1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những giai thoại..."trời ơi" trong lịch sử

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi vaputin, 13/07/2012.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Trần Dân Tiên

    Kỷ niệm về những lần gặp Bác Hồ







    GS. Đặng Thai Mai kể

    Tháng 8-1945, tôi bị đau dạ dày nặng, phải nằm tại Sầm Sơn, Thanh Hoá. Mấy ngày trước khi cướp chính quyền ở Hà Nội, một số người bạn vào nói công việc phải chuẩn bị và muốn tôi ra ngay.

    [​IMG]
    “… Ngày mai là một ngày sẽ đưa quốc dân ta đến con đường mới mẻ. Ngày mai là một ngày sung sướng của đồng bào ta và ngày mai là ngày tổng tuyển cử… Ngày mai tất cả các bạn cử tri nhớ đi bầu cử. Ngày mai mọi người đều vui vẻ hưởng quyền lợi của người dân độc lập, tự do”, Trích lời Bác Hồ kêu gọi toàn dân đi bỏ phiếu bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam mới

    Tôi định ra Hà Nội. Trên đường từ Sầm Sơn về Thanh Hoá, khi đi qua một sân bay cũ mà bọn Nhật đang sử dụng, tôi thấy một tên tướng Nhật cùng quân lính đang tập hợp ở đấy. Hình như chúng đang đốt một lá cờ. Khi tới bệnh viện Thanh Hoá, tôi bị giữ lại nằm viện.

    Cuối tháng 8-1945, tôi mới ra Hà Nội. Đến Hà Nội, các bác sĩ lại bắt nằm bệnh viện, chưa được làm việc ngay.

    Một hôm, tôi nghe tin Bác về. Lúc bấy giờ, tôi đã biết Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc, vì hôm trước, khi anh Hà Huy Giáp đi qua Thanh Hoá, đã có người chắn đường lại hỏi:

    - Hồ Chí Minh là ai?

    Anh Giáp trả lời:

    - Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc.

    Mấy hôm sau tôi được vào gặp Bác. Hôm đó là ngày 4-9-1945. Tôi đến gặp Bác ở phòng khách của Bắc Bộ phủ. Trong phòng có bàn làm việc và một bộ xa-lông. Tôi đi vào, kính cẩn và rón rén. Bác nhanh nhẹn bước ra, tươi cười bảo tôi lại ngồi ở bộ xa-lông. Bác nói:

    - Bác bận lắm, chỉ gặp chú được một lát thôi.

    Khi uống nước, Bác hỏi thăm chuyện gia đình, chuyện ông nội tôi bị đi tù, đến những năm cuối đời mới được tha; chuyện ông tôi ở Côn Lôn về được bao lâu? Bà nội tôi mất năm nào?...

    Sau đó, Bác kể chuyện chú tôi là ông Đặng Thúc Hứa, lúc bấy giờ gọi là ông Hai Cày (ở bên Xiêm). Bác nói với tôi:

    - Chú yếu lắm, phải lo mà chữa bệnh. Khỏe rồi ra giúp nước.

    Tôi chào Bác ra về. Chiều hôm đó có rất nhiều nhà văn đến gặp tôi và hỏi:

    - Anh gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh, cảm tưởng đầu tiên của anh như thế nào?

    Tôi trả lời:

    - Khó mà nói được cảm tưởng của mình, nếu như chỉ dùng một chữ để tóm tắt cảm giác của tôi thì phải dùng một chữ Pháp "Humain", có nghĩa theo quan niệm của tôi "Một con người rất thấu con người, thương người. Mục đích làm việc là làm thế nào cho con người được sung sướng hơn".

    Tôi cũng nhắc lại với các bạn tôi là:

    - Bác nói công việc ban đầu đang còn khó khăn, phải cố gắng nhiều. Cướp chính quyền mới là bước đầu. Bây giờ làm thế nào để củng cố chính quyền cho tốt. Đây là cơ hội ngàn năm có một. Phải xây dựng một nước Việt Nam độc lập, dân chủ. Nếu bỏ lỡ cơ hội này là trách nhiệm của cả một thế hệ.

    Tôi rất sung sướng khi các bạn văn tỏ ý tán thành ý kiến đó. Nhiều tuần lễ sau, các bạn ở các tỉnh khác cũng như ở Hà Nội vẫn còn hỏi tôi về ấn tượng buổi ban đầu được gặp Bác. Tôi nhắc lại câu nói hôm đầu tiên. Và tôi còn nói thêm với họ là:

    - Theo tôi nghĩ "Nếu ông Hồ Chí Minh mà không làm xong việc thì không có người Việt Nam nào làm xong việc".

    Tôi nói câu ấy vì lần gặp Bác vừa rồi tôi có nói, đại ý là: Không chỉ nhân dân Nghệ Tĩnh tin tưởng vào Bác, mà bây giờ cả nước đều tin tưởng Bác và ai ai cũng nói, có Bác thì sự nghiệp của các lớp tiền bối lần này có thể thành sự thực.

    Hôm đó Bác nói:

    - Vấn đề không phải chỉ tin vào một con người, mà phải tin vào Đảng. Chú đã đọc Mác, Mác nói: "Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng".

    Tôi nói với các bạn:

    - Đành rằng sự nghiệp cách mạng là của quần chúng, nhưng cũng cần có một người chỉ đường cho mà đi.

    Tất nhiên, các bạn tôi tin rằng người đó là Hồ Chí Minh.

    Sau đó Bác gọi tôi vào. Thấy sức khoẻ của tôi đã khá hơn, Bác bảo tôi tham gia vào Ban dự thảo "Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa". Tôi hết sức bỡ ngỡ vì từ trước tới nay tôi chưa hề quan tâm tới vấn đề này bao giờ. Tuy nhiên khi học lịch sử thế giới và theo dõi tình hình cách mạng Liên Xô, tôi cũng biết một ít về bản Hiến pháp của Anh. Tôi cũng đã đọc một số điểm chính trong bản Hiến pháp của Pháp năm 1789 và Hiến pháp đầu tiên của Liên Xô năm 1936. Những người được cử vào Ban dự thảo Hiến pháp hình như có cố vấn Vĩnh Thụy, cụ Vũ Đình Hoè và Nguyễn Đình Thi, dưới sự chỉ đạo của đồng chí Trường Chinh.

