1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những giai thoại..."trời ơi" trong lịch sử

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi vaputin, 13/07/2012.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Sứ thần Giang Văn Minh

    Câu chuyện hy sinh của cụ Giang Văn Minh không được chính sử nào ghi chép nên trước đây có lẽ rất ít người biết đến. Vậy giai thoại này được phổ biến rộng rãi từ bao giờ? Lần theo sách vở Va mỗ chỉ mới tìm thấy chuyện này được đề cập sớm nhất trong quyển "Danh nhân quê hương" của Ty Văn hoá thông tin Hà Sơn Bình, 1976. Sau đó vì có phong trào chống "bành trướng Bắc kinh" nên câu chuyện của cụ chính thức được phổ biến rộng rãi. Hà nội và TP HCM có đường mang tên cụ. Nghiêm trọng hơn giai thọai về Cụ được đưa vào sách giáo khoa để dạy cho các cháu tiểu học.


    http://baigiang.violet.vn/present/show?entry_id=4857805

    Trường Tiểu học số 1 Thị trấn Phù Mỹ
    Môn:tập đọc
    Chào mừng các thầy, cô giáó về dự tiết học
    GV dạy: Võ Thị Thúy Kiều
    Lớp: 5C
    Thứ sáu ngày 17 tháng 01 năm 2011
    Tập đọc
    Kiểm tra bài cũ:
    HS1: Đọc đoạn 1, đoạn 2 và trả lời câu hỏi: Kể lại những đóng góp của ông Thiện trong thời kì trước Cách mạng.
    HS2: Đọc 3 đoạn còn lại và trả lời câu hỏi: Kể lại những đóng góp của ông Thiện khi Cách mạng thành công, trong kháng chiến và sau khi hòa bình lập lại.
    Thứ sáu ngày 17 tháng 01 năm 2011
    Tập đọc
    Trí dũng song toàn
    (Theo §inh Xu©n L©m – Tr­¬ng H÷u Quýnh vµ Trung L­u)
    Luyện đọc:
    Bµi chia lµm 4 ®o¹n:
    §o¹n 1: Tõ ®Çu … cho ra lÏ.
    §o¹n 2: TiÕp theo … ®Ó ®Òn m¹ng cho LiÔu Th¨ng
    §o¹n 3: TiÕp theo … sai ng­êi ¸m h¹i «ng.
    §o¹n 4: Cßn l¹i.
    Thứ sáu ngày 17 tháng 01 năm 2011
    Tập đọc


    §ång trô ®Õn giê rªu vÉn mäc.

    B¹ch §»ng thuë tr­íc m¸u cßn loang.
    I. Luyện đọc:
    II. Tìm hiểu bài:
    Câu 1: Sứ thần Giang Văn Minh làm cách nào để vua nhà Minh bãi bỏ lệ “góp giỗ Liễu Thăng” ?
    Trả lời: Ông vờ khóc than vì không có mặt ở nhà để cúng giỗ cụ tổ năm đời. Vua Minh phán: Không ai phải giỗ người đã chết từ năm đời. Giang Văn Minh tâu luôn: Vậy, tướng Liễu Thăng tử trận đã mấy trăm năm, sao hàng năm nhà vua vẫn bắt nước tôi cử người mang lễ vật sang cúng giỗ ? Vua Minh biết đã mắc mưu đành phải tuyên bố bỏ lệ góp giỗ Liễu Thăng.

    ? : Khi vua Minh tuyên bố bỏ lệ góp giỗ Liễu Thăng thì nước ta thoát được nạn gì ?
    Trả lời:
    Nước ta thoát khỏi nạn mỗi nam cống nạp một tượng vàng để đền mạng Liễu Thăng.

    Cống nạp: nộp vật phẩm cho vua chúa hay nước mà mình chịu khuất phục thời phong kiến (nộp vật phẩm cho Trung Quốc để đền mạng Liễu Thăng)
    II. Tìm hiểu bài:



    Ý 1: Bằng sự mưu trí Giang Văn Minh đã buộc vua Minh phải bỏ lệ cống nạp góp giỗ Liễu Thăng hàng năm
    II. Tìm hiểu bài:

    Câu 2: Nhắc lại nội dung cuộc đối đáp giữa ông Giang Văn Minh với đại thần nhà Minh.
    Trả lời:
    Đại thần nhà Minh ra vế đối:
    Đồng trụ đến giờ rêu vẫn mọc
    Ông đối lại ngay:
    Bạch Đằng thuở trước máu còn loang.
    II. Tìm hiểu bài:

    Câu 3: Vì sao vua nhà Minh sai người ám hại ông Giang Văn Minh ?
    Trả lời:
    Vua Minh mắc mưu Giang Văn Minh, phải bỏ lệ góp giỗ Liễu Thăng nên căm ghét ông.
    - Nay thấy Giang Văn Minh không những không chịu nhún nhường trước câu đối của đại thần trong triều, còn dám lấy việc quân đội cả ba triều đại Nam Hán, Tống, Nguyên đều thảm bại trên sông Bạch Đằng để đối lại nên giận quá, sai người ám hại ông.
    II. Tìm hiểu bài:



    Ý 2: Ông Giang Văn Minh dũng cảm bảo vệ danh dự của đất nước.
    II. Tìm hiểu bài:

    Câu 4: Vì sao có thể nói Giang Văn Minh là người trí dũng song toàn ?
    Trả lời:
    Vì Giang Văn Minh vừa mưu trí vừa bất khuất:
    -Giữa triều đình nhà Minh, ông biết dùng mưu để vua nhà Minh buộc phải bỏ lệ góp giỗ Liễu Thăng cho nước Việt.
    -Để giữ thể diện và danh dự đất nước, ông dũng cảm, không sợ chết, dám đối lại một vế đối tràn đầy lòng tự hào dân tộc.
    II. Tìm hiểu bài:
    Bài văn ca ngợi sứ thần Giang Văn Minh trí dũng song toàn, bảo vệ được quyền lợi và danh dự của đất nước khi đi sứ nước ngoài.
    *Nội dung bài:
    III. Đọc diễn cảm:
    Giäng ®äc cña tõng nh©n vËt:
    -Giäng cña vua nhµ Minh; cña ®¹i thÇn nhµ Minh: h¸ch dÞch, coi th­êng ng­êi kh¸c.
    -Giäng cña «ng Giang V¨n Minh: lóc ®Çu th× vÎ buån lóc sau cøng r¾n, dâng d¹c.
    -Giäng vua Lª ThÇn t«ng: buån, th­¬ng xãt.
    -Giäng ng­êi dÉn chuyÖn: giäng kÓ chuyÖn.

