1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những giai thoại..."trời ơi" trong lịch sử

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi vaputin, 13/07/2012.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Sứ thần Giang Văn Minh

    Thám hoa Giang Văn Minh và khí phách Việt
    (ĐSCT) Trong lịch sử dân tộc, ngoài những chiến công hiển hách chống giặc ngoại xâm phương Bắc, còn ghi nhận những chiến thắng về ngoại giao vừa mềm dẻo, khôn khéo vừa kiên định để tránh cho đất nước khỏi họa xâm lăng. Lịch sử còn ghi lại những câu chuyện về các vị quan làm công tác ngoại giao, các sứ thần của nước Việt rất đỗi thông minh, có tài ứng đối như Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Hiền, Thân Nhân Trung... Trong đó, nổi bật là thám hoa Giang Văn Minh, vị sứ thần đời nhà Hậu Lê. Khi được cử đi sứ sang Trung Hoa đời nhà Minh, ông thà hy sinh tính mạng chứ không chịu nhục để bảo vệ nền độc lập của dân tộc và dạy cho kẻ thù bài học, nếu còn âm mưu xâm lược bá quyền thì trước sau cũng chuốc lấy thất bại.
    [​IMG]
    Tác giả cùng hậu duệ đời thứ 13, ông Giang Văn Kế bên ngôi mộ danh nhân văn hóa Giang Văn Minh
    Giang Văn Minh tự Quốc Hoa, thụy Văn Chung, là người làng Kẻ Mía, xã Mông Phụ, tổng Cam Giá, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, TP. Hà Nội, mảnh đất địa linh nhân kiệt đã sản sinh ra hai đời vua đó là Phùng Hưng - Bố Cái Đại Vương và Ngô Quyền. Giang Văn Minh sinh ngày mồng 6 tháng 9 năm Quý Dậu (1573), niên hiệu Gia Thái năm thứ nhất đời vua Lê Thế Tông. Năm 1628 đời vua Lê Thần Tông, ông đi thi và là người đỗ cao nhất với chức đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh - hiện còn lưu giữ tại bia số 32 (văn bia đề danh tiến sĩ khoa Mậu Thìn, niên hiệu Vĩnh Tộ 10) tại Văn Miếu Quốc Tử Giám, Hà Nội. Năm 1631, ông được vua Lê Thần Tông phong tước, chức Thái bộc tự khanh, phúc lộc bá. Sau đó, ông cùng với con của chúa Trịnh là Trịnh Tộ được cử đi trấn giữ Nghệ An.
    Mùa đông năm Dương Hòa 3 (1637) đời vua Lê Thần Tông, Giang Văn Minh cùng Thiên đô ngự sử Nguyễn Duy Hiểu được vua cử làm chánh sứ cùng với bốn phó sứ là Nguyễn Quang Minh, Trần Nghi, Nguyễn Bình và Thân Khuê dẫn đầu hai đoàn sứ bộ sang cầu phong và tuế cống nhà Minh. Trong lịch sử, Lê Lợi tức vua Lê Thái Tổ đánh bại quân Minh xâm lược và chém rơi đầu Liễu Thăng. Sau đó, nhà Minh bắt nước Việt hàng năm phải cống nộp tượng người bằng vàng nặng bằng đúng trọng lượng Liễu Thăng, nếu không sẽ quấy quả. Dân gian vẫn truyền tụng chuyện này bằng câu “nợ Liễu Thăng”.
    Khi Giang Văn Minh đi sứ, nhà Mạc đã bỏ chạy về Cao Bằng, nhưng giặc Minh vẫn áp dụng chính sách ngoại giao hai mặt với cả nhà hậu Lê và nhà Mạc, hòng kéo dài cuộc nội chiến Lê - Mạc khiến nước Nam bị suy yếu, càng yếu chúng càng dễ thủ lợi. Sứ bộ của ta đã sang đến Yên Kinh (nay là Bắc Kinh) gần cả năm trời, vua Minh vẫn không tiếp kiến. Giai thoại kể rằng, để sớm được vào chầu kiến, Giang Văn Minh bèn cho người phơi cả bồ sách và nằm phơi bụng trước cửa điện của vua Minh. Quân lính thấy lạ liền hỏi thì Giang Văn Minh trả lời vì lâu không được vào tiếp kiến vua Minh cho nên bồ sách mang theo và chữ nghĩa trong bụng bị ẩm ướt, sợ hỏng nên phải phơi. Quân lính tâu lên. Vua Minh lúc ấy là Sùng Trinh cho gọi vào và ra cho sứ bộ một vế đối, đối được mới cho vào chầu. Vế đối ra như sau:
    Đồng trụ chí kim đài dĩ lục (Cột đồng đến nay rêu đã xanh). Câu này có ý nhắc tới việc Mã Viện từng đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, sau đó cho chôn một chiếc cột đồng với lời nguyền: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” (Cột đồng gãy thì Giao Chỉ - tức Đại Việt - bị diệt vong”.
    Trước vế đối ngạo mạn này, Giang Văn Minh ung dung đối lại:
    Đằng Giang tự cổ huyết do hồng (Sông Đằng từ xưa máu còn đỏ). Vế đối này vừa chỉnh vừa có ý nhắc lại người Việt đã ba lần đánh tan quân xâm lược phương bắc trên sông Bạch Đằng.
    Vế đối khẳng khái đó như một cái tát thẳng vào mặt vua Minh trước đông đảo văn võ bá quan của thiên triều và sứ bộ các nước. Vua Minh bừng bừng lửa giận, quên mất thể diện, bất chấp luật lệ bang giao, tức giận sai quân đổ chì nóng vào mắt, miệng Giang Văn Minh và mổ bụng ông xem “to gan lớn mật đến đâu”. Sự việc đó xảy ra ngày mồng 2 tháng 6 năm Kỷ Mão (1639). Tuy trả thù hèn hạ và tàn độc như vậy nhưng vua Minh không thể không nể phục khí phách Giang Văn Minh nên đã hạ lệnh cho ướp xác ông bằng bột thủy ngân rồi trả về Đại Việt.
    Khi thi hài Giang Văn Minh về đến Thăng Long, đích thân vua Lê, chúa Trịnh bái kiến linh cữu ông và truy tặng chức Công bộ Tả thị lang, tước Vinh quận công và ban tặng câu “Sứ bất nhục quân mệnh khả vi thiên cổ anh hùng” (Sứ thần không làm nhục mệnh vua giao, thật xứng đáng là bậc anh hùng muôn thuởã).
    Trong tang lễ, điếu văn của nhà vua có câu:
    “Thục bất hữu sinh, sinh như công dã, sinh ư khoa giáp, kỳ sinh dã vinh”. (Ai mà chẳng sống, sống như ông vậy, sống đỗ đạt khoa giáp thật là đáng sống).
    “Thục bất hữu tử, tử như công dã, tử ư quốc sự, kỳ tử do sinh”. (Ai mà chẳng chết, chết như ông vậy, chết vì việc nước, thì cái chết như sống mãi).
    Sau cái chết của Giang Văn Minh, nhà Minh bãi bỏ lệ triều cống người bằng vàng, dân gian vẫn truyền tụng là đã trả được “nợ Liễu Thăng”.
    Giang Văn Minh sinh được hai con trai và bảy con gái. Hai người con trai của ông, con trưởng Giang Văn Trạch và con thứ là Giang Văn Tôn sau này đều làm quan to trong triều.
    Hiện phần mộ sứ thần Giang Văn Minh được chôn cất tại cánh đồng Dưa thuộc xứ Gò Đông, hướng tây bắc, nhìn về thôn Mông Phụ, xã Đường Lâm. Trên cánh đồng này có một quán nhỏ là nơi linh cữu ông được quàn và gọi là quán Giang. Ở Hà Nội hiện nay có một con đường mang tên Giang Văn Minh, nối phố Giảng Võ và Kim Mã, quận Ba Đình.
    Để tưởng nhớ công lao và sự nghiệp của Giang Văn Minh, một ngôi đền thờ ông được hậu thế xây dựng ngay tại quê ông, làng Mông Phụ và đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa. Hiện trông coi, hương khói tại ngôi đền là hậu duệ đời thứ 13 của dòng họ Giang - ông Giang Văn Kế. Đền thờ Giang Văn Minh là điểm đến không thể bỏ qua mỗi khi du khách về thăm làng cổ Đường Lâm, đất hai vua.

