1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những giai thoại..."trời ơi" trong lịch sử

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi vaputin, 13/07/2012.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Trần Dân Tiên


    Những năm 1945-1948 là những năm đầy cam go thử thách cho CMVN, dù biết là cần thiết nhưng ***** rất bận rộn với việc nước việc dân, lấy đâu ra thời gian để viết tác phẩm NMCVHCT? Mà viết về mình cũng không phải là thói quen của người Việt khi ấy.

    Chính từ những thông tin trên Va tui tin rằng:

    1-Quyển NMCVHCT do một nhóm người viết (theo yêu cầu của Đ và NN?) mà không có sự hổ trợ của HCT

    2-Hoặc là có sự hổ trợ chính thức của Hồ Chủ tịch.

    Khả năng thứ 2 là rất thấp vì có thể ***** đã không đồng ý về một quyển tiểu sử như thế, ***** rất bận...và ta thấy trong quyển này có những thông tin chưa chính xác chứng tỏ ***** cũng chưa từng xem qua bản thảo trước khi in. Nếu Cụ chịu giúp, trong quyển NMCVHCT hẳn sẽ không có những khỏang thời gian trống mà sau này Sophie Quinn-Judge gọi là "missing years". Người ta không bíêt trong khỏang thời gian đó ***** làm gì ở đâu . Quan trọng là nếu Cụ chịu giúp thì đâu mất quá nhiều năm (1945-1948) để cho ra đời một quyển sách có dung lượng như thế.
  2. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Trần Dân Tiên

    Như vậy có thể Trần Dân Tiên âm thầm thu thập thông tin để lén ***** viết quyển sách về Cụ.
    Cụ không biết nhưng chắc tổ chức phải biết chuyện này.

    Tại sao Trần Dân Tiên không phải một người mà là nhóm ngưới?

    Trong tác phẩm ta thấy ngòai người chấp bút còn có ít nhất 2 cộng sự "Theo địa chỉ ông Mai mách, anh Trần, người cộng tác trẻ của tôi, đến gặp ông Dân ở Nha Trang." và người cộng sự thứ 2 có thể là ông Vũ Kỳ, thư ký riêng của *****, người mà gần đây đánh tíêng là cùng với những người khác viết nên quyển sách trên. Ông Vũ Kỳ thì rõ ràng không thể đi Nha Trang để lấy tài liệu được. Ông Vũ Kỳ có thể đã được tổ chức giao trách nhiệm bí mật hổ trợ người chấp bút.

    Ngòai ra còn ai nữa thì chúng ta chưa biết.

    Tại sao lại lấy bút hiệu là Trần Dân Tiên, chắc cái này chỉ có người chấp bút mới giải thích chính xác được, ngay cả cụ Vũ Kỳ có khi cũng không biết. Nay người chấp bút đã qua đời mang theo nhiều bí mật về Trần Dân Tiên. Thử đóan mò thì ta thấy trong câu trích trên đã có hai chữ Trần và Dân. Trần có thể lấy theo họ của người cộng sự trẻ, người đã liều lĩnh tính mạng của mình để đi sưu tầm thông tin ở vùng địch tạm chiếm như Sài gòn, Nha Trang. Dân ở đây không phải là tên ông Dân ở Nha Trang mà là một từ chỉ chung cho những người đã góp thông tin cho quyển sách. Như thế Tiên hẳn để chỉ ***** vì chính cụ là nguồn thông tin lớn nhất cho quyển sách này mà Trần Dân Tiên có thể khéo léo khai thác được. Ngòai ông Vũ Kỳ thì người chấp bút có thể cũng rất thân cận với ***** cũng như với những người đặc biệt thân thiết với *****.
  3. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Trần Dân Tiên

    Việc quan trọng nhất là thu thập thông tin sao cho chính xác, càng phong phú càng tốt vì việc này quyết định chất lượng của quyển sách trong tương lai.

    Vì tầm quan trọng của quyển sách nên phải hết sức hạn chế những thông tin sai lệch. Tuy vậy điều đó cũng đã xảy ra tuy không phải là lỗi lớn

    Việc thu thập thông tin cơ bản từ hai nguồn:

    DÂN: là những người trước đây quen bíêt với Bác Hồ, đặc biệt là những người từng sống và làm việc chung với Bác. Người nào có thể gặp được thì Trần Dân Tiên sẽ gặp trực tiếp còn ở xa thì thư từ hoặc nhờ người quen đến hỏi chuyện. Tất nhiên những người có liên quan trong việc thu thấp thông tin này sẽ được dặn dò là giữ bí mật dùm.

    TIÊN: Trong lúc làm việc hay nghỉ ngơi cùng *****, người chấp bút hay ông Vũ Kỳ ghi nhận lại những sự việc, tên người...có liên quan đến qúa khứ của *****. Tích cực hơn, họ có thể đặt ra những câu hỏi và được ***** trả lời.

    Những thông tin thu nhận được sẽ được kiểm chứng rồi sàng lọc và sắp xếp lại theo thời gian.

    Việc thu thập và kiểm chứng thông tin chiếm khối lượng thời gian đáng kể trong khi để viết hòan chỉnh cuốn này, người chấp bút chắc không cần đến hơn 3 tháng dù ông cũng rất bận rộn với các công tác khác.

    Người chấp bút viết:

    "Phương pháp trực tiếp, nghĩa là nói chuyện thẳng thắn với Hồ Chủ tịch để có tài liệu, điều ấy đã không thành. Sau khi suy nghĩ kỹ càng, tôi mới hiểu là phương pháp ấy không thể không thất bại. Một người như Hồ Chủ tịch của chúng ta, với đức khiêm tốn nhường ấy và đương lúc bề bộn bao nhiêu công việc, làm sao có thể kể lại cho tôi nghe bình sinh của Người được?

    Hiện nay, chỉ còn phương pháp gián tiếp, nghĩa là hỏi những người trước kia, trong một thời gian nào đó, đã trực tiếp hoặc gián tiếp biết Hồ Chủ tịch, không cứ người đó là người Việt Nam hay ngoại quốc, để lấy tài liệu viết tiểu sử. Phương pháp này rất khó khăn và cần nhiều thì giờ, nhưng may ra thì thành công. Cuối cùng kết quả chứng tỏ cách ấy là đúng. Tôi theo phương pháp ấy, sau hai năm làm việc, cuối cùng có khá tài liệu để viết một ít chuyện về Hồ Chủ tịch."

    Qua đó ta có thể thấy việc thu thập thông tin có thể kết thúc vào khỏang quý 4 năm 1947 và khỏang cuối năm 1947 hay đầu năm 1948 có lẽ quyển sách đã được viết xong.

    sau đó mất một khỏang thời gian chờ góp ý, kiểm duyệt rồi chạy vạy lo việc in ấn.
  4. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Trần Dân Tiên

    Người chấp bút là ai?

    Va tui không dám chắc nhưng Va tui biết có một người khá phù hợp.


    Kho lưu trữ của Bảo tàng cách mạng Việt Nam Hà Nội, có sáu cuốn sổ tay khổ giấy học trò, ngoài bìa ghi Sổ tiếp khách. Đó là những cuốn sổ ghi hằng ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp những người đã đến gặp Chủ tịch, từ ngày 4/9/1945 đến tháng 3/1946. Có lẽ còn nhiều cuốn sổ tiếp khách nữa, nhưng Bảo tàng không lưu trữ được, hoặc là mất, thất lạc, hoặc đến thời gian đó … do nhiều lý do mà không tiếp tục ghi.
    Qua các Sổ tiếp khách này, người nghiên cứu có thể thấy điểm nổi bật:
    1. Hầu như không ngày nào, kể cả vào ngày nghỉ, chủ nhật, Bác Hồ lại không tiếp khách, có ngày tới mười đoàn thể, có ngày 20, 30 vị khách.
    2. Khách trong nước có đủ: già, trẻ, trai, gái, đồng bào Phật giáo, Công giáo… các nhà buôn, các điền chủ, các hội tương tế, Hướng đạo, các nhân sĩ, trí thức, nghệ sĩ, nhà văn, nhà thơ…
    3. Khách nước ngoài có các vị quan chức Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch, các nhà ngoại giao, nhà báo quốc tế các nước Pháp, Anh, Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản, Thái Lan, Inđônêxia…
    Khách đến “yết kiến”, báo cáo, trao đổi, xin chỉ thị… Khách đến đây, không hạn chế là do Bác tự đề nghị, sẵn sàng “vui lòng tiếp đón, một ngày không quá mười đoàn, mỗi đoàn không quá mười người”.


