1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những dữ kiện lịch sử của chiến dịch mùa xuân 1975

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi quyenlinh66, 04/01/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Thừa thiên - Huế trong những ngày tháng 3/1975 rực lửa
    (Nguồn: Trích hồi ký của thiếu tướng Phan Hàm)
    Khi được Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương phổ biến cho biết quyết tâm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam trong hai năm 1975-1976, và Quân khu Trị Thiên là một trong những hướng rất quan trọng, có nhiệm vụ tiêu diệt một bộ phận quan trọng lực lượng tinh nhuệ của đối phương, Bộ tư lệnh Quân khu Trị Thiên cũng như Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 vừa mừng lại vừa lo. Năm 1975, Trị Thiên nhất định phải tạo ra cho được một bước chuyển biến cơ bản, để tạo điều kiện cho năm 1976 dứt điểm.
    Những vấn đề rất mới phải đặt ra là: tiêu diệt 4-5 trung đoàn, trong đó có sư đoàn 1 bộ binh của quân đội ngụy, nhằm làm thay đổi cơ bản so sánh lực lượng giữa ta và địch; chia cắt từng thời kỳ, tiến tới chia cắt lâu dài đoạn đường từ nam Phú Bài đến đèo Hải Vân; khống chế các cửa biển Thuận An và Tư Hiền; giải phóng Huế. Lại còn phải chuẩn bị đưa hàng trăm đội công tác xuống đồng bằng giành quyền làm chủ thêm hàng chục vạn đân, đưa lên tranh chấp vài chục vạn; diệt vài ba quận lỵ, kìm diệt 2 sư đoàn tổng dự bị của quân đội ngụy là sư đoàn dù và thuỷ quân lục chiến; để tạo điều kiện thuận lợi cho các chiến trường khác trong toàn miền hoàn thành nhiệm vụ.
    Điều đáng lo nhất là thời gian chuẩn bị lại quá ít. Trước đây, trong tháng 10 năm 1974, Bộ Tổng tham mưu đã có khêu gợi theo tinh thần lúc bấy giờ-là nên chọn hướng đường 12, tây Huế, làm hướng chính của chiến dịch tổng hợp mùa Xuân 1975, giành chiến trường nam Huế cho đợt quyết định sau này khi có thời cơ lớn xuất hiện. Công tác chuẩn bị chiến trường trên hướng tây Huế giản đơn hơn, vật chất sẵn sàng hơn. Phương án này rất phù hợp với khả năng hiện tại của chiến trường, vì đang giữa mùa mưa to gió lớn, muốn làm gì quy mô hơn cũng khó.
    Bước sang tháng 2 năm 1975, bỗng có sự thay đổi đột ngột: hướng tiến công chủ yếu của chiến dịch là nam Huế, còn hướng Quảng Trị và đường 12 chỉ là những hướng phối hợp, nghi binh. Thời gian còn lại, vẹn chỉ có 35 ngày. Hệ thống đường chiến dịch chưa hoàn thành: đường vòng phía tây đèo Hải Vân còn phải làm hơn một chục cây số nữa mới đưa được pháo lớn vào khống chế sân bay và cảng Đà Nẵng. Mặc dù ngoài lực lượng công binh ra, Quân khu, quân đoàn đã huy động tất cả mọi lực lượng: pháo binh, cao xạ, xe tăng, bộ binh v.v? đội mưa gió, làm không ngơi tay, nhưng khối lượng công việc còn lại vẫn rất lớn. Về vật chất, tuy vận chuyển suốt cả mùa mưa, vẫn chỉ mới đạt được 4 vạn tấn, bằng 20 phần trăm yêu cầu. Bản thân các lực lượng vũ trang, cũng có những vấn đề cần được giải quyết: các trung đoàn, tiểu đoàn của Quân khu, suốt mấy tháng trời quần nhau với địch, kể cả trong mùa mưa, chưa được bổ sung quân số; chưa được huấn luyện. Quân đoàn 2 ra quân lần này bị thiếu hẳn sư đoàn 304. Đơn vị này đang cài thế với địch ở mặt trận Thượng Đức; và bản thân mỗi sư đoàn còn lại, cũng chỉ có 2 trung đoàn. Cơ quan hậu cần của Quân đoàn thì chưa được kiện toàn để bảo đảm cho những chiến dịch lớn, trong điều kiện cơ động nhiều và xa.
    Ngày 8 tháng 3, trước khi nam Tây Nguyên nổ súng một ngày, các trung đoàn của Quân khu và Quân đoàn 2 đồng loạt tiến công trên hai hướng: phía bắc là Phong Sơn, phía nam là đường 14. Một bộ phận lực lượng tập trung của Quảng Trị tiến công vào quận lỵ Hải Lăng. Địch hoảng sợ, rút bỏ 11 điểm chốt. Trên đường 14, đúng 5 giờ 45 phút, sư đoàn 324 nổ súng tiến công. Sau 30 phút đánh dồn dập, pháo chuyển làn vào sân bay Phú Bài và các trận địa pháo của địch ở La Sơn, Ấp 5.
    Cuộc chiến đẫu diễn ra gay go ngay từ ngày đầu. Đơn vị đảm nhiệm hướng chủ yếu đến chậm, chiếm lĩnh rất khó khăn. Tiểu đoàn 6 ba lần xung phong đều bị đánh bật, phần thì bị pháo bắn chặn, phần thì bị hoả lực súng máy tạt sườn. Ở cao điểm 309, hai tiểu đoàn địch chống trả quyết liệt. Thương vong ngày càng nhiều. Trên hướng thứ yếu, sau một giờ chiến đấu ta dã chiếm được các cao điểm 75, 76 ven theo đường 14. Ngày 10 tháng 3 sư đoàn tổ chức một bộ phận trinh sát tập kích vào cụm xe tăng ở núi Nghệ, bắn 4 phát hoả tiễn, diệt luôn 4 xe. Đến 14 giờ cùng ngày tiểu đoàn 4, trung đoàn 2 đột kích vào cao điểm 204. Bị đánh bất ngờ trong lúc chúng đang căn cơm, nên chỉ sau 45 phút chiến đấu ta dứt điểm. Trong lúc đó, trung đoàn 3 ở Thượng Đức mới trở về đội hình của sư đoàn đã nhanh chóng triển khai đội hình tiến công và làm chủ cao điểm 273.
    Chiến sự ở cao điểm 303 ngày càng trở nên ác liệt: địch cố giữ, chúng tăng cường thêm trên hướng này 2 tiểu đoàn 61 và 94 của lữ đoàn 14, tập trung phi cơ ném bom có ngày lên đến 170 lần chiếc. Suốt cả một tuần lễ địch giành đi giật lại với ta từng cao điểm, kiên quyết ngăn chặn ta trên tuyến núi Bông, núi Nghệ ở tây nam Phú Bài.
    Mặt trận chủ trương: sư đoàn 324 phải giữ vững các khu vực đã chiếm được, sư đoàn 325 thì gấp rút chuẩn bị để tiến công vào khu vực Kim Sắc, cao điểm 560 để phối hợp, đồng thời bước đầu thực hiện việc chia cắt quốc lộ 1. Vì công tác chuẩn bị có gặp trở ngại, nên thời gian nổ súng phải lùi lại mấy hôm. Địch như phát hiện được lực lượng của ta, phán đoán hướng tiến công chủ yếu của chiến dịch, nên tập trung các trung đoàn 1, liên đoàn 15 biệt động quân và một tiểu đoàn của trung đoàn 51 liên tục phản kích.
    Ngày 12 tháng 3, Quân uỷ Trung ương chỉ thị cho các chiến trường: ?oĐịch đang có bước sa sút mới sau thắng lợi của ta ở Tây Nguyên. Ta có khả năng giành thắng lợi to lớn hơn với nhịp độ nhanh hơn dự kiến. Cần phải quán triệt tinh thần khẩn trương, mạnh bạo, kịp thời lợi dụng điều kiện mới, giành thắng lợi to lớn hơn nữa. Tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch trong trong khi chúng rút chạy??.
    Được sự chỉ đạo kịp thời của trên, Thường vụ Khu uỷ và Quân khu uỷ đã họp, đánh giá tình hình, khẳng định những thắng lợi bước đầu và đề ra những chỉ thị bổ sung cần thiết, cho các đơn vị. Ngày 13 tháng 3, trung đoàn 6 của tính bắt đầu tiến công trên đường 12, chiếm Chúc mao, diệt địch ở cao điểm 300, uy hiếp Bình Điền, Động Trạch. Phòng tuyến giữa, ở ngay sát nách Huế có nguy cơ bị chọc thủng. Ngày 15 tháng 3, địch rút bỏ một khu vực lớn từ Đèo Đông đến cao điểm 551.
    Ngày 17 tháng 3, Quân uỷ Trung ương chỉ thị cho Quân khu và Quân đoàn cụ thể thêm: ?oPhải táo bạo đưa lực lượng vượt qua tuyến phòng thủ bên ngoài, thọc xuống cắt đứt đường số 1, đánh chiếm Phú Lộc, chuẩn bị hoả lực đánh vào Huế và đôn đốc đánh sớm hơn dự kiến?? (Điện số 517, ngày 17 tháng 3).
    Thường vụ Khu uỷ và Thường vụ Đảng uỷ mặt trận lại họp và nhận định: thời cơ thuận lợi mới đã xuất hiện, nên đã hạ quyết tâm, khẩn trương, mạnh bạo tiến công, dùng lực lượng tại chỗ đánh mạnh vào phòng tuyến địch, kết hợp với thọc sâu, chia cắt, phá thế co cụm, giành thắng lợi lớn ở đồng bằng, tiến tới bao vây, cô lập Huế.
    Thực hiện các chỉ thị, mệnh lệnh cnói trên, trong ngày hôm ấy Bộ tư lệnh Quân khu dùng toàn bộ lực lượng của tỉnh Quảng Trị đang từ trong thế phòng ngự phía bắc, chuyển sang tiến công trên hai hướng: hướng đông, từ Thành Hội theo trục đường 86; hướng tây từ Tích Tường, Như Lệ, theo đường 1, tiến vào. Các lực lượng đã rút lên vùng giáp ranh để củng cố, phải lập tức quay trở lại đồng bằng, đánh địch, phát động quần chúng nổi dậy. Phía bắc Huế, trung đoàn 4 bộ binh, thọc ra cắt đường quốc lộ 1, hướng nam Huế thì bỏ khu vực đường 14 và các cao điểm đang giành đi giật lại với địch, mà chuyển xuống cắt giao thông ở khu vực Lương Điền, Đá Bạc.
    3 giờ sáng ngày 19 tháng 3 cờ Mặt trận đã cắm trên Thành cổ Quảng Trị, và đến 15 giờ hôm áy, pháo lớn đã bắt đầu giội bão lửa xuống khu vực Tây Lộc, Mang Cá, trong thành phố Huế. Ngày 20 tháng3, Quân uỷ Trung ương chỉ thị thêm cho Quân đoàn: Ngoài Thừa Thiên-Huế, Thiệu còn phải bỏ nhiều vùng khác nữa, cho nên phải táo bạo, khẩn trương, kiên quyết tiêu diệt cho bằng được sư đoàn 1 bộ binh, giải phóng thành phố Huế, bằng mọi cách, nhất định không để cho địch rút khỏi Thừa Thiên mà không bị tiêu diệt? (Điện số 709, ngày 20 tháng 3 QUTW).
    Cũng trong ngày này, thường vụ khu uỷ hạ quyết tâm tranh thủ thời cơ, dốc toàn lực, giải phóng Thừa Thiên-Huế bằng một cuộc tổng tiến công tổng hợp toàn diện, lấy chia cắt và bao vây chiến dịch kết hợp với các mũi thọc sâu của chủ lực làm biện pháp then chốt; đồng thời phải sử dụng lực lượng vũ trang địa phương tiếp tục đánh địch, hỗ trợ và vận động quần chúng nổi dậy, giành dân, đưa chiến dịch đến toàn thắng.
    Theo quyết định của Bộ, ngày 21 tháng 3 là ngày bắt đầu đợt 2 của chiến dịch mùa xuân của Trị Thiên, đồng thời cũng là ngày bắt đầu chiến dịch Huế-Đà Nẵng, trên khu vực phía bắc.