    Xuân Tuyến - Quốc Huy


    http://www.congan.com.vn/?mod=detnews&catid=942&id=199860


  2. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Sứ thần Giang Văn Minh

    Trang Tri Thức Việt
    http://www.vietgle.vn/trithucviet/detail.aspx?key=Giang Văn Minh&type=A0

    Giang Văn Minh












    Giang Văn Minh là văn thần đời Lê Thần Tông (黎神宗; 1619 - 1643), tự Quốc Hoa, hiệu Văn Chung quê làng Mông Phụ có tên Nôm là làng Kẻ Mía, thuộc xã Đường Lâm, tổng Cam Giá, huyện Phú Lộc, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc xã Đường Lâm, TP Sơn Tây, tỉnh Hà Tây.
    Ông từng đỗ đầu kỳ thi Hội, rồi thi Đình lại đỗ Đình nguyên Thám hoa khoa Mậu Thìn 1628, năm Vĩnh Tộ thứ 10 đời Lê Thần Tông. Khoa thi này không có ai đỗ Trạng nguyên hay Bảng nhãn, vì vậy ông là người đỗ cao nhất trong cả khoa thi. Sau khi đỗ đạt, ông lần lượt được bổ nhiệm vào các chức vụ như Binh khoa đô cấp sự trung (1630), Thái bộc tự khanh (1631).
    Năm 1637 Dương Hòa năm thứ 3, ông và Thiêm đô ngự sử Nguyễn Duy Hiểu được vua cử làm chánh sứ cùng với 4 phó sứ là: Nguyễn Quang Minh, Trần Nghi, Nguyễn Bình và Thân Khuê dẫn đầu hai đoàn sứ bộ sang cầu phong và tuế cống nhà Minh. Lúc này, mặc dù nhà Mạc đã bỏ chạy ra Cao Bằng, nhưng nhà Minh vẫn áp dụng chính sách ngoại giao hai mặt với cả nhà Lê và nhà Mạc nhằm mục đích để cuộc chiến tranh Lê-Mạc kéo dài. Đoàn sứ bộ của Giang Văn Minh sau khi đến Yên Kinh nay là Bắc Kinh, đã bị cản trở, phải nằm chờ ở dịch xá gần 1 năm trời.
    Đến khi triều kiến, Minh Sùng Trinh (tức Minh Tư Tông, Chu Do Kiểm, được xem là vị hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà Minh) lấy lý do “Vì lệ cũ không có những quy định cụ thể cho việc sắc phong, do đó trong khi còn chờ tra cứu chỉ ban sắc thư để tưởng lệ” để ngăn trở việc công nhận sự chính thống của nhà Lê và bãi bỏ công nhận ngoại giao với nhà Mạc. Đại thần nhà Minh có ra câu đối:

    Đồng trụ chí kim đài dĩ lục
    (Cột đồng đến nay rêu đã xanh)
    Câu này có hàm ý nhắc tới việc Mã Viện từng đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, sau đó cho chôn một chiếc cột đồng với lời nguyền: " , Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" (Cột đồng gãy thì Giao Chỉ - tức Đại Việt - bị diệt vong). Trước sự ngạo mạn đó, Giang Văn Minh đã hiên ngang đối lại bằng câu:

    Đằng Giang tự cổ huyết do hồng
    (Sông Đằng từ xưa máu còn đỏ)
    Vế đối này vừa chỉnh, vừa có ý nhắc lại việc người Việt đã ba lần đánh tan quân xâm lược phương Bắc trên sông Bạch Đằng.
    Bất chấp luật lệ bang giao, vua Minh đã trả thù bằng cách trám đường vào miệng và mắt ông, rồi cho người mổ bụng xem “bọn sứ thần An Nam to gan lớn mật đến đâu”. Sự việc này xảy ra vào ngày mùng 2 tháng 6 năm Kỷ Mão (1639). Minh Tư Tông còn cho ướp xác ông bằng bột thủy ngân và cho sứ bộ ta đem thi hài ông về nước.
    Khi thi hài của ông về đến Kinh thành Thăng Long, vua Lê Thần Tông và chúa Trịnh Tráng bái kiến linh cữu ông và truy tặng chức Công bộ Tả thị lang, tước Vinh quận công, ban tặng câu “使不 , Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng” (tức là Sứ thần không làm nhục mệnh vua, xứng đáng là anh hùng thiên cổ).
    Một câu đối truy điệu Thám hoa Giang Văn Minh có viết:
    Nguyên văn:
    , , .
    , , .
    Phiên âm:
    Thục bất hữu sinh, sinh như công dã, kỳ sinh như vinh.
    Thục bất hữu tử, tử như công giả, kỳ tử do sinh.
    DỊch nghĩa:
    Ai cũng sống, sống như ông, thật đáng sống
    Ai cũng chết, chết như ông, chết như sống.
    Sau khi thi hài được đưa về nước, Giang Văn Minh được chôn cất tại Đồng Dưa, thuộc xứ Gò Đông, thôn Mông Phụ, xã Đường Lâm.
    Hiện nay, nhà thờ ông ở làng Mông Phụ đã được nhà nước Việt Nam xếp hạng là Di tích lịch sử - văn hóa.

  3. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Sứ thần Giang Văn Minh


    Sứ thần “bất nhục quân mệnh” năm ấy (1639)
    Không chỉ có một Giang Văn Minh
    2:14, 25/03/2012

    Tìm hiểu sự kiện sang sứ nhà Minh của sứ thần Giang Văn Minh, tôi gõ sử liệu ở Bách Khoa toàn thư mở Wikipedia, thấy ghi: “Ngày 30 tháng 12 năm Dương Hòa thứ 3 đời Hậu Lê (1637), Phúc Lộc Hầu Giang Văn Minh và Thiêm đô ngự sử Nguyễn Duy Hiểu được vua cử làm Chánh sứ cùng với 4 phó sứ Nguyễn Quang Minh, Trần Nghi, Nguyễn Bình và Thân Khuê dẫn đầu, 2 sứ bộ sang cầu phong và tuế cống nhà Minh”.