    Hôm đầu tiên Bác chủ tọa cuộc họp, buổi trưa Bác giữ tôi và cố vấn Vĩnh Thụy ở lại cùng ăn cơm tại Bắc Bộ phủ. Bữa cơm hôm đó rất đạm bạc.

    Mấy tuần sau, chúng tôi hoàn thành bản sơ thảo. Khi trình bày Bác hỏi:

    - Các chú có ai thắc mắc gì không?

    Tôi cười và thưa với Bác:

    - Không biết chúng ta ban bố quyền bầu cử cho toàn dân có sớm quá không? Dân chúng ta hiện giờ người mù chữ còn tới 80, 90%.

    Bác cười, giơ ngón tay chỉ vào tôi và nói:

    - Chú là người thảo hiến pháp mà không khéo lại ********* đấy, người cách mạng trước hết phải tin vào nhân dân.

    Câu nói đó đối với tôi mãi mãi là một bài học vô cùng thấm thía, vả lại kết quả cuộc bầu cử ngày 6-1-1946 là một sự xác nhận hết sức hùng hồn đối với tôi.

    (Trích trong sách Bác Hồ sống mãi với chúng ta)
  2. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Một số trang trong quyển Hồ Chí Minh truyện được xuất bản ở TQ năm 1949

    [​IMG]
    第二页
    [​IMG]
    第三页
    [​IMG]
    第四页
    [​IMG]
    第五页
    [​IMG]
    第十页
    [​IMG]
    第二十页
    [​IMG]
    第三十页
    [​IMG]
    第四十页
    [​IMG]
    第五十页
    [​IMG]
  3. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Trần Dân Tiên

    Đọc quyển NMCVHCT xong rồi đọc bài Kỷ niệm về những lần gặp Bác Hồ trên đây hẳn các bạn sẽ thấy văn phong của ông "Trần Dân Tiên" giống hệt văn phong cụ Đặng Thai Mai.

    Trang web Bảo tàng HCM có ghi:

    Thời gian: 4 - 9 - 1945
    Sự kiện: Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp và trò truyện với ông Đặng Thai Mai.

    Nội dung sự kiện: Tại Bắc Bộ phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh trò truyện với ông Đặng Thai Mai. Người hỏi thăm chuyện gia đình, hỏi về ông nội, bà nội ông Đặng Thai Mai. Sau đó, Người kể chuyện về người chú ruột của ông Mai là Đặng Thúc Hứa (ông Hai Cày) khi hai người cùng sống và hoạt động ở Xiêm. Lúc sau Người nói: Bác bận lắm, chỉ gặp chú một lát thôi. Chú còn yếu lắm, phải lo mà chữa bệnh. Khoẻ rồi ra giúp nước.

    Nguồn trích:
    - Đặng Thai Mai: Kỷ niệm về những lần gặp Bác Hồ, in trong cuốn Bác Hồ sống mãi với chúng ta (Hồi ký)**, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 25-26.

    - Hồ Chí Minh-Biên niên tiểu sử, Nxb.Chính trị quốc gia, 2006, t. 3, tr. 4

    http://webcache.googleusercontent.c...ký"&cd=7&hl=vi&ct=clnk&gl=vn&client=firefox-a
  4. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Trần Dân Tiên

    Về mối quan hệ thân thiết của gia đình HCT và gia đình phía cụ Đặng Thai Mai ta có thể thấy qua bài dưới đây, từ đó ta có thể hiểu tại sao hai người không quen nhau nhưng lại rất biết nhauvà không có gì lạ khi ***** đồng ý tiếp cụ Đặng ngay sau khi nhận được thư của cụ Đặng.Lời chị dặn khi em được cử làm *************



    Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập tại Thủ đô Hà Nội, đài, báo trong, ngoài nước đưa tin đậm và in ảnh Người. Gia đình, họ hàng, bầu bạn, dân làng Sen, làng Chùa xôn xao bàn tán vì gia đình, ông già bà cả trạc tuổi Bác Hồ đều thấy khá giống, dù thời gian Bác xa quê đã 30 năm, trải qua bao gian nan nguy hiểm lại vừa qua một trận ốm thập tử nhất sinh. Đặc biệt là đôi mắt sáng. Riêng bà Nguyễn Thị Thanh, một chiến sĩ yêu nước từng bị Pháp bắt tù, thì khẳng định. Chỉ có điều dân làng, họ hàng chỉ biết Bác có tên Nguyễn Sinh Cung và Nguyễn Ái Quốc, nhà cách mạng lừng danh. Nhưng O Thanh – tên gọi thân mật phụ nữ không lập gia đình- quyết ra Hà Nội tìm hiểu. O mang theo vài món quà quê bình thường của xứ Nghệ, gia đình O thường dùng là một đôi vịt. Đến Hà Nội, O đến nhà giáo sư Đặng Thai Mai, con trai chí sĩ yêu nước Phó bảng Đặng Nguyên Cẩn, bạn đồng hương xứ Nghệ, người đồng ý chí của Phó bảng Nguyễn Sinh Huy (Sắc)- thân phụ Bác Hồ. O Thanh còn là bạn thân O Quỳnh Anh, con gái cụ Đốc học Đặng Nguyên Cẩn, cũng là một chiến sĩ yêu nước, không lập gia đình, dành hết tâm sức giúp em là Đặng Thúc Hứa lập trại Bạn Thầm ở Thái Lan để làm căn cứ chống Pháp. Được giáo sư Đặng Thai Mai cho biết Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc và thu xếp để hai chị em gặp nhau. Vì việc nước bộn bề, lại muốn giữ bí mật do tình thế cách mạng lúc ấy, O Thanh nghỉ ngơi ở nhà giáo sư Đặng ít ngày rồi về quê.