    Chấp hành mệnh lệnh của Bộ, ngày 21 tháng 3, trung đoàn 18, sư đoàn 325 nổ súng tiến công. Sau chín giờ chiến đấu, chiếm được các cao điểm 560, 494, 520, diệt gọn tiểu đoàn 61, trung đoàn 101 chiều hôm ấy cũng tiến công làm chủ hoàn toàn Kim Sắc. Nhân dân các xã bắc Phú Gia nổi dậy khởi nghĩa, gọi hàng bọn bảo an dân vệ. Trên hướng sư đoàn 324, sau ba giờ chiến đấu, trung đoàn 1 chiếm được núi Bông. Địch dùng xe tăng phản kích đánh bật ta ra. Trung đoàn 2 chiếm được các cứ điểm 224, nhưng lại không chiếm được mỏm tây cao điểm 303. Thấy rõ địch đang cố sống cố chết giữ cho được con đường rút lui, chiều hôm đó, Bộ Tổng tham mưu ra lệnh cho Quân đoàn 2 bỏ ngay khu vực núi Bông, núi Nghệ, chỉ để lại một bộ phận nhỏ kìm chân địch, còn thì tập trung toàn bộ cả hai sư đoàn để cắt đườn, đồng thời thọc hẳn xuống đồng bằng, khoá chặt cửa Thuận An, đánh mạnh vào Phú Bài, áp sát Huế. Thực hiện kế hoạch này, Quân đoàn 2 nhanh chóng lệnh cho sư đoàn 325, đêm 21 xuống đường quốc lộ và sáng hôm sau, đánh chiếm một số vị trí quan trọng án ngữ trên đường Lương Điền-Phú Lộc. Trung đoàn 101 của sư đoàn thì theo đường quốc lộ, đánh địch ở Phú Bài, nam Huế 15 kilômét. Trưa ngày 25 tháng 3, trong lúc đang áp sát thành phố Huế, khi còn cách hai cây số thì được tin địch rút chạy. Nhân dân nô nức đổ ra đường, đón mừng, dùng xe của mình giúp đơn vị này nhanh chóng tiến vào thành phố.
    Sư đoàn 324, không đột phá tiền duyên phòng ngự vòng ngoài địch, mà xốc lại đội hình, thọc xuống đồng bằng, phối hợp với hai tiểu đoàn địa phương, tiến chiếm Phú Vang, vượt qua phá Tam Giang, chiếm Vĩnh Lộc, nhanh chóng hình thành thế vu hồi từ phía đông. Ngày 25, đã vây chặt, diệt và làm tan rã toàn bộ địch ở cửa Thuận An. Trung đoàn 3 của sư đoàn, được xe tăng chi viện, đánh thẳng vào trung tâm thành phố, đến 12 giờ chiều, đến cầu Tràng Tiền, rồi phát triển vòng lên phía bắc, chiếm Mang Cá.
    Các lực lượng của tỉnh phối hợp tiến công trên hướng bắc và hướng tây. Cuộc rút lui bất ngờ của liên đoàn biệt động quân 914 trên tuyến Mỹ Chánh đã gây tâm trạng hỗn loạn, kinh hoàng trong hàng ngũ địch ở khu vực này, mở đầu cho cuộc tổng tháo chạy. Ngày 23 tháng 3, bộ đội tỉnh cùng các đơn vị vũ trang công tác ở hướng đông, tiến công quận lỵ Hướng Điền, rồi phát triển về cửa Thuận An, phối hợp với lực lượng từ phía nam đánh ra. Tiểu đoàn 8 của Quảng Trị thì đánh thẳng theo đường quốc lộ số 1, đến 10 giờ 30 ngày 25 tháng 3 thì vượt qua cầu An Hoà, vào thành phố.
    Trên hướng tây, trung đoàn 4 tiến công vào lữ đoàn 147 lính thuỷ đánh bộ, chiếm lĩnh phòng tuyến nam Sông Bồ suốt ngày 24 tháng 3 đánh phản kích rồi phát triển về Huế; còn trên đường 12, trung đoàn 6 và trung đoàn 271 chiếm Đình Môn, Kim Ngọc, nhanh chóng vượt sông Hương, và sáng sớm ngày 26 tháng 3 tiến vào thành phố Huế.
    Sau 20 ngày chiến đấu, gần như toàn bộ lực lượng vũ trang của địch trên chiến trường Trị Thiên bị loại khỏi vòng chiến đấu: 2 vạn tên bị bắt tại trận, 1 vạn tên đầu hàng, còn phần lớn thì rã ngũ tại chỗ. Chỉ riêng về mặt trận nổi dậy, địa phương đã loại trên 4.000 tên địch, thu 3.000 súng các loại, phá 40 xe quân sự, bắn cháy 1 tàu, diệt 30 phân chi khu, phá 33 tề xã, 186 ban tề ấp, 227 toán phòng vệ dân sự, làm tan ngũ gần 4.000 quân chủ lực, trên 1.000 bảo an, gần 3.000 dân vệ.
  2. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Quyết định đặc biệt của Tổng tư lệnh - Phải đánh Đà Nẵng chỉ trong 3 ngày.
    (Nguồn: trích Hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)
    Ngày 24-3-1975, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp.
    Điểm lại tình hình từ cuộc họp ngày 18-3, hội nghị mừng thấy tình hình các mặt trận đang phát triển tốt. Thay mặt Bộ Tổng tham mưu, anh Lê Trọng Tấn báo cáo: ở chiến trường Trì - Thiên ta sẽ dứt điểm nhanh. Quân địch đang rút chạy về có cụm ở Đà Nẵng. Trong tháng 4, ta cần nhanh chóng tiến công Đà Nẵng, diệt từ hai đến ba sư đoàn địch, không cho chúng thực hiện ý đồ rút về tăng cường cho Sài Gòn.
    Anh Tấn báo cáo xong, tôi (Đại tướng Võ Nguyên Giáp) phát biểu về tình hình Đà Nẵng và nêu ra các bước tiếp theo. Tôi nói:
    - Theo tin nhận được, địch kêu gọi "tử thủ" Đà Nẵng, chúng có ý định thực hiện cơ cụm lớn, tăng cường căn cứ quân sự liên hợp này hòng ngăn chặn, làm chậm bước tiến của quân ta, tranh thủ thời gian củng cố các tuyến phía nam của chúng, trông chờ sự can thiệp của Mỹ. Thế nhưng ngay từ bây giờ, ta cần dự kiến trước những chuyển biến mới, địch có thể rút chạy khỏi Đà Nẵng. Nếu chúng thoát được vào phía nam thì cuộc Tổng tiến công của ta ở chiến trường trọng điểm sẽ gặp khó khăn. Vậy ta cần nhanh chóng đánh chiếm Đà Nẵng, tiêu diệt sinh lực của địch ở đây, tạo thuận lợi phát triển tiến công trong các bước sau.
    - Chúng có thể "tử thủ", cũng có thể rút, rút nhanh hay rút chậm, nhưng ta thì phải chuẩn bị đánh trong tình huống địch rút nhanh, nhất thiết phải đánh nhanh. Không chờ giải phóng xong Huế, mà ngay từ bây giờ, phải bắt đầu mở cuộc tiến công vào Đà Nẵng. Nhanh chóng đánh chiếm các điểm cao, cho xe tăng thọc sâu ngay, tận dụng tối đa khả năng của pháo binh để tiến công Đà Nẵng.
    Thay mặt Quân ủy Trung ương, tôi bảo đảm bộ đội ta nhất định tiêu diệt căn cứ quân sự liên hợp Đà Nẵng, và đề nghị mở Mặt trận Quảng Đà, cử Bộ Tư lệnh mặt trận đo đồng chí Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh, đồng chí Chu Huy Mân làm Chính ủy. Đề nghị trên được Hội. nghị nhất trí tán thành.

    Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị, ngày 26-3, Bộ Tổng tư lệnh cử anh Giáp Văn Cương làm phái viên của Bộ vào hướng Đà Nẵng trước để chuẩn bị. Tôi triệu tập các đồng chí Lê Trọng Tấn, Tư lệnh Mặt trận Quảng Đà vừa được chỉ định, Nguyễn Bá Phát, Tư lệnh Hải quân, Cao Văn Khánh, Phó Tổng tham mưu trưởng, Phan Bình, Cục trường Quân báo, Lê Hữu Đức, Cục trưởng Tác chiến và một số đồng chí khác bàn kế hoạch tiến công Đà Nẵng.
    Vốn là một cán bộ chỉ huy giàu kinh nghiệm, anh Tấn đã chuẩn bị sẵn một phương án tác chiến.
    Vào cuộc họp, tôi hỏi:
    - Đánh Đà Nẵng, có thể diễn ra một trong hai tình huống: một là địch rút. chạy, hai là chúng co cụm, tử thủ. Vậy ta nên đánh như thế nào?
    Anh Tấn trả lời :
    - Hiện nay, địch bố trí phòng ngự chuẩn bị tử thủ ở đây Ta phải tổ chức hiệp đồng binh chủng để tiến công, bảo đảm chắc tháng. Cần có năm ngày để họp đảng ủy tập kết bộ đội và tổ chức hiệp đồng binh chủng, chuẩn bị chiến đấu.
    Anh Tấn trải lên bàn một tấm bản đồ lớn, trên đó đã lên kế hoạch tiến công theo phương án chuẩn bị năm ngày, với những mũi tên rất to màu đỏ thể hiện các hướng tiến công, những trận địa hỏa lực được khoanh từng cụm hướng vào các mục tiêu quân sự trong thành phố và vùng lân cận.
    Trong khi mọi người đứng quanh bản đồ sôi nổi mạn đàm, trao đổi, tôi lại suy nghĩ khác hẳn. Địch kêu gọi tử thủ, nhưng tình hình có thể diễn biến đột ngột, khả năng địch rút vẫn tồn tại. Vậy phải có phương án đánh thật nhanh, thực hiện đúng phương châm "khẩn trương, táo bạo, bất ngờ".
    Tôi quay sang anh Tống Trần Thuật, Cục phó Cục Quân báo.
    - Nếu địch rút Đà Nẵng thì nhanh nhất có thể rút trong mấy ngày ? Các đồng chí nghiên cứu kỹ đêm nay, sáng mai báo cáo sớm.
    6 giờ sáng ngày 27/3, mọi người đã có mặt tại Sở Chỉ huy. .
    Anh Thuật báo cáo:
    - Địch có thể rút nhanh nhất là trong ba ngày.
    Còn anh Nguyễn Thanh, Trưởng phòng nghiên cứu địch tình, lại nói: .
    - Độ bốn, năm ngày ạ?
    Không thể đồng ý với đề nghị của anh Tấn chuẩn bị chiến đấu năm ngày cũng như cách tính toán của anh Thanh, tôi phân tích ngắn, gọn nêu rõ trong tình huống địch "tử thử'''', ta có thể chuẩn bị năm ngày, bảy ngày hoặc hơn nữa. Nhưng phải dự kiến tình hình đột biến, cần có kế hoạch đánh thật nhanh. Tôi chỉ thị làm kế hoạch đánh địch theo tình huống chúng rút trong ba ngày.
    Anh Tấn vẫn giữ ý kiến, và trình bày:
    - Đánh như vậy không thể chuẩn bị kịp.
    Tôi nói, giọng có phần gay gắt:
    - Tư lệnh mặt trận là anh nên tôi để anh ra lệnh. Nếu là người khác, thì tôi ra lệnh: Đánh Đà Nẵng theo phương án chuẩn bị ba ngày. Nếu chuẩn bị năm ngày, địch rút mất cả thì sao? Huế đã giải phóng rồi. Mặc dầu pháo binh và hải quân địch có thể bắn phá, cứ cho bộ đội hành quân theo đường số 1 tiến công thẳng vào Đà Nẵng. Từ phía nam cũng theo đường số 1 tiến công lên. Không họp đảng ủy, chỉ trao đổi bằng điện.
    Đây là lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất tôi tỏ ra không bằng lòng với anh Lê Trọng Tấn, một trong những tư lệnh xuất sắc nhất của quân đội ta mà tôi luôn quý mến.