    Vì sao lại 2 sứ bộ đi cùng trong một năm? Đó là theo tiền lệ từ đầu thời Lê trung hưng, việc tuế cống nhà Minh vốn giữ lệ 3 năm một lần, nhưng để giảm đi lại, sau quy định 6 năm một lần, nhưng phải tính là hai lễ (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Bang giao chí). Từ năm Hoằng Định thứ 14 (1613) đến năm Đức Long thứ 2 (1630) đã có 4 cặp đôi sứ thần như vậy!
    Gian nan đi sứ - Thập nhân khứ, nhất nhân hoàn
    Hiện tình lúc đó, nhà Mạc thua chạy lên Cao Bằng, cầm cự với triều Hậu Lê. Nhà Minh áp dụng chính sách ngoại giao hai mặt, mục đích muốn kéo dài cuộc phân tranh Lê - Mạc để nước ta suy yếu, nên vua Minh Sùng Trinh lấy lý do: “Vì lệ cũ không có quy định cụ thể cho việc sắc phong, do đó khi chờ tra cứu chỉ ban sắc thư để tưởng lệ”, (trì hoãn việc phong vương cho nhà Hậu Lê, duy trì bang giao tuế cống của nhà Mạc).
    Đi sứ những năm ấy là thập phần nguy hiểm: Quân nhà Mạc phục kích giết sứ thần, vừa đoạt được cống vật quý hiếm, vừa phá việc cầu phong của vua Lê. Có đoàn sứ thần hàng trăm người, phải đi đường biển từ vùng Chiêm Thành, đi ghé thuyền buôn người Quảng Đông, lênh đênh trên biển, gian nan đường bộ, ăn chực nằm chờ đến hơn hai năm mới đến được Yên Kinh (Bắc Kinh) được yết kiến vua nhà Minh.
    Việc thảm sát sứ thần Giang Văn Minh xảy ra vào ngày 2 tháng 6 Kỷ Mão (1639). Giai thoại về Thám hoa Giang Văn Minh có lẽ không người Việt nào không biết: Giữa triều đình nhà Minh, khi vua Sùng Trinh muốn làm nhục sứ thần ta bằng cách ra vế đối: Đồng trụ chí kim đài dĩ lục (Cột đồng trụ đến nay rêu đã xanh, nhắc đến cột đồng Mã Viện chôn sau khi đánh thắng Hai Bà Trưng, với lời nguyền: Cột đồng này gãy thì dân Giao Chỉ sẽ bị diệt vong).
    Chánh sứ Giang Văn Minh trước mặt sứ thần các nước và triều đình nhà Minh đã hiên ngang đối lại: Đằng Giang tự cổ huyết do hồng (Sông Bạch Đằng tự xưa còn đỏ máu, nhắc nhà Minh: quân phương Bắc từng thảm bại trên sông Bạch Đằng). Có thể nói, chỉ 7 chữ xuất thần này đã hội tụ được cả tinh anh, linh khí non sông! Vua Sùng Trinh bị hạ nhục đã bất chấp mọi quy định bang giao, sai gắn trám đường vào miệng, vào mắt cụ, mổ bụng xem sứ thần Việt Nam to gan đến thế nào, cho ướp xác bằng thủy ngân để sứ bộ mang về.
    Wikipedia ghi khá rõ danh tính, tước vị chánh sứ thứ hai Nguyễn Duy Hiểu và 4 phó sứ của hai sứ đoàn Việt, chỉ chưa ghi được chi tiết về hành trạng, số phận của vị chánh sứ này!
    Người cha, bậc cha mẹ của dân
    Nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11/2011, tôi được dự lễ trao Giải thưởng Nguyễn Duy Thì ở ngay trường trung học phổ thông mang tên cụ (thuộc xã Gia Khánh, huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc, chỉ cách ngôi đền chính của vị danh thần đời Lê trung hưng này khoảng 15 km thuộc xã Yên Lãng, huyện Yên Lãng, Vĩnh Phúc). Giải thưởng do hậu duệ của cụ Nguyễn là các ông Nguyễn Duy Mùi, Nguyễn An Kiều đại diện dòng họ lập ra để tưởng nhớ cụ và hàng năm khích lệ các em học sinh học giỏi của trường (mà bản thân sự đỗ đạt vinh thăng của cha con cụ đã là tấm gương sáng. Cụ Nguyễn Duy Thì chính là thân phụ của vị sứ thần Nguyễn Duy Hiểu nói trên: cả hai cha con đều thi đỗ Tiến sĩ vào năm 27 tuổi).

    [​IMG]
    Minh họa: Lê Phương
    Tìm hiểu thêm trong cuốn Các vị tư nghiệp và tế tửu Quốc Tử Giám, tôi được biết thêm: “…Ngót 30 năm phục vụ triều đình, người thời bấy giờ trông cậy, tôn kính cụ. Cụ thọ 81 tuổi. Nguyễn Duy Thì là một tể tướng danh tiếng thời Lê - Trịnh, được danh sĩ Phạm Đình Hổ viểt trong Tang thương ngẫu lục: “Ông luôn giữ mình ngay thẳng và khéo thay đổi được ý vua chúa”. Thí dụ một buổi, ông đang về nghỉ ở quê Yên Lãng, nghe tin chúa Thanh vương Trịnh Tráng ngự thuyền rồng đi kinh lý Sơn Tây, tiện đường muốn rẽ vào làng Mông Phụ thăm nhà một bà phi đang được chúa yêu dấu. Đoàn tùy tùng của chúa tiền hô hậu ủng cờ xí rợp trời, thanh thế uy nghi, lại ngẫu hứng rẽ vào thăm nhà một phi tần. ông nghe tin, không khỏi bất bình, khi chúa qua hạt Yên Lãng, đã ra phục lạy ở bến sông, tâu: “Nay bốn phương không giặc giã, sao lại vì một người đàn bà mà làm nhọc đến sáu quân, như vậy quốc thể còn ra sao nữa?”. Chúa nghe, biết ông nói phải, đang ngần ngừ chưa ra lệnh hồi loan thì ông đã truyền cho quân sĩ không được bơi thuyền tiến lên nữa, trái lệnh sẽ trị tội theo quân pháp.
    Đó là một hành động thật dũng cảm, cùng lúc làm phật ý chúa và gây thù oán với bà phi đang được chúa yêu vì. Tể tướng Nguyễn Duy Thì còn nổi tiếng vì luôn có hành động can gián vua chúa, bênh vực bách tính như vụ cứu được dân các làng Thạch Đà, Đình Xá khỏi bị quân đội triều đình bức hại. Tể tướng Nguyễn Duy Thì đã nhắc lại tư tưởng vì dân của Nguyễn Trãi 200 năm trước trong bản khải trình nổi tiếng (năm 1612), đệ lên Bình An Vương Trịnh Tùng, được các sử gia ghi chép trong bộ sách Đại Việt sử ký toàn thư: “Dân là gốc của nước, đạo trị nước cốt ở yên dân. Trời với dân đều một lẽ, lòng dân vui thì thuận ý trời, nên người giỏi trị nước phải yêu dân như yêu con”. Điều này như đã thành chân lý muôn đời với bất kể chính thể nào muốn tồn tại lâu dài!
    Người con sớm đại đăng khoa, sớm đền nợ nước
    Thiêm đô ngự sử Nguyễn Duy Hiểu được ghi khá chi tiết trong cuốn Các vị tư nghiệp và Tế tửu Văn Miếu Quốc Tử Giám: “Nguyễn Duy Hiểu (1602-1639) là con trưởng cụ Nguyễn Duy Thì, cùng đỗ Tiến sĩ năm 27 tuổi, khoa thi năm Mậu Thìn (1628) cùng khoa với Thám hoa Giang Văn Minh (56 tuổi). Cả hai đều có tên trên bia đá Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội (bia số 32)… Năm 1637, được cử làm Chánh sứ một đoàn đi tuế cống nhà Minh, cùng đi với sứ đoàn do cụ Giang Văn Minh làm Chánh sứ, cả hai Chánh sứ đều đã hy sinh (1639), và có ghi trong sách Đăng khoa lục”.
    Linh cữu Chánh sứ Nguyễn Duy Hiểu (mất năm 37 tuổi) do chính cha ông, quận công Nguyễn Duy Thì (67 tuổi), được lệnh nhà vua dẫn một đoàn lên cửa quan đón thi hài cả hai Chánh sứ về. Hiện đền thờ cụ Nguyễn Duy Thì còn lưu giữ bảy đạo sắc phong đời vua Lê Thần Tông. Đặc biệt có đạo rất quý hiếm, đó là tấm sắc phong vua Lê ghi nhận công lao đi sứ của Hoàng Giáp Chánh sứ Nguyễn Duy Hiểu, có đóng Quốc ấn “Hoàng đế chí bảo” cho thấy vua Lê Thần Tông và triều đình thời chúa Trịnh Tráng đánh giá rất cao công lao đi sứ lần ấy. Các sắc phong khác phần nhiều chỉ khen ngợi chung như trung cần, mẫn cán, phụ bật triều chính. Sắc phong này ghi rõ: “…vâng mệnh đi sứ sang Bắc quốc nộp lễ cống, hoàn thành việc nước, có công… Sắc Nguyễn Duy Hiểu… đặc tiến Kim Tử Vinh Lộc đại phu, do vâng mệnh đi Bắc sứ tuế cống, bị bức hại nên đã chết thảm thương, có công lao vì nước mà yên nghỉ khi đang tại chức, nên gia tặng chức Thị lang Bộ Hình, tước Hầu…”. (Các vị tư nghiệp và Tế tửu Quốc Tử Giám - Hà Nội). Nội dung khen tặng và hình thức dấu Quốc ấn có thể sánh ngang với lời vua Lê Thần Tông khen ngợi Chánh sứ Giang Văn Minh: “Đi sứ không làm nhục mệnh vua, thực là anh hùng thiên cổ!” .
    Về Chánh sứ Nguyễn Duy Hiểu, tuy sử liệu và gia phả họ Nguyễn Duy không ghi chi tiết về nguyên do cái chết, nhưng ta thừa biết với cùng một ông vua cậy nước lớn, luôn hạ nhục sứ thần, cùng một thời điểm xảy ra vụ bị Giang Văn Minh làm nhục, cách ứng xử của vua Minh với Chánh sứ Nguyễn sao có thể khác! Cũng không thể khác khi sứ giả Nguyễn Duy Hiểu hẳn cũng vì biết giữ quốc thể không kém người đồng cấp, đồng nhiệm Giang Văn Minh khi bị vua Minh xúc phạm! Vì vậy, ông mới bị bức hại và nhận cái chết thảm thương như lời văn trong đạo sắc phong của vua Lê Thần Tông trích dẫn ở trên!
    Chánh sứ Giang Văn Minh sở dĩ được truyền tụng là nhờ giai thoại với vế đối nổi tiếng kể trên, tức đã có văn để tải sử, dễ nhớ dễ thuộc. Nhưng tôi thiết nghĩ không thể vì thiếu giai thoại để lại mà cái chết vì bảo vệ danh diện quốc gia của Chánh sứ Nguyễn Duy Hiểu kém phần khí tiết!
    Đó là sơ lược hành trạng của hai cha con vị danh thần phụ tử đồng triều thời Hậu Lê: Nguyễn Duy Thì và Nguyễn Duy Hiểu.
    Khi được đọc thêm Ngô Đức Thọ blog, nhà nghiên cứu Hán - Nôm Ngô Đức Thọ còn cho biết nhiều chi tiết đáng quý khác của dòng họ Nguyễn Duy qua công trình nghiên cứu Hoàng giáp Nguyễn Duy Hiểu (1602-1639), nhà ngoại giao có công với nước: Cụ tổ 4 đời về trước của Nguyễn Duy Hiểu là Hoàng giáp Nguyễn Duy Tường, đỗ đại khoa thời Lê Thánh Tông (1508), cũng từng đi xứ sang nhà Minh. Khi Mạc Đăng Dung đoạt ngôi nhà Lê, ông cùng một số nhà khoa bảng dấy binh chống lại. Thế cô, lực yếu, hương binh của ông bị quân Mạc Đăng Dung đánh bại, ông tử trận. Vậy là khi quốc biến, văn thần trở thành võ tướng!
    Ngược dòng phả hệ, cụ tổ 5 đời về trước của Hoàng giáp Nguyễn Duy Hiểu, là một vị khoa bảng tài năng: cụ Nguyễn Bảo Khuê, mà tài thơ đã được vua Lê Thánh Tông vời tham gia Tao Đàn nhị thập bát tú, ngày đêm bàn chuyện văn chương với ông vua thi sĩ.
    Đến thời hiện đại, một điều đáng quý nữa là con cháu dòng họ này vẫn tiếp nối những đóng góp vẻ vang như họa sư Nam Sơn Nguyễn Vạn Thọ, người đồng sáng lập Trường Cao đẳng Mỹ Thuật Đông Dương năm 1925; kỹ sư Nguyễn An Kiều, một doanh nhân đại diện cho chi nhánh Điện lực Alstom (Pháp) là người nối dõi, vừa thành lập Giải thưởng hằng năm Nguyễn Duy Thì cho trường phổ thông trung học mang tên cụ.
    Tôi có cùng ý nghĩ với nhà nghiên cứu Hán - Nôm Ngô Đức Thọ: “Chúng ta cần có sự đánh giá công bằng với vị sứ thần Nguyễn Duy Hiểu mà khí tiết chẳng hề kém sứ thần Giang Văn Minh. Chỉ có điều đáng tiếc: hình như kho sách cổ của chúng ta không còn lưu giữ được tập văn thơ nào của cả hai vị sứ thần “bất nhục quân mệnh” này!"[​IMG]