    Cuốn sổ đánh dấu số 1, ngày 4/9/1945, bên cạnh Hòang thân Xu pha nu vông còn có một vị khách khá đặc biệt mà cụ tiếp rất sớm
  5. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Trần Dân Tiên

    Người chấp bút viết:

    "Ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945, lần đầu tiên tôi trông thấy Hồ Chủ tịch. Đó là một ngày lịch sử. Ngày hôm ấy, đứng trước rất đông quần chúng hoan hô nhiệt liệt, Hồ Chủ tịch trang nghiêm đọc bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

    Ngày thứ hai tôi viết thư xin phép được gặp Hồ Chủ tịch. Ngay chiều hôm ấy, tôi rất sung sướng nhận được thư trả lời của Hồ Chủ tịch viết như thế này:

    "Ngày mai 7 giờ 30 mời chú đến"
    Ký tên: HỒ CHÍ MINH

    Thư trả lời chóng, nội dung thư giản đơn và giờ hẹn gặp sớm khiến tôi rất băn khoăn.

    Sáng ngày mồng 4 tháng 9, 7 giờ 25, tôi đến dinh Chủ tịch. Đúng 7 giờ 30, một người thanh niên đến phòng khách, lễ phép nói với tôi: "Hồ Chủ tịch đang đợi anh ở phòng làm việc". Phòng làm việc của Chủ tịch là một gian phòng rất rộng, một bên có nhiều cửa sổ lớn.

    Trong phòng có một cái bàn làm việc, một chiếc giường, một tủ sách nhỏ kê sát vào tường, và hai bàn nhỏ của hai thư ký. Phía trên lò sưởi, có một lọ hoa. Đây là tất cả những đồ trong phòng làm việc, không có một thứ trang trí gì khác.

    Hồ Chủ tịch thường mặc bộ quần áo ka ki, đi giày vải đen. Tóc Người đã hoa râm, trán rộng và cao, đôi mắt sáng ngời, mũi thẳng, râu che nửa miệng, mặt gầy, da ngăm ngăm đen, khiến ta nghĩ đến sương gió dãi dầu trong rừng sâu và những nỗi gian khổ của chiến tranh du kích.

    Lần mới gặp, tôi có cảm giác Người giống một thầy giáo ở nông thôn.

    Tôi bước vào phòng kính cẩn chào. Chủ tịch đứng dậy bắt tay tôi và mời ngồi trước bàn làm việc. Trước hết, Người hỏi thăm sức khỏe của thầy mẹ tôi và sau mới nói: "Tôi có thể giúp chú việc gì nào?". Tôi nói rõ mục đích của tôi. Chủ tịch chú ý nghe. Sau khi tôi nói xong. Người cười và đáp:

    "Tiểu sử. Đấy là một ý kiến hay. Nhưng hiện nay còn nhiều việc cần thiết hơn. Rất nhiều đồng bào đang đói khổ. Sau tám mươi năm nô lệ, nước ta bị tàn phá, bây giờ chúng ta phải xây dựng lại. Chúng ta nên làm những công việc hết sức cần kíp đi đã! Còn tiểu sử của tôi… thong thả sẽ nói đến!"

    Tôi như chạm phải một bức tường. Nhưng tôi không thất vọng"
  6. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Trần Dân Tiên

    Người chấp bút là ai?

    Đọc đọan trên ta có thể thấy:

    1-Người chấp bút có dự buổi lễ 2/9/1945 (ngày chủ nhật)

    2-Người chấp bút và HCT chưa hề quen nhau trước đó.

    3-Người chấp bút có những mối quan hệ đặc biệt để có thể gửi thư đến và nhận phúc đáp của HCT ngay trong ngày 3/9/1945. Tất nhiên nhanh thế thì phải là thư tay chứ Fedex, TNT... ngày nay cũng phải chào thua.

    4-Người chấp bút khỏang 40 tuổi vì được anh thanh niên thư ký gọi là "anh"

    5-Tuy không quen nhưng HCT và người chấp bút có thể biết nhau từ trước và người chấp bút phải có một thân phận đặc biệt nào đó để HCT quyết định tiếp ngay trong ngày 4/9/1945 dù ngày này lịch công tác của HCT đã kín, trong đó có buổi gặp mặt rất quan trọng với hòang thân Xu pha nu vông, ban hành sắc lệnh về Quỹ dộc lập...Do buổi gặp mặt được quyết định vào phút chót nên nó phải diễn ra khá sớm và chắc là ngắn ngủi.

    6-Người chấp bút có thể là một nhà văn hay một nhà báo chuyên nghiệp, tự tin đủ sức để hòan thành một tác phẩm quan trọng viết vể tiểu sử lãnh tụ. Người chấp bút thấy rất rõ tầm quan trọng của tác phẩm mà ông định viết và ông không lùi bước trước khó khăn để thực hiện tác phẩm này.
  7. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Trần Dân Tiên

    Người chấp bút là ai?

    Theo Va tui biết thì cụ Đặng Thai Mai là một trong số rất ít ngưới nếu không nói là duy nhất đạt được các tiêu chí trên:

    1-Cụ Đặng Thai Mai có dự buổi lễ 2/9/1945 (ngày chủ nhật)

    2-Cụ và HCT chưa hề quen nhau trước đó.

    3-Cụ có những mối quan hệ đặc biệt với những người lãnh đạo cách mạng, đặc biệt là những người dạy trường Thăng Long trước đó như cụ Võ Nguyên Giáp (sau này là con rể cụ) để có thể gửi thư đến và nhận phúc đáp của HCT ngay trong ngày 3/9/1945.

    4-Cụ sinh năm 1902, năm 1945 cụ 43 tuổi.

    5-Tuy không quen nhưng HCT và cụ là đồng hương và hai gia đình có qua lại mật thiết với nhau. Chú ruột của cụ có quen biết ***** trong thời gian họat động cách mạnh ở Thái Lan. Cụ được HCT tiếp trong ngày 4/9/1945

    6-Cụ là một nhà văn, nhà báo và là một nhà giáo chuyên nghiệp, có tên tuổi và uy tín để đảm đương sứ mệnh quan trọng đó.
  8. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Trần Dân Tiên

    [​IMG]
    Ngày 2/3/1946, Chủ tịch HCM tại lễ ra mắt chính phủ. Đặng Thai Mai - Bộ trưởng Giáo dục đứng thứ 2 từ trái sang

    Chỉ 2 ngày sau khi Tuyên ngôn Độc lập, ngày 4/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc lệnh số 4 thành lập Quỹ Độc lập “để thu nhận các món tiền và đồ vật của nhân dân sẵn lòng quyên giúp Chính phủ để ủng hộ nền độc lập của quốc gia” và trao cho nhà tư sản yêu nước Đỗ Đình Thiện phụ trách. Chính từ Quỹ này đã có Tuần Lễ Vàng mang lại cho cách mạng một nguồn lực vô giá về tài chính và sự ủng hộ của dân chúng. Cùng ngày, tại Bắc Bộ phủ Bác tiếp nhà trí thức Đặng Thai Mai khích lệ các tầng lớp trí thức ra gánh việc nước. Và trong Chính phủ Kháng chiến thành lập tại kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khoá I, Đặng Thai Mai là Bộ trưởng Giáo dục.
  9. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Trần Dân Tiên

    Vị giám đốc đầu tiên của Trường Đại học Văn khoa

    [​IMG]Tư liệu
    Gia đình Giáo sư Đặng Thai Mai.

    Tác giả: Nguyễn Văn Hoàn
    Xuất bản: 05/10/2010, 21:24
    Bài viết của tác giả Nguyễn Văn Hoàn (in trong “100 chân dung một thế kỉ Đại học quốc gia” – 2006) giới thiệu chân dung GS. Đặng Thai Mai – người góp phần xây dựng nền tảng ban đầu của Đại học Văn khoa Hà Nội (nay là Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội).