    [​IMG]
    Làng sen quê Bác.
    Khi từ biệt em, O Thanh nắm chặt tay Hồ Chủ tịch nói:
    Em rất bận, chị không nói nhiều, mong em nhớ kỹ câu này:
    Quốc chính yếu tâm thuật,
    Quan thanh dân tự an.
    Dịch nghĩa:
    Chính trị của đất nước điều quan trọng nhất là tâm phải theo đúng đường lối thân dân, đoàn kết.
    Quan chức thanh liêm dân tự yên vui, ủng hộ chính thể.
    Bác cảm động trả lời:
    Thưa chị, em nhớ, em nhớ lời chị dặn. Cho em gửi lời thăm anh Khơm (Nguyễn Sinh Khiêm), bà con họ hàng, làng xóm. Có dịp em về thăm quê.
    Lời dặn chí lý của chị gái Hồ Chủ tịch cần nghiên cứu. Ta biết gia đình nội ngoại, quê hương xứ Nghệ vốn nổi tiếng học hành, nổi tiếng nghĩa khí. Anh chị em Bác đều theo học đạo Thánh, Hiền từ tuổi ấu thơ. Lời dặn trên bắt nguồn từ Khổng Giáo.
    Chữ “Thuật Thánh” O Thanh nhắc đến, có lẽ là học thuyết của Tử Trương, một cao đệ của Khổng Tử, có đạo hiệu Thuật Thánh. Ông học rộng, ham hỏi, tính phóng khoáng, không câu nệ, thích làm việc khó... Ông rất khoáng đạt trong giao du. Ông cho rằng “Người quân tử tôn trọng bậc hiền đức, mà bao dung kẻ tầm thường; khuyến khích người tài giỏi mà thương xót kẻ bất tài” (Quân tử tôn hiền nhi dung chúng, thiện nhi căng bất năng). Khác hẳn quan điểm của bạn đồng môn Tử Hạ “Đối với người tốt, mình nên làm bạn; đối với người không tốt, mình nên cự tuyệt” (Thiện giả dữ chi; kỳ bất khả giả, cự chi).
    Có lẽ, chị em Bác thấy tình thế nước nhà lúc ấy đòi hỏi phải có chính sách đại đoàn kết toàn dân, không hẹp hòi, thành kiến, dùng người như dùng gỗ. Cây thẳng dùng vào việc thẳng, cây cong dùng vào việc cong.
    Còn ý thứ hai quan hay cán bộ giữ được liêm khiết thì dân yên. Ngày xưa, khi tuyển chọn quan lại hội tụ ba tiêu chuẩn: thanh, thận, cần. Thanh liêm là tiêu chuẩn quan trọng nhất, rồi đến cẩn thận, thứ nữa là chăm chỉ, cần mẫn việc công. Ba tiêu chuẩn trên là điều kiện cần, phải có một tiêu chuẩn nữa mới đủ. Đó là trình độ, năng lực xứng chức. Khi được tuyển dụng, quan chức phải học hành, đậu đạt có trình độ xứng chức. Ít nhất phải có bằng Hương Cống (Cử nhân) trở lên.
    Toàn Đảng, toàn dân đang tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; đồng thời học tập, quán triệt Nghị quyết TƯ 4 (khóa 11) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Trong đó vấn đề phòng, chống tham nhũng và lãng phí là một nội dung quan trọng, nhạy cảm thì lời O Thanh dặn Hồ Chủ tịch thật đáng suy ngẫm.
    Ngô Đăng Lợi
    (Hội Sử học Hải Phòng)

    http://www.baohaiphong.com.vn/chann...dan-khi-em-duoc-cu-lam-Chu-tich-nuoc-2168023/
  5. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Trần Dân Tiên

    Sau khi gặp nhau HCT và cụ Đặng làm việc cùng nhau và giữ mối quan hệ cá nhân rất thân thiết. Đó là một thuận lợi để Trần Dân Tiên thu thập thêm thông tin cho quyển sách của mình.

    Cách mạng Tháng Tám thành công, Đặng Thai Mai được bầu làm Đại biểu Quốc hội khoá I, Ủy viên Ban dự thảo Hiến pháp nước VNDCCH, Bộ trưởng Giáo dục. Bác Hồ rất quí trọng ông. Những ngày tháng cuối năm 1945, gia đình ông ở biệt thự Liễu Trang (Cầu Mới) có vinh dự nhiều lần được đón Bác về nghỉ ngơi và gặp gỡ với các đồng chí trong Trung ương Đảng. Đầu năm 1946 gia đình ông chuyển đến số nhà 32 phố Lý Thường Kiệt, đó lại trở thành nơi mà Bác Hồ thường gặp các đồng chí miền Nam ra công tác.
    (Đặng Thai Mai - nhà văn hóa cách mạng nhiệt thành
    http://www.cand.com.vn/vi-VN/phongsu/2011/2/143864.cand)

    Biệt thự Liễu Trang (Villa Les Saules), một biệt thự ngát hương hoa mộc gần chợ Xanh.
    Biệt thự màu xanh, một tầng, kiến trúc độc đáo, trang nhã. Đường vào nhà rải sỏi. Hai bên đường là rặng liễu rủ và hàng phi lao. Khu vườn trồng nhiều hoa, nhưng nhiều nhất là cây mộc. Nho nhỏ, xinh xinh kiểu Á Đông, nhưng vườn hoa lại có giàn dây leo và giếng nước quay tay ròng rọc kiểu Pháp.

    Về danh nghĩa, Liễu Trang được thuê cho gia đình ông Đặng Thai Mai, Bộ trưởng Giáo dục trong một thời kỳ của năm 1945-1946, nhưng nó còn là nơi hội họp bí mật của Thường vụ Trung ương gồm các ông Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Quốc Việt.



    Thời ấy, giữa những bộn bề việc nước, ông Giáp, đã tìm về Liễu Trang - nơi ***** đã có lần nghỉ tại đây, với cảm giác như về nhà..Ở đó ông Giáp đã gặp lại bà Bích Hà.


    http://dddn.com.vn/30316cat90/huong-moc-xua.htm
  6. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Trần Dân Tiên

    Tại sao Trần Dân Tiên lại giữ im lặng cho đến ngày nay?

    Va tui nghĩ rằng Trần Dân Tiên chính xác là những ai thì cũng có người biết tuy số người này không bao nhiêu người còn sống. Như cụ Giáp và cụ Bích Hà chắc là phải biết ông Trần Dân Tiên.