    Vân Long
    http://antgct.cand.com.vn/vi-VN/sotay/2012/4/55836.cand


    -------------------

    Kinh quá, đi sứ "thập nhân khứ nhất nhân hòan" giống hệt quân Nguyên Mông đi đánh Đại Việt thuở xưa
  4. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Giai thoại Bác Hồ lấy Táo trong tiệc Paris cho trẻ con Pháp
    *
    Ngày xưa trong sách Tập Đọc của Bộ Giáo Dục Việt Nam xuất bản
    ở Hà Nội cho trẻ con học trong trường phổ thông, có truyện Bác Hồ
    lúc đi Paris ký hiệp ước sơ bộ với Pháp, đã nhặt một trái Táo
    trên bàn hội nghị đút vào túi may kiểu Tôn Trung Sơn. Các cán
    bộ đi cùng tròn mắt mà không biết nói sao trước hàng nghìn con
    mắt người Pháp có mặt. Bác thản nhiên bước đi. Ra đến cửa phòng
    họp, Bác móc túi lấy trái táo ra, đưa cho một đứa bé đang đứng
    cùng với bố mẹ ở đó để đón chào phái đoàn ta. Đứa bé và bố mẹ
    hết sức cảm động. Các quan chức Pháp có mặt vừa cảm động vì tấm
    lòng yêu người của Bác, vừa hổ thẹn vì mình đã không làm như thế.
    *
    Tiếc thay, bài Tập đọc trên đã không còn bản giữ lại làm kỷ niệm
    như bài báo em Lê Văn Tám tự đốt cháy mình lao vào kho xăng.
    *
  5. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    "Yếu điểm chết người" của giai thoại trên là ở các hội nghị quốc tế quan trọng người ta chỉ dọn các lại thức uống không cồn lên bàn hội nghị như trà, nước khoáng...Còn muốn ăn một chút gì thì bên ngoài phòng họp đã có bàn bày thức ăn như hoa quả, bánh ngọt, sandwich...dành cho tea break. Thật hài hước khi tưởng tượng là tranh thủ trong lúc ông bộ trưởng ngoại giao đọc diễn văn, ông thủ tướng ngoạm lấy ngoạm để một quả táo...Còn ở tiệc chiêu đãi thì ***** thích cầm về bao nhiêu quả táo chắc cũng không thành vấn đề...
  6. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Tôi không nhó rõ cuộc họp đó có phải là cuộc họp ký kết
    Hiệp Nghị Sơ Bộ hay không. Thì cứ coi như cuộc họp trong
    giai thoại là Tiệc Chiêu Đãi Bác nhà ta đi.
    *
    Vậy sao nó bây giờ lại là giai thoại, chứ không có sách
    vở ghi chép chính thức vào cuộc đời của Bác?
    *
    Một giai thoại khác về Bác Hồ.
    Đó là giai thoại Bác Hồ khóc sau Cải Cách Ruộng Đất.
    *
    Gọi là giai thoại, vì tôi ở miền Bắc Việt Nam cho đến
    năm hơn 3 chục tuổi mới lên thuyền buồm đi Hong Kong,
    mà chưa từng biết chuyện này. Mãi bây giờ mới thấy.
    *
    Tôi cũng tò mò muốn biết giai thoại này đầu đuôi ra sao.
    Bạn nào biết chút ít, cứ chia sẻ với bà con. Được chừng
    nào hay chừng đó.
    *
  7. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Sứ thần Giang Văn Minh

    Giang Văn Minh: Vị sứ thần bất khuất

    Giang Văn Minh thuở nhỏ nổi tiếng là người ham học, ông người làng Mông Phụ, xã Đường Lâm (nay thuộc thị xã Sơn Tây). Năm 1628, đời vua Lê Thần Tông, triều đình mở khoa thi, ông đã đỗ Thám hoa trong kỳ thi ấy và được triều đình trọng dụng.