    Anh Tấn không phát biểu thêm, nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh. Sau này, anh đã đến gặp tôi, thân tình, cởi mở nhắc lại cuộc tranh cãi về phương án năm ngày và phương án ba ngày, rồi vui vẻ nhận khuyết điểm. Đúng là một con người trung thực, thẳng thắn, cương trực, đáng quý biết bao.
    Được quyenlinh66 sửa chữa / chuyển vào 19:46 ngày 18/01/2006
  3. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Giải phóng Đà Nẵng
    (Nguồn: Theo Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước )
    Bị mất Trị Thiên - Huế, Quảng Ngãi và phần lớn tỉnh Quảng Nam, căn cứ Đà Nẵng, căn cứ quân sự liên hợp hiện đại và mạnh vào bậc nhất của địch hoàn toàn bị cô lập.
    Lúc này lực lượng địch ở Đà Nẵng khoảng hơn 7 vạn tên, vũ khí trang bị còn mạnh, nòng cốt là sư đoàn 3 và sư đoàn lính thủy đánh bộ; do Trung tướng Ngô Quang Trưởng, tư lệnh quân đoàn 1 ngụy chỉ huy. Sư đoàn thủy quân lục chiến bố trí lữ 258 ở bắc đèo Hải Vân - Liên Chiểu; lữ 369 ở Đại Lộc, Đông Lâm, bộ tư lệnh sư đoàn và tàn quân lữ 147 ở Nước Mặn. Sư đoàn 3 bộ binh bố trí: trung đoàn 56 ở Vĩnh Diện, trung đoàn 57 ở Đại Lộc, trung đoàn 2 ở Ninh Quế. Tàn quân của sư đoàn 1 ở trong thành phố, tàn quân của sư đoàn 2 ở Cù Lao Ré, tàn quân của liên đoàn 12 biệt động quân ở cầu Bà Rén. Ngoài ra còn hai thiết đoàn 11 và 20, 7 tiểu đoàn pháo, sư đoàn 1 không quân (279 chiếc trong đó có 96 máy bay chiến đấu), 15 tiểu đoàn bảo an, 240 trung đội dân vệ, 24.000 phòng vệ dân sự. Tinh thần của địch hết sức hoang mang nhưng vẫn hô ?otử thủ Đà Nẵng? và tính toán rằng nếu ta muốn tiến công Đà Nẵng thì phải chuẩn bị ít nhất 1 tháng.
    Ngày 21 tháng 3, lữ đoàn bộ binh 52 và trung đoàn 36 chặn đánh quân viện của địch ở tây Tam Kỳ, diệt hai tiểu đoàn và sở chỉ huy trung đoàn 5 thuộc sư đoàn 2 ngụy, tại núi Vàng, Dương Khế, Bãi Thân, Tân Lợi, Chào Gò, Khánh Thọ. Sáng ngày 24 tháng 3, sư đoàn bộ binh 2 bắt đầu tiến công tuyến phòng ngự vững chắc của sư đoàn 2 và lữ đoàn 12 biệt động quân ngụy ở thị xã Tam Kỳ. Trung đoàn 1 được tăng cường tiểu đoàn 8 trung đoàn 31, tiểu đoàn 5 trung đoàn 38 và 10 xe tăng tiến công trên hướng chủ yếu, đột phá vào tuyến phòng ngự của trung đoàn 4 và 1 tiểu đoàn ngụy từ Suối Đá - bắc sông Tam Kỳ. Trung đoàn 38 (thiếu) tiến công vào hai tiểu đoàn 37 và 39 thuộc liên đoàn 12 biệt động quân ở tây thị xã. Tiểu đoàn 90 luồn sâu áp sát ngã ba Trường Xuân để phối hợp nhanh chóng tiến công các mục tiêu trong thị xã. 5 giờ 30, ta nổ súng, đến 10 giờ 30, ta làm chủ hoàn toàn thị xã Tam Kỳ. Ở phía nam, trung đoàn 36 đánh chiếm cầu Bà Bầu, sau đó phát triển xuống An Xuân giải phóng quận lỵ Lý Tín. Phía bắc, trung đoàn 38 đánh cắt đường 1 ở Chiên Đàng. Phía đông, hai tiểu đoàn 70 và 72 cùng lực lượng vũ trang huyện Tam Kỳ hỗ trợ nhân dân nổi dậy giải phóng các xã ven biển.
    Trước sự phát triển nhanh chóng của chiến trường, ngày 24 tháng 3, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở cuộc tiến công vào Đà Nẵng với tư tưởng chỉ đạo ?okịp thời nhất, nhanh chóng nhất, táo bạo nhất, bất ngờ nhất và chắc thắng?. Do Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến dịch chưa kịp hoàn chỉnh (hai đồng chí Tư lệnh và Chính ủy chỉ trao đổi thống nhất với nhau qua điện đài) nên Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp điều hành trận đánh lớn có tầm quan trọng chiến lược này. Quân đoàn 2 và Quân khu 5 được lệnh tập trung lực lượng tiến công Đà Nẵng theo phương án địch ở tư thế rút chạy.
    Ở Quảng Ngãi, trong ngày 24, tiểu đoàn 6 (lữ đoàn 52), tiểu đoàn 405, 408 đặc công, tiểu đoàn 7 địa phương được sự chi viện của xe tăng, pháo binh đã đánh chiếm các mục tiêu quan trọng ở ngoại vi Quảng Ngãi, bịt cửa sông Cổ Lũy. Trung đoàn 94 cùng lực lượng vũ trang địa phương tiến công liên đoàn 11 biệt động quân ở bắc Tà Khúc, chiếm núi Võ, cầu Ô Sông, cầu Nước Mặn, cắt đường 1 đoạn Tư Nghĩa - Mộ Đức, chiếm núi Võng, pháo kích địch ở Gò Nội. Tiểu đoàn 20 cùng lực lượng vũ trang địa phương đánh chiếm quận lỵ Nghĩa Hành. Quân và dân hai huyện Mộ Đức và Đức Phổ đánh tan hai tiểu đoàn bảo an và một bộ phận hậu cần của trung đoàn 4 ngụy, giải phóng quận lỵ vào sáng 25. Tiểu đoàn 81 và đại đội 95 Bình Sơn hỗ trợ nhân dân nổi dậy làm chủ quận lỵ Bình Sơn. Địch ở Quảng Ngãi hoảng loạn rút về Chu Lai, bị trung đoàn 94 cùng lực lượng vũ trang Quảng Ngãi chặn đánh quyết liệt, diệt và bắt hơn 4.000 tên. Sáng ngày 26 tháng 3, trung đoàn 36 ở Lý Tín dùng pháo 85mm bắn vào căn cứ Chu Lai, địch rút khỏi đây, một bộ phận lữ đoàn 52 vào chiếm căn cứ này.
    Đến ngày 26 tháng 3, ở Nam Ngãi ta đã tiêu diệt và đánh tan sư đoàn 2, 2 liên đoàn biệt động quân, các đơn vị thiết giáp, pháo binh, cùng lực lượng địa phương quân của địch, giải phóng tỉnh Quảng Ngãi và phần lớn tỉnh Quảng Nam.
    Sáng ngày 28 tháng 3, pháo lớn của Quân đoàn 2 ở đèo Mũi Trâu bắt đầu bắn vào sân bay ngụy, sân bay Nước Mặn và bán đảo Sơn Trà. Pháo của Quân khu 5 bắn vào Hòn Bằng, Trà Kiệu, Vĩnh Điện. Bộ binh, xe tăng ta từ ba hướng bắc, tây nam và nam tiến công mạnh mẽ quân địch trên đường, thần tốc tiến về hướng Đà Nẵng.
    Trên hướng bắc, ngày 28, trung đoàn 18 sư đoàn 325 chiếm ga Lăng Cô và đánh bại các đợt phản kích của địch. 5 giờ ngày 29, trung đoàn được tăng cường 1 đại đội xe bọc thép PT85 mở đợt tiến công quân địch tại đèo Hải Vân. Cuộc chiến đấu ở đây diễn ra rất ác liệt. Trung đoàn dùng hỏa lực xe tăng bắn áp đảo địch và tổ chức một mũi bộ binh vu hồi vào bên sườn đánh tan quân địch tại đây. Khoảng 8 giờ, trung đoàn lên đến đỉnh đèo, sau đó chiếm kho xăng Liên Chiểu ở chân đèo, rồi vượt cầu Trịnh Minh Thế, đánh thẳng ra bán đảo Sơn Trà. 13 giờ 30, trung đoàn làm chủ quân cảng ngụy ở bán đảo Sơn Trà.
    Trên hướng tây bắc, tối 28, trung đoàn 9 thuộc sư đoàn 304 cùng 1 tiểu đoàn xe tăng hành quân bằng cơ giới chuẩn bị đánh địch ở Đá Đen thì được tin chúng đã rút, trung đoàn lập tức chuyển sang hành tiến tiến công địch và đã lần lượt đánh chiếm Phước Tượng, Hòa Khánh, sở chỉ huy sư đoàn 3 ngụy. Sau đó trung đoàn đưa một bộ phận vào giữ một số mục tiêu quan trọng trong thành phố, số còn lại cùng tiểu đoàn xe tăng đánh sang bán đảo Sơn Trà với trung đoàn 18.
    Trên hướng nam và đông nam, từ 9 giờ đến 10 giờ ngày 28, trung đoàn 38 thuộc sư đoàn 2 cùng trung đoàn 96 địa phương đánh chiếm các khu vực: Bà Rén: quận lỵ Duy Xuyên, thị trấn Nam Phước, đường 14. Địch dùng máy bay ném bom sập cầu Bà Rén, Câu Lâu để ngăn chặn ta. Đảng bộ và nhân dân địa phương đã huy động các phương tiện chở bộ đội vượt sông để tiến công quân địch. Ngày 29, trung đoàn 38 tiến công địch ở Vĩnh Thiện. Trung đoàn 1 vòng qua Vĩnh Điện, đánh tan địch ở Viên Tây rồi phát triển vào Đà Nẵng. Trung đoàn 31 vượt cầu Kỳ Lâm bám sát đội hình của trung đoàn 1. Lúc 11 giờ 45, tiểu đoàn 40 của trung đoàn 1 đánh tan quân địch ở bến đò Su, rồi phát triển đánh chiếm sở chỉ huy quân đoàn 1 ngụy. Cùng thời gian trên hai tiểu đoàn 60 và 90 của trung đoàn 1 và tiểu đoàn 8 của trung đoàn 31 đánh chiếm bộ tư lệnh sư đoàn không quân và sân bay Đà Nẵng. Phối hợp với sư đoàn 2, trung đoàn 96, tiểu đoàn 491 và đại đội biệt động Lê Độ đánh chiếm tòa thị chính, quân tiếp vụ và đài phát thanh.
    Trên hướng đông, 8 giờ ngày 29, trung đoàn 97 Địa phương đánh chiếm thị xã Hội An, Non Nước và sân bay Nước Mặn. Từ 13 giờ 30 đến 15 giờ, trung đoàn tiến công vào quân địch ở An Đông, phối hợp với trung đoàn 38 diệt địch ở Mỹ Khê. 15 giờ ngày 29 tháng 3, quân ta đã chiếm toàn bộ căn cứ quân sự liên hợp Đà Nẵng, bán đảo Sơn Trà, kết thúc trận đánh then chốt quyết định, hoàn thành thắng lợi mục tiêu chiến dịch đặt ra.
    Kết quả toàn chiến dịch Huế - Đà Nẵng, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 120.000 tên (có 6.000 tên chạy thoát), trong đó bắt tại trận là 55.000 tên, số còn lại ra hàng. Tiêu diệt 3 sư đoàn bộ binh (1, 2, 3); sư đoàn thủy quân lục chiến, 4 liên đoàn biệt động quân (11, 12, 14, 15), 5 thiết đoàn (4, 7, 11, 17, 20); 21 tiểu đoàn, 4 đại đội, 14 trung đội pháo; sư đoàn 1 không quân; 50 tiểu đoàn và 50 đại đội bảo an; 6 đại đội quân cảnh. Ta thu 129 máy bay, 179 xe tăng, xe thiết giáp, 327 khẩu pháo, 47 tàu xuồng, 1.084 xe quân sự và nhiều đạn dược nhiên liệu, nguyên liệu; đập tan hệ thống phòng thủ của quân đoàn 1, quân khu 1 ngụy, giải phóng 5 tỉnh (có hai thành phố lớn là Huế và Đà Nẵng) với hơn 2 triệu dân.