    Hình như đã có một thệ nguyện giữ bí mật về việc này trong nhóm Trần Dân Tiên. ***** đã nói tiểu sử ờ tính sau nên hẳn cụ đã bất ngờ khi người ta mang quyển sách đến cho Cụ. Đọc trang đầu Cụ biết ngay là ai đã viết ra nó. Phản ứng của Cụ thế nào ta không biết nhưng mối tình anh em cụ dành cho ông Đặng Thai Mai không hề suy xuyển. Viện bảo tàng HCM còn lưu bản chụp bức thư Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thăm sức khỏe ông Đặng Thai Mai và gia đình vào ngày 10 - 4 - 1951.

    Ông Đặng Thai Mai không nói một điều gì và khi ông mất đi thì những người khác trong nhóm cũng im lặng cho tới năm 1993 nghe nói cụ Vũ Kỳ có lên tiếng là cụ cùng một số người "quang Bác" là đồng tác giá của quyển sách nói trên. Năm 2005 cụ Vũ Kỳ cũng đi gặp Bác và có thể Trần Dân Tiên sẽ mãi mãi là một bí mật.

    [​IMG]



    Hồ Chủ tịch với Luật sư Vũ Trọng Khánh – Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Giáo sư Đặng Thai Mai, ông Nguyễn Vĩnh Thụy (tức vua Bảo Đại thoái vị), ông Vũ Đình Huỳnh (người đeo kính đen đứng sau ông Vĩnh Thụy) – Bí thư của Hồ Chủ tịch, ông Ngô Quang Châu, ông Trần Huy Liệu – Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền, ông Lưu Văn Lợi, ông Nguyễn Đình Thi (từ trái sang phải).

  7. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Trần Dân Tiên

    Quyển này chắc in vào nhựng năm 50-60 do Ngô Chi Anh dịch, truyện có minh họa

    [​IMG] [​IMG] [​IMG] [​IMG] [​IMG] [​IMG]
  8. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Trần Dân Tiên

    Với giả thiết về Trần Dân Tiên như trên, Va tui thử giải thích những lý lẽ của phe "Trần Dân Tiên là HCT". Những bài của phe này nhan nhản trên mạng, Va tui chọn đại bài "Chân Dung Bác Hồ" của Kiều Phong ở http://trandantien.tripod.com/

    Ông Kiều Phong này rất khó tính, ông bắt những lỗi sau:

    "Chứng cớ thứ nhất: câu mở đầu cuốn sách đã có hai chữ dùng không chỉnh. “Nhiều nhà văn nhà báo Việt nam và ngoại quốc muốn viết... nhưng mãi đến nay chưa có người nào thành công”. Chữ "thành công" ở đây mơ hồ. Họ muốn viết nhưng chưa thực hiện được, chưa làm được hay đã viết về tiểu sử bác rồi, nhưng bốc bác chưa đủ thơm nên sách không thành công?"

    Thực ra đến năm 1948 thì chưa có tác phẩm nào tầm cở về tiểu sử HCT dù là nhiều nhà văn, nhà báo Tây, Tàu, Việt...đều muốn tìm hiểu và viết về HCT vì Cụ là một ngôi sao và là sự bí ẩn ở châu Á lúc bấy giờ.

    "Chứng cớ thứ hai nằm trong một câu văn ...: “Ngày thứ hai tôi viết thư xin phép được gặp Hồ chủ tich. NGAY CHIỀU HÔM ẤY, tôi rất sung sướng tiếp được thư trả lời ...” (trang 5).

    Ở đây, không có chuyện gửi thư tay vì chú Trần Dân Tiên không mô tả chuyện ấy. Kiều Phong ngờ rằng chú Tiên đã nhờ bưu điện Mỹ gửi thơ cho Chủ tịch thì mới nhanh khiếp thế. Nhưng hỏi lại giám đốc bưu điện San Diego, được trả lời: "Hệ thống bưu điện tối tân của Mỹ cũng chỉ có thể giao thư vào ngày hôm sau, nghĩa là qua một đêm mới tới tay người nhận". Bưu điện Mỹ năm 1988 đã không làm việc nhanh bằng bưu điện nhà nước xã hội chủ nghĩa vào ngày 3 tháng 9 năm 1945. Ngày đó, có chú Trần Dân Tiên gửi thư cho Hồ chủ tịch buổi sáng, buổi chiều nhận được thư trả lời!..".

    Như Va tui phân tích ở phần trước Trần Dân Tiên có những mối quan hệ đặc biệt và thân phận đặc biệt dể làm được điều mà Kiều Phong cho là mission impossible kia. Ông Kiều Phong lập luận "Ở đây, không có chuyện gửi thư tay vì chú Trần Dân Tiên không mô tả chuyện ấy" là không logic. "Không mô tả" không có nghĩa là "không có' và ngược lại.

    "Chú Tiên leo lẻo kể rằng lần đầu tiên chú thấy bác Hồ là ngày 2 tháng 9. Sáng 4 tháng 9 chú mới gặp bác lần thứ hai vậy mà chú đã biết “Hồ chủ tịch THƯỜNG MẶC ...”. Nếu bác cứ phịa đại Trần Dân Tiên là một thứ lính cận vệ, chuyên lo điếu đóm cho bác thì đỡ lộ tẩy. Đằng này bày đặt "thân thế" chú Tiên là người xa lạ, mới gặp... để rồi chú ấy phom phom kể bác thường mặc áo này, thường đi giầy kia, thông thạo cứ như... chính bác vậy. Đầu chưa kịp dấu cái đuôi đã thò ra ve vẩy loạn lên, trông không ra làm sao cả."

    Đây là một lỗi nhỏ của cụ Đặng Thai Mai, về mặt logic thì đây là lần thứ 2 cụ nhìn thấy HCT thì làm sao cụ biết HCT "thường mặc" cái gì. Nhưng ta nên nhớ cụ Đặng Thai Mai bắt tay viết quyển sách trên vào khỏang cuối năm 1947 hoặc đầu năm 1948. Lúc đó cụ đã rất nhiều lần gặp HCT nên cụ đã để lại một lỗi nho nhỏ mà Kiều Phong nhảy vào bắt giò ngay.