    Năm 1637, Giang Văn Minh được triều đình cử sang sứ nhà Minh.
    Tiếp sứ giả Giang Văn Minh của nhà Lê, vua nhà Minh tỏ ra ngạo mạn khinh miệt dân, trong lúc đàm đạo vua Minh đã ra một vế đối nhằm hạ nhục sứ giả của triều Lê. Vua Minh đọc:


    “Đồng trụ chí kim đài dĩ lục” nghĩa là “Cột đồng đến nay rêu đã mọc xanh”. Vế ra của vua Minh nhằm nhắc lại một sự kiện lịch sử đau buồn của dân Đại Việt. Số là vào năm 40 sau Công nguyên, Hai Bà Trưng đã phất cờ khởi nghĩa chống lại ách độ hộ của nhà Hán. Mã Viện là một viên tướng tài ba của vua Hán được vua Hán phong là Phục Ba tướng quân, đem quân sang đàn áp cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Hai bà thất trận phải tự vẫn. Tục truyền sau khi thắng lợi, Mã Viện đã dựng: “Cột đồng Đông Hán” làm phân giới với lời tuyên bố xấc xược: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”. Nghe vế ra đối của vua Minh, Giang Văn Minh thấy vua Minh đã xúc phạm đến danh dự của dân tộc. Mặt ông nóng bừng nhưng vẫn giữ vẻ bình tĩnh, ông đã khẳng khái đối lại:


    “Đằng Giang tự cổ huyết do hồng” (Sông Bạch Đằng từ xưa máu vẫn còn đỏ). Vế đối của Giang Văn Minh đã dõng dạc nhắc lại sự tích ba lần quân xâm lược phương Bắc sang đánh nước ta và đều bị thất bại thảm hại. Đó là các chiến thắng của Ngô Quyền, của vua Lê Đại Hành và của Hưng Đạo Đại vương những trận đánh lớn tiễu trừ quân xâm lược đều ở sông Bạch Đằng. Cả ba cuộc chiến trên, máu quân thù đã chảy đỏ cả dòng sông.


    Vua Minh nghe vế đối thì tái mặt vì không khuất phục được sứ thần nước ta mà còn bị Giang Văn Minh dạy cho một bài học nhớ đời. Vua Minh cay cú tức giận đã ra lệnh trám mũi, trám miệng rồi mổ bụng moi gan Giang Văn Minh.


    Giang Văn Minh hy sinh năm 57 tuổi. Thi hài ông được mang về an táng tại quê nhà. Cảm động trước sự hy sinh lẫm liệt của Thám hoa sứ giả, dân khắp vùng đều tỏ lòng thương nhớ đến viếng ông. Đặc biệt cảm kích trước vị sứ giả kiên cường, vua Lê Thần Tông và chúa Trịnh Tráng đã về tận Đường Lâm dự lễ an táng ông và khen ngợi: “Đi sứ không làm nhục mệnh nước, thật là anh hùng kim cổ”.


    Ngày nay ở Đường Lâm vẫn còn phần mộ và nhà thờ của Giang Văn Minh. Ở quận Ba Đình của thủ đô Hà Nội có một đường phố mang tên Giang Văn Minh.
    Giết sứ giả như vua nhà Minh là việc làm hèn mạt. Không sợ cường quyền, bất khuất, nêu cao lòng tự tôn dân tộc của sứ giả Giang Văn Minh là một việc làm anh hùng. Chỉ với một vế đối: “Đằng Giang tự cổ huyết do hồng” Giang Văn Minh xứng đáng được người đương thời cũng như các thế hệ tiếp theo tôn kính. Ông sống mãi với truyền thống anh hùng của dân tộc. Vinh quang và đẹp đẽ thay!

    THÁI GIA THƯ​
  8. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Sứ thần Giang Văn Minh


    Tổ Tiên ta, Giang Văn Minh, đã bị giặc Tàu đối xử như thế nào ?


    Giang Văn Minh (chữ Hán: 江文明, 1573 - 1638[1]) tự Quốc Hoa, hiệu Văn Chung, là quan nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Ông được mệnh danh là vị sứ thần “Bất nhục quân mệnh” (Không để nhục mệnh vua) vì đã đối đáp thẳng thắn trước triều đình Trung Quốc và bị vua Minh Tư Tông hành hình vào năm 1638, thọ 65 tuổi.




    [​IMG]
    Đền thờ Giang Văn Minh. Ảnh: internet




    [​IMG]
    Nhà thờ Thám hoa Giang Văn Minh Ảnh: internet​


    Ông sinh năm 1573, tại làng Kẻ Mía, xã Mông Phụ, tổng Cam Giá, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây trước năm 1945)[2], (nay thuộc xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây , Hà Nội. Ông từng đỗ đầu kỳ thi Hội, rồi thi Đình lại đỗ Đình nguyên Thám hoa khoa Mậu Thìn, năm Vĩnh Tộ thứ 10 (1628) đời Lê Thần Tông[3]. Khoa thi này không có ai đỗ Trạng nguyên hay Bảng nhãn, vì vậy ông là người đỗ cao nhất trong cả khoa thi[3]. Sau khi đỗ đạt, ông lần lượt được bổ nhiệm vào các chức vụ như Binh khoa đô cấp sự trung (1630)[3], Thái bộc tự khanh (1631)[3].



    Ngày 30 tháng 12 năm Dương Hòa thứ 3 (1637), ông và Thiêm đô ngự sử Nguyễn Duy Hiểu được vua cử làm chánh sứ cùng với 4 phó sứ là: Nguyễn Quang Minh, Trần Nghi, Nguyễn Bình và Thân Khuê dẫn đầu hai đoàn sứ bộ sang cầu phong và tuế cống nhà Minh[1]. Sau khi chết, ông được truy tặng chức Công bộ Tả thị lang, tước Vinh quận công[1].




    [​IMG]
    Mộ Thám hoa Giang Văn Minh​



    [​IMG]
    Mộ Thám hoa Giang Văn Minh. Bốn chữ Hán: THIÊN CỔ ANH HÙNG. Ảnh: Đỗ Ngọc Sơn



    Vào thời điểm ông đi sứ, mặc dù nhà Mạc đã bỏ chạy ra Cao Bằng, nhưng nhà Minh vẫn áp dụng chính sách ngoại giao hai mặt (với cả nhà Hậu Lê và nhà Mạc) với mục đích để cuộc chiến tranh Lê-Mạc kéo dài[4]. Đoàn sứ bộ của Giang Văn Minh đến Yên Kinh (nay là Bắc Kinh) vào năm 1638.


    Đến khi triều kiến, Minh Tư Tông Chu Do Kiểm (tức hoàng đế Sùng Trinh) lấy lý do “Vì lệ cũ không có những quy định cụ thể cho việc sắc phong, do đó trong khi còn chờ tra cứu chỉ ban sắc thư để tưởng lệ” để ngăn trở việc công nhận sự chính thống của nhà Hậu Lê và bãi bỏ công nhận ngoại giao với nhà Mạc.

    Đồng thời, Chu Do Kiểm còn ngạo mạn ra cho sứ bộ một vế đối như sau:

    “Đồng trụ chí kim đài dĩ lục”"

    Nghĩa là:
    Cột đồng đến nay rêu đã xanh[5]

    Câu này có hàm ý nhắc tới việc Mã Viện từng đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, sau đó cho chôn một chiếc cột đồng với lời nguyền: "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" (Cột đồng gãy thì Giao Chỉ - tức Đại Việt - bị diệt vong).


    Trước sự ngạo mạn đó, Giang Văn Minh đã hiên ngang đối lại bằng câu:

    "Đằng Giang tự cổ huyết do hồng"


    Nghĩa là:

    Sông Đằng từ xưa máu còn đỏ[5]

    Vế đối này vừa chỉnh, vừa có ý nhắc lại việc người Việt đã ba lần đánh tan quân xâm lược phương Bắc trên sông Bạch Đằng.




    [​IMG]
    Mộ Thám hoa Giang Văn Minh. Bốn chữ Hán: THIÊN CỔ ANH HÙNG. Ảnh: Đỗ Ngọc Sơn​


    Quán Giang. Nơi quàn thi hài của Giang Văn Minh khi đưa từ Trung Quốc về. Ảnh: Đ.N.Sơn

    Vào thời bấy giờ, câu đối này được xem là cái tát thẳng vào mặt hoàng đế nhà Minh trước đông đảo văn võ bá quan của Thiên triều và sứ bộ các nước. Vua nhà Minh bừng bừng lửa giận quên mất thể diện thiên triều, bất chấp luật lệ bang giao, đã trả thù bằng cách trám đường vào miệng và mắt ông, rồi cho người mổ bụng xem “bọn sứ thần An Nam to gan lớn mật đến đâu”.