  4. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Giải phóng Đà nẵng trong những ngày cuối tháng 3 năm 1975
    (Nguồn: trích Hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)
    Ngày 27/3 thường trực Quân ủy Trung ương gặp và giao nhiệm vụ cho anh Lê Trọng Tấn, Tư lệnh Mặt trận Quảng Đà.
    Nhân danh Bí thư Quân ủy, tôi (Đại tướng Võ Nguyên Giáp) chỉ thị:
    Chiến tranh đã chuyển sang giai đoạn phát triển nhảy vọt. Bố trí của địch ở Đà Nẵng tuy chưa đảo lộn, mặc dù chúng kêu gọi ?otử thủ?, nhưng tinh thần quân lính đang suy sụp, cần nắm vững phương châm "táo bạo, bất ngờ,kịp thời, chắc thẳng", khẩn trương tiến công, bao vây tiêu diệt địch, khống chế sân bay, hải cảng, chú ý làm tốt việc tiếp quản thành phố một triệu dân này, thực hiện tốt chính sách tù, hàng binh và chính sách chiến lợi phẩm. Nhanh chóng tổ chức tăng cường lực lượng phát triển vào phía nam. Tôi nhắc anh Tấn báo cáo đều đặn về Bộ, và chúc anh giành thắng lợi lớn.
    Ngay lập tức, anh Tấn cấp tốc lên đường. Đi bằng máy bay lên thẳng vào Gio Linh, từ đó đi ôtô theo đường Trường Sơn đến Sở Chỉ huy Quân đoàn II, anh và các đồng chí cùng đi vào đặt sở chỉ huy ở phía tây Đà Nẵng.
    Anh Chu Huy Mân, chính ủy Mặt trận Quảng Đà, lúc này đang ở Quảng Ngãi. Tôi điện cho anh Mân (đồng điện anh Võ Chí Công) thông báo quyết định của Bộ Chính trị thành lập Mặt trận Quảng Đà cứ Bộ Tư lệnh mặt trận. Anh Mân, Chính ủy của mặt trận, giao lại nhiệm vụ đánh các mục tiêu ở Quân khu V cho bộ đội địa phương giải quyết, nhanh chóng tập trung bộ đội chủ lực theo đường số 1 đánh thẳng vào Đà Nẵng nhanh nhất, kịp thời nhất, táo bạo nhất như tôi đã có điện từ sau ngày địch rút Plâyku.
    Tư lệnh và chính ủy Mặt trận Quảng Đà làm việc với nhau bằng điện đài. Bộ Tổng tham mưu được lệnh triển khai phương tiện thông tin liên lạc bám sát từng bước các lực lượng đã được điều động về mặt trận, giúp Bộ Tư lệnh Mặt trận Quảng Đà lãnh đạo, chỉ huy các hướng.
    Trong bức điện số 1 ĐBTK đánh đi hồi 8 giờ 30 phút ngày 26-3 gửi anh Chu Huy Mân, anh Lê Trọng Tấn viết:
    Đánh Đà Nẵng nên:
    - Hướng An (Quân đoàn II) sẽ tiến công phía bắc và tây bắc theo đường số 1 qua đường 14.
    - 711 (Sư đoàn 304) từ tây nam lên, trước mắt diệt Lữ 369.
    - Đề nghị anh chuẩn bị cho Sư 2 và Lữ 52 đánh theo đường số 1 về Mỹ Khê (đông Đà Nàng) bịt đường rút lui bằng đường thủy của địch".
    Điện trả lời của anh Mân viết:
    "1. Nhất trí .với ý định của "cậu Vũ? (Bộ Tổng tư lệnh)
    2. Chúng tôi đã chuẩn bị cho Sư 2 và Lữ 52 tiến công từ hướng nam ra, đánh chủ yếu theo hướng núi Quế ra vĩnh Điện, cánh thứ yếu theo đường Đèo Le qua núi Mạc ra đường 100 để phối hợp với lực lượng "cậu Vũ" từ ngoài đánh vào tiêu diệt địch ở Đà Nẵng.
    3. Đang tích cực chuẩn bị, chậm nhất là 29-3 có một trận địa pháo có thể bắn vào núi Quế".
    Ngày hôm sau, 27-3, anh Tấn điện cho anh Mân:
    "Phúc điện số 320 hồi 16 giờ của anh.
    1. Hoàn toàn đồng ý về hướng tiến công, mục tiêu tiến công của Sư 2 và Lữ 52.
    2. Lực lượng của An và một số sư của Hòa (Quân đoàn I) tiến công theo hai trục:
    - Mũi thứ nhất theo đường 14, Mũi Trâu, Lệ Mỹ vào sân bay chính.
    - Mũi thứ hai từ Lăng Cô đến Hải Ván, Liên Chiều, Nam ô. Đồng thời có đánh từ Lộc MỸ lên đỉnh đèo Hải Vân diệt Lữ 258.
    3. Lực lượng của 711 tiến công Trung đoàn 57 ở Đại Lộc và vòng đằng sau Lữ 369.
    4. Pháo binh triển khai được một trận địa ở Mũi Trâu bắn vào sân bay chính, cảng Sơn Trà và tàu biển. Đề nghị cho triển khai nhanh một trận địa pháo nòng dài bắn vào sân bay Nước Mặn, nếu có pháo 85 càng tốt để đánh tàu biển bốc quân ở Mỹ Khê " .
    Trong thời gian này, Thường vụ Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu V họp mở rộng dưới sự chủ tọa của anh Võ Chí Công, quyết định phấn đấu trong thời gian ngắn giải phóng hoàn toàn địa bàn quân khu. Nhiệm vụ trọng tâm trước mắt là tập trung toàn bộ lực lượng đẩy mạnh tốc độ tiến công tiêu diệt Sư đoàn 2 ngụy, giải phóng thị xã Tam Kỳ và tỉnh Quảng Ngãi, tạo thế chia cắt và cô lập hoàn toàn quân địch, tạo bàn đạp vững chắc cho trận tiến công. quyết đình tiêu diệt tập đoàn phòng ngự cuối cùng của Quân đoàn I ngụy ở Đà. Nẵng.
    Trong buổi giao ban tối hôm 28-3, tôi thấy cần tận dụng mọi lực lượng tiến công địch. Sư đoàn 304 sau khi đánh xong Thượng Đức, lực lượng bị tiêu hao, đang củng cố ở đây Tôi điện trực tiếp cho sư đoàn: "... . Sư đoàn 304 phải bằng mọi cách tiến vào giả; phóng Đà Nẵng. Lúc này mọi sự chậm trễ đều có tội"
    Bức điện vừa chuyển xong, tôi gọi dây nói chỉ thị cho anh Cao Văn Khánh điện ngay cho Quân đoàn II sau khi tiêu diệt các bộ phận địch còn chống cự, nhanh chóng tập trung lực lượng vào tiến công Đà Nẵng. Đà Nẵng là thành phố lớn thứ hai ở miền Nam Việt Nam. Đây một căn cứ quân sự hên hợp rất mạnh, nơi đặt Sở Chỉ huy của Vùng I chiến thuật, của Quân đoàn I ngụy. Sân bay Đà Nẵng là một căn cứ không quân lớn. Đà Nẵng còn là một hải cảng có ý nghĩa quân sự và kinh tế quan trọng. Tháng 3-1965, những đơn vị đầu tiên của Mỹ đã đổ bộ vào Đà Nẵng, mở đầu thời kỳ Mỹ thực hiện chiến lược "chiến tranh cục bộ" xâm lược miền Nam.
    Tại đây, địch hiện có khoảng 10 vạn tên, trong đó có 15 tiểu đoàn chú lực thuộc Sư đoàn 3 bộ binh, Sư đoàn thủy quân lục chiến và tàn quân cửa các sư đoàn 1, 2, của Liên đoàn biệt động quân, cùng với hàng chục tiểu đoàn bảo an, hàng trăm trung đội dân vệ, phòng vệ dân sự và 5.000 cảnh sát; Sư đoàn 1 không quân với 373 máy bay các loại, 7 tiểu đoàn pháo binh, Thiết đoàn 11 ky binh, một lực lượng hải quân ngụy đóng ở quân cảng Đà Nẵng và vùng biển phụ cận.
    Sau khi mất Huế, Nguyễn Văn Thiệu lệnh cho Ngô Quang Trưởng cố thủ Đà Nẵng bằng mọi giá, hòng chặn bước tiến của quân ta, hy vọng biến nơi đây thành bãi đổ bộ khi quân Mỹ quay lại ứng cứu. Tất nhiên, đối với Trưởng, mệnh lệnh ?otử thủ? của Thiệu lần này không còn thiêng như trước nữa !
    Các lực lượng vũ trang và nhân dân Quân khu V dưới sự lãnh đạo, chỉ huy của các anh Võ Chí Công, Chu Huy Mân đẩy mạnh tiến công và nổi dậy ở phía bắc quân khu, nhanh chóng tiến xuống đường số 1, khẩn trương chuẩn bị phát triển theo hướng từ Quảng Ngãi đến Đà Nẵng. Trước sức uy hiếp của quân ta, địch rút khỏi Sơn Hà, Trà Bồng. Vùng giáp ranh của tỉnh Quảng Ngãi hoàn toàn giải phóng. Nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ, phối hợp với bộ đội giải phóng thị xã Quảng Ngãi, thị xã Tam Kỳ, căn cứ Tuần Dưỡng, đánh chiếm căn cứ Chu Lai, tiêu diệt Sư đoàn 2 ngụy, mở rộng vùng giải phóng ở tỉnh Quảng Đà, tạo điều kiện thuận lợi uy hiếp Đà Nẵng từ phía nam.
    Ngày 27-3, ở phía bắc Đà Nẵng, chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tổng tư lệnh, Quân đoàn II và một sư đoàn của Quân đoàn I phát triển tiến công trên hai hướng: từ đèo Mũi Trâu theo đường 14 tiến xuống phía táy bắc; từ Phú Lộc, theo đường số 1, đánh chiếm Thừa Lưu, Câu Hai, Lăng Cô đèo Hải Vân, áp sát thành phố từ phía bắc. Riêng Sư đoàn 304 được lệnh trực tiếp của Bộ Tổng tư lệnh và của quân đoàn khẩn trương chuyển sang tiến công Đà Nẵng từ hướng tây nam.
    Cùng thời gian này, theo lệnh của Bộ, Sư đoàn 2, các lực lượng pháo binh, cao xạ, tăng, thiết giáp của Quân khu V dưới sự chỉ huy trực tiếp của anh Chu Huy Mân, bỏ qua các mục tiêu dọc đường, tiến thẳng về Đà Nẵng. Pháo binh của quân ta bắt đầu nã đạn, khống chế hải cảng và sân bay.
    Trước tình hình nguy khốn, Ngô Quang Trưởng hủy bỏ kế hoạch rút Sư đoàn thủy quân lục chiến về Sài Gòn, thu thập binh lính cố thủ Đà Nẵng. Nhưng quá muộn ! Đà Nẵng đã rơi vào tình trạng hỗn loạn. Tuy quân số địch còn đông, nhưng binh lính đã mất tinh thần. Tân binh đào ngũ từng mảng. Bọn chỉ huy hốt hoảng, chỉ lo đưa vợ con tìm đường trốn chạy. Hàng vạn dân từ Huế ào vào càng làm cho thành phố hỗn loạn thêm.
    Sau khi nghe Cục Quân báo báo cáo tình bình mới nhất, tôi điện tiếp cho Quân đoàn II: "Địch ở Đà Nắng đang rối loạn. Cảnh sát thôi làm việc. Chúng đã ra lệnh rút trung đoàn ở núi Quế và phá. công sự. Cần nhanh chóng tiến đánh Đà Nẵng. Nếu có hiện tượng địch rút thì phải lập tức đánh tràn tới: Nếu chúng co cụm và cố thủ thì bao vây thật chặt, đánh ghìm chân không cho rút. Đồng thời tập trung lực lượng theo hướng đường 14 và đường 1, tiêu diệt địch, chiếm khu vực tây và tây bắc thành phố, chọc sâu vào cầu Trịnh Minh Thế, chặn đường rút của địch qua bán đảo Sơn Trà. Ký tên: Văn".