    Chờ rất lâu mà vẫn không được vua nhà Minh cho tiếp kiến, ông vờ khóc lóc rất thảm thiết. Vua Minh liền hạ chỉ mời ông đến hỏi cho ra lẽ.
    Thám hoa vừa khóc vừa than rằng:
    -Hôm nay là ngày giỗ cụ tổ năm đời của thần, nhưng thần không có mặt ở nhà để cúng giỗ. Thật là bất hiếu với tổ tiên!
    Vua Minh phán:
    -Không ai phải giỗ người đã chết từ năm đời. Sứ thần khóc lóc như vậy thật không phải lẽ .
    Giang Văn Minh nghe vậy bèn tâu:
    -Vậy, tướng Liễu Thăng tử trận đã mấy trăm năm, sao hằng năm nhà vua vẫn bắt nước tôi cử người mang lễ vật sang cúng giỗ ?
    III. Đọc diễn cảm:

    Chờ rất lâu mà vẫn không được vua nhà Minh cho tiếp kiến, ông vờ khóc lóc rất thảm thiết. Vua Minh liền hạ chỉ mời ông đến hỏi cho ra lẽ.
    Thám hoa vừa khóc vừa than rằng:
    -Hôm nay là ngày giỗ cụ tổ năm đời của thần, nhưng thần không có mặt ở nhà để cúng giỗ. Thật là bất hiếu với tổ tiên!
    Vua Minh phán:
    -Không ai phải giỗ người đã chết từ năm đời. Sứ thần khóc lóc như vậy thật không phải lẽ .
    Giang Văn Minh nghe vậy bèn tâu:
    -Vậy, tướng Liễu Thăng tử trận đã mấy trăm năm, sao hằng năm nhà vua vẫn bắt nước tôi cử người mang lễ vật sang cúng giỗ ?
    III. Đọc diễn cảm:
    ?: Nhân vật chính trong bài là ai ?
    Trả lời: Thám hoa Giang Văn Minh
    ?: Nhân vật đã để lại cho em ấn tượng gì sâu sắc sau khi học bài này ?
    Trả lời: Đó là một người trí dũng song toàn, biết đặt quyền lợi và danh dự đất nước lên trên tính mạng.
    *Củng cố:
    Mộ Thám hoa Giang Văn Minh
    Khu di tích thờ Giang Văn Minh
    Đền thờ Thám hoa Giang Văn Minh
    Phố Giang Văn Minh ở Hà Nội
    -Về nhà đọc lại bài và trả lời các câu hỏi về nội dung bài hôm nay.
    -Chuẩn bị bài tiếp theo: Tiếng rao đêm.
    *Dặn dò:
    Chân thành cảm ơn
    các thầy cô giáo và các em !
  2. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Sứ thần Giang Văn Minh

    Giai thọai về cụ GVM chủ yếu bao gồm 2 điểm sau:
    1- Cụ dùng mưu để vua nhà Minh bỏ lệ cống người vàng
    2-Cụ ra vế đối nổi tiếng bảo vệ quốc thể để rồi bị giết chết.

    Vậy tại sao không chính sử nào ghi lại hai chiến công ngọai giao oanh liệt này?

    Nếu chính sử không ghi thì cơ sở nào để tin giai thọai trên là có thật?

    Nếu không chứng minh được đó là sự thật thì tại sao người ta dám liều lĩnh đi dạy cho trẻ con?
  3. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Sứ thần Giang Văn Minh

    Chuyện cụ Giang Văn Minh lập mưu bỏ cống người vàng Liễu Thăng được viết rất ngô nghê như thể người viết xem độc giả là trẻ con lớp lá.

    Vả lại sử sách có ghi rõ mãi đến năm 1718, Nguyễn Công Hãng đi sứ nhà Thanh có đề nghị và được vua Khang Hy chấp thuận chấm dứt việc bỏ cống người vàng nên ta có thể chắc chắn việc này cụ Giang Văn Minh không làm.