    Sự việc này xảy ra vào ngày mùng 2 tháng 6 năm Kỷ Mão (1639). Nhưng Minh Tư Tông vẫn kính trọng ông còn cho ướp xác ông bằng bột thủy ngân và đưa thi hài ông về nước[5][6] Khi thi hài của ông về đến Kinh thành Thăng Long, vua Lê Thần Tông và chúa Trịnh Tráng bái kiến linh cữu ông[5] và truy tặng chức Công bộ Tả thị lang, tước Vinh quận công[1], ban tặng câu “Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng” (tức là Sứ thần không làm nhục mệnh vua, xứng đáng là anh hùng thiên cổ)[7].


    Sau khi thi hài được đưa về nước, Giang Văn Minh được chôn cất tại Đồng Dưa, thuộc xứ Gò Đông, thôn Mông Phụ, xã Đường Lâm[7]. Trên cánh đồng này có một quán (hiện có dạng ngôi nhà) nhỏ là nơi linh cữu ông đã được quàn và gọi là quán Giang. Hiện nay, nhà thờ ông ở làng Mông Phụ đã được nhà nước Việt Nam xếp hạng là Di tích lịch sử - văn hóa[5].

    Ở Hà Nội hiện nay có một con đường mang tên Giang Văn Minh, nối với phố Giảng Võ và phố Kim Mã, quận Ba Đình.


    http://thetiensa.blogspot.com/2011/07/to-tien-ta-giang-van-minh-bi-giac-tau.html
  9. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Sứ thần Giang Văn Minh[/URL][/B]




    Cần thay đổi cách ứng xử với Trung Quốc


    [​IMG]Người Việt biểu tình phản đối Trung Quốc tại Berlin hôm 9/7/11. Ảnh Công Chính




















    Vậy là đã 5 chủ nhật liên tiếp, các công dân Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh đủ mọi thành phần lứa tuổi, không phân biệt giai cấp, địa vị, sang hèn, giàu nghèo... đồng tâm thể hiện lòng yêu nước, sát cánh bên nhau, xuống đường biểu tình phản đối Trung Quốc gây hấn ở biển Đông.
    Việt Nam có câu: “Tức nước vỡ bờ”. Nhân dân Việt Nam không thể im lặng chịu nhục để Bắc Kinh muốn làm gì thì làm. Không thể để Trung Quốc coi biển Đông là “ao nhà” của họ. Dân Việt trong và ngoài nước đã xuống đường. Các cuộc biểu tình của người dân có tác động không nhỏ đối với Bắc Kinh. Chẳng thế mà họ yêu cầu phía Việt Nam cần phải “định hướng dư luận”.
    Trung Quốc và Việt Nam từ xưa đến nay vẫn được coi là hai nước láng giềng “núi liền núi, sông liền sông” đều là “anh em”, đều là “đồng chí” của nhau. Họ còn có 16 chữ vàng và 4 tốt. Họ lại còn định xây dựng Cung văn hoá hữu nghị Việt – Trung tại Hà Nội để tỏ ra hữu hảo, đoàn kết. Vậy mà, Bắc Kinh lúc nào cũng chỉ muốn “dạy cho Việt Nam một bài học”. Hàng ngàn năm nay, họ không từ bỏ dã tâm xâm lược, thôn tính Việt Nam.
    Lãnh đạo cao nhất của nhà nước Việt Nam không thể nhẫn nhịn hơn được nữa, đã lên tiếng phản kháng: “Chúng ta không tham lam của ai, nhưng một tấc đất của ông cha cũng không chịu nhân nhượng”. Còn nhân dân Việt Nam thì đồng lòng xuống đường biểu tình. Đó cũng là cách mà người dân ủng hộ Chính phủ. Nước lấy dân làm gốc!
    Chưa bao giờ đất nước “dầu sôi lửa bỏng” như lúc này.
    Chưa bao giờ lòng dân Việt Nam sôi sục như lúc này.
    Dĩ nhiên, vẫn có một số người đang còn ngu ngơ, mù mờ, lạnh lùng trước vận mệnh dân tộc. Họ mắc bệnh vô cảm hoặc sợ hãi. Họ đi nhẹ, nói khẽ, họ tránh né, lựa lời. Nhưng Tổ quốc trên hết, tất cả muôn dân đều quyết tâm bảo vệ chủ quyền, biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

    [​IMG]Người Việt biểu tình phản đối Trung Quốc tại Berlin hôm 9/7/11. Ảnh Công Chính