    Cũng trong ngày 27-3 đông chí Bí thư thứ nhất điện cho các anh Võ Chí Công và Chu Huy Mân:
    "Chiến thắng oanh liệt ở Buôn Ma Thuột, và Tây Nguyên đã tạo ra thời cơ giải phóng Đà Nẵng. Ta phải tập. trung lực lượng từ hai phía, từ Thừa Thiên - Huế đánh vào và tử Nam - Ngãi đánh . ra, nhanh chong tiêu diệt toàn bộ sinh lực địch ở Đà Nẵng, không cho chúng rút chạy để co cụm về giữ Sài Gòn."
    Trong lúc này, thời gian là lực lượng: Phải hành động hết sức táo bạo, bết ngờ, làm cho địch không kịp trở tay. Các anh cần sử dụng ngay lực lượng của quân khu và của tỉnh đánh thẳng vào Đà Nẵng. Phải có biện pháp đặc biệt để hành quân nhanh nhất, kịp thời khống chế, chiếm lĩnh . các sân bay, bến cảng, bao vây, chia cắt để tiêu diệt địch.
    Phải nhanh chóng phát động quân chúng vũ trang nổi dậy, đập tan các lực lượng kìm kẹp ở cơ sở, chiếm lĩnh các công sở, kho tàng, nhà máy, thành lập chính quyền cách .mạng và sáp vào vận động binh sĩ địch bỏ súng đầu hang, làm tan rã các đơn vị quân ngụy.
    Các binh đoàn chủ lực . phía bắc đã có kế hoạch. hành quân nhanh nhất để kịp thời hiệp đồng với cánh quân phía nam. Các anh hành động ngay, không châm trễ:..
    Ký tên: Ba"
    Các chỉ thị, mệnh lệnh trên đây đều được chấp hành triệt để và nhanh chóng.
    Tại Tổng hành dinh, các cán bộ tác chiến, quân báo thông tin, cơ yếu... làm việc suốt ngày đêm. Tin chiến thắng dồn dập báo về cổ vũ mọi người làm việc hăng say, quên ăn, quên ngủ.
    Sáng ngày 28-3, tôi triệu tập đồng chí Doãn Tuế, Tư lệnh pháo binh, lúc này là phái viên của Bộ Tổng tham mưu, kiểm tra tình hình triển khai sử dụng hỏa lực.
    Tôi hỏi:
    - Pháo của ta đã đến đâu rồi ?
    Đồng chí Tuế báo cáo:
    - Mới có một tiểu đoàn của Quân khu. V bắn. vào sân bay Đà Nẵng. Pháo của Quân đoàn II mới có hai đại đội vào đến đèo Mũi Trâu.
    Việc triển khai pháo binh chiến dịch như vậy là chậm.
    Tôi chỉ thị bố trí ngay pháo ở đèo Mũi Trâu để chế áp sân bay Đà Nẵng, đưa tiếp pháo cua Quân đoàn II lên đèo Hải Vân để bắn sang Sơn Trà, điều ngay toàn bộ lực lượng pháo binh mặt trận lên tham gia tiến công.
    Kết quả là đến 17 giờ ngày hôm ấy, tất cả các đơn vị pháo của Quân đoàn II và Quân khu V, sau khi tô chức xong. trận địa, bắt đầu nã đạn vào Đà Nẵng, Trận pháo kích lớn diễn ra vào sáng hôm sau, 29-3: 30 khẩu pháo cớ lớn của ta dồn dập bắn vào Sở . Chỉ. huy Quân đoàn I ngụy, sân bay Đà. Nẵng, cảng Mỹ Khê, bán đảo Sơn Trà, sân bay Nước .Mặn, từ 5 giờ đến 10 giờ sáng. Sau đó, pháo chuyển làn bắn ra mép nước, ngăn chặn không cho tàu địch vào bốc bọn tàn quân.
    Bộ Tư lệnh Mặt trận Quảng Đà báo cáo: ngày 29-3-1975, quân ta tiến công vào Đà Nẵng từ nhiều hướng: Quân đoàn II trên các hướng bắc, tây bắc và tây nam, Sư đoàn 2 Quân khu V trên các hướng nam và đông nam. Được các lực lượng biệt động, tự vệ, du kích bí mật và quần chúng hỗ trợ, cả hai cánh quân cùng tiến công vào thành phố.
    Một số cán bộ, đảng viên, chiến sĩ ta bị địch bắt giam ở Non Nước phá nhà lao thoát ra ngoài, tham gia. đánh địch. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Quảng Đà và Thành ủy Đà Nẵng, quần chúng nổi dậy. Đồng bào tự động đưa xe đò, xe lam, xe máy chở bộ đội ta tiến nhanh vào thành phố, mang cơm nước, quà bánh tiếp tế cho bộ đội. Bộ đội chủ lực không quen thuộc địa hình thì đã có các chiến sĩ tự vệ dẫn đường. Nơi nào mà chủ lực chưa tới kịp, thì các lực lượng biệt động, tự vệ và du kích kết hợp với cơ sở bí mật đã kịp thời đánh chiếm. Công nhân bảo vệ sân bay, bến cảng, nhà máy... nhân dân phối hợp cùng bộ đội kêu gọi binh sĩ địch ra hàng.
    Có tin Tổng thống Mỹ tuyên bố đưa hải quân đến cứu viện Đà Nẵng. Qua phân tích tình hình, tôi điện cho anh Tấn, anh Mân, anh Phạm Hùng và Quân đoàn II: ?oPho tuyên bố dùng tàu LST vào Đà Nẵng là để trấn an dư luận, cũng có thể. để cứu bọn ngụy ở bán đảo Sơn Trà. Khả năng hành động của không quân ngụy ít. Khả năng không quân Mỹ can thiệp càng ít hơn. Nhưng ta vẫn phải đề phòng".
    Thực tế đã diễn ra đúng như vậy. Tàu Mỹ đến cứu bọn ngụy chạy trốn, nhưng đậu cách xa bờ, gây cảnh chen chúc hỗn loạn, nhiều người rơi xuống biển. Máy bay trực thăng Mỹ đến đón cố vấn Mỹ và những tên đầu sỏ, bị hàng ngàn binh lính và dân di tản ùa lên, phải cất cánh bay đi, nhiều người bám ở bên ngoài máy bay rơi từ trên không xuống.
    Chỉ trong vòng 32 giờ, quân ta lần lượt đánh chiếm các mục tiêu quân sự, chính trị, kinh tế trong căn cứ liên hợp, giải phóng hoàn toàn thành phố Đà Nẵng và thị xã Hội An, tiêu diệt và làm tan rã hơn 10 vạn tên trong bộ máy quân sự và hành chính của ngụy ở đây.
    Lại một bước nhảy vọt mới của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trong mùa Xuân lịch sứ.
    Cuộc tiến công giải phóng Huế - Đà Nẵng do Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp lãnh đạo, chỉ huy được hình thành trong quá trình thực hiện cuộc Tổng tiến công chiến lược, nhanh chóng phát triển thành một chiến dịch quy mô lớn có ý nghĩa chiến lược rất quan trọng. Tiếp theo chiến thắng Tây Nguyên, chiến thắng vang dội Huế - Đà Nẵng đã đập tan ý định co cụm chiến lược của địch; tiêu diệt nhiều sinh lực chủ yếu của chúng, làm thay đổi căn bản so sánh lực lượng hoàn toàn có lợi cho ta, đẩy quân ngụy sụp đổ nhanh chóng, mở ra triển vọng rất thuận lợi cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.
    Qua chiến đấu, bộ đội ta trưởng thành vượt bậc. Rất nhiều tấm gương tích cực chấp hành mệnh lệnh, chiến đấu anh dũng, mưu trí, táo bào xuất hiện trong cán bộ, chiến sĩ nhất là ở cánh quân phía bắc của các đồng chí Nguyễn Hữu An, Lê Linh, Hoàng Đan và cánh quân phía nam của đồng chí Nguyễn Chơn.
    Ngày 1-4, Quân ủy gửi điện khen bộ đội Mặt trận Quảng Đà:
    "Quân ửy Trung ương nhiệt liệt khen ngợi toàn thể cán bộ, chiến sĩ, đảng viên, đoàn viên các lực lượng bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương, bộ đội tinh nhuệ, tự vệ Mặt trận Quảng Đà đã triệt để chấp hành mệnh lệnh, hành động táo bạo và kịp thời, phối hợp với nhân dân, trong một thời gian rất ngắn, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân địch, giải phóng toàn tỉnh Quảng Đà, đặc biệt thành phố Đà Nẵng là một căn cứ quân sự quan trọng bậc nhất của địch ở miền Nam Việt Nam.
    Quân ủy Trung ương tuyên dương công trạng các đồng chí trong toàn quân về chiến công chói lọi đã lập được...
    Ký tên: Văn".
    Được quyenlinh66 sửa chữa / chuyển vào 09:37 ngày 19/01/2006
  5. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Quân đoàn 2 tham gia giải phóng Đà nẵng
    (Nguồn: báo QĐND)
    Trên bản đồ mỗi ngày lại tô đậm những lá cờ giải phóng. Huế rồi Tam Kỳ, Chu Lai? Thực tế Đà Nẵng trong tình trạng cô lập. Bọn địch đã cắt đường số 1. Con đường rút chạy duy nhất của 10 vạn quân ngụy ở Đà Nẵng bây giờ là đường thủy ở bán đảo Sơn Trà.
    Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 đã nhanh chóng ra lệnh cho các đơn vị tiến quân về Đà Nẵng. Trung đoàn 18 truy kích địch ở nam Phú Lộc thì đêm 27 tháng 3, chuyển đội hình tiêu diệt giặc ở Phước Tượng. Từ Thượng Đức, Sư đoàn 304 đã nhanh chóng tiêu diệt lữ đoàn lính thủy đánh bộ 369 của địch, chuẩn bị tiến vào thành phố Đà Nẵng. Trung đoàn 9 và một tiểu đoàn xe tăng tiến theo đường 14 từ tây bắc tấn công sư đoàn 3 ngụy ở Khánh Hòa và chuẩn bị tham gia đánh chiếm sân bay Đà Nẵng. Phối thuộc với các lực lượng của binh đoàn và các đơn vị bạn ở hướng nam Sư đoàn 2, Quân khu 5 tiến công sân bay Nước Mặn. Ở nhiều vị trí khác, lực lượng tại chỗ đã chuẩn bị tốt mọi điều kiện để phối hợp với các lực lượng của ta khi tiến vào thành phố đã nổi dậy phá ấp trừ gian.
    Như vậy, thế trận tiến công vào giải phóng Đà Nẵng đã hình thành ba mũi chủ yếu, bịt chặt quân địch không cho chúng chạy thoát.
    Đêm 27-3-1975, dưới ánh trăng bàng bạc cuối tháng, tiểu đoàn trưởng Trần Minh Thiệt đã gặp đồng chí Hoàng Đan, phó tư lệnh Quân đoàn tại Phú Lộc; phó tư lệnh Quân đoàn hỏi Thiệt:
    - Quê anh ở Đà Nẵng phải không?
    - Dạ, thưa phó tư lệnh đúng ạ.
    - Tốt quá - Phó tư lệnh hỏi tiếp: Anh thuộc đường ra bán đảo Sơn Trà chứ?
    Sau vài phút suy nghĩ, Trần Minh Thiệt trả lời:
    - Từ ngày tôi rời Đà Nẵng đến giờ, tôi biết bọn địch có ủi một số nhà cửa ven đường nhưng tôi vẫn nhớ đường ra bán đảo Sơn Trà.
    - Thế này nhé - Phó tư lệnh vỗ nhẹ vào vai Thiệt thân mật - Anh sẽ dẫn đường cho mũi đột kích tiến vào bán đảo Sơn Trà.