    Đôi nét về tiểu sử GS. Đặng Thai Mai

    Từ năm 1945 – 1954, GS. Đặng Thai Mai là Giám đốc Đại học Văn Khoa Hà Nội.
    Từ năm 1954 – 1956, ông giữ chức vụ Hiệu Trưởng Đại học Văn khoa Hà Nội.
    Từ năm 1956 – 1959 là Chủ nhiệm Khoa Văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội và Đại học Sư phạm Hà Nội.
    Giáo sư đã tham gia đào tạo rất nhiều thế hệ sinh viên ngành Văn học.
    Hướng nghiên cứu khoa học chủ yếu của GS. Đặng Thai Mai là văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc. Các tác phẩm chính đó là: “Văn học Khái luận” (1944), “Văn thơ Phan Bội Châu” (1958), “Văn thơ Cách mạng Việt Nam đầu thế kỉ XX” (1961). Những đóng góp to lớn của ông cho sự nghiệp giáo dục đã được Đảng và Nhà nước ghi nhận, khen thưởng: Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Hồ Chí Minh (1982), Giải thưởng Hồ Chí Minh (1996).
    *​
    Giáo sư Đặng Thai Mai sinh ngày 24/12/1902 tại làng Lương Điền (nay thuộc xã Thanh Xuân), huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An và mất ngày 25/9/1984 tại Hà Nội.
    Xuất thân trong một gia đình nhà nho yêu nước, bị chính quyền thực dân liệt vào hạng “cừu gia tử đệ”, Đặng Thai Mai đã sớm trải qua nhiều thử thách khắc nghiệt của số phận: mới lên 6 tuổi đã phải theo bà nội và mẹ xuống trại giam Hà Tĩnh thăm bố; cái trại giam tồi tàn này cũng không cách xa bao nhiêu Đốc học quen thuộc mà trước đó cậu đã từng sống với bố, Phó bảng Đặng Nguyên Cẩn, quyền Đốc học Hà Tĩnh, rồi Đốc học Bình Thuận, bị bắt giả ra Hà Tĩnh, chờ lĩnh án tù chung thân vì tội “mưu phản bằng cách truyền bá tân học”. Nhân dịp này đàn áp phong trào chống thuế ở Trung Kì, chính quyền thực dân đày ông ra Côn Đảo 13 năm (1908 – 1921), về nhà được một năm thì mất. Cũng bị đày ra Côn Đảo lần đó có nhiều sĩ phu nổi tiếng khác như Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Lê Văn Huân…
    Năm Đặng Thai Mai 12 tuổi thì ông nội đã 75 tuổi, vì tội ủng hộ Việt Nam Quang Phục hội, phải đi tù 3 năm, trở về nhà được 10 ngày thì mất. Đó là cử nhân Đặng Thai Giai, khi là tri huyện Yên Định thì các quan tỉnh Thanh Hoá mở cửa thành quy hàng quân Pháp, ông liền bỏ quan về quê.
    Chú là Đặng Thúc Hứa, xuất dương sang Xiêm hoạt động, tham gia Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội và mất ở Xiêm năm 1931. Cô là Đặng Quỳnh Anh cũng thoát li sang Xiêm, đến năm 1953 mới trở về nước. Suốt cuộc đời thọ gần 100 tuổi, bà chỉ làm một việc là nuôi dạy các cháu nhỏ để các đồng chí của mình có điều kiện hoạt động phong trào cứu nước.
    Trong tình cảnh chia li nhà tan nước mất đó may còn bà nội, một người phụ nữ kiên cường, ra sức chèo chống. Trong Hồi kí của mình, Đặng Thai Mai đã viết: “Nếu không còn bà tôi thời thơ ấu của tôi không biết sẽ cô đơn kinh hoàng đến đâu”. Đối với Đặng Thai Mai, bà nội vừa là mẹ, vừa là thầy. Bà đã tổ chức lớp học tại nhà, tìm thầy dạy cho cháu học theo chương trình giáo dục duy tân của Đông kinh Nghĩa thục, đặc biệt bà luôn giáo dục con cháu phải can đảm, cứng cỏi trong cuộc sống. Chính bản thân bà đã nêu gương cho con cháu trong việc điềm tĩnh “đấu lí” với “các vị khách không mời mà đến” như các hào lí, bang biện, Tây đồn… thường đến nhà tra vấn, hoạnh hoẹ, doạ dẫm.
    Có thể do hoàn cảnh đặc biệt đó của gia đình, cộng với truyền thống hiếu học của quê hương Nghệ – tĩnh, lại có tư chất thông minh và trí nhớ phi thường, Đặng Thai Mai ngay từ nuổi niên thiếu đã tỏ ra xuất sắc trong học tập. Sau khi đã “ngốn” hết sách quốc ngữ của cái thư viện gia đình khá phong phú mà ông nội đặt tên là “Tam thai sơn phòng tàng thư”, Đặng Thai Mai mon men đến tủ sách chữ Hán và ngạc nhiên tự nhận thấy sau 5 năm dùi mài Luận ngữ, Mạnh Tử… đã có thể đọc trót lọt các sách truyện Trung Quốc như Tam Quốc, Thuỷ hử, Thuyết Đường… rồi lân la đọc đến tân thư của các tên tuổi mới lạ rất nổi tiếng ở nước ta thời đó như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, Đàm Tự Đồng, Nghiêm phục….
    Từ năm 1915 đến năm 1928, Đặng Thai Mai giã từ lớp học tại gia ở quê nhà hẻo lánh để lần lượt vào học các trường công ở thành phố: Tiểu học Vinh, Cao đẳng Tiểu học Vinh, Cao Đẳng Sư phạm Đông Dương Hà Nội. Một chân trời rộng trước mắt Đặng Thai Mai; chân trời mới về kiến thức văn hoá và kinh nghiệm trường đời. May mắn là ông đã gặp được nhưng thầy giáo mô phạm như Lê Thước, Lê Ấm, Bùi Kỉ…, truyền thụ cho ông lòng yêu quý văn chương dân tộc, cũng như sự say mê văn học phương Tây, trước hết là văn học Pháp. Về sau khi đã trưởng thành, ông thường phê phán nhà trường Pháp – Việt chỉ nhằm đào tạo những kẻ thừa hành thụ động nhưng ông vẫn biểu lộ sự hàm ơn sâu sắc đối với một số giáo sư người Pháp ở trường Cao Đẳng Sư Phạm Hà Nội như giáo sư Milon. Giáo sư Houlié đã dạy cho ông phương pháp phân tích một tác phẩm văn học và khơi gợi ông cho phương pháp phân tích tác phẩm văn học và khơi gợi cho ông những hướng tìm tòi, nghiên cứu mới. Ông cũng gặp được nhiều bạn bè tốt như Nguyễn Sĩ Sách, Trần Phú, Trần Mộng Bạch, Ngô Đức Diễn, Tô Quang Phiệt, Hồ Tùng Mẫu, Đào Duy Anh, Phạm Thiều, Cao Văn Thỉnh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp…Ông cũng được tiếp xúc với một vài nhà cách mạng tiền bối thuộc hàng cha chú như Ngô Đức Kế, Lê Văn Huân.
    Những năm ông theo học Cao đẳng Sư phạm (1925 – 1928) thì Hà Nội đang sôi nổi các phong trào đấu tranh đòi ân xá Phan Bội Châu, truy điệu Phan Chu Trinh. Ông đã tham gia thành lập hội Phục Việt, sau đổi là Hưng Nam, cuối cùng lấy tên là Tân Việt cách mạng. Tân Việt tan vỡ, ông bị kết án một năm tù án treo. Sự tan vỡ này dẫn đến sự phân hoá chính trị trong nội bộ Tân Việt nhưng phần lớn hội viên đều chuyển sang lập trường tư tưởng chủ nghĩa xã hội.
    Năm 1928, Đặng Thai Mai tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm Hà Nội. Chính quyền thực dân hình như muốn tỏ ra rộng lượng đối với con cháu hạng “cừu gia tử đệ”, thậm chí đã có “tiền án”, bổ dụng Đặng Thai Mai làm giáo sư một trường trung học có tiếng hồi đó: Trường Quốc học Huế.
    Nhưng rồi ở quê hương, Xô Viết Nghệ – Tĩnh bùng nổ. Thực dân Pháp khủng bố trắng, ném bom cuống cả các đoàn biểu tình của nông dân. Ở Huế, Đặng Thai Mai phụ trách công tác Cứu tế đỏ, liền bị bắt.
    Một học sinh, sau này là GS.Trần Đình Gián, kể lại: Thầy Mai mãi mãi để lại trong tôi một kỉ niệm sâu sắc. Một buổi sáng ở Trường Quốc học Huế, thầy giảng bài thì mật thám ập bắt đến bắt. Thầy chỉ gật đầu chào chúng tôi, rồi vẫn với phong thái nghiêm nghị thường ngày, thầy bước lên xe của mật thám.
    Một học sinh khác, Vũ Thuần Nho, sau này trở thành Thứ trưởng Bộ giáo dục, nhớ lại:
    “Năm học 1930 – 1931, tôi học môn việt văn với thầy Mai của trường Quốc học Huế. Suốt đời tôi không bao giờ quên bài luận của thầy. Đề tài như này:
    “Bầu ơi thương lấy bí cùng
    Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”.
    Anh em chúng tôi trong lớp, những người đã vào Hội học sinh đỏ, đều thấu hiểu thầy muốn gợi lên cho mình suy nghĩ về đồng bào, lòng yêu nước. Nhưng bài luận ấy đã không được thầy chấm và trả lại. Vì chúng tôi bị bắt.
    Bỗng một buổi sáng, đứng sau song sắt phòng giam nhà từ Phủ Doãn (Huế), nhìn ra sân, tôi thấy thầy đang đứng ở đó. Thầy cũng bắt sau chúng tôi một tuần lễ. Chúng tôi thương thầy bị đày, qua một số thường phạm, chúng tôi nhờ chuyển lời hỏi thăm sức khoẻ của thầy và bảy tỏ nguyện vọng sẽ được tiếp tục học với thầy. Chỉ khoảng 15 – 20 ngày sau, chúng tôi nhận được một gói tài liệu buộc thật chặt: một tập thơ Victor Hugo của Nhà xuất bản Hachette. Chúng tôi đọc thuộc và học thuộc lòng bài này đến bài khác. Nhớ và đọc mãi câu: “Ceux qui vivent ce sont ceux qui lutten”. (Tạm dịch: Những người sống là những người đấu tranh)”.
    Đặng Thai Mai phải ngồi tù một năm và bị cách chức giáo sư. Năm 1932, ông ra Hà Nội dạy học ở Trường tư thục Gia Long. Năm 1935, ông cùng Phan Thanh, Hoàng Minh Giám thành lập trường Thăng Long. Trường tư thục nổi tiếng này đã là cái nôi nhen nhóm lòng yêu nước trong học sinh và chuẩn bị cán bộ tương lai cho đất nước Việt Nam độc lập.
    Năm 1937, sau khi Mặt trận Bình Dân thắng lợi ở Pháp, ở Việt Nam Mặt trận Dân chủ Đông Dương thành lập. Nhiều cán bộ lãnh đạo của Đảng thoát khỏi nhà tù đế quốc ra hoạt động công khai. Đồng chí Trường Chinh đến Hà Nội trực tiếp chỉ đạo các hoạt động báo chí của Đảng.
    [​IMG]Tư liệu
    Chân dung GS Đặng Thai Mai.

