp cán qua người họ mà đi.
    Cuộc hành quân kéo dài lê thê vì việc sửa chữa đường sá, cầu cống mất rất nhiều thì giờ, các đơn vị biệt động quân đi ở cuối đường muốn tìm cách vượt lên phía trước để ngăn chặn áp lực của ta đối với Cheo Reo, nhưng vô cùng vất vả vì đường sá bị tắc nghẽn.
    Các liên đoàn biệt động quân số 7 và 25 còn đang bảo vệ phía tây Plây Cu thì bị sư đoàn 968 đánh cho tan tác. Pháo, rocket liên tục bắn vào đội hình địch, bộ binh thì bám chặt thắt liưng chúng mà truy kích, các chốt ở đèo Thanh Bình và phía tây Thanh An đều bị tiêu diệt. Chi khu Thanh An bị hạ. Chỉ trong một ngày, cả ba tiểu đoàn của liên đoàn biệt động quân số 25 đã bị loại ra khỏi vòng chiến đấu, toàn bộ pháo bị huỷ diệt.
    Nhưng tai họa lại không đến được một cách đơn độc; một đơn vị thiết giáp đi mở đường ở đông Cheo Reo, bị máy bay A37, vì bay quá cao ném bom nhầm: 4 xe tăng bị phá huỷ, hỗn loạn càng thêm hỗn loạn.
    Ở hướng bắc một trung đoàn khác của sư đoàn 968 đang truy kích sát gót địch rút chạy từ Kon Tum về Plây Cu phối hợp rất nhịp nhàng với trung đoàn 95A từ Phú Mỹ, ở phía đông thị xã đánh quật trở lại. Plây Cu trở thành nơi hội tụ của các lực lượng tác chiến ở phía bắc.
    Những tình tiết về cuộc rút lui có một không hai, trong lịch sử chiến tranh ở Việt Nam này đều không lọt khỏi tai mắt của các đơn vị trinh sát của ta, bố trí trên các cao điểm dọc đường 14 và số 7; được trang bị ống nhòm có bội số lớn và cả máy vô tuyến điện thoại đến lúc này thì được dùng rộng rãi. Ngay từ ngày 15 tháng 3, Quân uỷ Trung ương đã nhận thấy Phước An và đường 21 là những cái bẫy để thu hút địch và Phú Bổn là cái túi để dồn địch vào đấy mà tiêu diệt rồi. Trong bức điện gửi cho Đại tướng Văn Tiến Dũng hôm ấy, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: ?otập trung lực lượng để tiêu diệt sư đoàn 23 ở Phước An, đồng thời sẵn sàng diệt địch ở Phú Bổn (Cheo Reo). Việc tiêu diệt sinh lực địch lớn ở đây sẽ có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của chiến dịch trên cả chiến trường Tây Nguyên v.v?
    Thời cơ lớn đến rồi. Như đã nói trên, nếu ở Phước An, địch dù có bao nhiêu quân cũng không có sức mạnh, vì phần lớn binh khí kỹ thuật đã lọt vào tay ta cả rồi; thì ở Phú Bổn, ngược hẳn lại, địch cứ dồn vào đây biết bao nhiêu thiết đoàn xe tăng, thiết giáp, bao nhiêu lữ đoàn pháo binh, trước sau rồi cũng sẽ nộp cả cho ta mà thôi. Ở đây, chúng chết vì có quá nhiều vũ khí nặng.
    Kết hợp ý kiến của A75, khẳng định việc địch sẽ rút lui và chỉ thị cho Bộ tư lệnh chiến dịch phải nắm chắc thời cơ để hoạt động cùng với những điều mà các đơn vị trinh sát báo cáo về, Bộ tư lệnh chiến dịch đã nhạy bén, kịp thời tung lực lượng ra, ghìm địch lại. Mới nửa chiều ngày 16 tháng 3, tiểu đoàn 9, trung đoàn 64, sư đoàn 320 đã tìm cách lách núi, luồn rừng, để sáng hôm sau ra cắm chốt trên đường giữa Cheo Reo và đèo Tân Á, cắt đôi địa hình của liên đoàn 7 biệt động quân, vừa ở phía sau lách tới. Toàn bộ sư đoàn 320, được tăng cường thêm trung đoàn 95B làm lực lượng dự bị và được một tiểu đoàn xe tăng một cụm pháo binh của chiến dịch chi viện. Đơn vị nào ở phía trước cứ đi, đơn vị ở sau vừa hành quân vừa chấn chỉnh đội hình, không có đường lớn thì đi đường vòng, không có đường vòng thì dùng bản đồ, địa bàn, xẻ rừng, cắt núi mà đi. Từ cán bộ chỉ huy đến anh em chiến sĩ, mọi người đều cảm thấy phải mang hài 7 dặm, nhất tề xông lên phía trước với một quyết tâm sắt đá là tiêu diệt sạch sành sanh quân thù, nhất định không để một tên nào chạy thoát về xuôi để có cơ hội phản kích lại ta sau này. Chỉ cần một tổ nhỏ 3 người, với một khẩu B.40 và vài viên đạn, một khẩu AK là có thể xông lên phía trước nổi lên một điểm chốt trên đường ghìm địch lại, tạo điều kiện cho các đơn vị sau kịp thời xông tới, bao vây, tiêu diệt hàng vạn tên địch, diệt hàng trăm xe tăng, phá huỷ hàng trăm đại bác.
    10 giờ ngày 17 tháng 3, tiểu đội của Nguyễn Vi Hợi trong trung đội do Đoàn Việt Hùng chỉ huy, chỉ huy, thuộc đại đội 11, tiểu đoàn 9, trung đoàn 64 đã có mặt trên đường số 7, nổ phát súng đầu tiên, ghìm địch lại. Tiếp theo đó là các tiểu đoàn và sang ngày 18, lại có thêm tiểu đoàn thứ hai của trung đoàn này, cắt ngang đội hình hành quân của địch, một nửa lọt qua khỏi đèo Tân Á; còn một nửa bị hất ngược về phía thị xã, phối hợp tuyệt đẹp với trung đoàn 48, cũng hôm ấy, bỏ rừng xông thẳng ra đường cái lớn để truy kích cho nhanh, diệt một tiểu đoàn bảo an ở Cầu Cháy, tây Phú Bổn 7 cây số và phát triển tiến công vào cái thị trấn đông nghị người này.