    Đêm ấy Trần Minh Thiệt cứ bồi hồi xao xuyến. Niềm vui đến với anh đột ngột quá, anh sẽ dẫn đoàn quân về giải phóng quê hương. Ở đó có mẹ anh, em gái anh đang ngày ngày mong anh cháy ruột gan, chắc người mẹ thân yêu sẽ mừng lắm khi gặp anh giữa thành phố tự do này. Ôi hạnh phúc, sung sướng quá.
    Sáng 28-3, pháo binh đoàn 164 đặt trận địa ở đèo Mũi Trâu, cách vị trí địch chưa đầy hai cây số đã bắn dữ dội vào sân bay Đà Nẵng, khu trung tâm thông tin. Nhiều máy bay địch bị phá hủy. Sân bay Đà Nẵng chìm khói lửa. Đêm 28-3, tiểu đoàn 8, Trung đoàn 18 do tiểu đoàn trưởng Thiệt chỉ huy đã đập tan tuyến phòng thủ của địch ở đèo Hải Vân. Cùng trong đội hình tiến công thần tốc của tiểu đoàn 8 có 6 xe tăng của tiểu đoàn 4 lữ đoàn 203.
    Phó tư lệnh binh đoàn trực tiếp chỉ huy mũi đột kích. Sáng 29-3, Trung đoàn 18 đã vượt đèo Hải Vân đánh chiếm kho xăng Liên Chiểu. Người dẫn đường đưa mũi đột kích chọc vào bán đảo Sơn Trà là tiểu đoàn trưởng Thiệt, đại đội trưởng Nguyễn Tiến Lãi chỉ huy đại đội 6. Khi chiếc xe tăng đầu tiên vào đến thành phố, Thiệt đã reo lên sung sướng. Anh cố hình dung nhớ lại ngôi nhà của mẹ anh ven đường, nhìn trong dòng người đang vẫy chào kia kiếm tìm người mẹ người em, nơi nền nhà của mẹ anh trước đây đã dựng lên những nhà cao tầng, đó là cửa tiệm, bọn địch đã đuổi mẹ anh ra khỏi thành phố.
    Trước mặt mọi người, chiếc cầu Trịnh Minh Thế đã hiện rõ. Các chiến sĩ lái xe tăng tăng tốc độ. Khi đến cầu Trịnh Minh Thế, mọi người nhận rõ đã có đơn vị bạn chiếm giữ hai đầu cầu, tạo điều kiện cho đơn vị nhanh chóng vượt cầu, phối hợp với các đơn vị bạn đánh chiếm bán đảo Sơn Trà. Sau khi chiếm cầu cảng, các chiến sĩ xe tăng lữ đoàn H03 và chiến sĩ bộ binh đã nhanh chóng chiếm khu ra-đa. Ở bến cảng này, một cảnh tượng thật hỗn đoạn. Bọn lính ngụy vứt bỏ quần áo lính, súng đạn, liều chết chen chúc xuống tàu đã đặc kín người. Chưa tháo thân được, chúng vẫn cướp bóc trắng trợn. Nhiều phụ nữ bị chúng cướp hết tiền bạc. Những tên sĩ quan ngụy trước đó còn hung hăng bây giờ tiu nghỉu để mặc cho bọn ?ođàn em? gây sự. Có tên sĩ quan ?olên mặt? đã bị lính bắn chết. Dưới mặt nước lềnh bềnh quần áo, đồ đạc và có cả xác người.
    Thế là chỉ 32 tiếng đồng hồ, Trung đoàn 18 đã cùng với các đơn vị bạn đánh chiếm bán đảo Sơn Trà.
    Cũng trong thời gian ấy, trên các hướng đường 14B, Thượng Đức, Trung đoàn 9, sư đoàn 304 đã đánh chiếm sở chỉ huy sư 3 ngụy tiến vào cảng Đà Nẵng. Các trung đoàn 66, 24 sư đoàn 304 tiến thẳng vào trung tâm thành phố. Ở hướng nam, Sư đoàn 2, Quân khu 5 và đơn vị bạn đánh chiếm sân bay Nước Mặn. Sư đoàn tiến công theo trục đường 1, đánh chiếm sân bay Đà Nẵng rồi tiến vào trung tâm thành phố. Một cuộc hợp vây tuyệt đẹp được lực lượng nổi dậy của quần chúng tiếp sức đã giải phóng Đà Nẵng, làm tan rã hơn 10 vạn quân địch.
    Trong những đoàn người từ thành phố kéo ra bán đảo Sơn Trà để tìm người thân của mình có bà mẹ của Trần Minh Thiệt. Ôi sung sướng quá, hạnh phúc quá. Ngay tại bán đảo này, cách đây không lâu, một người dân bình thường chứ chưa nói là người mẹ của một chiến sĩ giải phóng quân không được bén mảng tới, thế mà giờ đây, dưới bóng cờ sao, hai mẹ con người chiến sĩ ấy đã gặp nhau trong niềm vui xúc động. Trong nụ cười rạng rỡ của người mẹ bỗng có những giọt nước mắt. Những giọt nước mắt mẹ chắt chiu trong suốt những năm xa con, bị địch khủng bố, và còn biết bao người thành phố được gặp lại người thân. Vui quá, náo nức và sôi động quá.
    Chính ủy đoàn xe tăng 203 quê ở Đà Nẵng khi đặt chân lên quê hương giải phóng, ông đã tạt qua nhà. Ông nhớ rất rõ ngày xa xưa ấy, bên cái giếng này ông và những người dân đói nghèo đã phải quỳ xuống cúi đầu chào Bảo Đại. Nước giếng vẫn trong veo. Lòng dân vẫn hướng về Đảng, không chỉ có người thân thích ào ra đón ông, reo vui mà tất cả những người dân cùng ra đón.
    Họ ngắm nhìn ông, hỏi chuyện, vui cười, mời ông đến thăm. Tình cảm thật quyến luyến, sâu đậm. Các đơn vị của binh đoàn đã hội tụ ở Đà Nẵng. Bộ tư lệnh tiền phương của binh đoàn đặt tại sở chỉ huy sư đoàn 3 ngụy. Tin vui đến với sư đoàn 325, 304 và 10 đơn vị khác được Nhà nước tặng thưởng huân chương Quân công, hàng trăm tập thể, hàng nghìn cán bộ, chiến sĩ được khen thưởng.
    Trên lá cờ Quân kỳ quyết thắng của các đơn vị lại gắn thêm tấm huân chương mới. Chuẩn bị bước vào trận quyết chiến và quyết thắng. Chiến thắng, niềm vui đang tiếp thêm sức mạnh cho binh đoàn. Tất cả lại náo nức, hồi hộp, nóng ruột chờ ngày lên đường. Con đường số 1 như một mũi tên đỏ hướng vào Sài Gòn lại rậm rịch tiếng bước chân, rộn rã tiếng xe. Một cuộc hành quân mới lại bắt đầu. Náo nức, sôi động, khẩn trương.
  6. VNNewGod

    VNNewGod Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/11/2003
    Bài viết:
    41
    Đã được thích:
    0
    Một trong những động lực sức mạnh tinh thần to lớn dẫn đến chiến thắng lịch sử thống nhất đất nước 1975 là sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới . Có hàng triệu người trên thế giới biểu tình chống Mỹ gây chiến tranh xâm lược Việt Nam , nhiệt tình ủng hộ quân giải phóng và chính quyền cách mạng Việt Nam . Ngay tại lòng nước Mỹ , giới sinh viên , cựu chiến binh , trí thức , văn nghệ sỹ , công nhân ... cũng ồ dạt xuống đường tuần hành . Tại Đại học Ohio , ngọn lửa phản chiến bùng lên khi cảnh sát Mỹ đàn áp bắn chết sinh viên biểu tình .
    Xem cái ảnh cho sinh động :
    [​IMG]
    [​IMG]
  7. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Sư đoàn 2 quân khu 5 trong chiến dịch giải phóng Đà nẵng
    (Nguồn: Theo hồi ức của Thượng tướng Nguyễn Chơn, nguyên tư lệnh Sư đoàn 2 quân khu 5)
    Sau khi giải phóng Tiên Phước, trong thời kỳ đánh phản kích, thông tin kỹ thuật cho biết tin địch báo Chu Lai hết đạn pháo. Theo thói quen quân ngụy không có pháo xe tăng không đánh được. Tôi báo cáo lên Quân khu xin cho Sư 2 đánh Tam Kỳ, Thăng Bình, Chu Lai. Lúc đó, trong biên chế của Sư đoàn có 4 trung đoàn bộ binh, đầy đủ các đơn vị trực thuộc, có xe tăng, có cao xạ lại được tăng cường Lữ đoàn 52 đứng chân vùng Dốc Sỏi. Chưa có điện trả lời, nhưng không thể chần chừ. Tôi lệnh bộ đội áp sát vùng hồ Phú Ninh bây giờ, lệnh xe tăng xuống Eo Gió để đánh Tuần Dưỡng, mũi chủ công chiếm sân bay Ngọc Bích.
    Từ 8 giờ sáng 24.3 bộ đội tiến đánh các mục tiêu được giao. Đến 10 giờ một vùng đất từ Chu Lai, qua Tam Kỳ đến Tuần Dưỡng được giải phóng. Địch chạy tan tác, phần lớn bị bắt làm tù binh. Mặc dù chưa có lệnh của Quân khu, nhưng tôi biết mình không sai. Mục đích của chiến tranh là tiêu diệt địch, giải phóng đất đai, thời cơ đến phải làm ngay. Ngày 25 mới có lệnh đánh Tam Kỳ. Bức điện ấy hiện đang lưu ở Bộ Quốc phòng.
    Ngày 27/3 ở ngã ba Hương An, tôi lệnh cho Trung đoàn 1 và 38 tiến theo Quốc lộ 1, Trung đoàn 31 và 36 tiến theo trục đường sắt. Ông Thí, Trung đoàn trưởng 38 bị đình chỉ nhiệm vụ vì không hiểu được lúc ấy thời gian là lực lượng, cứ cho triển khai bộ đội đánh chiếm quận lỵ Thăng Bình. Tôi nhắc nhiều lần phải vòng qua các chốt địch trên đường, nhanh chóng tiến về Đà Nẵng. Sau này ông Thí có nói không nhận được điện. Nhưng là người chỉ huy thì phải quyết đoán. Được cái tốt khi tôi chỉ định ông Thùy lên nắm Trung đoàn, Thí vẫn luôn bên cạnh Trung đoàn trưởng mới, làm bất cứ việc gì phân công để góp phần chiến thắng. Cũng chính tại ngã ba Hương An, tôi lệnh cho thông tin không cần dùng mật mã trên vô tuyến nữa. Anh em báo cáo như vậy sai nguyên tắc bảo mật, kỷ luật sẽ rất nặng. Tôi nói Chơn này chịu trách nhiệm. Vì lúc ấy nếu địch nghe được quân ta tiến quân tới đâu sẽ tan rã nhanh hơn.
    Tôi xa Đà Nẵng đã lâu, chỉ nhớ trong ký ức phố xá nhỏ, nhớ có con đường chạy theo tả ngạn sông Hàn, nhìn vào bản đồ Mỹ vẽ thấy đường sá nhiều hơn, sân bay rất lớn. Bộ đội đang thần tốc tiến ra, tận dụng các loại phương tiện của dân để chuyển quân. Cầu Bà Rén bị địch ném bom, cầu ximăng sập, cầu gỗ cháy.
    Đêm 28, phải huy động thuyền của dân để đưa bộ đội vượt sông Thu Bồn vì cầu Câu Lâu cũng sập 2 nhịp. Trung đoàn 1 đánh vào sân bay và Sở chỉ huy Quân đoàn 1 ngụy. Trung đoàn 38 đánh sân bay Nước Mặn, các trung đoàn 31 và 36 chiếm ngã ba Huế, bắt liên lạc với Quân đoàn 2 từ Huế đánh vào, từ Thượng Đức đánh xuống, chú ý phá trại giam. Mục tiêu đã rõ, các đơn vị cứ thế tiến công. Tôi mặc bà ba cùng trinh sát đi trước. Ở Thanh Quýt một đại đội ngụy, chắc mất liên lạc nên đã xả đại liên vào đội hình E1 đang tiến theo trục đường 1. Anh em hy sinh. Hy sinh chỉ vài giờ trước khi thành phố giải phóng, thật đau. Tôi có mặt tại Bộ chỉ huy Quân đoàn 1 ngụy lúc 11 giờ 45 phút. Trong phòng Ngô Quang Trưởng mọi thứ vẫn còn nguyên. Trưởng bỏ lại cả súng ngắn và con dấu.