    Nhìn lại hàng ngàn năm qua, sau mỗi triều đại đánh thắng quân xâm lược phương Bắc. Cha ông ta lại cử sứ thần sang Trung Quốc để “hoà hiếu” và nhận chỉ dụ, sắc phong. Các phái bộ đi mấy tháng trời mới đến được Bắc Kinh để tiếp kiến Thiên triều. Vì là nước nhỏ nên các cụ cứ phải giữ hoà khí, có vậy mới giữ yên được bờ cõi. Nhưng không vì thế mà các Sứ thần tỏ ra khúm núm, sợ sệt. Câu chuyện về Sứ thần Giang Văn Minh còn mãi đến hôm nay. Ông được mệnh danh là vị sứ thần “Bất nhục quân mệnh” (Không để nhục mệnh vua) vì đã đối đáp thẳng thắn trước triều đình Nhà Minh và bị vua Minh Tư Tông hành hình vào năm 1638, thọ 65 tuổi.
    Chuyện kể rằng: Vào thời điểm ông đi sứ, mặc dù nhà Mạc đã bỏ chạy ra Cao Bằng, nhưng nhà Minh vẫn áp dụng chính sách ngoại giao hai mặt (với cả nhà Hậu Lê và nhà Mạc) với mục đích để cuộc chiến tranh Lê-Mạc kéo dài. Đoàn sứ bộ của Giang Văn Minh đến Yên Kinh (nay là Bắc Kinh) vào năm 1638.
    Đến khi triều kiến, Minh Tư Tông Chu Do Kiểm (tức hoàng đế Sùng Trinh) lấy lý do “Vì lệ cũ không có những quy định cụ thể cho việc sắc phong, do đó trong khi còn chờ tra cứu chỉ ban sắc thư để tưởng lệ” để ngăn trở việc công nhận sự chính thống của nhà Hậu Lê và bãi bỏ công nhận ngoại giao với nhà Mạc.
    Đồng thời, Chu Do Kiểm còn ngạo mạn ra cho sứ bộ một vế đối như sau:
    “Đồng trụ chí kim đài dĩ lục”"
    Nghĩa là:
    Cột đồng đến nay rêu đã xanh
    Câu này có hàm ý nhắc tới việc Mã Viện từng đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, sau đó cho chôn một chiếc cột đồng với lời nguyền: "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" (Cột đồng gãy thì Giao Chỉ - tức Đại Việt - bị diệt vong).
    Trước sự ngạo mạn đó, Giang Văn Minh đã hiên ngang đối lại bằng câu:
    "Đằng Giang tự cổ huyết do hồng"
    Nghĩa là:
    Sông Đằng từ xưa máu còn đỏ
    Vế đối này vừa chỉnh, vừa có ý nhắc lại việc người Việt đã ba lần đánh tan quân xâm lược phương Bắc trên sông Bạch Đằng.
    Vào thời bấy giờ, câu đối này được xem là cái tát thẳng vào mặt hoàng đế nhà Minh trước đông đảo văn võ bá quan. Vua Minh bừng bừng lửa giận quên mất thể diện thiên triều, bất chấp luật lệ bang giao, đã trả thù rất dã man bằng cách trám đường vào miệng và mắt ông, rồi cho người mổ bụng xem “bọn sứ thần An Nam to gan lớn mật đến đâu”. Sự việc này xảy ra vào ngày mùng 2 tháng 6 năm Kỷ Mão (1639). Nhưng Minh Tư Tông vẫn kính trọng ông còn cho ướp xác ông bằng bột thủy ngân và đưa thi hài ông về nước. Khi thi hài của ông về đến Kinh thành Thăng Long, vua Lê Thần Tông và chúa Trịnh Tráng bái kiến linh cữu ông và truy tặng chức Công bộ Tả thị lang, tước Vinh quận công, ban tặng câu “Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng” (tức là Sứ thần không làm nhục mệnh vua, xứng đáng là anh hùng thiên cổ).
    Sứ thần Giang Văn Minh được chôn cất tại Đồng Dưa, thuộc xứ Gò Đông, thôn Mông Phụ, xã Đường Lâm, Sơn Tây, Hà Nội.
    Đó là chuyện ứng xử, luôn coi Trung Quốc là Thiên triều của người Việt. Còn nước Nhật cũng kề cận với Trung Quốc, nhưng họ ứng xử khác hơn.
    Theo tác giả Nguyễn Lương Hải Khôi thì Nhật không coi Trung Quốc là Thiên Triều. Trung Quốc không may mắn có cái vị trí ấy. Trong suốt lịch sử trung đại, không có bất kỳ một ông Nhật hoàng nào cử sứ giả sang Trung Quốc xin tước phong. Ngay trong bức thư đầu tiên gửi Tùy Dạng Đế để thiết lập quan hệ ngoại giao, thái tử Shotoku đã mở đầu: "Thư này là thư của thiên tử xứ mặt trời mọc gửi thiên tử xứ mặt trời lặn". Trung Quốc dĩ nhiên là tức giận, nhưng phải chấp nhận. Rồi dần dần thành quen, và... chấp nhận vĩnh viễn.
    Với chúng ta, chỉ khi nào bán nước như Lê Chiêu Thống thì mới bị nguyền rủa, còn "nộp cống xưng thần" là chuyện nhỏ, ngay cả với Lê Thái Tổ hay Quang Trung. Ở Nhật Bản, Ashikaga Yoshimitsu (cuối thế kỷ 14), là vị Shogun (tức "tướng quân", dưới quyền Nhật hoàng) duy nhất trong lịch sử Nhật nhận tước phong của Trung Quốc. Và chỉ có thế, cái tên của ông này đã bị lịch sử Nhật Bản muôn đời nguyền rủa như một vết nhơ khó rửa của dân tộc.
    Như vậy, ngay cả khi không hề có chiến tranh, nước Nhật vẫn thiết định một tư thế bình đẳng trong ngoại giao.
    Thiết nghĩ, cách ứng xử của cha ông ta trước kia vẫn biết là để giữ hoà khi, để đất nước thái bình. Nhưng thời nay không thể như vậy. Thế giới đã đổi thay. Trung Quốc không thể muốn gì thì làm, họ không thể bất chấp dư luận và cộng đồng quốc tế.
    Nhà nước Việt Nam cần phải có cách nhìn khác, cần phải tỏ thái độ rõ ràng trong quan hệ ngoại giao. Không thể mỗi khi có “việc lớn” là chúng ta lại cử sứ thần sang “tiếp kiến”. Gần đây báo chí chính thống cũng vậy, cứ tránh né đủ đường, dùng từ khó chấp nhận. Tàu TQ hẳn hoi lại gọi là “tàu lạ”. Biểu tình hẳn hoi lại gọi là “tụ tập đông người”. Sang Trung Quốc “tiếp kiến”, về đưa tin không đầy đủ, thiếu chính xác để Bắc Kinh đưa tin có lợi cho họ, làm cho dân ta hoang mang, hoài nghi về đường lối đối ngoại của Việt Nam.
    Hiện nay, có những vụ việc cần phải làm sáng tỏ như: “ Số lao động TQ bất hợp pháp”, việc công ty Becamex IJC Bình Dương thực hiện dự án lớn “Đông đô Đại phố” dành cho người Hoa ở ngay trung tâm hành chính trong tương lai của Bình Dương. Đây là câu chuyện cần phải bàn, vì hiện nay nhiều tỉnh, nhiều công ty chỉ nghĩ lợi ích kinh tế trước mắt mà không nghĩ đến hậu quả lâu dài đối với vận mệnh đất nước và dân tộc.
    Lúc này cần lắm một sự thật, cần lắm những thông tin công khai minh bạch từ phía Chính phủ. Ngoại giao với TQ phải thiết định một tư thế bình đẳng.
    Phải thay đổi cách ứng xử với Trung Quốc.
    Làm được như vậy thì lòng dân mới yên.

    • Quốc Toản, tapchihuongviet.eu
    LTS: Bài viết thể hiện lối hành văn và quan điểm riêng của tác giả
  10. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Sứ thần Giang Văn Minh



    Trang web của Quốc hội
    http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=80&NewsId=255798
    Sứ thần vì quốc thể