    Nói đến tình cảnh của bọn địch ở Cheo Reo, đại tá Đặng Đình Siêu, lữ đoàn phó lữ đoàn 2 kỵ binh đã thú nhận:
    ?oNgày 17 tháng 3, buổi sáng:
    Thiết đoàn biệt động quân liên đoàn 7 và chiến đoàn 1 với 14 chiến xa có nhiệm vụ mở đường, thanh toán chốt tại nam Cheo Reo. Lúc 9 giờ, đụng chốt. Một chiếc xe cháy xin không quân oanh kích: máy bay A37 ném bom nhầm vài tiểu đoàn này. Một đại đội bị loại khỏi vòng chiến đấu.
    Chi đoàn báo cáo không qua được. Bộ tư lệnh lữ đoàn ra lệnh phải tìm đường vòng phía trước mặt chốt, tìm cách qua khỏi, để bảo đảm an ninh đến chân đèo. Kết quả: 3 xe bị cháy, kể từ đó, mất liên lạc.
    Buổi chiều, bộ tư lệnh lữ đoàn lại ra lệnh cho chiến đoàn 3/1CX theo vết cũ mà đi. Chỉ liên lạc được lúc xuất phát, sau đó cũng mất liên lạc.
    Ở sở chỉ huy bộ tư lệnh lữ đoàn bị pháo 130 ly từ hướng Thuần Mẫn bắn đến xối xả.
    13 giờ, lệnh cho rút các lực lượng trong đêm. Hoả Long được điều động đến để thả hoả châu yểm trợ. Vẫn đi theo các đơn vị trước. Vì trời tối, và bị thiệt hại gần chục chiến xa, nên bộ tư lệnh lữ đoàn lệnh cho các đơn vị, trở lại làng Buôn Bleck đông nam thị trấn Cheo Reo, để phòng thủ. Tại đây, cảnh hỗn độn vì có quá nhiều xe của quân và của dân nên không thể lui tới gì được. Tư lệnh lữ đoàn rời xe và không có lệnh gì khác cho các đơn vị. Không một ai biết đương sự đi đâu? các đơn vị biệt động quân, cũng chia thành toán nhỏ rời xe thiết giáp tự động tìm đường đi bộ theo gia đình??
    Nói về nguyên nhan thất bại trên quãng đường từ Cheo Reo đến đèo Tân Á, Siêu viết tiếp:
    ?oCó sự bất đồng ý kiến trong kế hoạch phối trí lực lượng và điều quân giữa lữ đoàn và quân đoàn. Giữ quá nhiều thiết giáp ở Cheo Reo, lẽ ra phải sớm đưa ra bố trí dọc đường.
    -Tinh thần binh sĩ hoang mang dao động vì có tin, chính phủ đã ký, giao lại mặt trận, các tỉnh miền cao nguyên, trong thời hạn 3 ngày phải rút hết quân.
    -Việc yểm trợ bằng không quân ít, lại không chính xác, gây tổn thất cho bạn. Khi đụng chốt, không giải quyết được, mà tổn thất quá cao. Địa thế độc đạo, chỉ có đường duy nhất để xuống duyên hải. Hơn nữa, các xe quân sự bị các xe dân sự cản trở quá nhiều hầu như không thể điều động được.
    -Các tướng tá đã dùng các chiến xa để chở gia đình nên không có sức chiến đấu. Các quân nhân cũng quá bịn rịn vợ con, nên không tác chiến được.
    -Một số cấp chỉ huy chấp hành kỷ luật không nghiêm: đáng lẽ sau khi vượt qua khỏi chốt, phải ở lại giữ an ninh, lại bỏ chạy luôn mà không báo cáo.
    -Khi tư lệnh rời cuộc hành quân, bộ tham mưu bỏ trốn, các đơn vị tự động rời xe thiết giáp, tìm đường đi bộ. Các đơn vị còn lại không ai chỉ huy, dần dần tan rã??
    Sông Ba là một con sông lớn ở miền Nam Trung Bộ. Nguồn của nó rải khắp Tây Nguyên nên ít khi có lụt lớn. Nó phát nguyên từ chân núi Ngọc Linh, bắc Tây Nguyên chảy từ bắc vào nam, dọc theo sườn phía tây Trường Sơn, đến Cheo Reo được thêm nước sông A Yun đổ vào nó trở thành một con sông lớn, cắt ngang dãy núi Trường Sơn, dòng chảy chuyển huớng về phía đông rồi ra biển. Ở nơi chuyển hướng này, hình thành một cái thác, nước chảy hơi xiết đổ vào một cái vực sâu, có lắm cá sấu. Không có nhiều bờ cao, thác dữ. Một vài nơi có những bãi phù sa rộng rãi, trên mặt sông rất hiền lành, nhưng ở dưới là nền da ban phong hóa.
    Nhưng ngày đầu, khi những liên đoàn biệt động quân đi tiên phong của đoàn quân rút lui vượt sông bằng một chiếc cầu phao thì an toàn; nhưng đến lúc đại quân lếch thếch kéo đến, xe người hỗn độn, chen nhau vượt sông, cầu gãy. Bãi cát bờ phía tây sông hóa thành một khối nam châm khổng lồ, bao nhiêu xe cộ đi qua đấy đều bị hút xuống lòng sông: xe trước vừa dừng lại, xe sau lách lên, cả hai đều chết cứng. Càng rồ máy càng lún sâu thêm. Xe xếp hàng 4, hàng 5, hàng 6; xe chồng đôi, chồng ba, vài chiếc trực thăng cần cẩu cẩu những tấm vỉ sắn đến để chống lún, nhưng lửa xe nước gáo, thấm vào đâu.
    Hì hục mãi không nhích lên được nửa bước, ngoái cổ về phía tây đã thấy trung đoàn 64 của sư đoàn 320 đang đuổi gâp. Lại giẫm lên nhau mà chạy. Từ đây trở đi quân ta cứ đường cái mà truy kích, nhanh như vũ bão. Ngày 22 tháng 3, phân đội phái đi trước của trung đoàn 64 gồm bộ binh và xe bọc thép đã ghìm được địch ở quận lỵ Phú Túc, trong nháy mắt diệt ngay một bộ phận. Một vài đơn vị của sư đoàn đã nhanh chóng bơi vị trí vượt sông Ba và đến ngày hôm sau thì bắt liên lạc được với tiểu đoàn 96 địa phương Phú Yên, đang chặn đầu địch rút chạy. Chủ lực phối hợp với địa phương hình thành thế trận bao vây Củng Sơn rất đẹp. Tại đây quân địch đã có sẵn liên đoàn 6 biệt động quân về đóng chốt từ trước. Cùng số quân, lóp ngóp từ Tây Nguyên mới chạy về, lực lượng phòng thủ khá mạnh: trên 6 nghìn quân, 40 xe tăng thiết giáp và hàng trăm xe vận tải.