    Đặng Thai Mai vốn khổ công học tập từ nhỏ nên đã có một căn bản kiến thức vững chắc, nhưng trong thâm tâm sâu kín ông vẫn ấp ủ một tâm nguyện: Nếu chưa có sự tự do tư tưởng thì chưa viết lách gì cả! Thế rồi, để đáp ứng yêu cầu của cách mạng, gần 40 tuổi, ông bắt đầu cầm bút; những bài báo đầu tiên lại được viết bằng tiếng Pháp, in trên các báo của Đảng Cộng Sản Đông Dương, xuất bản ở Hà Nội, như Lao động (Le Travail), Tập hợp (Rassemnlement), Tiến lên (Eu avant), Tiếng nói của chúng ta (Notre voix). Ông đã dịch tập phóng sự Ngục Kontum của Lê Văn Hiến và viết một số truyện ngắn và tiểu phẩm đăng trong hai chuyên mục “Những mũi tên nhỏ” và Phan Thanh phụ trách. Một số bài này đã được dịch sang tiếng Việt và in trong “Tổng tập văn học Việt Nam”, tập 35 (1983).
    Năm 1938, ông tham gia thành lâp Hội truyền bá Quốc ngữ, hoạt động bên cạnh những nhân sĩ nổi tiếng như Vương Kiêm Toàn, học giả Nguyễn Văn Tố, cộng tác viên khoa học của Học viện Viễn Đông Bác cổ Pháp và Phó bảng Bùi Kỉ, thầy học cũ của ông ở Cao đẳng Sư phạm Hà Nội.
    Năm 1939, một người bạn gần gũi của ông là Phan Thanh, đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương ứng cử vào Viện dân biểu Trung kì, chẳng may đột ngột từ trần, Đảng liền giới thiệu Đặng Thai Mai thay thế, mặc dầu ông chưa phải là đảng viên; phải đến tháng 9.1949 ông mới kết nạp vào Đảng và người giới thiệu là người bạn cùng quê Hồ Tùng Mậu. Điều này chứng tỏ sự tín nhiệm của Đảng đối với ông. Nhân dịp này tuần báo Tiếng nói chúng ta của Đảng Cộng Sản Đông Dương số 24, ngày 28.7.1939 đã giới thiệu ông như sau: “Đặng Thai Mai thích nhắc lại một câu nói của Thomas Mann: Tôi sinh ra để cho sự thanh nhàn hơn là sự tử vì đạo. Không phải ông dám so sánh mình với tác giả cuốn “Cảnh báo Châu Âu” mà sự vĩ đại vượt quá mọi bộ óc lớn nhất của thời đại chúng ta, nhưng có thể, dù đã tính đến sự chênh lệch về tỉ lệ, ông vẫn thấy số phận của Thomas Mann và của mình ít nhiều giống nhau, ông sinh ra là để dành cho việc học tập, cho học trò và con cái nhưng tình thế đất nước đã đẩy ông vào đấu trường chính trị”… “Cái con người có vẻ hiền lành, mảnh khảnh đó lại không biết gì đến sự sợ hãi, ít nhất đối với ông. Với điều đó ông thật đúng là người con của xứ Nghệ, nhưng may mắn sao ông lại được điều hoà bởi chủ nghĩa nhân văn phương Tây”.
    Những năm Mặt trận Bình dân và tiếp đến những năm chiến tranh thế giới thứ II là một thời kì hoạt động căng thẳng của Đặng Thai Mai: hội họp, viết báo, biên tập bài vở và sửa chữa bản in thử, tuy vậy ông vẫn đảm bảo mọi công việc hàng ngày của một nhà giáo với tinh thần trách nhiệm cao. Một học sinh – Đào Thiện Thi – sau này trở thành Bộ trưởng Bộ Lao động nhớ lại: Thầy thường thức rất khuya, chấm bài, chuẩn bị bài rất kĩ. Hồ Trúc, một trong số học sinh sống trong nhà thầy, sau này là Thứ trưởng Bộ giáo dục, đã nhớ lại một câu nói của thầy: “Tôi chấm bài khuya đến mấy cũng không ngại, chỉ cần đêm khuya thanh vắng được đọc một vài câu văn hay cuả các anh, các chị là như người đi trên sa mạc gặp được một vũng nước mát ngon lành”.
    Những năm 1944 – 1945, Đặng Thai Mai bị đau nặng, phải nghỉ dạy học và dưỡng bệnh ở Sầm Sơn (Thanh Hoá). Hội Văn hoá cứu quốc của Đảng đã bí mật chuyển cho ông bản Đề cương văn hoá do đồng chí Trường Chinh khởi thảo. Dựa vào tinh thần của văn kiện này ông đã viết cuốn “Văn học khái luận”, xuất bản năm 1944. Đây là cuốn sách lí luận văn học đầu tiên ở nước ta đề cập đến một số vấn đề cơ bản của văn học nghệ thuật dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin như quan hệ giữa chính trị và văn học, giữa nội dung và hình thức, điển hình và cá tính, giữa dân tộc và tính quốc tế của văn học… Cũng trong thời gian này ông đã dịch các tác phẩm của Lỗ Tấn, Tào Ngu và giới thiệu văn học Trung Quốc vào nước ta. Từ nhỏ, Đặng Thai Mai đã làm quen với văn học Trung Quốc nhưng đó là văn học Trung Quốc của Hán Phú, Đường Thi. Lần đầu tiên nghe đến những tên tuổi như Trần Độc Tú, Mao Thuẫn, Quách Mạt Nhược, Lỗ Tấn… Đặng Thai Mai cảm thấy một khoảng trống rất lớn trong kiến thức của mình về văn học Trung Quốc. Đặng Thai Mai cũng đã học chữ Hán từ lúc đầu còn để chỏm nhưng đó là chữ Hán của Tứ thư, Ngũ kinh; để có thể hiểu và dịch được những câu văn châm biếm, thâm trầm của Lỗ Tấn, Đặng Thai Mai đã phải học bạch thoại với một nghệ sĩ Trung Quốc “chạy loạn sang nước ta”.Việc Đặng Thai Mai giới thiệu văn học Trung Quốc hiện đại vào nước ta, đúng như GS.Trương Văn Chính đã nhận định là một việc có “tính chất mở đường” vào một mảnh đất chưa ai kịp khai phá.
    Năm 1945, Cách mạng thánh Tám thành công. Ngày 02/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Ngay sau đó các thế lực đế quốc *********, với danh nghĩa quân Đồng Minh vào giải giáp phát xít Nhật, đã tràn vào nước ta: ở phía Bắc là quân đội Tưởng giới Thạch, đi theo sau là một lũ ********* người Việt đủ loại; ở miền Nam, quân Viễn Chinh Pháp, nấp sau quân đội Anh, đổ bộ vào Sài Gòn và không chậm trễ nổ súng gây chiến. Trước tình hình nguy cấp đó, Chính phủ lâm thời, một mặt chuẩn bị Tổng tuyển cử để bầu ra Quốc hội thông qua Hiến pháp, thành lập một chính phủ hợp hiến, mặt khác, lo chống giặc đói, chống giặc dốt và kiện toàn bộ máy nhà nước non trẻ vừa mới thành lập. Với chủ trương kháng chiến phải đi đôi với kiến quốc, kiến quốc cần có nhân tài, ngày 10.10.1945, Hồ chủ tịch kí sắc lệnh 45 thành lập một ban mới, đó là Ban Đại học Văn Khoa bên cạnh các ban Y Khoa, Khoa học, Chính trị Xã hội và Mĩ thuật. Nhiệm vụ của ban này nhằm đào tạo giáo sư bậc trung học và chuyên viên khảo cứu về khoa học xã hội – nhân văn như Triết lí, Xã hội, Văn chương, Sử kí, Địa dư. Nghị định 7.11.1945 của Bộ Quốc gia Giáo dục đã cử Đặng Thai Mai đang giữ chức Tổng Thanh tra học vụ bậc Trung học kiêm Giám đốc Ban Văn Khoa trường Đại học. Hội đồng giáo sư gồm có: Nguyễn Đức Nguyên (tức Hoài Thanh) Khoa Văn chương Việt Nam; Đặng Thai Mai, Khoa Văn chương Trung Hoa; Nguyễn Mạnh Tường; Khoa Văn chương Tây phương; Cao Xuân Huy, Khoa Triết lí Đông phương; Nguyễn Văn Huyên, Khoa Sử kí. Ngoài ra còn các vị sau đây được mời để giảng những vấn đề đặc biệt trong chương trình Văn khoa: Đào Duy Anh, Nguyễn Huy Bảo, Cù Huy Cận, Ngô Xuân Diệu, Trần Văn Giáp, Trần Khánh Giư (tức Khái Hưng), Phạm Duy Khiêm, Bùi Kỉ, Nguyễn Đình Thi, Đoàn Phú Tứ.
    Cũng trong thời gian này, Đặng Thai Mai được cử vào Uỷ Ban dự thảo Hiến pháp do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch và trong cuộc tổng tuyển cử ngày 6/01/1946 đã trúng cử đại biểu Quốc hội. Tại kì họp thứ nhất ngày 2.3.1946 Quốc hội khoá I (1946 – 1960), Hồ Chủ tịch đã tiến cử ông giữ chức Bộ trưởng Bộ giáo dục của Chính phủ liên hiệp kháng chiến với lời giới thiệu như sau: Đặng Thai Mai là “một người đã lâu năm hoạt động trong công cuộc giáo dục quốc dân và là người mà quốc dân có thể tin rằng nếu đem việc giáo dục giao cho để gánh vác thì người ấy sẽ làm hết nhiệm vụ”.
    Sau đó kháng chiến bùng nổ, Đặng Thai Mai được cử làm chủ tịch Uỷ ban kháng chiến tỉnh Thanh Hoá (1947 – 1948), giáo sư Đại học Văn Khoa Liên khu IV (1950), Giám đốc Sở Giáo dục và Giám đốc trường Dự bị Đại học Liên khu IV (1951 – 1953).
    Năm 1954, sau khi nghỉ dưỡng bệnh ở Nam Ninh (Trung Quốc) về Đặng Thai Mai được cử làm Hiệu trưởng Đại học Văn khoa (1954 – 1956) đóng trụ sở tại phố Lê Thánh Tông, Hà Nội. Năm 1956, hai trường Đại học Văn Khoa và Đại học Khoa học được hợp nhất thành Đại học Tổng hợp, Đặng Thai Mai được cử làm Chủ nhiệm Khoa văn chung cho cả hai trường Đại học Tổng hợp và Đại học Sư phạm cho đến năm 1959 thì chuyển sang làm Viện trưởng Viện Văn học thuộc Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam và Chủ tịch liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam.
    Trong cuộc đời mình, Đặng Thai Mai đã trải qua nhiều lĩnh vực hoạt động, nhưng công việc ông làm lâu hơn cả, chuyên hơn cả là nhà giáo. Ông đã dạy từ trường công qua trường tư dưới thời Pháp thuộc, sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông chuyên dạy về văn học ở cấp đại học, nhưng ở cương vị nào và mặc dầu có thời gian sức khoẻ ông không được tốt, bao giờ ông cũng tận tâm tận lực làm tròn thiên chức một thầy giáo, ngay cả khi chỉ có một hoặc một vài học sinh đến xin ông chỉ dẫn về một vấn đề cụ thể nào đó. Đặng Thai Mai dạy học với kiến thức uyên bác và cả tấm gương sống và làm việc, trước hết đó là tấm gương hiếu học, khát khao cái mới, luôn nỗ lực thu thập thông tin để theo kịp cái mới. Trong Điếu văn vĩnh biệt ông, nhà thơ Huy Cận nói: Đặng Thai Mai dạy học với tấm lòng say mê của “một nhà truyền giáo”. Nhà văn Nguyễn Đình Thi thì mệnh danh ông là “người chăm sóc những luống xanh”, chắc trong thâm ý của nhà văn là muốn nói đến sự đóng góp của ông trong việc đào tạo các nhà văn trẻ, từ lớp Văn hoá Kháng chiến ở Quần Tín (Thanh Hoá) cho đến Trường viết văn Nguyễn Du ở Hà Nội.
    Đặng Thai Mai rất say mê văn học nước ngoài, đặc biệt là về tư trào Văn hoá Phục hưng, về Sêchxpia, Đông Ki sốt, Lỗ Tấn… nhưng có thể nói tâm huyết của ông vẫn để ở Văn học Việt Nam. Ông nói với học sinh: Tôi học văn nước ngoài để trở về với Việt Nam, để hiểu đúng văn học dân tộc ta. Ông đã nghiên cứu văn học Lí – Trần, Nguyễn Trãi “Chinh phụ ngâm”, Nguyễn Đình Chiểu, “Ngục trung nhật kí”, thơ Tố Hữu và đặc biệt có thể nói ông đã gửi vào hai công trình nghiên cứu “Văn thơ Phan Bội Châu” và “Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỉ XX (1900 – 1925)” không chỉ là trí tuệ mà cả trái tim của mình, không chỉ là từ những kỉ niệm đau buồn mà cả niềm tin và hi vọng liên quan đến một giai đoạn bi tráng của quê hương, đất nước và cả gia đình ông. Cũng có thể nhắc đến cả cuốn “Hồi kí”của ông hoàn thành vào giai đoạn cuối của cuộc đời. Những bạn đọc chăm chú của cuốn “Hồi kí” này có thể còn tiếc rẻ là ông đã không kịp hoàn thành tập II của “Hồi kí”, khi mà ông đã trở thành một chứng nhân đặc biệt của một giai đoạn thắng lợi ngày càng vang dội thế giới của dân tộc ta, nhưng dù sao thì tập I của “Hồi kí Đặng Thai Mai” đã có thể đến với đông đảo bạn đọc, vì tác giả của nó đã có ý định: nếu chưa vừa ý thì trước khi từ giã cõi đời ông sẽ đốt đi, chứ không “in sống” nó ra để làm phiền bạn đọc! Trong phạm vi nghiên cứu, viết lách, ông cũng rất “khó tính” với bản thân, cũng như luôn yêu cầu cao và nghiêm khắc với học trò. Ông thật xứng đáng với các phần thưởng cao quý mang tên người mà suốt đời ông ngưỡng mộ: Huân chương Hồ Chí Minh và Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học xã hội – nhân văn.
  10. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Trần Dân Tiên