    Phá bỏ lệ cống người vàng Liễu Thăng

    Sau khi kết thúc chiến tranh Minh - Đại Việt, để giữ yên bờ cõi và, chấm dứt chiến tranh và quan hệ hòa hiếu giữa hai nước, nhà Lê từ Lê Thái Tổ phải chấp nhận lệ cống người vàng Liễu Thăng. Gọi là để đền mạng cho Liễu Thăng bị Lê Sát và nghĩa quân Lam Sơn chém đầu tại núi Mã Yên (đãi thân kim nhân). Từ đó trở đi mỗi khi sang Trung Hoa triều cống, Đại Việt phải đúc một tượng người bằng vàng ròng cùng sản vật địa phương đem sang cống. Việc đó sang thời Lê trung hưng, nhà Thanh lên thay thế nhà Minh vẫn phải tiếp tục. Mãi đến năm 1718, Nguyễn Công Hãng đi sứ nhà Thanh có đề nghị và được vua Khang Hy chấp thuận chấm dứt việc bỏ cống người vàng. Khi Nguyễn Công Hãng sang sứ, ông bảo triều đình ta thôi không đúc người vàng nữa. Đến khi sang Trung Quốc, các quan thiên triều xét đồ cống thấy thiếu liền đem tâu lên vua quan nhà Thanh. Các quan triều Thanh đem chuyện cũ ra hỏi, ông đáp: - Quốc vương nước tôi nối gìn nghiệp cũ, không dám bỏ việc tuế cống còn các việc thu thành, nạp khoán hay bồi thường thì sứ thần này đâu biết đến. Người Thanh lại nhắc lại chuyên Liễu Thăng, ông cười trả lời: - Liễu Thăng là tên bại tướng của nhà Minh. Triều Thanh ta nay bao gồm cả muôn nước mà lại cứ khư khư đi đòi món "của đút" của kẻ thua trận để trả thù cho người xưa, sao đủ để làm gương cho đời sau. (Sau trận Đống Đa năm 1789, nhà Tây Sơn theo lệ thường triều cống và quan hệ với nhà Thanh. Thiên triều Trung Hoa cũng nhắc lại việc người vàng. Nhưng Ngô Thì Nhậm trong quốc thư có cãi lại. lấy cớ là Tây Sơn không giống Mạc mà cũng chẳng giống Lê. Vua Quang Trung xuất thân áo vải mà có được thiên hạ. Nhà Thanh đuối lí lại thôi. Tính ra ta đã cống hơn 500 người vàng cho các triều đại Trung Hoa.)

    http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguyễn_Công_Hãng

    Ngô Thì Nhậm thì cũng không chịu cống người vàng

    Quyết rửa thù kế hay, mưu độc
    Can cớ gì phải nhọc binh đao
    Phải tìm chước lạ, mưu cao
    Âm thầm bủa lưới, mài dao chờ ngày
    Càn Long đế, ban ngay chiếu chỉ
    An Nam vương quốc chủ Tây Sơn
    Bang giao lịch sử sang trang
    Mãn Việt hai nước bình an thuận hòa

    Ngô thì Nhậm bang giao thỉnh nguyện
    Đất phương nam biên viễn cỗi cằn
    Triều nhà Lê, giết Liễu Thăng
    Minh triều bắt nộp người vàng để thay
    Cõi Trung nguyên, đất nay đổi chủ
    Trời phương Nam, người cũ ra đi
    Thanh triều chính khí uy nghi
    Phương Nam đất cỗi, lấy gì để dâng
    Đất cùng khổ bao năm loạn lạc
    Dân bần hàn khao khát ơn cao
    Truyền cho miễn lễ cống hầu
    Mong cầu thánh ý, ơn sâu ghi lòng

    Quần thần hội cùng đồng kiến nghị
    Phải mưu cơ giả ý hòa thân
    Giả như lùi, để tiến công
    Phải thân mật, một nhát đâm tiêu đời
    Càn Long đế phán lời truyền chỉ
    Giảm cống hầu, bỏ hủy người vàng
    Truyền cho ngựa áo xênh xang
    Đoàn quân hộ tống, phương Nam trở về
  4. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Sứ thần Giang Văn Minh

    Chuyện cụ ra vế đối rồi bị giết hại thì không thấy chính sử nào ghi lại. Giai thọai này có lẽ chỉ được biết đến khi người ta đọc qua quyển Giang Thị gia phả 江氏家譜.

    Quyển này do ông Giang Văn Hiển 江文顯, thuộc đời thứ 10 của họ Giang viết năm 1849.Viện Hán Nôm mô tả tài liệu này như sau:“Gia phả dòng họ danh nhân Giang Văn Minh 江文明 ở Sơn Tây. Đầu sách có bài Tựa cho biết dòng họ này lấy tên là họ Giang đến lúc viết tựa đã 10 đời, Thủy tổ tính từ Đức Biền giữ chức Vệ úy đội Thần vũ triều Lê đến đời Thám hoa Giang Văn Minh là đời thứ 4. Đầu sách có một bài đề từ, tiếp đến là bảng kê phần mộ và ngày giỗ của các bậc tổ của cả hai chi Giáp Ất, từ thủy tổ khảo đến đời thứ 6. Tiếp đến là phần chép câu đối treo ở nhà thờ. Giang tộc từ đường kí: Từ đường làm xong năm Thiệu Trị Ất Tị 紹治乙巳(1845), lấy tên họ Giang làm tên nhà thờ. Họ Giang là một dòng vọng tộc trong vùng đã hơn 10 đời. Thủy tổ là thần vũ vệ úy Đức Biền đặt cơ nghiệp cho con cháu. Thám hoa Văn Trung quận công (Giang Văn Minh), cụ Hiến sát sứ (Giang Văn Tông)…Phả ghi rõ: Vệ úy công là tổ đầu được đặt họ Giang, Thám hoa công là tổ phát tộc, Hiến sát công là tổ chi Tiểu tông. Cuối có bài minh. Giới thiệu hành trạng, cuộc đời của Vinh quận công Giang Văn Minh. Các nghi thức trong gia tộc khi tế tại nhà thờ…”Trang 12 của quyển gia phả này có ghi lại giai thọai trên

    [​IMG]
  5. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Sứ thần Giang Văn Minh

    Gia phả là lọai tài liệu có độ tin cậy kém nhất trong thư tịch cổ vì thông tin trong đó hòan tòan có thể dựa trên ý kiến chủ quan của người viết. Thậm chí người viết muốn thêm thắt đủ thứ chuyện vào đó cũng không tài nào kiểm chứng được. Ngày nay một số nhà sử học lưu manh còn làm giả gia phả vì động cơ này nọ.