    13 giờ ngày 24 tháng 3, ta bắt đầu tiến công, địch chống trả điên cuồng, tập trung hoả lực của pháo binh và trực thăng vũ trang quyết ngăn chặn ta. Xe tăng, xe bọc thép, dựa vào số lượng đông hơn gấp bội, phản kích liên tục. Bộ binh và xe tăng đã chiến đấu vô cùng anh dũng, vượt qua lưới lửa dày đặc của địch, theo đường cái tiến công vào Tịnh Sơn. Bộ đội cao xạ bắn rơi 1 máy bay A37 tại trận, đến chiều thì chiếm được quận lỵ. Trên hướng bắc ta tiến công vào Hòn Một, địch phản kích bị ta đánh bật, phải tháo chạy; 15 giờ ngày, Hòn Một rơi vào tay ta. Cùng lúc ấy, nắm được tình hình địch đang hoang mang cao độ, bộ tư lệnh sư đoàn 320 hạ lệnh tiến công đồng loạt vào các mục tiêu đã được phân công, sau một đợt pháo bắn chuẩn bị ngắn, ta chiếm được Hòn Ngang, rồi phát triển sang sân bay cùng với tiểu đoàn 96 dứt điểm mục tiêu này.
    Củng Sơn hoàn toàn được giải phóng.
    Sau Tây Nguyên, ta đã tạo được một bước ngoặt chiến lược.
  7. panzerlehr

    panzerlehr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2004
    Bài viết:
    935
    Đã được thích:
    0
    Xin cảm ơn bác quyenlinh về những tài liệu trên. Thiếu tướng Phan Hàm nguyên là trung đoàn trưởng trung đoàn 803 hồi kháng chiến chống Pháp ở Liên Khu 5. Cụ đã ngang dọc vùng Tây Nguyên -Bình Định - Tuy Hoà này không biết bao nhiêu lần với trung đoàn 803 (sau này trở thành trung đoàn 1, sư đoàn 324) đánh tây đánh ngụy từ hồi vùng này còn "nhiều cọp hơn người". Cho nên để cụ mô tả trận đánh cuối cùng trên đường 7 có tính chất quyết định trong công cuộc "...Đánh cho ngụy nhào" quả thật là tuyệt vời.
  8. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Chuyển cuộc tiến công thành tổng tiến công
    (Nguồn: trích các hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thiếu tướng Phan Hàm)
    Chiến dịch Tây Nguyên phát triển thắng lợi. Bộ Chính trị quyết định sẽ họp vào ngày 18-3. Tôi (Đại tướng Võ Nguyên Giáp) chỉ thị cho Bộ Tổng tham mưu chuẩn bị tình hình và đề xuất ý kiến. Đêm 15-3, Cục Quân báo phát hiện một hoạt động đáng chú ý của địch ở Trị - Thiên: Liên đoàn biệt động quân 14 chuyển ra Quảng Trị thay thế Sư đoàn lính thủy đánh bộ chuyển phần lớn vào Đà Nẵng.
    Hiện tượng này giúp tôi khẳng định thêm một nhận xét đang hình thành trong suy nghĩ từ sau chiến thắng Buôn Ma Thuột: qua cuộc đọ sức lớn đầu tiên ở Tây Nguyên và những diễn biến tiếp theo, có thể thấy rõ quân ngụy còn yếu hơn nhiều so với sự đánh giá của ta trước lúc mở cuộc tiến công. Chúng không hy vọng giữ được Trị - Thiên. Có thể chúng sẽ tập trung lực lượng về giữ Đà Nẵng, nơi có vị trí chiến lược quân sự xung yếu. Như vậy, khả năng phát triển tiến công của ta rất lớn. Kế hoạch hai năm có thể rút ngắn. Giải phóng miền Nam có thể sớm hơn. Trước mắt, đã có thể mở cuộc tiến công giải phóng thành phố Huế và toàn bộ hai tỉnh Quảng Trị - Thừa Thiên.Tôi đem những suy nghĩ của mình trao đổi với các anh Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Cao Văn Khánh, Lê Hữu Đức và một số đồng chí khác trong Bộ Tổng tham mưu. Các anh rất đồng tình.
    Ngày 18-3-1975, tại "Nhà con rồng", Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp.
    Đồng chí Cục trưởng Tác chiến báo cáo tổng hợp tình hình chiến sự từ khi chiến dịch mở màn. Mọi người vui mừng thấy cuộc tiến công phát triển nhanh hơn dự kiến. Trên cơ sở những . suy nghĩ về khả năng phát triển của cách mạng miền Nam từ sau trận Buôn Ma Thuột, tổng hợp những ý kiến đã trao đổi tập thể, tôi phát biểu: Tình hình đang chuyển biến rất nhanh. Mở đầu tiến công mới 10 ngày, đã tiêu diệt đại bộ phận Quân đoàn II ngụy, giải phóng Tây Nguyên. Đã xuất hiện hành động co cụm lớn của địch. Quân ngụy suy yếu rõ rệt. Lực lượng so sánh đã thay đổi. Do ngụy suy sụp nhanh, Mỹ cũng không dám liều lĩnh, ít khả năng can thiệp trở lại. Ta đang sung sức, lực lượng tập trung, khí thế mạnh mẽ. Quân ủy Trung ương đề nghị Bộ Chính trị hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong năm 1975, không chờ đến năm 1976.
    Để thực hiện quyết tâm ấy, kiến nghị của Quân ủy Trung ương là: Hướng chiến lược chủ yếu là Sài Gòn. Trước mắt, Trị - Thiên - Đà Nẵng là hướng chiến lược quan trọng. Khẩn trương tiến công giải phóng Huế - Đà Nẵng, giải phóng đồng bằng Khu V. Tạo cho được bất ngờ về hướng tiến công, về thời gian, về lực lượng. Cần nhanh chóng đưa các sư đoàn ở Mặt trận Tây Nguyên vào hướng Sài Gòn, tăng cường cho B2 thêm hai trung đoàn xe tăng, hai trung đoàn pháo và ba trung đoàn cao xạ Quân khu Trị - Thiên và Quân đoàn II khẩn trương thực hiện kế hoạch thời cơ như Bộ đã chỉ thị. Cho ngay Quân đoàn 1 lên đường. Hoạt động của các hướng tiến công đồng thời hay trước, sau đều phải rất linh hoạt, nhằm bao vây, chia cắt, tiêu diệt địch. Trước mắt, phải đập tan âm mưu có cụm lớn của địch, tạo biến động trong cục diện chiến lược. Phương châm tác chiến chiến lược là "táo bạo, bất ngờ, kịp thời, chắc thắng". Đồng bằng sông Cửu Long đánh mạnh, tích cực phá "bình định", giành đất, giành dân. Thành lập thêm các tiểu đoàn của huyện, tỉnh, khẩn trương huấn luyện để tác chiến và bổ sung cho các chiến trường...