    Ngòai những lý lẽ trên thì phần còn lại của bài viết Kiều Phong có vẻ nặng nề thành kiến, đầy suy diễn chủ quan nhưng không đưa ra thêm được chứng cú quan trọng nào để kết luận Trần Dân Tiên là HCT.
  9. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Trần Dân Tiên

    Đặng Thai Mai - Hiệu trưởng đầu tiên của ĐH Sư phạm Hà Nội


    Trong cuộc đời hoạt động của mình, Giáo sư Đặng Thai Mai đã trải qua nhiều lĩnh vực hoạt động, nhưng công việc ông làm lâu hơn cả là giáo dục.

    [​IMG]

    Tượng chân dung GS Đặng Thai Mai tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

    Giáo sư Đặng Thai Mai sinh ngày 24/12/1902 tại làng Lương Điền (nay thuộc xã Thanh Xuân), huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Xuất thân từ một gia đình yêu nước, Đặng Thai Mai đã sớm trải qua thử thách khắc nghiệt của số phận: mới lên 6 tuổi đã phải theo bà nội và mẹ xuống trại giam Hà Tĩnh thăm bố; cái trại giam tồi tàn này không cách xa bao nhiêu dinh Đốc học quen thuộc mà trước đó không lâu cậu đã sống với bố là Phó bảng Đặng Nguyên Cẩn, quyền Đốc học Hà Tĩnh. Nhân việc đàn áp phong trào chống thuế ở Trung Kỳ (1908), chính quyền thực dân Pháp bắt Đặng Nguyên Cẩn (lúc đó đang làm Đốc học tỉnh Bình Thuận) giải ra Hà Tĩnh, kết án tù chung thân về tội “mưu phản bằng cách truyền bá tân học”.
    Năm Đặng Thai Mai 12 tuổi thì ông nội đã 75 tuổi, vì tội ủng hộ Việt Nam Quang phục hội, phải đi tù 3 năm, trở về nhà được 10 ngày thì mất. Đó là cử nhân Đặng Thai Giai, khi đang làm Tri huyện Yên Định thì các quan tỉnh Thanh Hóa mở cửa thành quy hàng quân Pháp, ông liền bỏ quan về quê.
    Trong cảnh chia ly nhà tan nước mất đó, may còn có bà nội, một người phụ nữ kiên cường, ra sức chèo chống. Đối với Đặng Thai Mai, bà nội vừa là mẹ vừa là thầy học. Bà đã tổ chức lớp học tại nhà, tìm thầy dạy cho cháu học theo chương trình giáo dục duy tân của Đông Kinh nghĩa thục, đặc biệt, bà luôn giáo dục cháu phải can đảm, cứng cỏi trong cuộc sống. Chính bà đã nêu gương cho cháu việc điềm tĩnh “đấu lý” với “các vị khách không mời mà đến” như các hào lý, bang biện, Tây đồn… thường đến nhà tra vấn, hoạnh họe, dọa dẫm.
    [​IMG]

    Chủ tịch Viện Khoa học Trung Quốc Quách Mạt Nhược tiếp GS Đặng Thai Mai tại Đại lễ đường Nhân dân, Bắc Kinh, ngày 24/6/1963.
    Hoàn cảnh đặc biệt đó của gia đình, cộng với truyền thống hiếu học của quê hương Nghệ - Tĩnh, lại có tư chất thông minh và trí nhớ phi thường, Đặng Thai Mai ngay từ tuổi thiếu niên đã tỏ ra xuất sắc trong học tập. Sau khi đã đọc hết các sách quốc ngữ của thư viện gia đình khá phong phú mà ông nội đặt tên là “Tam thai sơn phòng tàng thư”, Đặng Thai Mai mon men đến tủ sách chữ Hán và ngạc nhiên tự nhận thấy sau 5 năm dùi mài Luận ngữ, Mạnh Tử… đã có thể đọc trót lọt các truyện Trung Quốc như Tam quốc, Thủy hử, Thuyết Đường… rồi lân la đọc đến tân thư của các tên tuổi mới lạ rất nổi tiếng ở nước ta thời đó như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu…
    Từ năm 1915 đến năm 1928, Đặng Thai Mai từ giã lớp học tại gia ở quê nhà hẻo lánh để lần lượt vào học các trường công: Tiểu học Vinh, Cao đẳng Tiểu học Vinh, Cao đẳng Sư phạm Đông Dương Hà Nội. Một chân trời mới dần dần mở rộng trước mắt Đặng Thai Mai: chân trời mới về kiến thức văn hóa và về kinh nghiệm trường đời. May mắn là ông đã gặp được những thầy giáo uyên bác, mô phạm như Lê Thước, Lê Ấm, Lâm Quang Thọ, Bùi Kỷ…, truyền thụ cho ông lòng yêu quý văn chương dân tộc và say mê văn học phương Tây, trước hết là văn học Pháp.
    Về sau, khi đã trưởng thành, ông thường phê phán nhà trường Pháp - Việt chỉ nhằm đào tạo những kẻ thừa hành thụ động nhưng ông vẫn biểu lộ sự hàm ơn sâu sắc đối với một số giáo sư người Pháp ở trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội như Giáo sư Milon, Giáo sư Houlié đã dạy cho ông phương pháp phân tích một tác phẩm văn học và khơi gợi cho ông những hướng tìm tòi, nghiên cứu mới. Ông cũng gặp được nhiều bạn bè tốt như Nguyễn Sĩ Sách, Trần Phú, Trần Mộng Bạch, Tôn Quang Phiệt, Hồ Tùng Mậu, Đào Duy Anh, Phạm Thiều, Ca Văn Thỉnh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp… Ông cũng được tiếp xúc với một vài nhà cách mạng tiền bối thuộc hàng cha chú như Ngô Đức Kế, Lê Văn Huân.
    Những năm ông theo học Cao đẳng Sư phạm (1925-1928) thì Hà Nội đang sôi nổi các phong trào đấu tranh đòi ân xá Phan Bội Châu, để tang Phan Chu Trinh. Ông đã tham gia thành lập hội Phục Việt, sau đổi là Tân Việt cách mạng. Tân Việt tan vỡ, ông bị kết án một năm tù treo.
    Một học sinh, sau này là GS Trần Đình Gián, kể lại: “Thầy Mai mãi mãi để lại trong tôi một kỷ niệm sâu sắc. Một buổi sáng ở trường Quốc học Huế, thầy giảng bài thì mật thám ập đến bắt. Thầy chỉ gật đầu chào chúng tôi, rồi vẫn với phong thái nghiêm nghị thường ngày, thầy bước lên xe của mật thám”.
    [​IMG]