    Quay lại Giang Thị gia phả, ông Giang Văn Hiển viết giai thọai trên sau hơn 200 năm kể từ ngày ông Giang Văn Minh mất. Trong đọan kể về giai thọai trên ông Giang Văn Hiển còn viết là vua Minh hy Tông ra lệnh giết cụ GVM. Thực ra Minh Hy Tông chết năm 1627 còn cụ GVM chết năm 1638 vào thời Minh Tư Tông. Do đó người ta có quyền nghi ngờ tính xác thực của giai thọai trên. Thời Minh Tư Tông đất nước Trung Hoa lọan lạc liên miên, thù trong giặc ngòai thì ngay cả việc sứ thần được vào triều kiến vua Minh còn khó chứ nói gì đến việc có dịp ra câu đối này nọ. Ngay cả người Minh thời đó có biết đến trụ đồng Mã Viện đi nữa thì hẳn họ cũng chả biết Đằng giang là cái sông nào. Có biết Đằng Giang là cái sông nào thì họ cũng không quan tâm vì người Mông cổ hoặc người Nam Hán thua trên sông đó chứ họ đâu có thua. Tại sao cứ phải suy bụng ta ra bụng người thế nhỉ?

    Do đó giai thọai trên có thể là một giai thọai "tự sướng" mà thôi.''

    Thế thì vì sao cụ GVM chết ở TQ?
  6. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Sứ thần Giang Văn Minh

    GS Ngô Đức Thọ trong blog của mình có viết:

    Tháng 12 năm Đinh Sửu Dương Hoà 3 (quy ngang là năm 1637, nhưng đầu tháng Chạp thì đã sang tháng 1-1738 rồi) triều đình một lúc cử hai sứ bộ sang sứ nhà Minh. Một đoàn do Hoàng giáp Nguyễn Duy Hiểu con trưởng của Thiếu phó Nguyễn Duy Thì làm chánh sứ, một đoàn đoàn do Thám hoa Giang Văn Minh làm chánh sứ. Về hai sứ bộ này Toàn thư chỉ ghi có mỗi câu như vậy. Cương mục thì bỏ qua không nói đến. Nhưng Lịch triều hiến chương loại chí cuar Phan Huy Chú nói đến hai lần, cho biết rõ hơn.

    Sở dĩ có lệ cả hai sứ bộ cùng đi vì lệ cũ 3 năm một kỳ tuế cống, từ năm 1584 đời Mạc Mậu Hợp định lệ cứ 6 năm cống hai lễ (x. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Bang giao chí). Toàn thư ghi chung vào một mục, không nói rõ đoàn nào đi trước đoàn nào đi sau, chứng tỏ chi tiết ấy không mấy quan trọng, có thể hiểu cả khi đi và khi về cả hai đoàn nhập chung với nhau. Chuyên đi sứ này rất nổi tiếng nhưng ngày nay sách báo hầu như chỉ nói về chánh sứ Giang Văn Minh người đã ứng khẩu câu “Đằng Giang tự cổ huyết do hồng” để đối đáp với vế xuất ngạo mạn của một viên quan nhà Minh. Nhưng chuyến đi sứ ấy không kết quả, vua Minh vẫn không chịu phong vương cho vua An Nam, chánh sứ Giang Văn Minh lại bị chết trên đường về. (Tôi không đủ thông tin để ghi nhận việc “người Thanh/ sic!!!???” giận nên mổ bụng Giang Văn Minh đổ thuỷ ngân vào cho đưa về nước, xin xem bài riêng của Ngô ĐứcThọ: Về chuyến đi sứ và cái chết của sứ thần Giang Văn Minh) . Nhưng chuyến ấy không chỉ chánh sứ Giang Văn Minh mà cả chánh sứ Nguyễn Duy Hiểu cũng chết trên đường về! Một chuyến đi sứ khi trở về chết cả hai viên chánh sứ, thật là một đau thương động trời, nhưng đáng tiếc, sử sách không ghi lấy một dòng!
  7. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Sứ thần Giang Văn Minh

    Đ ạ i V i ệ t S ử K ý Tòan Thư B ả n K ỷ T ụ c B i ê n Quyển 5 chép:


    Đinh Sửu, [Dương Hoà] năm thứ 3 [1637] , (Minh Sùng Trinh năm thứ 10).
    Mùa xuân, tháng giêng, ngày Tân Sửu là ngày mồng một, nhật thực.
    Tháng 3, sai sứ sang nhà Minh. Bọn Nguyễn Duy Hiểu, Giang Văn Minh, Nguyễn Quang Minh, Trần Nghi, Nguyễn Bình, Thân Khuê sang cống hàng năm và cầu phong.
    .................................

    Kỷ Mão, [Dương Hoà] năm thứ 5 [1639] , (Minh Sùng Trinh năm thứ 12).
    ............................
    Mùa thu, sai Nguyễn Duy Thì lên cửa quan, đón sứ thần Nguyễn Duy Hiểu về nước. Duy Hiểu dâng sớ nói: "Đến Yên Kinh, dâng biểu cầu phong quốc vương, [vua Minh] giao cho bộ bàn, họ cho rằng không có văn bản cũ để lại có thể tra xét được, nên không cho. Chỉ ban sắc thư tưởng lệ thôi"2929 .

    Đại Việt Sử Ký Bản Kỷ Tục Biên – Quyển XVIII chép:

    Đinh Sửu, [Dương Hoà] năm thứ 3 [1637] , (Minh Sùng Trinh năm thứ 10). Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, có nhật thực.
    ..........................
    Tháng 12, ngày 30, có nhật thực. Sai chánh sứ Nguyễn Duy Hiểu và Giang Văn Minh, phó sứ là bọn Nguyễn Quang Minh, Trần Nghi, Nguyễn Bình, Thân Khuê gồm 2 sứ bộ sang tuế cống nhà Minh. Sai bọn Trần Hữu Lễ, Dương Trí Trạch, Nguyễn [35a] Thọ Xuân, Phạm Phúc Khánh, Nguyễn Quang Nhạc lên cửa quan đợi mệnh.
    ......................
    Kỷ Mão, [Dương Hoà] năm thứ 5 [1639] , (Minh Sùng Trinh năm thứ 12). Mùa hạ, tháng 4, định rõ lại về việc kiện tụng nhân mạng theo như quy chế năm Cảnh Thống thứ 62720 : Phạm nhân chỉ bị tịch thu ruộng đất, tài sản của bản thân và của vợ con thôi. Nếu không đủ, thì cho khai lấy ruộng đất, tài sản của cha mẹ, anh em làm tiền đền mạng, không được bắt cả đến họ hàng, làng xóm, coi đó là điều luật lâu dài.
    Sai Công bộ [35b] thượng thư, Thiếu phó Tuyền quận công Nguyễn Duy Thì cùng bọn Nguyễn Thọ Xuân, Nguyễn Xuân Chinh, Nguyễn Quang Nhạc, Phạm Phúc Khánh lên cửa quan đợi mệnh đón sứ thần về nước.
  8. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Sứ thần Giang Văn Minh