    Hội nghị thảo luận sôi nổi.
    Đánh giá khả năng can thiệp trở lại của Mỹ, anh Lê Đức Thọ phân tích những khó khăn Mỹ đang gặp phải, sự suy sụp nhanh chóng của ngụy, đi đến khẳng định Mỹ không còn khả năng trở lại can thiệp. Anh tán thành đề nghị của Quân ủy Trung ương:
    - Bộ Chính trị đã hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong năm 1976 thì bây giờ cơ bản vẫn là quyết tâm ấy. Vấn đề đặt ra hiện nay là thời gian. Từ năm 1973 đến nay, thực tế đã diễn ra trên chiến trường đều vuợt quá thời gian của Quân uỷ Trung ương dự kiến. Mỹ rút thì nguỵ suy sụp lớn; Hiệp định Paris đã tác động to lớn đến bọn nguỵ. Sự sụp đổ lần này là cơ bản, chúng đã mất chỗ dựa là Mỹ, thì lấy gì mà gượng lại được.
    - Mỹ bây giờ thế nào? Khó khăn của Mỹ cũng vuợt ra ngoai sự suy nghĩ của ta một phần. Cứ tưởng ký xong Hiệp định Paris thì Nixon sẽ gượng lại được; thực tế thì ngược lại hẳn: Tình hình lạm phát thất nghiệp vẫn tiếp tục trầm trọng và Nixon bị hạ bệ. Ford đã phải thú nhận: Tình hình Mỹ còn rất khó khăn; đã ra rồi thì không thể quay trở lại được nữa. Về Campuchia, thái độ của Mỹ và Pháp đã chuyển rồi. Thực tiễn học thuyết Nixon mà chỉ bằng viện trợ không thôi, thì chắc chắn cũng không giải quyết được vấn đề gì. Còn nói nó có thể đưa máy bay vào can thiệp thì tốn kém biết bao nhiêu. Ta phải cảnh giác là đúng nhưng đồng ý là phải mạnh dạn, phải khẩn trương và chắc thắng. Ta phải nhận định về khả năng Mỹ không thể vào cho dứt khoát. Nó mà có vào cũng đánh thôi. Đây là cuộc chiến tranh cơ mà! Nó vào một lần nữa đẻ làm gì? Nó có chiến lược của nó, vào để gây lại chiến tranh ở miền Nam một lần nữa à? Trong mười lăm năm chống Mỹ không lúc nào thuận lợi như bây giờ. Bây giờ thì phải táo bạo, táo bạo có cơ sở. Trong chiến lược co cụm, địch mạnh yếu như thế nào? Ta cũng có dự kiến là nó sẽ co cụm. Bây giờ thì nó làm sớm hơn thôi. Nó muốn giữ được lực lượng để khỏi bị tiêu diệt, nhưng đây là một thất bại rất lớn. Ta phải đánh trong quá trình co cụm, làm cho nó yếu dần đi. Nó co cụm ở đâu? Nó cố giữ đường chiến lược, ven biển và đồng bằng. Ta phải phá bằng hai mặt trận: Chủ lực và lực lượng tại chỗ của ta ở đồng bằng. Ta có đầy đủ cơ sở để nói rằng ta sẽ hoàn thành cuộc cách mạng trong năm 1975. Địch đang hết sức, ta quyết không để cho địch nghỉ để xả hơi, củng cố, ta hoàn toàn có khả năng làm việc này vì ta giải phóng Tây Nguyên sớm hơn, ta cũng sẽ suống miền Đông sớm hơn. Vấn đề bây giờ là vấn đề tổ chức, hậu cần và cán bộ. Ở miền Bắc chỉ nên tổ chức phòng không trong quân đội thôi.
    Đồng chí Trường Chinh phát biểu:
    - Nếu Mỹ còn tiếc rẻ tên tay sai này thì nhất định nhân dân miền Nam sẽ đạp đổ hắn, ngày một ngày hai thôi. Địch chỉ mới thất bại ở nam Tây Nguyên mà cả hệ thống chiếm đóng từ trên xuống dưới bị rung chuyển. Điều đó chứng tỏ chúng rất yếu, xuống dốc nhiều và nhanh. Thắng lợi ở Tây Nguyên đã nói lên điều gì? Địch chuyển sang thế phòng ngự chiến lược. Nó co cụm để giữ sinh lực, giữ nông thôn nhiều người nhiều của; giữ thành phố. Đó là thế yếu của chúng. Từ chỗ đưa quân đi bình định lấn chiếm khắp nơi, nay lại phải bỏ, đẻ thay đổi thế bố trí chiến lược. Ta cần phải theo dõi từng bước sự điều chỉnh này, nhất là với bọn dù và thuỷ quân lục chiến. Đã co cụm thì có đánh ra cũng cốt để giữ thôi. Đáng chú ý là nó chạy nhưng chưa hàng, ta giải phóng được nhiều, nhưng diệt còn ít.
    - Nhiệm vụ của ta là phải thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Phải bổ sung, điều chỉnh kế hoạch cho linh hoạt. Phương châm là táo bạo, chắc thắng; đồng thời phải tích cực cơ động, linh hoạt? điều chỉnh kế hoạch phải theo tinh thần táo bạo, chắc. Nếu không nắm thời cơ tiến công trong lúc này là có tội với Tổ quốc. Bỏ lỡ cơ hội này thì mình không phải là mình nữa?
    Nhìn sang phía Thượng tướng Hoàng Văn Thái và Trung tướng Lê Trọng Tấn, đồng chí muốn nhắc nhở với Bộ Tổng tham mưu:
    - Đánh phải tiêu diệt sinh lực, kể cả lực lượng cơ động chiến lược. Đánh tiêu diệt là biện pháp hàng đầu. Nó sẽ rã như cám. Phải diệt bọn chỉ huy, bắt, giáo dục để nó tuyên bố chống lại Thiệu. Phải kiên quyết thực hiện thế chia cắt chiến lược: Huế-Đà Nẵng; Đà Nẵng-Nha Trang; với Sài Gòn. Về kế hoạch tác chiến chiến lược trên hướng chính, Bộ Tổng tham mưu cần nghiên cứu kỹ, ít hôm nữa sẽ trình bày? Đánh như kiểu Quang Trung có được không? Đừng rị mọ. Nếu ta chiếm được hai kho thóc: đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng Khu 5, thì dù địch có co cụm cũng không thể mạnh được.
    Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói:
    - Đồng ý tôi không nói lại nhiều. Năm nay ta dứt khoát làm Sài Gòn thì rồi Huế, Đà Nẵng cũng rụng thôi. Ta phải nhanh thì ta mới mạnh, mới áo đảo địch. Ta không thiếu lực lượng, hơn nó rồi đấy. Vấn đề là phải chuẩn bị cho tốt, có cách đánh thật táo bạo, linh hoạt, phải quả cảm, kiên quyết. Vấn đề tổ chức trang bị bây giờ quan trọng vô cùng. Phải có đầy đủ vũ khí tiến công, có hoả lực mạnh. Trong 3 sư đoàn của địch ở chung quanh Sài Gòn, phải diệt cho được 2. Bịt cho được đường biển. Phải giải phóng ngay đồng bằng Khu 5 lấy dân, lấy gạo. Địch rời rụng, bại hoại, ta vừa đánh tiêu diệt lực lượng quân sự của nó, vừa gọi hàng. Phải làm cho nó có những đơn vị lớn đầu hàng, tan rã.
    Đối với dân chạy nạn, phải hết sức giúp đỡ, cố gắng nhanh chóng ổn định đời sống cho họ.
    Các đồng chí khác trong Bộ Chính trị dân lượt phát biểu ý kiến, phân tích thêm về thế đi xuống của định, về cách đánh chiến lược của ta. Tất cả đều thống nhất: ta đang đứng trước thời cơ chưa từng có, và đồng ý với kiến nghị của Quân ủy Trung ương cần giành thắng lợi hoàn toàn trong năm 1975, kiên quyết nắm bắt thời cơ, thắng càng nhanh càng tốt
    Hội nghị cũng quan tâm đến tình hình Nam Bộ. Theo báo cáo của B2, bắt đầu từ ngày lO-3-1975, tích cực phối hợp với Tây Nguyên, toàn chiến trường đồng loạt tiến công và nổi dậy. Từ Khu VI đến Cà Mau, kể cả vùng ven các đô thị, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích phối hợp với phong trào nổi dậy của quân chúng nhân dân, giành thắng lợi giòn giã. ở khu vực Sài Gòn - Gia Định, lực lượng của thành đội và các đội đặc công, biệt động bắt đầu hoạt động mạnh. ở đồng bằng sông Cửu Long, quân và dân ta sôi nổi đánh phá kế hoạch ?obình định" của địch, đạt nhiều kết quả.
    Hội nghị làm việc khẩn trương, hào hứng, phấn khởi, kể cả trong giờ nghỉ. Đồng chí Bí thư thứ nhất khẳng định địch đã bị mấy cái bất ngờ: bất ngờ vì không phá được Hiệp định Pan mà còn bị ta kiên quyết đánh lại; bất ngờ về kế hoạch và quy mô tác chiến của ta; bất ngờ về hướng tiến công chiến lược; bất ngờ trước sự suy yếu của chung. Về bước phát triển tiếp theo, đồng chí nêu ý kiến phải đánh cho địch suy yếu ngay trong quá trình co cụm, ngay khi không còn bị phân tán trên các hướng Khu V, miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Phải tạo được ba quả đấm: chủ lực, nông thôn và đô thị. Đánh Sài Gòn là khó, phải tạo được bất ngờ, phải sử dụng nhiều sư đoàn chủ lực để tiêu diệt quân chủ lực địch. Đồng chí không quên nhắc đến mũi tiến công binh vận, phải tạo cho được binh biến.
    Bộ Chính trị hạ quyết tâm chuyển cuộc tiến công chiến lược thành cuộc Tổng tiên công chiến lược, hoàn thành kế hoạch hai nắm (1975 - 1976) ngay trong năm 1975. Phương hướng tiến công chiến lược chủ yếu được xác định là Sài Gòn. Trước mắt, nhanh chóng tiến công tiêu diệt bằng được toàn bộ lực lượng địch trong Vùng I chiến thuật, từ Quảng Trị đến Quảng Ngãi, giải phóng Huế - Đà Nẵng. Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện quyết tâm chiến lược ấy:
    Một lần nữa, tư duy quân sự khoa học của Bộ thống soái tối cao đưa đến một quyết định chiến lược dũng cảm và chính xác. Trong tình hình quân ta đánh mạnh, đẩy địch vào thế bị động, thất bại, liên tiếp phạm sai lầm về chiến lược và suy sụp nhanh chóng, thế chiến tranh nhân dân" của ta mạnh lên toàn điện từng giờ từng phút, thì thời gian ấn định trong kế hoạch hai năm không còn phù hợp nứa. Lợi dụng thời cơ, đẩy mạnh tiến công trong khởi nghĩa vũ ''trang và chiến tranh cách mạng là một vấn đề đã trở thành truyền thống của '' nghệ thuật quân sự Việt Nam.
    Hội nghị Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương ngày 18-3 đã quyết định rất kịp thời, khẩn trương chuyển hẳn sang phương án thời cơ.
  9. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Giải phóng thành phố Huế - trận tiếp theo của chiến dịch mùa xuân năm 1975
    (Nguồn: Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước )
    Trong lúc chiến dịch Tây Nguyên tập trung đánh địch phản kích ở Buôn Ma Thuột và tổ chức chặn đánh, tiêu diệt các lực lượng còn lại của quân đoàn 2 ngụy rút chạy trên đường 7, thì Quân khu Trị Thiên, Quân đoàn 2 và Quân khu 5 mở hai chiến dịch quy mô vừa, đánh địch ở đầu phía Bắc thuộc quân đoàn 1, quân khu 1 ngụy.
    Trên hướng Trị Thiên, từ ngày 15 tháng 3, các lực lượng vũ trang Quân khu Trị Thiên và một bộ phận của Quân đoàn 2 hoạt động mạnh ở vùng Phú Lộc, Phú Thứ làm chủ 13 xã, giải phóng trên 30.000 dân thuộc các huyện Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà; vây địch ở cao điểm 367, đánh địch ở động Ông Do, An Lỗ, Lăng Cô; chiếm cứ điểm Chúc Mao, Na Sơn. Ngày 19 bộ binh và xe tăng ta vượt sông Thạch Hãn, giải phóng thị xã và phần còn lại của tỉnh Quảng Trị, uy hiếp trực tiếp thành phố Huế.