    HÀ NỘI NGÀY QUỐC KHÁNH ĐẦU TIÊN

    Hà Nội đêm 01 tháng 9 năm 1945.

    Đã về khuya. Vòm trời đen xanh trên cao chi chít những chòm sao nhấp nháy gần xa như mở hội. Gió lao xao, lúc như vui đùa, lúc như thầm thì trò truyện trên các vòm cây xanh ngang dọc khắp thành phố. Trong khi đó, dưới các hàng cây dường như cũng có một trời sao rực rỡ khác. Đó là những ngọn đèn vẫn còn sáng trưng trong ngôi nhà, từ những mái tranh nghèo lụp xụp ngoại ô cho tới những toà nhà, biệt thự xinh đẹp trên những đường phố lớn, nhỏ. Thật vậy, dù đã rất khuya, nhân dân Hà Nội và tất cả các vùng xung quanh vẫn còn thức để sửa soạn áo quần, cờ hoa, băng rôn, biểu ngữ…và cả thức ăn cho buổi đi dự Đại lễ chưa từng có trong lịch sử vào ngày hôm sau. Đó là Đại lễ mà Chính phủ lâm thời của cách mạng sẽ công bố chính thức bản Tuyên ngôn Độc lập trước toàn dân, toàn thế giới việc thành lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, chấm dứt đêm dài tăm tối ngót trăm năm nô lệ dưới ách thực dân Pháp và gần đây là Phát xít Nhật; đồng thời cũng chấm dứt luôn vương triều phong kiến lạc hậu cuối cùng của nhà Nguyễn.