    Tôi lệnh cho Suyền, trợ lý tham mưu quay vào Thanh Quýt báo cáo với ông Võ Chí Công (lúc ấy là Bí thư Khu uỷ, Chính uỷ Quân khu 5). Anh Năm Công hỏi có thực đã chiếm được Quân đoàn 1 ngụy chưa, Đà Nẵng có nhiều nhà giống như vậy. Suyền đưa con dấu của Ngô Quang Trưởng ra.
    Đà Nẵng hoàn toàn giải phóng. Sau đó Sư đoàn được lệnh kết hợp với hải quân tiến đánh Trường Sa. Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 38 cùng một đại đội 37 ly, một đại đội 12 ly 7, một đại đội pháo 85 lên tàu. Chiến lợi phẩm đầu tiên đưa về là một rổ trứng chim hải âu.
  8. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Tiêu diệt hoàn toàn quân đoàn 2 ngụy
    (Nguồn: Trích hồi ký của thiếu tướng Phan Hàm)
    Sau những đòn sấm sét ở Buôn Ma Thuột, Đức Lập, Phước An, tình hình trên cao nguyên có phần lắng dịu-ngoại trừ những hoạt động nhỏ lẻ trên đường 19.
    Đây chẳng qua là sự lắng dịu giữa hai cơn bão. Trên thực tế, trong những ngày này, ta và địch tranh thủ từng giây từng phút để hoàn thành mọi công tác chuẩn bị, cho những trận chiến đấu cuối cùng, trên giải đất còn lạ của miền Trung.
    Chiều ngày 21 tháng 3, bữa cơm chia tay nhau của các đồng chí trong Bộ tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên, chưa kịp bày ra bàn, thì Trung tướng Hoàng Mình Thảo, người chủ trì buổi liên hoan, được lệnh của A75 đã phải cấp tốc lên xe ra ngay đường 19, để kịp chỉ huy sư đoàn 968 và trung đoàn 95A đang cùng với trung đoàn 12 của sư đoàn 3, tiến công vào bốn cứ điểm tiền tiêu cảu thị trấn An Khê.
    Ngày 23, thị trấn này được giải phóng. Ta bắt 1.300 tù binh, thu 1.500 súng. Thẳng đà truy kích, tiến công bao vây địch trên đất võ Bình Khê, quê hương của Nguyễn Huệ. Sau một tuần chiến đấu, một loạt các thj trấn khác: Tam Quan, Bồng Sơn, Phù Mỹ rồi toàn bộ tỉnh Bình Định được giải phóng. Sư đoàn bộ binh 22 quân đội ngụy có nguy cơ bị tiêu diệt. Địch vội vã giải thể một loạt các trường trại, trung tâm huấn luyện, trường quân dịch, trường nghĩa quân, trường địa phương quân, để vét người bổ sung, hòng khôi phục lại sư đoàn 22 đang bị tan rã từng mảng lớn. Biện pháp này, xem ra chẳng đem lại kết quả gì, vì các ?okhóa sinh? đã theo dõi diễn biến tình hình vùng 1 rất chặt chẽ, nên chẳng còn ai dám ?oxung phong? ở lại với đội ngũ đang rã rời này. Đến ngày 30 tháng 3, các cơ sở nguỵ quyền ở các cấp đã ngừng hoạt động, trong lúc các đơn vị Quân giải phóng áp sát vào thị xã Quy Nhơn cùng với lực lượng tại chỗ nổi dậy giành quyền làm chủ và chặn đánh các nhóm tàn quân đang tháo chạy về phía nam.
    Trên mặt trận Phú Yên, sau khi đã trút gánh nặng, chỉ huy cuộc rút lui chiến lược cho tham mưu trưởng Lê Khắc Lý, chuẩn tướng Trần Văn Cẩm chạy về Tuy Hoà, gọi là để chỉ huy đầu đông của cuộc rút lui chiến lược nổi tiếng này. Cùng với tàn quân của các liên đoàn biệt động quân 35 và 21 và một số xe pháo mới ở Tây Nguyên lóp ngóp chạy về, Cẩm nắm trong tay cả 8 tiểu đoàn bảo an có sẵn tại chỗ để hình thành lực lượng phòng thủ cho cái thị xã nhỏ bé này.
    Phạm Văn Phú không hé nửa lời chê trách Cẩm vì cái tội bỏ lý một mình trên đường 7, để đưa đến tai vạ tày đình, nướng sạch mấy vạn quân, vì chính chủ tướng Phú cũng đã nêu gương chạy trước. Hơn thế nữa, Phú còn giao cho Cẩm toàn bộ trách nhiệm rất nặng nề trong lúc này là ngăn chặn Quân giải phóng trên hai hướng đường 7 và đường 21, đang tràn xuống đồng bằng như nước vỡ bờ. Kể ra, thì toàn bộ lực lượng trong khu vực này cũng tương đối lớn, nếu chỉ tính về mặt số lượng. Ngoài các lực lượng nói trên, còn có lữ đoàn 3 dù ở Đà Nẵng và trung đoàn 40 thuộc sư đoàn 22 ở Bình Định, mới được đưa đến để tăng viện lại có liên đoàn địa phương quân Khánh Hoà, hai tiểu đoàn của tiểu khu Ninh Thuận. Dọc đường 21, sát gần mặt trận, ở Dục Mỹ, còn có các trung tâm huấn luyện quân biệt động, trường pháo binh ở Ninh Hoà. Ở Nha Trang có sở chỉ huy Quân đoàn 2, vùng 2 duyên hải; sư đoàn không quân 2; trường hạ sĩ quan và trung tâm huấn luyện quốc gia Lam Sơn. Xa xa về phía nam, có đặc khu Cam Ranh do chuẩn tướng Lê Văn Thân chỉ huy, với các đơn vị thuộc sư đoàn 23 ở Tây Nguyên chạy về, mới được bổ sung 5.000 tân binh.
    Địa hình tỉnh Khánh Hoà rất thuận lợi cho việc phòng thủ. Ở phía bắc, từ Phú Yên vào, Quân giải phóng phải vượt qua một dãy núi qua Đèo Cả và Dốc Mỏ; ở phía tây xuống, phải qua đèo Phượng Hoàng. Ngay trong tỉnh, từ các huyện phía bắc xuống phía nam phải qua các đèo Ro Tượng và Rù Ri. Toàn bộ tỉnh Khánh Hoà nằm ven theo bờ biển; nơi nào cũng được pháo dưới tàu chi viện tích cực. Các sân bay Nha Trang, Thành Sơn đều là những loại sân bay quân sự lớn. Các kho tàng ở động Bà Thìn, Thành Sơn, đầy ắp nhưng đạn và bom. Dựa vào những vật chướng ngại thiên nhiên ấy, với lực lượng còn khá đông như nói trên, nếu tổ chức chỉ huy chặt chẽ, thì cũng có khả năng gây nhiều khó khăn cho đối phương. Bộ Tổng tham mưu quân đội ngụy cũng đã thấy được những thuận lợi ấy, nên mới bàn với nhau việc lập tuyến phòng thủ mới, kéo dài từ tây sang đông: Tây Ninh, Đà Lạt, Nha Trang, và sau lưng là căn cứ Thành Sơn.
    Giữa hai mặt trận có mối quan hệ rất cơ hữu với nhau; trên đường 7, địch cố tìm cách chạy để thoát chết; còn trên đường 21 thì chúng cố chặn ta lại để tìm lấy cái sống. Từ chỗ khác nhau ấy, hai sư đoàn 320 và sư đoàn 10 đã vận dụng hai lối đánh khác nhau.
    Trên đường 7, Bộ tư lệnh sư đoàn 320, sau khi chiếm Củng Sơn, phải thi hành mệnh lệnh của trên: tiêu diệt sạch bọn địch còn sót lại và nhanh chóng thu quân, để chuyển sớm vào Nam Bộ. Tuy nhiên, kẻ địch trước mắt còn khá đông. Vì phải khắc phục rất nhiều mìn trên đường đi, nên tốc độ tiến quân phải chậm lại, mãi đến ngày 31 tháng 3 mới đến đường quốc lộ 1. Ta đã nhanh chóng chiếm các cao điểm Chóp Chài ở phía bắc, Nhạn Tháp ở rìa phía tây thị xã Tuy Hoà, hình thành thế bao vây địch. Ngày 1 tháng 4 sư đoàn đã có sự phối hợp đắc lực của các tiểu đoàn tỉnh, đã tiêu diệt toàn bộ địch, cùng quần chúng nổi dậy làm chủ thị xã này. Trần Văn Cẩm bị bắt.
    Trên đường 21, địch phòng ngự có bài bản hơn: lữ đoàn 3 dù và trung đoàn 40, dựa vào các cao điểm ở núi Chư Kroi, bố trí thành nhiều nút chặn, có xe tăng M.48 và pháo binh cỡ lớn chi viện. Ngày 22 tháng 3, sư đoàn 10 cùng với trung đoàn bộ binh 25, trung đoàn pháo binh 40 và một tiểu đoàn xe tăng tiến công vào Khánh Dương. Lúc bấy giờ, địch mới phát hiện ra một mạn đường lâm nghiệp, xuyên qua các khu rừng rậm, ở phía tây tỉnh Khánh Hoà. Đây chính là một đoạn đường mòn Hồ Chí Minh, từ chiến khu Bắc Ái, tây nam Khánh Hoà, đi ra các tỉnh phía bắc. Rút kinh nghiệm trên đường 7, họ dự đoán ta có thể đưa một lực lượng lớn, tiến theo đường này, để đánh chiếm quận lỵ Diên Khánh, vu hồi thành phố Nha Trang từ phía tây. Để được chủ động, chúng vội vã rút trung đoàn 40 ở Dục Mỹ và đưa ngay vào phía nam để cùng với một tiểu đoàn địa phương và ba khẩu pháo 105 ly bảo vệ sườn phía tây thành phố. Thực ra lối đánh của sư đoàn 10 ở đây khác hẳn. Với tinh thần khẩn trương, mạnh dạn, nhưng vững chắc, từng đơn vị được phân công mục tiêu, chuẩn bị chu đáo, đánh gom từng tiểu đoàn địch lại, để diệt gọn. Khi tiến công vào mục tiêu trước mặt, thì đồng thời, có bộ phận cơ động bao vây luôn mục tiêu phía sau. Với lối đánh này, chỉ trong ngày đầu bắn chuẩn bị, pháo binh của ta đã diệt được 12 trong tổng số 24 khẩu pháo lớn của địch, và sau bốn ngày liên tục chiến đấu, lữ đoàn 3 dù chỉ còn 25 phần trăm quân số.
    10 giờ sáng ngày 1 tháng 4, được tin về mặt trận đường 21, cả trung tâm huấn luyện Lam Sơn, trại biệt động quân, trường pháo binh đùm túm kéo nhau chạy về Nha Trang. Gần trưa, chúng ùn vào thành phố, nổ súng bắn loạn xạ, cướp xe, thẳng một mạch chạy về Cam Ranh. Chớp lấy cơ hội thuận lợi, trên 1.000 tù nhân ở trại cải huấn nổi dậy, giết lính gác, phá khám, thoát ra ngoài làm náo động cả thành phố.
    5 giờ sáng ngày 2 tháng 4 Phạm Văn Phú, tư lệnh quân đoàn 2 ngụy đã bay từ Cam Ranh đến Nha Trang và sau đó đã có mặt ở Phan Thiết. Đến 14 giờ gặp tư lệnh phó Quân đoàn 3, Nguyễn Văn Hiếu cho biết: theo lệnh của Thiệu phần đất còn lại của vùng 2 được sát nhập vào quân khu 3, còn tư lệnh quân đoàn 2 Phạm Văn Phú thì về trình diện trung ương.
    Quân đoàn 2 ngụy coi như xóa sổ.
  9. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Từ Tây nguyên giải phóng vùng duyên hải phía đông
    (Nguồn: trích Hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)
    Hạ tuần tháng 3-1975.