    Từ phải qua: Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Cao Xuân Huy.
    Một học sinh khác, Vũ Thuần Nho, sau này trở thành Thứ trưởng Bộ Giáo dục, nhớ lại: “Năm học 1930-1931, tôi học môn Việt văn với thầy Mai của trường Quốc học Huế. Suốt đời tôi không bao giờ quên bài luận của thầy. Đề tài về câu ca dao:
    “Bầu ơi thương lấy bí cùng
    Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”
    .
    Anh em chúng tôi trong lớp, những người đã vào Hội học sinh đỏ, đều thấu hiểu thầy muốn gợi lên cho mình suy nghĩ về đồng bào, lòng yêu nước. Nhưng bài luận ấy đã không được thầy chấm và trả lại. Vì chúng tôi bị bắt.
    Bỗng một buổi sáng, đứng sau song sắt phòng giam nhà tù Phủ Doãn (Huế), nhìn ra sân, tôi thấy thầy đang đứng ở đó. Thầy cũng bị bắt sau chúng tôi một tuần lễ. Chúng tôi thương thầy bị đày, qua một số thường phạm, chúng tôi nhờ chuyển lời hỏi thăm sức khoẻ của thầy và bày tỏ nguyện vọng sẽ được tiếp tục học với thầy. Chỉ khoảng 15-20 ngày sau, chúng tôi nhận được một gói tài liệu buộc thật chặt: một tập thơ Victor Hugo của Nhà xuất bản Hachette. Chúng tôi đọc thuộc và học thuộc lòng bài này đến bài khác. Nhớ và đọc mãi câu: “Ceux qui vivent ce sont ceux qui luttent”. (Tạm dịch: Những người sống là những người đấu tranh)
    Năm 1928, Đặng Thai Mai tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm Hà Nội, được bổ dụng làm giáo sư một trường trung học có tiếng hồi đó: trường Quốc học Huế.
    Nhưng rồi ở quê hương, phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh bùng nổ, thực dân Pháp khủng bố trắng trợn, ném bom xuống cả các đoàn biểu tình của nông dân. Ở Huế, Đặng Thai Mai phụ trách công tác Cứu tế đỏ, liền bị bắt.
    Đặng Thai Mai phải ngồi tù một năm và bị cách chức giáo sư. Năm 1932, ông ra Hà Nội dạy học ở trường tư thục Gia Long. Năm 1935, ông cùng Phan Thanh, Hoàng Minh Giám thành lập trường Thăng Long. Trường tư thục nổi tiếng này đã là cái nôi nhen nhóm lòng yêu nước trong học sinh và chuẩn bị cán bộ tương lai cho đất nước Việt Nam độc lập.
    Năm 1937, sau khi Mặt trận Bình dân thắng lợi ở Pháp thì ở Việt Nam Mặt trận Dân chủ Đông Dương thành lập. Nhiều cán bộ lãnh đạo của Đảng thoát khỏi nhà tù đế quốc ra hoạt động công khai.
    Đặng Thai Mai khổ công học tập từ nhỏ nên đã có một căn bản kiến thức vững chắc, nhưng trong thâm tâm sâu kín ông vẫn ấp ủ một tâm nguyện: Nếu chưa có tự do tư tưởng thì chưa viết lách gì! Thế rồi, gần 40 tuổi, ông mới bắt đầu cầm bút; những bài báo đầu tay được viết bằng tiếng Pháp, in trên các báo của Đảng Cộng sản Đông Dương, xuất bản ở Hà Nội, như Lao Động (Le Travail), Tập Hợp (Rassemblement), Tiến Lên (En Avant), Tiếng Nói Chúng Ta (Notre Voix).
    Năm 1938, ông tham gia thành lập Hội Truyền bá Quốc ngữ, hoạt động bên cạnh những nhân sĩ nổi tiếng như Vương Kiêm Toàn, học giả Nguyễn Văn Tố, cộng tác viên khoa học của Học viện Viễn Đông bác cổ Pháp và Phó bảng Bùi Kỷ, thầy học của ông ở Cao đẳng Sư phạm Hà Nội.
    [​IMG]