    Trong đêm “Giao thừa” của ngày Hội non sông thiêng liêng ấy, niềm vui lớn hiển nhiên và trước hết là được trực tiếp nghe bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ. Nhân dân Hà Nội cũng còn hồi hộp mong được tận mắt nom thấy vị lãnh tụ tối cao của cách mạng - vị Chủ lịch đầu tiên của đất nước. Tính danh của người vừa mới được cán bộ khu phố hồi chiều cho biết là ***** Chí Minh. Tuy nhiên, mọi người còn mong được gặp cả một nhân vật hết sức quan trọng nữa, đó là ông Nguyễn Ái Quốc, nhà cách mạng tuyệt vời mà nhiều người đã được nghe nói tới từ lâu. Khi còn trẻ, hoạt động ở Pháp ông đã đàng hoàng một mình đưa bản kiến nghị tới Hội nghị quốc tế ở Véc-xây (Versailles) đòi quyền sống, đòi độc lập tự do cho các dân tộc thuộc địa, trong đó có nhân dân Việt Nam. Về sau, ông càng hoạt động nhà cầm quyền Pháp càng e sợ tài năng, càng kính nể đạo đức và nhân cách lớn của người chiến sỹ cách mạng Việt Nam huyền thoại ấy… Không màng tới hạnh phúc riêng, ông đã cống hiến cả cuộc đời mình cho cách mạng giải phóng dân tộc, cho nền độc lập, tự do của đất nước. Vừa qua, năm 1941, khi phát xít Nhật bằng sức mạnh ồ ạt tiến vào Việt Nam rồi sau đó hất cẳng Pháp, ông đã có thư gửi về cho toàn thể đồng bào phân tích tình hình chung và triển vọng giải phóng đất nước. Ông kêu gọi mọi người đoàn kết và hăng hái chiến đấu. Ôngkhẳng định Pháp và Nhật nhất định sẽ đánh nhau và sẽ đều thua. Cách mạng nhất định thắng. Việt Nam nhất định sẽ được độc lập, tự do. Nay mới có vài năm, lời ông nói đã trở thành hiện thực. Vậy ngày mai, Nguyễn Ái Quốc, người chiến sỹ lừng danh ấy liệu cũng sẽ có mặt ở Hà Nội, bên cạnh *****?
    Thế rồi, từ mờ sáng hôm sau, khi sương thu còn mỏng xanh như khói phủ trên thành phố, bà con nội, ngoại thành đã lục tục kéo nhau đi lên hầu khắp các ngả đường cùng hướng về phía tây bắc thành phố, nơi đó có địa điểm tập trung làm lễ đã được cán bộ các đường phố, các khu, tiểu khu báo trước. Đó là một bãi đất rộng ở cuối con đường rất đẹp vốn mang tên đường Puginier (tên một ông cố đạo chủ trì việc xây Nhà Thờ Lớn Hà Nội, nay ta đã đặt lại là đường Điện Biên Phủ), chính giữa có một bùng binh (vườn cỏ tròn lớn), phía tây bùng binh có một bức tường trang trí với các cửa cuốn (cửa giả) theo kiểu thức Toscane (một vùng ở miền trung nước Ý). Về phía tay trái của bùng binh ấy không quá 500m là khu Dinh Toàn quyền nước Pháp cũ, xung quanh có rất nhiều cây xanh tốt; phía bên phải bùng binh là Chùa Một Cột nhỏ bé nhưng phong cách kiến trúc rất độc đáo đã nổi tiếng từ bao thế kỷ qua. Đối diện với bùng binh về phía đông, cách chừng trên 1500m cũng là một khu đất lịch sử rất lớn: Đó là khu Hoàng thành xưa đã bị Pháp phá hủy hầu hết để mở đường và làm các cơ sở cho nhà binh của chúng…
    Xuống đường từ rất sớm, tới 9 giờ 30 sáng, những đoàn người, dù là đoàn thể hay chưa đoàn thể vẫn nối tiếp nhau tiếp tục đổ tới bùng binh với cờ hoa và biểu ngữ mang nhiều thứ tiếng: Việt, Pháp, Anh, Trung Quốc… Tiếng chân không, tiếng dày dép hoà lẫn những tiếng còi giữ nhịp và cả những tiếng hô đi đều bước: “Một, hai” rất hăng hái. Đội ngũ công nhân tề chỉnh nhất, nam nữ cùng đội mũ lưỡi trai vải mềm, sơ mi ngắn tay trắng, quần xanh, đồng phục như nhau, trong khi đó các bác nông dân từ ngoại thành vào vẫn dân dã thoải mái với áo nâu, quần vải, có bác còn đem theo cả điếu cày, cả những quả bầu khô đựng nước uống. Anh em thợ thuyền lao động chân tay tự do như thợ xẻ, thợ nề, thợ mộc, thợ sơn cá thể…, kể cả những anh chị làm vệ sinh, quét chợ cũng được tập hợp thành các khối với áo quần đủ kiểu, đủ màu sắc khác nhau, khí thế không thua kém bất cứ đoàn nào kể cả so với những đoàn, những đội thanh niên, sinh viên, học sinh sôi nổi, nổi bật với vẻ trẻ trung và áo quần gần như là đồng phục. Các đoàn phụ nữ - dù là nhà buôn hoặc viên chức - đều tươi tắn như hoa với những tà áo dài tha thướt đủ màu. Chị em tiểu thương các chợ Đồng Xuân, chợ Hôm, Cửa Nam, Bạch Mai… cố ý mặc toàn áo dài tứ thân cổ truyền của dân tộc với hai vạt trước vắt bỏ giọt rất nền nã. Giới trí thức, văn nghệ sỹ tuy có vẻ giản dị nhưng cũng vẫn lịch sự với cà vạt tề chỉnh, mũ mềm hay mũ phớt trên đầu. Nhiều nghệ sĩ ôm cả đàn, cả kèn đi theo, vừa đi vừa say sưa đàn hát. Trong khi đó, các cháu thiếu nhi cũng hùng dũng, tưng bừng tiến bước. Có đội đã sớm kiếm đâu được cả trống "ếch" và kèn đồng. Tất cả vừa đi vừa nổi trống, rúc kèn sôi động. Cũng trong khi ấy, những tiếng hô khẩu hiệu vẫn tiếp tục liên liếp vang lên không dứt từ tất cả các khối đoàn thể, nhà trường, xí nghiệp, khu phố, cơ quan. . . "Việt Nam độc lập tự do muôn năm! ". "Nước Việt Nam là của người Việt Nam!". "Độc lập hay là chết!”. “Hoan hô, ủng hộ Chính phủ do ***** Chí Minh làm Chủ tịch!". " Việt Nam là một dải thống nhất Bắc - Trung – Nam”.
    Cho tới gần 13 giờ, các đoàn người đã tiến vào Quảng trường, còn tràn cả ra các đường phố chung quanh. Nắng đã khá chói chang nhưng rừng người với rừng cờ, rừng băng rôn, biểu ngữ và muôn ngàn tiếng hát, tiếng reo và khẩu hiệu vẫn không hề khác hồi sớm xuống đường, nếu không muốn nói lúc này khi tất cả đã tập trung lại, sự náo nhiệt, tưng bừng dường như lại được nhân lên. Các nhân viên ban tổ chức đều ngạc nhiên: Đã công bố trên đài phát thanh "Bạch Mai” (hồi đó đài phát thanh nhỏ bé thô sơ thu được của Pháp hãy còn đặt ở sân bay Bạch Mai) là 14 giờ mới khai mạc, nay tất cả đã tới khá sớm. Vì sao vậy? Nhưng rồi cũng hiểu: Đây chẳng phải chuyện nhầm giờ, cũng chẳng phải là vì hội hè quá hấp dẫn. Tất cả chỉ chứng tỏ một niềm khao khát cháy bỏng: Việt Nam độc lập, chế độ mới, lãnh tụ Hồ Chí Minh - Nguyễn Ái Quốc.
    Và tất cả đã hợp thành những khối vuông san sát, tề chỉnh trước lễ đài vừa mới dựng xong giữa Quảng trường. Đó là một kỷ lục khó lin: Lễ đài đã được cấp tốc dựng xong chỉ trong có chưa đầy 2 ngày. Lễ đài toàn bằng gỗ, vải đỏ bọc xung quanh, hình vuông cao khoảng hơn 3m, trên là sàn gỗ.Lan can cũng được bọc vải trắng. Một dải vải dài với những bông hồng vàng được kết rất đẹp treo uốn lượn trang trí bốn xung quanh lan can. Mặt chính của lễ đài, trên nền đỏ có đính một ngôi sao vàng rất lớn. Hai bên lễ đài còn có hai giá cao với hai lư hương khá to. Trầm đã được đốt lên, khói xanh uốn lượn bay ngào ngạt. làm cho khung cảnh lễ đài càng thêm tôn nghiêm,đẹp mắt. Đứng bảo vệ chung quanh dưới chân lễ đài là một đội danh dự. Các anh là một đơn vị Giải phóng quân, mặc sơ mi cộc tay và quần soóc màu cỏ úa, chân mang dép da, toàn là những chiến sỹ từ chiến khu mới về. Anh em đã có nhiều công trạng oanh liệt trong các trận Nà Ngần, Phai Khắt, Bắc Sơn, Vũ Nhai vừa qua. Ở vòng ngoài đội danh dự còn một đội khác mặc thường phục mang súng ngắn, đó là Đội Thanh niên Hoàng Diệu cốt cán của Đảng.