    Hai quyển sử ký chép khác nhau về lúc khởi hành, nhưng tháng 3 năm 1637 là thích hợp hơn vì khởi hành vào mùa đông đi sứ rất khó khăn do thời tiết băng giá

    Cả hai đòan có lẽ đi cùng lúc và về cùng lúc. Đòan do cụ Giang Văn Minh làm chánh sứ thì đi triều cống còn đòan Nguyễn Duy Hiểu thì đi cầu phong.

    Cả hai đòan được một lực lượng hùng mạnh hộ tống đi và đón về vì lúc này nhà Mạc vẫn còn đóng ở Cao Bằng, thường xuyên chặn đường phục kích.

    Sử chép:
    Duy Hiểu dâng sớ nói: "Đến Yên Kinh, dâng biểu cầu phong quốc vương, [vua Minh] giao cho bộ bàn, họ cho rằng không có văn bản cũ để lại có thể tra xét được, nên không cho. Chỉ ban sắc thư tưởng lệ thôi"

    như vậy là việc cầu phong thất bại. Tuy vậy nhiều nhà sử học cho rằng lúc này cụ Duy Hiểu đã chết, sớ đó là di sớ mà thôi tức là sớ được cụ Hiểu viết trước lúc chết rồi gửi về triều đình.

    Việc cả quýêt cụ Hiểu chết trên đường đi sứ cấn phải xem lại vì như thế sử quan chép sai ư? Mặc khác thường sứ thần khi về nước mới viết báo cáo. Trong trường hợp cụ Hiểu chết trên đường đi mà có sớ thì chắc cụ bị bệnh hay bị thương thấy mình qua không nổi mới lập báo cáo trước khi qua đời. Nếu vậy thì có bằng cớ nào bảo là cụ Hiểu cũng bị nhà Minh giết.

    Ta cũng thấy sử không chép một dòng nào về cái chết của cụ GVM
  9. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Sứ thần Giang Văn Minh

    Minh Sử chép:

    Năm Sùng Trinh thứ 10 (1637). An Nam có tiến cống [FONT=FangSong_GB2312]
    次广元。是年,安南、琉球入贡。[/FONT]

    và đó là lần cuối cùng Minh sử ghi nhận nước ta đi cống cho nhà Minh vì vào năm 1644 nhà Minh bị nhà Thanh lật đổ.

    Như vậy cả hai đòan sứ thần đi khá nhanh (trong vòng 9 tháng) để đến kịp Yên kinh và nộp cống trong năm 1637.

    Còn đường về thì gian nan hơn, mất hơn năm rưỡi tức đến mùa thu năm 1639 mới về đến ải Nam quan.

    Tại sao như thế?

    Thời Sùng Trinh tại vị phải đối phó với 2 nguy cơ lớn về quân sự: sự uy hiếp của chính quyền Hậu Kim của người Nữ Chân nổi lên từ thời Minh Thần Tông và các cuộc nổi dậy của nông dân như Bạch Thủy Vương Nhị, Cao Nghênh Tường, Lý Tự Thành, Trương Hiến Trung… Nguyên do các cuộc khởi nghĩa nông dân vì đời sống khổ cực, mất mùa đói kém.

    Có thể các sứ thần Việt Nam trên đường về nước đã bị chặn lại vì các cuộc khởi nghĩa nói trên. Các sứ thần chết có thể vì các cuốc tấn công của quân khởi nghĩa. Ngoài ra các sứ thần có thể bị giết hại do:
    +giặc cướp
    +tai nạn như cháy nhà, đắm thuyền...
    +dịch bệnh
    ...
    Điểm lại không chỉ chánh sứ Giang Văn Minh chết mà trong đoàn còn có chánh sứ Nguyễn Duy Hiển và phó sứ Thân Khuê cũng hy sinh.

    Một điều cần ghi nhận là cả ba cụ trên đều đỗ cùng một năm Mậu Thìn, niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 10. Ba cụ đỗ cùng năm, làm quan cùng năm nên có thể thân nhau. Khi đi sứ ba cụ có thể đi cùng nhau, ở cùng nhau và chết cùng nhau? Do cướp, do tai nạn hay do dịch bệnh?

    Dù các cụ chết vì lý do nào thì chắc cũng không phải vì "câu đối" của cụ Giang Văn Minh.

    Minh sử viết ngắn gọn: An Nam có triều cống thế thôi. Có nghĩa là mọi việc suôn sẻ, vua Sùng Trinh nhận cống và sứ thần cứ việc về nước. Ngoài ra không thấy ghi thêm điều gì khác.