    GS Đặng Thai Mai (phải) và GS Ngữ học Xécđúcsenko (Liên Xô) tại Hà Nội.
    Năm 1939, một người bạn thân của ông là Phan Thanh, đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương ứng cử vào Viện Dân biểu Trung Kỳ, chẳng may đột ngột từ trần, Đảng liền giới thiệu Đặng Thai Mai thay thế, mặc dầu ông chưa phải là đảng viên; phải đến tháng 9/1946 ông mới được kết nạp vào Đảng và người giới thiệu là người bạn cùng quê - Hồ Tùng Mậu.
    Nhân dịp này, tuần báo Tiếng Nói Chúng Ta của Đảng Cộng sản Đông Dương số 24, ngày 28/7/1939 đã giới thiệu ông như sau: “Đặng Thai Mai thích nhắc lại câu nói của Thomas Mann: Tôi sinh ra để cho sự thanh nhàn hơn là sự tử vì đạo. Không phải ông dám so sánh mình với tác giả cuốn Cảnh báo Châu Âumà sự vĩ đại vượt quá mọi bộ óc lớn nhất của thời đại chúng ta, nhưng có thể, dù đã tính đến sự chênh lệch về tỉ lệ, ông vẫn thấy giữa số phận của Thomas Mann và của mình ít nhiều giống nhau, ông sinh ra là để dành cho việc học tập, cho học trò và con cái nhưng tình thế đất nước đã đẩy ông vào đấu trường chính trị”… “Con người có vẻ ngoài hiền lành, mảnh khảnh đó lại không biết đến sự sợ hãi, ít nhất là đối với ông. Với điều đó, ông thật đúng là người con của xứ Nghệ, nhưng may mắn sao ông lại được điều hòa bởi chủ nghĩa nhân văn phương Tây”.
    Những năm 1944-1945, Đặng Thai Mai bị đau nặng, phải nghỉ dạy học và dưỡng bệnh ở Sầm Sơn (Thanh Hóa). Dựa vào tinh thần của Đề cương văn hóa (1943) của Đảng, ông đã viết cuốn Văn học khái luận, xuất bản năm 1944. Đây là cuốn sách lý luận văn học đầu tiên ở nước ta đề cập đến một số vấn đề cơ bản của văn học nghệ thuật theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin như quan hệ giữa chính trị và văn học, giữa nội dung và hình thức, điển hình và cá tính, giữa tính dân tộc và tính quốc tế của văn học…
    Cũng trong thời gian này, ông đã dịch các tác phẩm của Lỗ Tấn, Tào Ngu và giới thiệu văn học hiện đại của Trung Quốc vào nước ta. Từ nhỏ, Đặng Thai Mai đã làm quen với văn học Trung Quốc nhưng đó là văn học Trung Quốc của Hán phú, Đường thi. Lần đầu tiên nghe đến những tên tuổi mới như Trần Độc Tú, Mao Thuẫn, Quách Mạt Nhược, Lỗ Tấn…
    Đặng Thai Mai cảm thấy một lỗ hổng rất lớn trong kiến thức của mình về văn học Trung Quốc. Đặng Thai Mai cũng học chữ Hán của Tứ Thư, Ngũ Kinh; để có thể dịch được những câu văn châm biếm, thâm trầm của Lỗ Tấn, Đặng Thai Mai đã phải học bạch thoại với một nghệ sĩ Trung Quốc “chạy loạn” sang nước ta.
    Với chủ trương kháng chiến phải đi đôi với kiến quốc, kiến quốc cần có nhân tài, ngày 10/10/1945, Hồ Chủ tịch ký sắc lệnh số 45 thành lập một Ban Đại học mới, đó là Ban Đại học Văn khoa bên cạnh các ban Y khoa, Khoa học, Chính trị Xã hội và Mỹ thuật. Nhiệm vụ của ban này nhằm đào tạo giáo sư bậc trung học và chuyên viên khảo cứu về khoa học xã hội - nhân văn như Triết lý, Xã hội, Văn chương, Sử ký, Địa dư. Nghị định ngày 7/11/1945 của Bộ Quốc gia Giáo dục đã cử Đặng Thai Mai đang giữ chức Tổng thanh tra học vụ bậc trung học kiêm chức Giám đốc Ban Văn khoa trường đại học(1).
    Cũng trong thời gian này, Đặng Thai Mai được cử vào Ủy ban dự thảo Hiến pháp do Hồ Chủ tịch làm Chủ tịch và trong cuộc Tổng tuyển cử ngày 6/1/1946 ông đã trúng cử đại biểu Quốc hội. Tại kỳ họp thứ nhất ngày 2/3/1946 của Quốc hội khóa I (1946-1960), Hồ Chủ tịch đã tiến cử ông giữ chức Bộ trưởng Bộ Giáo dục của Chính phủ liên hiệp kháng chiến với lời giới thiệu như sau: Đặng Thai Mai là “một người đã lâu năm hoạt động trong công cuộc giáo dục quốc dân và là người mà quốc dân có thể tin rằng, nếu đem việc giáo dục giao cho để gánh vác thì người ấy sẽ làm hết nhiệm vụ”(2).
    [​IMG]

    GS Đặng Thai Mai (trái) và GS Trần Văn Giàu.
    Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Đặng Thai Mai được cử làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến tỉnh Thanh Hóa (1947-1948), Giáo sư Đại học Văn khoa Liên khu IV (1950), Giám đốc Sở Giáo dục và Giám đốc trường Dự bị Đại học và Sư phạm Cao cấp Liên khu IV (1952-1953).
    Năm 1954, sau khi đi dưỡng bệnh ở Nam Ninh (Trung Quốc) về, Đặng Thai Mai được cử làm Hiệu trưởng Đại học Sư phạm Văn khoa (1954-1956), trụ sở ở phố Lê Thánh Tông, Hà Nội. Năm 1956, với việc thành lập Đại học Tổng hợp và Đại học Sư phạm, Đặng Thai Mai được cử làm Chủ nhiệm khoa Văn chung cho cả hai trường Đại học Tổng hợp và Đại học Sư phạm cho đến năm 1959 thì chuyển sang làm Viện trưởng Viện Văn học thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam và Chủ tịch Hội liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam.
    Trong cuộc đời hoạt động của mình, Đặng Thai Mai đã trải qua nhiều lĩnh vực hoạt động, nhưng công việc ông làm lâu hơn cả là giáo dục. Ông đã dạy từ trường công qua trường tư dưới thời Pháp thuộc, sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông chuyên dạy về văn học ở cấp đại học, nhưng ở cương vị nào và dù có thời gian sức khỏe không được tốt, bao giờ ông cũng tận tâm tận lực làm trọn thiên chức một thầy giáo. Trong Điếu văn vĩnh biệt ông, nhà thơ Huy Cận nói: Đặng Thai Mai dạy học với tấm lòng say mê của “một nhà truyền giáo”.
    Đặng Thai Mai rất say mê văn học nước ngoài, đặc biệt là văn học Trung Quốc, văn học Pháp, văn hóa phục hưng, về Shakespear, Don Quichotte, Lỗ Tấn… nhưng có thể nói, tâm huyết của ông vẫn để ở văn học Việt Nam. Ông nói với học sinh: Tôi học văn học nước ngoài để trở về với văn học Việt Nam, để hiểu đúng văn học dân tộc ta.
    Ông đã nghiên cứu văn học Lý - Trần, Nguyễn Trãi, Chinh phụ ngâm, Nguyễn Đình Chiểu, Ngục trung nhật ký, thơ Tố Hữu và đặc biệt có thể nói ông đã gửi vào hai công trình nghiên cứu Văn thơ Phan Bội ChâuVăn thơ Cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX (1900-1925) không chỉ là trí tuệ mà cả trái tim của mình, không chỉ là những kỷ niệm đau buồn mà cả niềm tin và hy vọng liên quan đến một giai đoạn bi tráng của quê hương, đất nước và cả gia đình ông.
    Trong phạm vi nghiên cứu, viết lách, ông cũng rất “khó tính” với bản thân mình, cũng như luôn luôn có yêu cầu cao và nghiêm khắc với học trò. Ông thật xứng đáng với các phần thưởng cao quý mang tên người mà suốt đời ông ngưỡng mộ: Huân chương Hồ Chí MinhGiải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học xã hội - nhân văn.
    ------------------------
    Chú thích:
    (1) Việt Nam Dân quốc Công báo số 4, ngày 20/10/1945.
    (2) Việt Nam Dân quốc Công báo số 9, ngày 17/11/1945.
    Theo Nguyễn Văn Hoàn
    Tạp chí Hồn Việt
  10. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Trần Dân Tiên
    Mối tình sâu đậm của Đại tướng Võ Nguyên Giáp