    Trong lúc đó có một toán người cao lớn, da đỏ au đeo máy ảnh đi len lỏi giữa các khối người dự mít tinh. Đó là mấy người Mỹ trong tổ chức OSS (phái bộ tiền trạm của quân Mỹ có nhiệm vụ vào Việt Nam giải cứu tù binh Mỹ do Nhật bắt và chuẩn bị cho công việc giải giáp quân đội Nhật). Nhóm này do viên Thiếu tá Mỹ Archimedes L.A Patti đứng đầu. Patti đã từng được gặp Bác Hồ hồi Bác còn ở Hoa Nam, Trung Quốc. Nay Patti cũng được mời đứng vào nhóm các khách bên lễ đài, nhưng Patti đã xin được đi tự do bên ngoài. Về sau này viết hồi ký “Tại sao Việt Nam?”, Patti đã có những nhận xét khá trung thực về nhiều công việc của chúng ta, riêng trong buổi lễ lớn này Patli đã viết rất thực: “… Từ sớm tinh mơ, dân chúng Hà Nội như các bầy ong, từng đoàn lớn, nhỏ lũ lượt dần dần kéo tới Quảng trường… Ở chỗ này là cả một khối trí thức, ở chỗ nọ là viên chức, hoặc thương gia, kỹ nghệ gia… ở chỗ kia là dân chúng các làng ngoại ô, có cả đoàn là dân tộc miền núi với y phục địa phương của họ, và nông dân thì trong những bộ khăn áo cổ truyền…”, "Trong khi chờ đợi ***** và các quan chức tuỳ tùng tới, tôi đã nhìn thấy cả một nhóm cố đạo Thiên chúa giáo mặc áo thầy tu trắng và xanh đen, có cả các chức sắc mang khăn quàng và vải diềm đỏ. Cách họ không xa là các nhà sư Phật giáo khoác áo cà sa màu vàng, rồi đến các chức sắc Cao Đài, mặc áo dài trắng có tua và khăn quàng sặc sỡ... ", “... Mặt trời đã lên cao. Không khí đã có phần oi bức. Nhưng đôi khi cũng có những cơn gió nhẹ làm phấp phới cả biển cờ đỏ trên Quảng trường…".
    Đồng hồ đã chỉ 13 giờ 14 phút. Bỗng có nhiều tiếng còi từ xa, rồi cả tiếng hô chỉnh đốn hàng ngũ trong tất cả các đoàn trên Quảng trường. Một số cán bộ tất bật chạy ra phía con đường từ cột cờ thành cổ đi tới. Nhân dân đều nhìn ra và càng hồi hộp. Nhiều người ở phía ngoài đã nhìn thấy mấy chiếc Citroen màu đen chạy vào Quảng trường, hai bên tháp tùng có hai đội vừa là đội danh dự vừa là đội bảo vệ mang toàn súng sáu, đi xe đạp. Họ đạp xe rất thẳng hàng và đều tăm tắp, mặt mũi anh nào cũng hết sức trang nghiêm và cực kỳ kiêu hãnh.
    Đoàn xe tiến thẳng về phía lễ đài. Rừng người vừa mới rẽ ra lấy lối cho xe vào đã nhanh chóng khép kín lại. Phía ngoài không còn nom thấy gì nữa.
    Thế rồi có tiếng hô lớn phát ra từ phía lễ đài: "Bồng súng… Chào!". Tiếp đó là: " Chào cờ… Chào ! " Ngay tức khắc muôn ngàn tiếng xôn xao náo nức đang như biển sóng lập tức im phắc. Và bản Tiến quân ca cất lên hết sức hùng tráng. Tất cả hơn nửa triệu con người lập tức cùng đưa phắt các nắm tay lên ngang tai để chào lá cờ đỏ sao vàng nay đã chính thức trở thành cờ của Tổ quốc. Nhiều tiếng hát cũng bật lên trong biển người theo bài Quốc ca, từ những giọng còn rất trẻ cho tới những giọng đã rè đi vì năm tháng chất đầy, nhưng tất cả đều như có một sức mạnh lay động lạ lùng làm cho bản Quốc ca càng vang động cả một góc trời, những tâm hồn đều như cùng bay lên. Không ít người vừa khóc vừa hát vì quá xúc động. Đáng chú ý là ngay gần đó, ở cả 3 phía đều vẫn còn mấy cơ sở của quân đội Nhật và viên chức Pháp (ở Sở Thể dục thể thao, Toà nhà tài chính, Trường Trung học Albert Saraut…) nhưng họ đều im thít không giám có bất cứ dấu hiệu khiêu khích hoặc phá hoại. Tất nhiên cũng đã có lực lượng mật của ta bám sát theo dõi từ trước rất chặt chẽ.
    Khi lễ chào cờ vừa kết thúc, từ trên lễ đài bắt đầu vang lên một giọng Quảng Bình rất trang nghiêm trân trọng giới thiệu Cụ Chủ tịch Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập lịch sử của nước nhà. Lập tức biển người xôn xao hẳn lên rồi những tiếng reo như nổ bùng. Cả một rừng cánh tay cùng giơ lên, múa lên trong muôn ngàn tiếng hô vang cuồng nhiệt: "Ủng hộ Chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh!", "Chủ tịch Hồ Chí Minh vạn tuế”; và tất cả những khối, những đoàn người đứng gần lễ đài đã nom rõ hơn: Trên lễ đài, Cụ Chủ tịch đang tiến đến trước micro. Tất cả đều vô cùng ngạc nhiên: Không phải là một vị oai phong, cao lớn, hùng dũng, hoặc sang trọng nào, mà là một vị chạc năm mươi nhăm tuổi, mảnh mai, vô cùng giản dị với bộ đồ ka ki vàng nhạt bốn túi, cổ cao, đầu trần. Trên gương mặt hơi hao gầy và như còn thoáng xanh màu sốt rét của rừng núi nổi lên một vầng trán rộng mênh mông. Và nhất là đôi mắt - một đôi mắt sáng láng lạ lùng - đôi mắt của một trí tuệ siêu việt và của một trái tim tình cảm bao la đến nỗi đứng dưới nhìn lên nhiều ngườiđã phải thốt lên "Ôi, đôi mắt Cụ như sao!". Và bộ râu mềm mại lơ thơ trên mép, dưới cằm đã tạo thêm cho Người một vẻ hiền triết hết sức Việt Nam và Á Đông. Gương mặt ấy, dáng vẻ, phong thái ấy, dù chưa nói câu gì, Cụ đã gần như ngay lập tức chiếm được tất cả cảm tình, niềm tin yêu lớn, thậm chí cả tâm hồn của hàng triệu quần chúng nồng nhiệt đang hướng cả về Người.
    Mỉm cười, nụ cười hiền hoà vô cùng bao dung, Cụ Chủ tịch có ý chờ để đồng bào ngưng mọi lời hoan hô. Nhưng cả gần triệu con người vẫn tiếp tục hò reo mãi như không dứt. Patti đã phải viết tiếp trong "Tại sao Việt Nam”: “…***** đang đứng đó, mỉm cười, nhỏ nhắn trong tầm vóc nhưng thực là vĩ đại trong sự hoan hô, ủng hộ cuồng nhiệt của nhân dân Cụ…”.
    Và trong các khối đoàn thể, nhân dân dưới lễ đài lại nổi lên những câu hỏi với tất cả niềm vui sướng: "Này, có phải là Cụ Nguyễn Ái Quốc đấy không?", "Trán của Cụ đúng là vầng trán vũ trụ”… "Người nhà trời xuống giúp nước ta đấy, bà con ơi, thật là vạn hạnh, vạn hạnh! Hồ Chí Minh rõ ràng là Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Ái Quốc chính là Hồ Chí Minh! Còn ngờ ngợ gì nữa....".
    Nhưng biển người rồi cũng phải im lặng để nghe vị Chủ tịch Chính phủ lâm thời bắt đầu đọc bản Tuyên ngôn Độc lập lịch sử:
    - Hỡi đồng bào cả nước!
    Giọng Cụ ấm, và vang sáng lạ lùng. Cả biển người như nuốt lấy từng lời của Cụ.
    - … “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc…". Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ… Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng đã nói: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn được sự tự do và bình đẳng về quyền lợi…Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.
    Bên dưới lễ đài, trong khối trí thức có nhiều tiếng xì xầm đầy xúc động. Ông Bùi Kỷ lúc đó 48 tuổi, một Giáo sư lớn, Nhà nghiên cứu văn học hàng đầu toàn quốc ghé tai ông Đặng Thai Mai, một nhà trí thức, Giáo sư, Nhà lý luận phê bình văn học nổi tiếng, nói: "Thật tuyệt, Cụ đã dụng ý mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của nước mình bằng trích hai câu bất hủ của tuyên ngôn Mỹ và Pháp, cho thấy ***** luôn đặt sự nghiệp Cách mạng Việt Nam ta gắn liền với thời đại…". Ông Đặng Thai Mai đồng ý và nói thêm: "Với trích ấy, ***** còn muốn nói rõ: Cuộc cách mạng của chúng ta cũng là bước tiếp những gì là vĩ đại và nhân đạo mà thế giới đã làm, đồng thời Cụ cũng tỏ rõ cách mạng của chúng ta cũng là một cột mốc cho sự phát triển lịch sử giải phóng con người…".