  10. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Sứ thần Giang Văn Minh

    Văn khắc >> Bia Văn miếu Hà Nội Bia số 32
    32- VĂN BIA ĐỀ DANH TIẾN SĨ KHOA MẬU THÌN NIÊN HIỆU VĨNH TỘ 10 (1628)


    [​IMG]

    VĂN BIA ĐỀ DANH TIẾN SĨ KHOA MẬU THÌN NIÊN HIỆU VĨNH TỘ 10 (1628)
    Hoàng Việt muôn vạn năm, niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 10, năm Mậu Thìn, mùa xuân thi Hội các sĩ nhân. Các sĩ đại phu được chọn dự tuyển 18 người, chính là khoa thi thứ nhất1 đời Trung hưng vậy.
    Ngày hôm sau, Hoàng thượng lâm ngự Điện thí, hỏi về phép trị đạo xưa nay. Sai Đề điệu là Thái bảo Quỳnh Quận công Trịnh Đệ, Tri Cống cử là Binh bộ Thượng thư Thái uý Đăng Quận công Nguyễn Khải, Hình bộ Thượng thư kiêm Ngự sử đài Đô Ngự sử, Thiếu phó Đường Quận công Nguyễn Danh Thế, Giám thí là Lại bộ Hữu Thị lang Lai Phong bá Nguyễn Tuấn cùng các quan hữu ti chia giữ các việc.
    Đến khi dâng quyển đọc, Hoàng thượng sáng suốt ngự lãm, xét định thứ tự cao thấp. Ban cho Giang Văn Minh, 1 người đỗ Tiến sĩ cập đệ, bọn Dương Cảo 3 người đỗ Tiến sĩ xuất thân, bọn Đặng Phi Hiển 14 người đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân. Về danh hiệu Cập đệ2 thì từ khi khôi phục mới bắt đầu thấy có ở khoa này. Còn việc ban cấp áo mũ cho dự yến tiệc đều theo lệ cũ, tước trật chức vị nhất nhất đều theo quy chế đã lập thành. Chỉ còn việc dựng bia đề danh hồi đó chưa kịp làm. Cử hành việc ấy chính là ngày hôm nay vậy.
    Hoàng thượng buông tay áo ngự ngôi cao trong cõi, sâu nghĩ về đạo trị nước. Thực nhờ [Đại nguyên súy Thống quốc chính Sư phụ Thanh vương] đem vương thất phò tá hoàng gia, trị vì thiên hạ, vì muôn đời mở cuộc thái bình, chuyên uỷ cho [Nguyên súy Chưởng quốc chính Tây Định vương] khôi phục khuếch trương chính sự, chấn chỉnh văn phong, bèn sai từ thần soạn ký văn (để khắc bia khoa này).
    Bọn thần may được giữ chức vị nội tướng, viết bài văn ấy tất phải do bậc đại thủ bút, cố nhiên không thể kham đặng, nhưng chức vụ đáng phải làm, cho nên không dám chối từ. Kính cẩn cúi đầu rập dầu chép rằng:
    Đạo trời không nói mà vẫn hoàn thành công tích, tất là nhờ vào ngũ hành để tuyên minh khí vận. Thánh nhân có ý muốn chấn hưng mọi việc cho đến mức chí lý tất phải nghe nhiều người bình nghị để mà cất nhắc bổ dụng hiền tài. Xa trông việc cầu hiền của các đế vương xưa: phép xét cử thì phỏng theo đời Nghiêu Thuấn mà những người tài giỏi đều được vào triều. Phép trưng cầu thì thi hành ở đời Thương Chu mà tuấn kiệt đều được bố trí vào các chức vị, cho nên việc trị nước sáng rỡ ngời ngời, thành tựu đạt được thật cao thật lớn, đầy khắp trời đất. Xuống đến các đời Hán, Đường, Tống, các đời vua được gọi là trị không đời nào không lấy cầu tìm hiền tài làm công việc trước nhất. Nhưng thịnh ý biểu dương khích lệ hiền tài chưa có đời nào được như các bậc thánh tổ thần tông đời bản triều: quy mô to lớn, khuôn phép tốt đẹp, rất kỹ càng, rất đầy đủ. Tuy đến giữa chừng quốc bộ gian nan, Nho đạo cơ hồ chỉ còn mỏng manh như sợi chỉ. May mà có minh quân thánh chúa đương thời lo toan khôi phục nên mới chấn hưng lên được: Trang Tông Dụ hoàng đế, Trung Tông Vũ hoàng đế, Anh Tông Tuấn hoàng đế dựng lại càn khôn, tất cả nhờ có Thế Tổ Minh Khang thái vương giúp cầu tìm hiền tài tuấn kiệt, cùng chung lo kỷ cương. Thế Tông Nghị hoàng đế, Kính Tông Huệ hoàng đế làm sáng lại nhật nguyệt, thực nhờ Thành Tổ Triết vương thu phục kinh thành, rộng vời người tài giỏi, khanh sĩ đứng chật sân triều, được người còn thịnh hơn cả nhà Hán. Nhưng việc khắc đá đề danh thì hồi ấy chưa kịp làm.
    Đến nay Thánh thượng chạnh nghĩ các khoa thi Chế khoa, thi Tiến sĩ của bản triều được người rất nhiều, nếu không dựng bia đề danh thì làm sao có thể nêu cao thịnh sự của Nho khoa, để người đời nay lớn lao trông vào. Bèn sai Bộ Công khắc đá, theo thứ tự đề họ tên từng người, dựng ở cửa nhà Thái học để tỏ ý ngợi khen khích lệ, giúp cho hậu thế có chỗ chiêm ngưỡng mà thấy được sự vẻ vang, để mà cố rèn mài danh tiết, gắng lên kính giúp hoàng gia, há chỉ để làm hư văn mà thôi đâu!