    Trên hướng Tây Nam Đà Nẵng và đồng bằng Trung bộ, Quân khu 5 đẩy mạnh tiến công và nổi dậy, giải phóng các huyện Tiên Phước, Phước Lâm, Sơn Hà, Trà Bồng cùng nhiều xã ở vùng giáp ranh, uy hiếp Đà Nẵng từ phía Nam.

    Ngày 20 tháng 3, trước sự phát triển nhanh chóng của ta ở Tây Nguyên và các hướng khác, Quân ủy Trung ương chủ trương nhanh chóng giải phóng Huế và Tam Kỳ, tiêu diệt sư đoàn 1 và 2 ngụy từ hai phía Bắc và Nam, bao vây cô lập tiến tới tiêu diệt cụm quân địch ở Đà Nẵng, tiêu diệt và làm tan rã quân đoàn 1 ngụy, giải phóng các tỉnh Trị Thiên và Bắc Khu 5. Bộ đội Tây Nguyên phát triển xuống đồng bằng, tiêu diệt nốt quân đoàn 2 ngụy, giải phóng các tỉnh Nam Khu 5. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, Quân khu Trị Thiên, Quân đoàn 2, Quân khu 5 đã nhanh chóng chuyển hai chiến dịch quy mô vừa thành chiến dịch tiến công quy mô lớn giải phóng Huế - Đà Nẵng. Bước vào chiến dịch này, Quân khu Trị Thiên được tăng cường trung đoàn bộ binh 46, Quân đoàn 2 có thêm sư đoàn 325 (thiếu trung đoàn 95) và trung đoàn 9 thuộc sư đoàn 304. Hướng Khu 5 có sư đoàn 2, sư đoàn 304 (thiếu).
    Trước cuộc tổng tiến công chiến lược xuân 1975 của ta, quân khu 1 của địch bao gồm các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Tín và Quảng Ngãi được coi là chiến trường trọng điểm, một hướng phòng thủ chủ yếu, ngăn chặn trực tiếp tiến công của ta từ miền Bắc vào. Chúng bố trí ở đây 5 sư đoàn bộ binh (1, 2, 3, sư dù và sư thủy quân lục chiến), 4 liên đoàn biệt động quân, 5 thiết đoàn và 13 chi đội xe tăng, xe thiết giáp, 21 tiểu đoàn pháo mặt đất (418 khẩu từ 105 - 175mm), 1 sư đoàn không quân (96 chiếc máy bay), 3 duyên đoàn và giang đoàn, nhiều tiểu đoàn bảo an cùng lực lượng dân vệ và phòng vệ dân sự, cảnh sát.
    Địa hình các tỉnh Trị Thiên - Huế, Quảng Đà, Quảng Nam, Quảng Ngãi dài và hẹp. Đường 1 chạy dọc từ Bắc vào Nam, chia vùng đồng bằng hẹp ra hai phần gần như bằng nhau. Trong khoảng không gian này, ngoài các căn cứ lớn của địch ở Huế, Đà Nẵng, Chu Lai, trung bình 60km có một thị xã, 8 đến 15km có một thị trấn, quận lỵ. Tuyến đường nối các thị trấn, quận lỵ hoạt động tốt. Dựa vào hệ thống các thị trấn, quận lỵ, thị xã và các điểm cao khống chế, địch tổ chức thành các cụm cứ điểm nằm trong tầm hỏa lực chi viện của pháo binh, tạo thành một hệ thống phòng ngự liên hoàn khá chặt chẽ. Trung bình khoảng 15 đến 25km, địch tổ chức và xây dựng một căn cứ cấp trung đoàn hoặc sư đoàn, các căn cứ này vừa là điểm then chốt của hệ thống phòng ngự, vừa là bàn đạp để triển khai lực lượng phản kích.
    Về ta, để chuẩn bị cho đợt hoạt động trong năm 1975, cùng với lực lượng vận tải của Đoàn 559, lực lượng vận tải của 2 Quân khu Trị Thiên - Huế và Khu 5 đã chuyển vào chiến trường hàng chục vạn tấn lương thực, đạn dược, khí tài và nhiên liệu. Ở Trị Thiên, đã đảm bảo được 14 tháng lương thực cho bộ đội, xăng dầu đủ hoạt động cho cả năm 1975, đạn đủ cho chiến đấu và có dự trữ cho phát triển. Ở vùng đồng bằng Khu 5, do chiến trường ở xa hậu phương nên việc đảm bảo chưa đáp ứng được yêu cầu.
    Chiến dịch Huế - Đà Nẵng chính thức bắt đầu từ ngày 21 tháng 3 năm 1975 (vào thời điểm sau khi địch tháo chạy khỏi Quảng Trị, và Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho tiền phương quân đoàn 1 ngụy rút khỏi Thừa Thiên - Huế, tổ chức phòng thủ chặn quân ta ở Bắc đèo Hải Vân) và diễn ra theo hai đợt.
    Đợt 1 (từ 21 đến 26 tháng 3), ta tiến công giải phóng Huế, Tam Kỳ, Quảng Ngãi, uy hiếp Đà Nẵng từ hướng Bắc và hướng Nam.
    Trên hướng Thừa Thiên - Huế; ở Nam Huế, ngày 21 tháng 3, trung đoàn 18 của sư đoàn 325 tiến công diệt gọn tiểu đoàn 6 ngụy trên các điểm cao 294, 520, 560, chiếm núi Kim Sắc. Trung đoàn 1 và 2 của sư đoàn 324 đánh chiếm núi Bông, điểm cao 214, 303 nhưng không thành công. Tình hình hết sức khẩn trương, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 chủ trương đưa sư đoàn 325 nhanh chóng xuống cắt đường 1 (Huế - Đà Nẵng), sẵn sàng tiến công vào Hương Điền; sư đoàn 324 bỏ qua tuyến phòng ngự vững chắc của địch ở núi Bông - núi Nghệ - Mỏ Tàu - điểm cao 303, tiến ra đường 1 phối hợp với sư đoàn 325 chia cắt địch. Thực hiện ý định trên, trưa ngày 22, trung đoàn 18 của sư đoàn 325 tiến công địch ở điểm cao 592, sau đó truy kích chúng đến điểm cao 273, 44, áp sát Hương Điền; trung đoàn 1 sư đoàn 324 tiến đến thôn Bao Vinh; pháo binh của Quân đoàn sử dụng 2 khẩu 130mm kiềm chế địch ở La Sơn, Hương Điền, Mũi Né. Như vậy đoạn đường 1 Huế - Đà Nẵng bị ta cắt. Ở Bắc Huế, các tiểu đoàn 8, 812, 14 địa phương tiến công địch ở Mỹ Chánh, Lương Mai, Vân Trình. Trước sức ép của ta, địch rút về An Lỗ, Hòn Vượn.