    Trên lễ đài, vẫn với giọng nói hết sức ấm áp, vang sáng và đầy xúc cảm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc qua đoạn viết về các tội ác của Pháp rồi Nhật và đọc tới khát vọng độc lập, tự do của dân ta với cuộc Cách mạng Tháng Tám vừa mới thành công. Rồi đột nhiên, ngừng lại, ngước cặp mắt sáng láng tuyệt vời, Bác cất tiếng ân cần hỏi:
    - Tôi nói, đồng bào nghe rõ không?
    Lập tức cả biển người như bùng lên reo vang:
    Có! Có ạ! Có, có ạ!..
    Những vị cao niên râu tóc bạc phơ, những nhà văn hoá lớn, những cán bộ đoàn thể lại hết sức bất ngờ. Chưa bao giờ mọi người được chứng kiến hoặc được đọc trong sách báo này cảnh tượng như thế này trong một đại Quốc lễ. Nay chỉ có ở ta. Phải, chỉ có ở ta. . . Không xúc động, không tự hào sao được! Ai ai cũng hiểu: Dù chỉ là một sự kiện rất nhỏ và hết sức giản di ấy nhưng cũng đã đủ chứng tỏ quần chúng nhân dân ta đã ngay tức khắc hoàn toàn đón nhận Cụ là lãnh tụ của mình, đổi lại chỉ với câu hỏi hết sức giản di và dân dã như cha hỏi con, như bác hỏi cháu, như anh hỏi em trong nhà. Cụ cũng đã tỏ rõ mình là người gần gũi và yêu quý nhân dân như thế nào. Không một nghi thức nào ngăn được sự quan tâm cũng như tình cảm của Cụ đối với nhân dân.
    Rồi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tiếp tới phần cuối của bản Tuyên ngôn Độc lập:
    - “... Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập! Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập! Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
    Khi Cụ vừa đọc hết bản Tuyên ngôn Độc lập, cả biển người như lại nổi sóng với những tiếng hô vang dội, dường như không dứt: "Hồ Chủ tịch muôn năm!". Việt Nam Dân chủ Cộng hoà muôn năm!"…Và nhiều người lại không thể không thốt lên với nhau: “Áng văn lập quốc vĩ đại này sẽ mãi mãi là hành trang tinh thần của dân tộc Việt Nam ta trên con đường giữ gìn độc lập - tự do và xây dựng phát triển đất nước!". Về sau này nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu trên thế giới còn tôn vinh bản Tuyên ngôn Độc lập do chính ***** viết là một áng văn chính trị tuyệt vời, đã trở thành một trong những cống hiến nổi tiếng của tư tưởng Hồ Chí Minh.
    Tiếp theo, ông Trần Huy Liệu (Trưởng đoàn đại biểu Chính phủ lâm thời đã vào Huế nhận sự thoái vị của Vua Bảo Đại - ông Vua cuối cùng của nhà Nguyễn), lên đọc lại Bản Chiếu thoái vị của Vua Bảo Đại do chính Vua Bảo Đại trao (đã đọc trước cuộc tập hợp rất lớn dân chúng trước Ngọ Môn - Huế ngày 30/8/1945 vừa qua). Đọc xong, ông Trần Huy Liệu hai tay giơ cao cho toàn thể đồng bào trong cuộc đại lễ lịch sử này được tận mắt trông thấy cả ấn, cả kiếm hai báu vật thiêng liêng tượng trưng cho quyền lực quốc vương đã được ông Bảo Đại trân trọng trao lại cho đại diện của Chính phủ mới của nhân dân. Những làn sóng hoan hô lại dậy đất: "Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà muôn năm!", "Hồ Chủ tịch muôn năm!".Sau đó, ông Võ Nguyên Giáp khi ấy là Bộ trưởng Bộ Nội vụ đọc danh sách Chính phủ lâm thời, rồi các thành viên Chính phủ tuyên thệ.
    Đại lễ Độc lập của đất nước đã kết thúc trong muôn vàn tiếng reo vui và hoan hô dậy trời đất. Nhiều người dân xúc động lại trào nước mắt. Nhiều cụ già râu tóc bạc phơ cùng nhắc lại với nhau: Trong lịch sử mấy ngàn năm của đất nước, mỗi triều vua thay đổi nhau, hoặc khi phục quốc sau những năm mất nước, những năm dài bị đô hộ cũng đã có những lễ lớn, thậm chí rất lớn, nhưng thực chất vẫn chỉ là những buổi lễ chuyển giao từ một triều đại phong kiến vua quan này sang một triều đại khác như thế. Bây giờ hoàn toàn khác, một đại lễ "khai sinh", mở đầu cho một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên cộng hoà và dân chủ - kỷ nguyên chính quyền của nhân dân, vì nhân dân. Đây chính là điều vĩ đại nhất của đại lễ mùng 2 tháng 9 năm 1945 mà lịch sử sẽ còn đời đời ghi nhớ.
    Khi rời khỏi Quảng trường, tất cả mọi người đều thấy rõ hơn khu đất này, Quảng trường này từ nay mặc nhiên đã đi vào lịch sử như mảnh đất thiêng. Quảng trường Ba Đình sẽ luôn luôn toả sáng trên cả nước. Bởi đây là nơi Chính phủ lâm thời đã chính thức long trọng tuyên cáo cùng thế giới về nền độc lập của Việt Nam, một Việt Nam hoàn toàn khác x­ưa - một Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - không những thế, một đất nước, một dân tộc đã đi tiên phong trong sự nghiệp giải phóng dân tộc trên toàn thế giới. Đây cũng là nơi lãnh tụ Hồ Chí Minh - người yêu nước, cứu nước vĩ đại đã lần đầu chính thức ra mắt trước toàn thể nhân dân mình, ngay lập tức Người đã được toàn dân đón nhận cực kỳ nồng nhiệt. Bởi vậy ai ai cũng tin rằng Quảng trường này sẽ mãi mãi gắn liền với toàn bộ cuộc đời anh hùng cùng sự nghiệp cách mạng lớn lao, bất diệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng như mãi mãi gắn liền với sự nghiệp chung của đất nước.
    Rời Quảng trường, rừng cờ đỏ lại toả đi phấp phới khắp thành phố. Tiếng hô khẩu hiệu và cả tiếng đàn, tiếng hát lại tiếp tục vang lên và lan toả đi các hướng.
    Xuống lễ đài, trước khi lên xe, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhẹ nhàng hỏi đồng chí Trường Chinh:
    - Tình hình các nơi khác thế nào, chú đã nhận được điện báo gì chưa?
    Đồng chí Trường Chinh báo cáo rất nhanh:
    - Thưa, mít tinh ở Huế tốt, đồng bào dự lễ rất đông vui, ủng hộ chính quyền mới nhiệt liệt. An toàn cả. Bọn biệt kích Pháp nhảy dù xuống định liên lạc với lực lượng Nam triều cũ, ta đã bao vây chặt. Thưa Bác, Sài Gòn cũng đông vui lắm. Đồng bào cũng vô cùng hăng hái… Nhưng cuối lễ, núp sau quân Anh vào giải giáp Nhật, bọn Pháp đã cho tay chân gây rối. Có súng nổ. Các đồng chí xứ uỷ đã giải quyết xong. Nhưng tình hình vẫn còn căng.
    Người hỏi tiếp:
    - Quân Tưởng Giới Thạch do Đồng minh cho vào ta giải giáp Nhật ở miền Bắc đã tới đâu rồi?
    - Thưa, họ đã vượt qua ải Nam quan, đang xuống Chi Lăng. Đáng lo là quân La Hán còn kéo theo cả hàng ngàn, thậm chí hàng vạn dân Tầu đói khát đi theo cùng "Hoa quân nhập Việt" để…vơ vét. Mà dân ta còn đang chưa hết chết đói. Nhưng đáng chú ý hơn, La Hán còn kéo theo một bọn đảng phái bệ rạc của một số người Việt Nam chạy trốn Pháp sang Trung Hoa ẩn náu, kiếm cơm và chỉ ngồi ngoài biên giới nói trạng, chẳng hoạt động chút nào cho đất nước. Nay bọn ấy đang hí hởn định núp lưỡi lê La Hán trở về, chắc chắn là muốn sẽ tranh giành với ta vai trò lãnh đạo và quyền lực trong Chính phủ…
    Chủ tịch Hồ Chí Minh rất bình tĩnh:
    - Thôi được, ta hãy về. Sẽ họp Trung ương ngay ngày mai, bàn chống giặc đói, chống giặc dốt, nhưng đồng thời cũng sẽ phải tính tới mọi hiểm họa đang tới trước mặt.
    Hồ Phương


    http://old.bqllang.gov.vn/?para=detail&catid=46&NewsId=2016


Chia sẻ trang này