    Ôi! Sự tôn trọng ngợi khen của triều đình thật đã là rất mực, kẻ sĩ sinh ở đời này mới thật vinh hạnh làm sao! Vả lại về khoa này trong số những người được dự đề danh trên bia đá này, đến một nửa đã qua đời. Nhưng con người của họ trung chính hay gian tà, người hiền hay kẻ xấu thì có chỗ không thể che giấu được. Đến nay hiện làm quan tại chức thì quả thật phải giữ một tấm lòng sắt đá trung thành, dâng lời nói thuốc đắng kim châm để giúp vua giữ gìn quy củ; mưu lo ích nước, thi triển yên dân, làm rường cột quốc gia, làm bậc đại thần trụ đá miếu đường, giúp vua được như vua Nghiêu Thuấn, giúp đời được như đời Đường Ngu. Như thế thì người ta sẽ bảo nhau rằng: "Ông mỗ là bậc tể phụ, ông nọ là bậc hiền quan, nổi bật hơn cả trong số mười tám học sĩ", tiếng tốt cũng sẽ theo đó mà được lan truyền ngưỡng mộ. Còn như kẻ bên ngoài ngọt miệng mà trong lòng đao kiếm, bên trong hiểm độc mà bên ngoài giả bộ ngu khờ, chỉ mưu toan cho bản thân, ít màng lo quốc chính, thì người ta sẽ nhìn vào đây mà bảo: "Kẻ ấy gian tà, kẻ ấy xảo trá, không biết từ đâu mà lại lọt được vào trong số mười tám học sĩ ?", kẻ ác cũng phải xem bia này để cảnh tỉnh bản thân. Thế thì bia này dựng lên không chỉ để dồi mài tâm chí kẻ sĩ, mà còn để làm vững chắc mệnh mạch nước nhà, quốc gia của bản triều cùng trời đất bền vững lâu dài. Mệnh mạch tinh thần ấy có lẽ là ở đó.
    Thần kính cẩn làm bài ký.
    Dực vận Tán trị công thần Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Thượng thư Bộ Lễ kiêm Hàn lâm viện Thị giảng Tham Chưởng Hàn lâm viện Bạt Quận công Thượng trụ quốc Dương Trí Trạch vâng sắc nhuận.
    Mậu lâm lang Hàn lâm viện Hiệu thảo Trịnh Cao Đệ3 vâng soạn.
    Bia dựng ngày 16 tháng 11 niên hiệu Thịnh Đức thứ 1 (1653) Hoàng Việt.
    Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ tam danh,1 người:
    GIANG VĂN MINH 江文明4 người xã Mông Phụ huyện Phúc Lộc.
    Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân,3 người:
    DƯƠNG CẢO 楊暠5 người xã Hà Lỗ huyện Đông Ngàn.
    ĐỒNG NHÂN PHÁI 同仁派6 người xã Thiết ng huyện Đông Ngàn .
    NGUYỄN DUY HIỂU 阮惟曉 7 người xã Yên Lãng huyện Yên Lãng.
    Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân,14 người:
    ĐẶNG PHI HIỂN 鄧丕顯8 người xã Thụy Nhi huyện Giao Thủy.
    LÊ KHẢ TRÙ 黎可儔9 người xã Phúc Triền huyện Đông Sơn.
    NGUYỄN THẾ TRÂN 阮世珍10 người xã Bách Tính huyện Thượng Nguyên.
    NGUYỄN HÒA 阮和11 người xã Hoa Thiều huyện Đông Ngàn.
    LÃ THÌ TRUNG 呂時中12 người xã Cam Giá huyện Phúc Lộc.
    NGUYỄN KHẮC VĂN阮克文13 người phường Hà Khẩu huyện Thọ Xương.
    THÂN KHUÊ 申奎14 người xã Phương Đỗ huyện Yên Dũng.
    DƯƠNG THUẦN 楊淳15 người xã Lạc Đạo huyện Gia Lâm.
    LÊ KÍNH 黎敬16 người xã Quan Trung huyện Đông Thành.
    PHẠM CÔNG TRỨ 范公著17 người xã Liêu Xuyên huyện Đường Hào.
    NGUYỄN QUANG MINH 阮光明18 người xã Vãn Hà huyện Thụy Nguyên.
    NGUYỄN BÌNH 阮評19 người xã Bồng Lai huyện Quế Dương.
    NGUYỄN TÀI TOÀN 阮才全20 người xã Bồng Lai huyện Quế Dương.
    NGUYỄN TRẠCH 阮澤21 người xã Nham Lang huyện Ngự Thiên.
    Trung thư giám Hoa văn học sinh, quê xã Lam Kiều huyện Hoằng Hóa là Lê Đình Thưởng vâng viết chữ (chân).
    Quang tiến Thận lộc đại phu Kim quang môn Đãi chiếu kiêm Triện thích thái thừa Quế Lan nam Nguyễn Quang Độ vâng viết chữ triện.
    Chú thích:
    1 Câu này có thể chỉ là cách nói nhấn mạnh ý nghĩa, còn thực sự thì tính theo các mốc như từ sau khi Trang Tông trung hưng (1533), hoặc sau khi đánh được nhà Mạc thu phục kinh thành (1599) v.v...thì khoa thi này cũng không phải là khoa thứ nhất (đệ nhất khoa), ngay chỉ riêng ở đời Lê Thần Tông thứ 1 (1619-1628) thì trước khoa này cũng đã có khoa thi năm Vĩnh Tộ 5 (1623) .
    2Cập đệ là danh hiệu của hàng Tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa).
    3 Trịnh Cao Đệ: Xem chú thích số 2, Bia số 23.
    4 Giang Văn Minh (1573-1638) người xã Mông Phụ huyện Thượng Phúc (nay thuộc xã Đường Lâm thị xã Sơn Tây tỉnh Hà Tây). Ông làm quan Tự khanh và được cử đi sứ (năm 1637) sang nhà Minh (Trung Quốc). Sau khi mất, ông được tặng chức Thị lang, tước Vinh Quận công.
    5 Dương Cảo (1586-?) người xã Hà Lỗ huyện Đông Ngàn (nay thuộc xã Liên Hà huyện Đông Anh Tp. Hà Nội). Ông làm quan Quốc tử giám Tế tửu.
    6 Đồng Nhân Phái (1581-?) người xã Thiết Úng huyện Đông Ngàn (nay thuộc xã Vân Hà huyện Đông Anh Tp. Hà Nội). Ông làm quan Hữu Thị lang Bộ Công. Sau khi mất, ông được tặng chức Thượng thư.