    Trước áp lực tiến công của ta từ các hướng, ngay tối 22 tháng 3, Bộ Tư lệnh tiền phương quân đoàn 1 ngụy vội vã rút về Đà Nẵng bằng máy bay trực thăng và lệnh cho các lực lượng còn lại tổ chức rút khỏi Huế. Đêm 23, địch ở Huế bắt đầu rút quân theo 3 cánh: Cánh 1 gồm lữ đoàn 147 thủy quân lục chiến, liên đoàn 14 biệt động quân, trung đoàn 5 thuộc sư đoàn 1, lữ đoàn 1 kỵ binh thiết giáp ra cửa Thuận An theo đường thủy vào Đà Nẵng; cánh 2 gồm trung đoàn 3 thuộc sư đoàn bộ binh 1, lữ đoàn 15 biệt động quân ra Cự Lại (nam cửa Thuận An 6km); cánh 3 gồm 2 trung đoàn 1 và 54 của sư đoàn bộ binh 1 ra cửa Tư Hiền theo đường thủy vào Đà Nẵng.
    Chấp hành chỉ thị của Bộ, Quân khu Trị Thiên và Quân đoàn 2 nhanh chóng phát triển tiến công tiêu diệt quân địch co cụm tại Huế từ 2 hướng: Bắc, Tây Nam và Nam Huế, đồng thời tổ chức lực lượng ngăn chặn không cho địch rút về Đà Nẵng.
    Trên hướng Nam Huế, từ đêm 22 tháng 3, sư đoàn 324 tiến công tiêu diệt quân địch ở Phú Hải, sau đó sử dụng trung đoàn 1 vượt qua phá Tam Giang tiến đánh quân địch ở Kẻ Sung, Cự Lại, chặn đường rút của địch ra cửa Tư Hiền; tiếp đó, đánh chiếm cảng Tân Mỹ và bờ nam cửa Thuận An. Trung đoàn 2 theo bờ tây phá Tam Giang tiến thẳng về đông Huế cùng trung đoàn 1 bịt chặt cửa Thuận An, tiến công cánh quân 1 của địch. Trung đoàn 3 cùng xe tăng phối hợp với trung đoàn 101 của sư đoàn 325 đánh chiếm quận lỵ Hương Điền, sau đó phát triển theo đường 1 tiến công đánh chiếm La Sơn, quận lỵ Hương Thủy. Bị đánh cả phía trước và phía sau, địch ở Phú Bài bỏ cả xe pháo chạy về cửa Thuận An. Trung đoàn 101 tiến vào An Cửu, trung đoàn 3 đánh thẳng vào nội đô, đúng 13 giờ ngày 25 tháng 3, ta cắm cờ lên đỉnh Phú Văn Lâu. Trung đoàn 18 đánh chiếm Phú Lộc, đến 11 giờ 40 phút ngày 26 tháng 3, đã chiếm được ga Thừa Lưu và truy kích về Thổ Sơn. Cũng trong thời gian này, ngày 24 tháng 3, tiểu đoàn 2 và tiểu đoàn 5 địa phương đã đến chốt ở cửa Tư Hiền, sáng ngày 26 trung đoàn 101 tiến đánh quân địch rút chạy về cửa Tư Hiền.
    Trên hướng Bắc Huế, phía cánh đông, tiểu đoàn 3 Quảng Trị cùng 1 đại đội xe tăng, 1 đại đội pháo binh tiến công đánh chiếm Thanh Hương, Đại Lộc, quận lỵ Hương Điền, sau đó vượt sông Mỹ Chánh đánh vào Phổ Trạch, Lương Mai, ngày 25 tháng 3, tiến đến cửa Thuận An. Ở cánh giữa, ngày 24, các tiểu đoàn 14, 812 Quảng Trị truy kích quân địch khi chúng rút bỏ Mỹ Chánh, tiến về Bao Vinh, ngã ba Sình. Phía cánh Tây, ngày 23, trung đoàn 4 cùng tiểu đoàn 8 Quảng Trị tiến đánh lữ đoàn 147 thủy quân lục chiến ở nam sông Bồ; sang ngày 24, địch phản công quyết liệt, nhưng bị ta đánh thiệt hại nặng phải rút. Ngày 25 tháng 3, trung đoàn 4 tiến xuống ngã ba Sình, tiểu đoàn 8 tiến xuống An Hòa, sau đó tiến vào đánh chiếm các mục tiêu quan trọng trong thành Huế.
    Trên hướng tây Huế - đường 12, trung đoàn 6 và trung đoàn 271 đến đêm 25 mới vượt sông vào Huế, ngày 26, tiến vào đánh chiếm các mục tiêu ở khu tam giác và đông thành Huế, phối hợp với bộ đội chủ lực bộ đội địa phương và du kích trong địa bàn tác chiến hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy diệt ác trừ gian giành quyền làm chủ.
    Như vậy đến ngày 26 tháng 3, ta đã giải phóng toàn bộ Thừa Thiên - Huế, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân dịch gồm sư đoàn bộ binh 1, lữ đoàn 147 thủy quân lục chiến, 2 liên đoàn biệt động quân (14, 15), lữ đoàn 1 kỵ binh thiết giáp và các tiểu đoàn pháo binh, bảo an, lực lượng dân vệ và phòng vệ dân sự cùng hệ thống ngụy quyền các cấp (chỉ có sở chỉ huy quân đoàn 1, sư đoàn 1, và bộ phận tàn quân khoảng 16.000 tên chạy thoát về Đà Nẵng). Thắng lợi của trận then chốt Thừa Thiên Huế đẩy quân ngụy suy sụp nhanh về tinh thần và tổ chức, tạo thế cho ta thực hiện trận then chốt quyết định kết thúc chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng.
    Được quyenlinh66 sửa chữa / chuyển vào 23:21 ngày 16/01/2006
  10. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Trận giải phóng Huế trong hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp
    Sáng 20-3, có tin do Trung đoàn kỹ thuật 75 vừa thu được: Hồi 13 giờ 30 phút ngày 19-3, Thiệu gửi cho Ngô Quang Trưởng bức điện nội dung như sau: "Vì có hẹp về phương tiện không - hải quân, chỉ cho phép yểm trợ được một enclave. Vậy hãy mener trì hoãn chiến về tuyến Hải Vân. Thế là địch đã quyết định bỏ Trị - Thiên - Huế để về giữ Đà Nẵng.