    08:46 | 20/08/2012
    Đọc sử liệu (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia) ta thấy ghi: ngày 30 tháng 12 năm Dương Hòa thứ 3 đời Hậu Lê (1637), Phúc Lộc Hầu Giang Văn Minh và Thiêm đô ngự sử Nguyễn Duy Hiểu được vua cử làm chánh sứ cùng với bốn phó sứ Nguyễn Quang Minh, Trần Nghi, Nguyễn Bình và Thân Khuê dẫn đầu, hai sứ bộ sang cầu phong và tuế cống nhà Minh.
    Hiện tình lúc đó, nhà Mạc thua chạy lên Cao Bằng, cầm cự với triều Hậu Lê. Nhà Minh áp dụng chính sách ngọai giao hai mặt, mục đích muốn kéo dài cuộc chiến Lê Mạc để nước ta suy yếu, nên vua Sùng Trinh (Minh Tư Tông Chu Do Kiểm) lấy lý do: Vì lệ cũ không có quy định cụ thể cho việc sắc phong, do đó khi chờ tra cứu chỉ ban sắc thư để tưởng lệ (hòng ngăn trở hai sự việc triều đình ta yêu cầu: công nhận sự chính thống của nhà Hậu Lê và bác bỏ ngọai giao với nhà Mạc).
    Việc thảm sát sứ thần Giang Văn Minh xảy ra vào ngày 2 tháng 6 Kỷ Mão (1639): gắn trám đường vào miệng và mắt ông, mổ bụng xem to gan lớn mật đến đâu, nhưng cuối cùng vẫn tỏ ý tôn trọng cho ướp xác bằng bột thủy ngân và cho đưa thi hài về nước.
    Sử liệu ghi khá rõ và chi tiết về vị chánh sứ Giang Văn Minh, ghi khá rõ cả danh tính, tước vị chánh sứ thứ hai Nguyễn Duy Hiểu và bốn phó sứ của hai sứ đoàn Việt, chỉ rất ít tài liệu ghi lại, hoặc chưa ghi trong Bách Khoa toàn thư mở số phận của vị chánh sứ thứ hai: Thiêm đô ngự sử Nguyễn Duy Hiểu.
    [​IMG]
    Minh họa của Nhật Song
    Dũng cảm can gián
    Nhân Ngày Nhà giáo VN 20.11.2011, tôi được dự lễ trao Giải thưởng Nguyễn Duy Thì ở ngay trường trung học phổ thông mang tên cụ (thuộc xã Gia Khánh, huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc, chỉ cách ngôi đền chính của vị danh thần đời Lê Trung hưng này khoảng 15 km thuộc xã Yên Lãng, huyện Yên Lãng, Vĩnh Phúc). Giải thưởng do hậu duệ của cụ Nguyễn là các ông Nguyễn Duy Mùi, Nguyễn An Kiều đại diện dòng họ lập ra để tưởng nhớ cụ và hàng năm khích lệ các em học sinh học giỏi của trường (mà bản thân sự đỗ đạt vinh thăng của cha con cụ đã là tấm gương sáng. Cụ Nguyễn Duy Thì chính là thân phụ của vị sứ thần Nguyễn Duy Hiểu nói trên: cả hai cha con đều thi đỗ tiến sĩ vào năm 26 tuổi).
    Tìm hiểu thêm trong cuốn Các vị tư nghiệp và tế tửu Quốc tử giám tôi được biết thêm: “… Ngót 30 năm phục vụ triều đình, người thời bấy giờ trông cậy, tôn kính cụ: cụ thọ 81 tuổi. Nguyễn Duy Thì là một tể tướng danh tiếng thời Lê Trịnh, được danh sĩ Phạm Đình Hổ viết trong Tang thương ngẫu lục: “Ông luôn giữ mình ngay thẳng và khéo thay đổi được ý vua - chúa”.
    Thí dụ một buổi, ông đang về nghỉ ở quê Yên Lãng, nghe tin Chúa Thanh vương Trịnh Tráng ngự thuyền rồng đi kinh lý Sơn Tây, tiện đường muốn rẽ vào làng Mông Phụ thăm nhà một bà phi đang được Chúa yêu dấu. Đoàn tùy tùng của Chúa tiền hô hậu ủng cờ xí rợp trời, thanh thế uy nghi, lại ngẫu hứng rẽ vào thăm nhà một phi tần. Ông nghe tin, không khỏi bất bình, khi Chúa qua hạt Yên Lãng, đã ra phục lạy ở bến sông, tâu: “Nay bốn phương không giặc giã, sao lại vì một người đàn bà mà làm nhọc đến sáu quân, như vậy quốc thể còn ra sao nữa?” Chúa nghe, biết ông nói phải, đang ngần ngừ chưa ra lệnh hồi loan thì ông đã truyền cho quân sĩ không được bơi thuyền tiến lên nữa, trái lệnh sẽ trị tội theo quân pháp.
    Đó là một hành động thật dũng cảm, cùng lúc làm phật ý Chúa và gây thù oán với bà phi đang được Chúa yêu vì. Tể tướng Nguyễn Duy Thì còn nổi tiếng vì luôn có hành động can gián vua chúa, bênh vực bách tính, như vụ cứu được dân các làng Thạch Đà, Đình Xá… khỏi bị quân đội triều đình bức hại.
    Chánh sứ Nguyễn Duy Hiểu: “vì nước yên nghỉ”
    Trong cuốn Các vị tư nghiệp và tế tửu Văn Miếu Quốc Tử Giám ghi khá chi tiết: “Nguyễn Duy Hiểu (1602 - 1639) là con trưởng cụ Nguyễn Duy Thì, cùng đỗ tiến sĩ năm 26 tuổi, khoa thi năm Mậu Thìn (1628) cùng khoa với Thám hoa Giang Văn Minh… Cả hai đều có tên trên bia đá Văn Miếu Quốc Tử Giám, Hà Nội (bia số 32)… Năm 1637, được cử làm chánh sứ một đoàn đi tuế cống nhà Minh, cùng đi với sứ đoàn do cụ Giang Văn Minh làm chánh sứ, cả hai chánh sứ đều đã hy sinh (1639), và có ghi trong sách Đăng khoa lục”.
    Sử liệu ghi: linh cữu chánh sứ Nguyễn Duy Hiểu (mất năm ba mươi bảy tuổi) do chính cha ông, quận công Nguyễn Duy Thì (sáu mươi bảy tuổi), được lệnh nhà vua dẫn một đoàn lên cửa quan đón thi hài cả hai chánh sứ về. Hiện đền thờ cụ Nguyễn Duy Thì có gian bên bày bàn thờ cụ Nguyễn Duy Hiểu còn lưu giữ bảy đạo sắc phong đời vua Lê Thần Tông, có đạo ghi:
    “Sắc Nguyễn Duy Hiểu… đặc tiến Kim Tử Vinh Lộc đại phu, do vâng mệnh đi Bắc sứ tuế cống, bị bức hại nên đã chết thảm thương, có công lao vì nước mà yên nghỉ khi đang tại chức, nên gia tặng chức Thị lang Bộ Hình, tước Hầu…” (Các vị tư nghiệp và tế tửu Quốc Tử Giám).
    Giai thoại về Thám hoa Giang Văn Minh có lẽ không người Việt nào không biết: giữa triều đình nhà Minh, khi vua Sùng Trinh muốn làm nhục sứ thần ta bằng cách ra vế đối: Đồng trụ chí kim đài dĩ lục (Cột đồng trụ đến nay rêu đã xanh, nhắc đến cột đồng Mã Viện chôn sau khi đánh thắng Hai Bà Trưng, với lời nguyền: Cột đồng này gẫy thì dân Giao Chỉ sẽ bị diệt vong). Chánh sứ Giang Văn Minh trước mặt sứ thần các nước và triều đình nhà Minh đã hiên ngang đối lại: Đằng Giang tự cổ huyết do hồng (Sông Bạch Đằng tự xưa còn đỏ máu, nhắc nhà Minh về ba lần quân phương Bắc bị thua trận trên sông Bạch Đằng). Vua Sùng Trinh bị hạ nhục đã bất chấp mọi quy định bang giao, mà sai giết cụ.
    Về chánh sứ Nguyễn Duy Hiểu, tuy sử liệu không ghi chi tiết về nguyên do cái chết, nhưng ta thừa biết với cùng một ông vua Sùng Trinh luôn hạ nhục sứ thần, cùng một thời điểm xảy ra vụ bị Giang Văn Minh làm nhục, cách ứng xử của vua Minh với chánh sứ Nguyễn sao có thể khác! Cũng không thể khác khi sứ giả Nguyễn Duy Hiểu cũng biết giữ quốc thể không kém người đồng cấp, đồng nhiệm Giang Văn Minh khi bị vua Minh xúc phạm! Vì vậy ông mới bị bức hại và nhận cái chết thảm thương như lời văn trong đạo sắc phong của vua Lê Thần Tông trích dẫn ở trên!
    Chánh sứ Giang Văn Minh sở dĩ được truyền tụng là nhờ giai thoại với vế đối nổi tiếng kể trên, tức đã có văn để tải sử, dễ nhớ dễ thuộc. Nhưng tôi thiết nghĩ không vì thiếu giai thoại để lại mà cái chết vì bảo vệ danh diện quốc gia của chánh sứ Nguyễn Duy Hiểu kém phần khí tiết!
    Một điều đáng quý của dòng họ này là nhiều thế hệ có người tài đóng góp cho nền văn hóa dân tộc và cả trên lĩnh vực quân sự: cụ Nguyễn Duy Thì được phong thượng thư Bộ Binh trước khi vinh thăng Thái tể (tể tướng).
    Trong blog của mình, nhà nghiên cứu Hán Nôm Ngô Đức Thọ còn cho biết nhiều chi tiết khác qua công trình nghiên cứu của ông: cụ tổ bốn đời về trước của Nguyễn Duy Hiểu là Hoàng Giáp Nguyễn Duy Tường, đỗ đại khoa thời Lê Thánh Tông (1508), cũng từng đi sứ sang nhà Minh. Khi Mạc Đăng Dung đoạt ngôi nhà Lê, ông cùng một số nhà khoa bảng dấy binh chống lại. Thế cô, lực yếu, hương binh của ông bị quân Mạc Đăng Dung đánh bại, ông tử trận. Vậy là khi quốc biến, văn thần trở thành võ tướng.
    Ngược dòng phả hệ, cụ tổ năm đời về trước của Hoàng giáp Nguyễn Duy Hiểu, là một vị khoa bảng tài năng: cụ Nguyễn Bảo Khuê, mà tài thơ đã được vua Lê Thánh Tông vời tham gia Tao Đàn nhị thập bát tú, ngày đêm bàn chuyện văn chương với ông vua thi sĩ.
    Đến thời hiện đại, con cháu dòng họ này vẫn tiếp nối những đóng góp vẻ vang như họa sư Nam Sơn Nguyễn Vạn Thọ, người đồng sáng lập với danh họa Victor Tardieu trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương năm 1925, mà kỹ sư Nguyễn An Kiều, một doanh nhân đại diện cho chi nhánh Điện lực Alstom (Pháp) là người nối dõi, gần đây thành lập giải thưởng hằng năm Nguyễn Duy Thì cho trường phổ thông trung học mang tên cụ.
    Tôi có cùng ý nghĩ với nhà nghiên cứu Hán Nôm Ngô Đức Thọ: chúng ta cần có sự đánh giá công bằng với vị sứ thần Nguyễn Duy Hiểu mà khí tiết chẳng hề kém sứ thần Giang Văn Minh. Chỉ có điều đáng tiếc: hình như kho sách cổ của chúng ta không còn lưu giữ được tập văn thơ nào của cả hai vị sứ thần “bất nhục quân mệnh” này!

    Vân Long







Chia sẻ trang này