    7 Nguyễn Duy Hiểu (1602-?) người xã Yên Lãng huyện Yên Lãng (nay thuộc xã Phú Xuân huyện Tam Đảo tỉnh Vĩnh Phúc). Ông làm quan Thiêm Đô Ngự sử, từng được cử đi sứ sang nhà Minh (Trung Quốc) và bị mất trên đường đi. Sau khi mất ông được tặng chức Tả Thị lang Bộ Hình, tước hầu.
    8 Đặng Phi Hiển (1567-1650) người xã Thụy Trung huyện Giao Thủy (nay thuộc huyện Giao Thủy tỉnh Nam Định). Ông làm quan Đông các Đại học sĩ.
    9 Lê Khả Trù (1582-?) người xã Phúc Triền huyện Đông Sơn (nay thuộc huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa). Ông làm quan Hộ khoa Đô Cấp sự trung.
    10 Nguyễn Thế Trân (1603-?) người xã Bách Tính huyện Thượng Nguyên (nay thuộc xã Nam Hồng huyện Nam Trực tỉnh Nam Định). Ông làm quan Cấp sự trung.
    11 Nguyễn Hòa (1578-?) người xã Hoa Thiều huyện Đông Ngàn (nay thuộc xã Hương Mạc huyện Từ Sơn Sơn tỉnh Bắc Ninh). Ông làm quan Giám sát Ngự sử.
    12 Lã Thì Trung (1577-?) người xã Cam Giá huyện Phúc Lộc (nay thuộc xã Cam Thượng huyện Ba Vì tỉnh Hà Tây). Ông làm quan Hữu Thị lang Bộ Hộ. Sau khi mất, ông được tặng Tả Thị lang Bộ Công.
    13 Nguyễn Khắc Văn (1567-?) người phường Hà Khẩu huyện Thọ Xương (nay thuộc quận Hoàn Kiếm Tp. Hà Nội), nguyên quán xã Hoàng Liệt huyện Thanh Trì (nay là xã Hoàng Liệt huyện Thanh Trì Tp. Hà Nội).
    14 Thân Khuê (1593-?) người xã Phương Đỗ huyện Yên Dũng (nay thuộc xã Hương Mai huyện Việt Yên tỉnh Bắc Giang). Ông làm quan Tham chính, được cử làm Phó sứ (năm 1637) sang nhà Minh (Trung Quốc) và bị mất trên đường đi. Sau khi mất, ông được tặng Hữu Thị lang Bộ Công, tước hầu.
    15 Dương Thuần (1587-1667) người xã Lạc Đạo huyện Gia Lâm (nay thuộc xã Lạc Đạo huyện Văn Lâm tỉnh Hưng Yên). Ông giữ các chức quan, như Thừa chính sứ, Hữu Thị lang, tước Nho Lâm bá. Sau khi mất, ông được tặng Thượng thư Bộ Hình, tước hầu.
    16 Lê Kính (1587-1699) người xã Quan Trung huyện Đông Thành (nay thuộc xã Sơn Thành huyện Yên Thành Nghệ An). Ông là cha của Lê Hiệu, làm quan Thượng thư Bộ Công, tước hầu. Sau khi mất, ông được tặng hàm Thái bảo, tước Thạc Quận công.
    17 Phạm Công Trứ (1602-1675) người xã Liêu Xuyên huyện Đường Hào (nay thuộc xã Nghĩa Hiệp huyện Yên Mỹ tỉnh Hưng Yên). Ông giữ các chức quan, như Tham tụng, Thượng thư Bộ Lại kiêm Đông các Đại học sĩ, Chưởng Lục bộ sự, hàm Thiếu bảo, được ban Quốc lão, tước Yên Quận công, sau thăng Thái tể và thụy là Trung Cần.
    18 Nguyễn Quang Minh (1584-?) người xã Văn Hà huyện Thụy Nguyên (nay thuộc xã Thiệu Hưng huyện Thiệu Hóa tỉnh Thanh Hóa). Ông giữ các chức quan, như Đốc thị Thuận Hóa, Tả Thị lang Bộ Lại, tước Mỹ Lộc hầu và từng được cử đi sứ sang nhà Minh (Trung Quốc).
    19
    Nguyễn Bình (1541-?) người xã Bồng Lai huyện Quế Dương (nay là xã Bồng Lai huyện Quế Võ tỉnh Bắc Ninh). Ông là cha của Nguyễn Tài Toàn, làm quan Thượng thư Bộ Công, tước Cẩm Quận công và được cử đi sứ (năm 1637) sang nhà Minh (Trung Quốc). Sau khi mất, ông được tặng chức Thiếu bảo.
    20 Nguyễn Tài Toàn (1598-?) người xã Bồng Lai huyện Quế Dương (nay là xã Bồng Lai huyện Quế Võ tỉnh Bắc Ninh). Ông là con của Nguyễn Bình và làm quan Tả Thị lang Bộ Lại, tước Đạt Lý Hầu.
    21 Nguyễn Trạch (1572-?) người xã Nham Lang huyện Ngự Thiên (nay thuộc xã Cấp Tiến huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình). Ông làm quan Tự khanh.


    http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=1168&Catid=564

    ----------------------------------

    Năm trong số sáu người của hai sứ bộ đỗ cùng một năm. Trường hợp Nguyễn Bình thật hy hữu: năm sinh bị đề sai hay sao mà vua lại cử một ông già gần 100 tuổi đi sứ? Thế mà ông này không bị làm sao, cho thấy phái đoàn có thể đã bị tấn công hay tai nạn hơn là dịch bệnh. Trong đó bị tấn công đặt lên hàng đầu vì cụ Duy Hiểu có thể bị thương nặng trong cuộc tấn công này nhưng cụ không chết ngay mà còn kịp thảo sớ gửi về.

    Ai tấn công phái đoàn? có thể quân khởi nghĩa có thể là bọn cướp, không ai biết nhưng trong di cảo nhà Minh có thể đã được nhắc đến. Sau đó nhà Minh bị lật đổ, giấy tờ thất lạc hay bị thiêu hủy. Mọi việc giờ chỉ là bí mật lịch sử.

Chia sẻ trang này