    Cục Tác chiến báo cáo: ngày 19-3, quân ta tiến công giải phóng thị xã và toàn bộ tỉnh Quảng Trị. Tuyến phòng thủ phía. bắc của địch bị phá vỡ một mảng lớn. Địch co về giữ phòng tuyến sông Mỹ Chánh. Sau khi trao đổi với các anh Hoàng Văn Thái .và Lê Trọng Tấn, tôi hạ quyết tâm mở trận tiến công lớn, tiêu diệt tập đoàn phòng ngự Thừa Thiên - Huế. Tôi chỉ thị cho Bộ Tổng tham mưu đôn đốc Quân khu Trị - Thiên gấp rút đưa lực lượng xuống đồng bằng, lệnh cho Quân đoàn II nhanh chóng cắt đứt đường số 1, không cho địch rút về co cụm ở Đà Nẵng.
    Quân khu Trị - Thiên và Quân đoàn II phải khẩn trương đánh chặn, chia cắt, tiêu diệt cho được toàn bộ Sư đoàn 1 ngụy và các lực lượng khác, thu toàn bộ trang bị của chúng, giải phóng hoàn toàn Trị - Thiên - Huế, chiếm lĩnh đèo Hải Vân. Tiểu đoàn 5 hải quân rải mìn và đưalực lượng xuống bịt cửa Thuận An. Phải bao vây đánh mạnh trên tất cả các hướng, không cho địch rút chạy.
    Ngày 22-3, anh Lê Tự Đồng, Chính ủy kiêm Tư lệnh Quân khu Trị - Thiên và anh Nguyễn Hữu An, Tư lệnh Quân đoan II báo cáo đã đánh thiệt hại nặng Sư đoàn 1, bao vây Huế. Đường số 1 đã bị cắt đứt giữa Huế và Đà Nắng. Hàng trăm xe cơ giới đang trên đường rút chạy về Đà Nẵng bị ùn lại. Pháo tầm xa của ta bắt đầu bắn phá sân bay Phú Bài. Quân địch không còn con đường nào khác là rút chạy ra biển theo hướng cửa Thuận An và cửa Tư Hìên .
    Quân ủy Trung ương điện tối khẩn cho anh Nguyễn Hữu An, tư lệnh Quân đoàn II: "Quân đoàn điều ngay lực lượng ra bịt cửa Thuận Ký tên: Văn".
    Mệnh lệnh được thi hành tức khắc. Trung đoàn 1 thuộc Sư đoàn 324 cấp tốc hành quân ra chặn địch. Sự xuất hiện của quân chủ lực ở đây có tác dụng rất lớn về chiến thuật cũng như về tâm lý. Hàng chục ngàn quân ngụy cùng với hàng trăm xe tăng, xe bọc thép nhanh chóng bị tiêu diệt và tan rã. Cảnh thảm bại trên đường số 7 ở Tây Nguyên, một lần nữa lại diễn ra trên đường từ Huế xuống cửa Thuận An. Thành phố Huế trở nên hỗn loạn. Đã xảy ra nhiều vụ cướp phá do tàn quân ngụy chạy loạn gây ra. Triệu chứng tan rã lớn trong lực lượng địch ở Thừa Thiên - Huế xuất hiện.
    Báo cáo từ Quân khu Trị - Thiên và Quân đoàn II đẩy các mũi tên đỏ trên bản đồ áp sát Huế. Pháo tầm xa của quân ta đã rót đạn vào sân bay Phú Bài và cửa Thuận An. Các lực lượng vũ trang Quân khu Trị - Thiên và bộ đội Quân đoàn II từ ba hướng đồng loạt tiến công, vượt qua các tuyến phòng thủ của địch, hình thành nhiều mũi bao vây Huế. Ở hướng nam, Quân đoàn II kịp thời chuyển hướng tiến công, nhanh chóng thọc sâu cắt đường số 1, đánh chiếm quận ly Phú Lộc, triệt đường rút lui của địch về Đà Nẵng. Sư đoàn 1, sư đoàn mạnh nhất của.quân ngụy, bị đánh thiệt hại nặng. Từ hướng bắc, quân ta tiến về '' cửa Thuận An. Một lực lượng địa phương tiến ra chặn cửa Tư Hiền. Những cánh quân khác của ta, từ hướng tây qua đường số 1 , vượt sông Tả Trạch, nhanh chóng bao vây địch.
    Đêm 24-3, pháo binh ta bắn mạnh vào Sở Chỉ huy tiền phương Quân đoàn 1 ngụy ở Mang Cá, bắn chặn mãnh liệt cửa Thuận An và cửa Tư Hiền. Sáng 25-3, quân ta tiến công khu cảng Tân Mỹ - Thuận An, tiêu diệt và .đánh tan rã toàn bộ các lực lượng địch rút chạy đang dồn tắc ở đây. Các mũi tiến công khác của quân chủ lực, quân địa phương tiến vào thành phố: Phối hợp với quần chúng nổi dậy, ngày 26-3 quân ta giải phóng hoàn toàn cố đô Huế. Lá cờ cách mạng nửa đỏ nửa xanh với ngôi sao vàng năm cánh tung bay trên đỉnh cột cờ trước Ngọ Môn.
    Thắng lợi nhanh, gọn của trận Trị - Thiên .- Huế, trận then chốt tiêu diệt và làm tan rã Sư đoàn 1 từng được coi là sư đoàn thiện chiến của quân ngụy, giải phóng cố đô là một chiến thắng vang dội, giáng một đòn nặng vào âm mưu co cụm chiến lược của địch ở vùng ven biển miền Trung, uy hiếp nghiêm trọng Đà Nẵng, đẩy quân ngụy vào thế nguy khốn, suy sụp không gì cứu vãn nổi.
    Quân ủy Trung ương. gửi điện khen bộ đội Quân khu Trị - Thiên và Quân đoàn II:
    ..."Việc đánh chiếm và giải, phóng thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên .là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược và chính trị rất lớn. Chiến công đó làm cho nhân dân cả nước nức lòng phấn khởi, làm cho địch suy yếu thêm một bước mới hết sức nghiêm trọng. Các đồng chí đã góp phần làm rạng rỡ truyền thống đấu tranh anh dũng của quân và dân cả nước ta" . . .

Chia sẻ trang này