    Ngay sau chiến thắng Tây Nguyên, Bộ Tư lệnh chiến dịch ra lệnh cho các đơn vị chủ lực thừa thắng phát triển tiến công về hướng đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ theo các trục đường số 19, số 7 và số 21. Sư đoàn 10 tiến theo đường 21, tiêu diệt lữ đoàn dù trên đèo Phượng Hoàng, giải phóng quận ly Khánh Dương. Sư đoàn 320 sau khi giải phóng Củng Sơn, theo đường số 7 tiến xuống Tuy Hòa. Sư đoàn 3 Quân khu V tiêu diệt căn cứ địch ở An Khê, sau đó phối hợp với Sư đoàn 968 tiêu diệt phần lớn Sư đoàn 22 ngụy trong một trận từ Phú Phong đến sân bay Gò Quánh. Bọn tàn quân của Sư đoàn 22 bị quân và dân Bình Định tiến công làm tan rã hoàn toàn.
    Ngày 27-3, tại cuộc họp với Bộ Tư lệnh Tây Nguyên, trong không khí phấn khởi, quyết tâm, anh Văn Tiến Dũng công bố thành lập Quân đoàn III gồm các Sư đoàn 10, 320 và 316 theo quyết định của Bộ Tổng tư lệnh. Sự kiện này đánh dấu một bước phát triển mới, càng đánh càng mạnh của quân đội ta trong quá trình cuộc tiến công chiến lược
    Với khí thế tiến công và nổi dậy mạnh mẽ, quân và dân ta đã tích cực đánh địch trên khắp các tỉnh ven biển miền Trung, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ lực lượng địch còn lại, liên tiếp giải phóng các tỉnh, thành phố thuộc vùng Quân khu II ngụy. Ngày 1-4, hai tỉnh Bình Định, Phú Yên với thành phố Quy Nhơn và thị xã Tuy Hòa được giải phóng. Từ ngày 2 đến ngày 3-4, tỉnh Khánh Hòa với thành phố Nha Trang và quân cảng Cam Ranh được giải phóng. Trước đó, ngày 24-3, tỉnh Quảng đức với thị xã Gia Nghĩa được giải phóng.
    Lúc này có một sự kiện đáng ghi nhớ. Đó là việc đĩều động, sử dụng Sư đoàn 10 của Quân đoàn III. Như trên đã nói, sau ngày giải phóng Đà Nẵng, chủ trương của Quân ủy Trung ương được sự nhất trí của Bộ Chính trị là tập trung toàn bộ lực lượng ở nam Tây Nguyên nhanh chóng tiến thằng xuống miền Đông Nam Bộ. Trên đường vào B2, anh Lê Đức Thọ cũng đã phổ biến cho Bộ Tư lệnh Tây Nguyên về chủ trương này.
    Nhưng trước đó, trong tình hình bộ đội ta đang truy kích tiêu diết địch, anh Văn Tiến Dũng và Bộ Tư lệnh Tây Nguyên đã lệnh cho Sư đoàn 10 tiến ra hướng biển, xuống Nha Trang, Cam Ranh. Khi biết chủ trương của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, các anh băn khoăn đến mất ngủ, lo lắng, như vậy có trái với ý định của cấp trên hay không. Cuối cùng các anh xác định là báo cáo lên Trung ương và chịu trách nhiệm. Ngay sau đó, anh Văn Tiến Dũng điện ngay cho tôi trình bày về vấn đề này, nói rõ cuộc tiến quân đang phát triển thuận lợi, Nha Trang, Cam Ranh là hai mục tiêu chiến lược quan trọng, tính toán thời gian sư đoàn có thể hoàn thành nhiệm vụ giải phóng hai nơi này, sau đó quay lên đường 11 rồi theo đường 20 tiến xuống vị trí tập kết ở miền Đông, thời gian cũng không chậm là bao.
    Nhận điện của anh Dũng, lại có tin ta đã giải phóng
    Quy Nhơn, địch đang rút khỏi Tuy Hòa, chuẩn bị bỏ Nha Trang, Cam Ranh, tôi lập tức trả lời bằng bức điện số 940 ngày 20-3-1975: "Chúng tôi bàn với anh Ba nhất trí cho rằng ta cần có chủ trượng thật linh hoạt để lợi dụng thời cơ cụ thể này, tức là tập trung Sư đoàn 10 nhanh chóng tiêu diệt quân dù và bọn địch còn lại đánh chiếm Nha Trang, Cam Ranh rồi tiến về phía nam...".
    Bức điện làm cho các anh rất yên lòng. 8 giờ sáng ngày 31-3, anh Dũng điện ngay cho tôi: "... Tôi mừng quá Thật là tâm đầu ý hợp giữa lãnh đạo và người ở chiến trường" . . .
    Thực tế đã cho thấy việc điều động và sử dụng Sư đoàn 10 như vậy là đúng. Sau khi giải phóng Nha Trang, Cam Ranh, sư đoàn đã từ Ba Ngòi nhanh chóng xuyên qua căn cứ Bác ái sang đường 11, lên Tuyên Đức rồi theo đường 20 tiến về vị trí tập kết của Quân đoàn III trên hướng Sài Gòn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
    Đến đầu tháng 4, quân ta đã tiêu diệt và làm tan rã hai quân đoàn, hai quân khu mạnh của địch, giải phóng các tỉnh đồng bằng miền Trung, Tây Nguyên, nhiều vùng ở đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ, hình thành thế bao vây Sài Gòn - Gia Định.
    Được quyenlinh66 sửa chữa / chuyển vào 14:13 ngày 21/01/2006
  10. quyenlinh66

    quyenlinh66 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2003
    Bài viết:
    549
    Đã được thích:
    0
    Quyết định lịch sử - định đoạt số phận của chế độ ngụy quyền Sài Gòn
    (Nguồn: trích Hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)
    Sáng 31-3, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp mở rộng. Đây là cuộc họp lịch sử bàn về đòn chiến lược thứ ba, đòn cuối cùng của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy. Không khí phấn khởi tràn ngập "Nhà con rồng". Những nét mặt rạng rỡ, những ánh mắt sáng ngời, những cái bắt tay hứa hẹn...
    Bắt đầu cuộc họp, anh Ba nêu những vấn đề cần bàn. Thay mặt Quân ủy Trung ương, tôi (Đại tướng Võ Nguyên Giáp) báo cáo tổng quát tình hình chiến trường một tháng qua, đặc biệt nêu rõ diễn biến chiến sự trong hạ tuần tháng 3.
    Từ Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng đến cực Nam Trung Bộ và Nam Bộ, quân và dân ta đã tiêu diệt và làm tan rã hai quân đoàn chủ lực mạnh của quân ngụy và khoảng 40% các binh chủng kỹ thuật hiện đại, thu và phá hủy trên 40% cơ sở vật chất và hậu cần của chúng; giải phóng địa bàn hai quân khu gồm 12 tỉnh với gần một nửa số dân ở miền Nam. Âm mưu co cụm chiến lược của địch đã bị phá sản. Chúng đang lâm vào tình trạng hoang mang và bế tắc. Tuy vậy, địch vẫn ngoan cố lập tuyến phòng ngự từ xa, từ Phan Rang trở vào. Chúng hy vọng ngăn chặn và đẩy lùi cuộc tiến công của ta, giữ thế cầm cự cho tới mùa mưa, sau đó sẽ cửng. cố những. lực lượng còn lại, phản công tái chiếm các vùng đã mất.
    Địch tập trung ở Phan Rang một lực lượng khoảng hai sư đoàn gồm Sư đoàn 2 bộ binh vừa được khôi phục, Lữ đoàn 2 dù, Liên đoàn 31 biệt động quân, có Sư đoàn 6 không quân đóng ở sân bay Thành Sơn yểm trợ. Đồng thời, chúng tập trung mọi cố gắng thu thập tàn quân, chấn chỉnh các đơn vị còn lại, điều chỉnh thế bố trí nhằm tăng cường phòng thủ khu vực Sài Gòn - Gia Định và đồng bằng sông Cửu Long.
    Về phía ta, với trận Huế - Đà Nẵng, ta đã bắt đầu chuyển sang Tổng tiến công chiến lược. Quân ta đang trong thế thừa thắng xông lên. Ta hoàn toàn có khả năng tập trung lực lượng cả nước đến mức cao nhất, áp đảo địch trên chiến trường trọng điểm là Sài Gòn. Thời cơ lớn đã xuất hiện. Chắc chắn ta sẽ giành toàn thắng trong trận quyết chiến chiến lược cuối cùng này. Tôi đề nghị cần khẩn trương xây dựng kế hoạch tác chiến, thực hiện bao vây chiến lược ở phía đông và phía tây Sài Gòn - Gia Định, sử dụng nắm đấm chủ lực bất ngờ thọc sâu tiêu diệt địch. Đánh một trận là thắng. Phương châm là "thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng".
    Các đồng chí ủy viên Bộ Chính trị phát biểu ý kiến, đồng ý với đề nghị của Quân ủy Trung ương. Anh Trường Chinh tâm đắc với phương án thọc sâu mà anh gọi là ?opercèe stratégique" (thọc sâu chiến lược).
    Hội nghị nhất trí nhận định những nhân tố mới đây xuất hiện rõ nét trong trận Đà Nẵng. Ta hơn hẳn địch cả về thế chiến lược lẫn lực lượng quân sự, chính trị. Dù Mỹ có tăng viện cũng không thể cứu vãn ngụy sụp đổ. Bộ Chính trị khẳng định quyết tâm thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất.
    Phương thức tác chiến chiến lược của ta là phát huy sức mạnh của ba đòn chiến lược (chủ lực, nông thôn và thành thị), từ ngoài đánh vào, kết hợp với lực lượng tại chỗ từ trong đánh ra, lấy chủ lực từ ngoài đánh vào là quyết định, tập trung lực lượng tiên công địch, nhanh chóng lợi dụng thời cơ, dồn dập phát triển thắng lợi.
    Vê bố trí lực lượng chiến lược, Bộ Chính trị chủ trương gấp rút tăng thêm lực lượng ở hướng táy Sài Gòn, chia cắt và bao vây chiên lược ở hướng tây nam, triệt đường số 4, cô lập Sài Gòn với đồng bằng sông Cửu Long. Các lực lượng phía đông đánh chiêm các mục tiêu quan trọng, bao vây Sài Gòn từ hướng Bà Rịa, Vũng Tàu. Quả đấm chủ lực phải thật mạnh, kể cả binh khí kỹ thuật, sẵn sàng đánh thẳng vào các mục tiêu hiểm yếu và quan trọng nhất của địch ở trung tâm Sài Gòn khi thời cơ xuất hiện. Ở đồng bằng sông Cửu Long, các lực lượng quân sự, chính trị hoạt động mạnh, giải phóng các địa phương, phối hợp với mặt trận trọng điểm.
    Ngay từ bây giờ, cần có kế hoạch hành động với lực lượng sẵn có trên chiến trường miền Đông Nam Bộ. Các lực lượng của ta ở Tây Nguyên cần nhanh chóng tiến vào chiến trường trọng điểm. Bộ Tổng tham mưu đôn đốc cho Quân đoàn I khẩn trương vào kịp thời gian.
    Cuộc họp kết thúc.
    Đồng chí Bí thư thứ nhất điện ngay vào chiến trường: "... Cách mạng nước ta đang phát triển với nhịp độ "một ngày bằng hai mươi năm". Do vậy, Bộ Chính trị quyết định:
    Chúng ta phải nắm vững thời cơ chiến lược, quyết tâm thực hiện Tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Tốt hơn cả là bắt đầu và kết thúc trong tháng 4 năm nay, không để chậm. Phải hành động "thần tốc, táo bạo, bất ngờ". Phải tiến công ngay lúc địch hoang mang, suy sụp. Tập trung lực lượng lớn hơn nứa vào những mục tiêu chủ yếu trên từng hướng, trong từng lúc"
    Từ cuộc họp ngày 31-3-1975, số phận của chế độ ngụy quyền Sài Gòn đã được định đoạt. Quyết tâm của Bộ Chính trị cổ vũ mạnh mẽ nhiệt tình cách mạng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân.

Chia sẻ trang này