    (Người nổi tiếng) - Những lần được gặp và nói chuyện với các tướng lĩnh, các vị cán bộ đã từng làm việc cùng Đại tướng Võ Nguyên Giáp và được gặp gia đình Đại tướng, tôi đã được nghe họ chia sẻ tình cảm trân trọng của mình không chỉ với Đại tướng mà còn thể hiện sự quý mến đối với người phụ nữ đã cùng ông đồng hành từ những ngày sau Cách mạng Tháng Tám đến nay. Đó là Phó Giáo sư Lịch sử Đặng Bích Hà - phu nhân Đại tướng, người đã luôn ở bên ông qua bao khó khăn sóng gió của cuộc đời.



    Mối lương duyên trời định
    Đây là lần thứ ba tôi được đến thăm gia đình Đại tướng tại ngôi nhà số 30 Hoàng Diệu. Nhưng đây cũng là lần đầu tiên tôi có thời gian nhiều hơn và tâm lý thoải mái hơn để ngắm nhìn ngôi nhà cổ kính với những hàng cây thơ mộng.
    Không khoa trương, cầu kỳ, ngôi nhà bình dị như chủ nhân của nó nằm giữa một khu vườn rợp mát với những tán cổ thụ: những cây long não xum xuê gốc tới hai người ôm, những cây ngọc lan thơm mát...
    Ngay trước phòng khách của gia đình, vẫn còn đó bộ bàn đá cũ do bộ đội Sư đoàn 308 tặng Đại tướng từ những năm 1980 được đặt cạnh bể cá, bên những giỏ hoa phong lan được chăm sóc cẩn thận, đung đưa những bông hoa rực rỡ.
    Đã mấy chục năm nay, đó vẫn là nơi Đại tướng gặp gỡ, làm việc với các tướng lĩnh và cũng là nơi ngồi uống nước, đọc báo của vợ chồng Đại tướng vào những buổi sáng, là nơi hàn huyên, chuyện trò cùng con cháu vào những buổi chiều cuối tuần.
    Mấy năm nay, khi sức khỏe Đại tướng có phần giảm sút, thói quen ấy không còn được thực hiện nữa, nhưng mọi người vẫn giữ nguyên cách bài trí ấy như là lời nhắc nhủ về những kỷ niệm của gia đình.
    Khi ngồi ở đây, tôi cảm nhận được sự sâu lắng, bình yên của khu vườn, được nghe tiếng chim hót, tiếng nước chảy, tiếng cá quẫy,…và được thả hồn mình vào thiên nhiên, giúp đầu óc thư thái và có những suy nghĩ sáng suốt hơn.
    “Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ,…”
    [​IMG]
    Vợ chồng Đại tướng Võ Nguyên Giáp Điều đó thật đúng với Đại tướng Võ Nguyên Giáp và gia đình cụ Đặng Thai Mai. Hai người lớn lên tại hai miền quê khác nhau nhưng lại cùng có chung một chí hướng, một mục đích cao cả là đi theo tiếng gọi của lòng yêu nước, đứng lên đấu tranh đòi quyền tự do, bình đẳng.
    Ngay từ những ngày Đảng Tân Việt mới đi vào hoạt động và có tiếng vang ở Trung Kỳ, Võ Nguyên Giáp đã có cơ hội được tiếp xúc với những cương lĩnh, chủ trương của tổ chức, từ đó ông đã quyết định hoạt động trong Đảng Tân Việt.
    Tại tổ chức của Đảng Tân Việt, ông đã có cơ hội được gặp và làm việc cùng GS Đặng Thai Mai (cụ Đặng Thai Mai khi ấy vừa là thầy giáo, vừa tham gia hoạt động cùng Đảng Tân Việt, GS cũng là một trong những người đầu tiên sáng lập ra Hội Phục Việt - tiền thân của Tân Việt Cách Mạng Đảng).
    Ngay từ những ngày mới gặp nhau, cả hai người đã rất tâm đầu ý hợp. Đến cuối năm 1929, cùng với Đảng Tân Việt, các tổ chức Đảng cũng phát triển mạnh mẽ ở cả Bắc và Nam Kỳ.
    Giai đoạn này, Đảng Tân Việt cũng đã bắt đầu thể hiện những điểm yếu của nó và bị ảnh hưởng bởi Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng Chí Hội (Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên), vì thế Võ Nguyên Giáp, Đặng Thai Mai và Nguyễn Chí Diểu đã thành lập ra nhóm hạt nhân Cộng sản đầu tiên để cải tổ Tân Việt thành Đông Dương Cộng sản Liên đoàn.
    Sau đó cả hai người đều bị bắt giam vào nhà lao. Sau khi ra tù, Võ Nguyên Giáp bị chính quyền thực dân quản thúc tại quê nhà (Quảng Bình), cụ Đặng Thai Mai đã tìm cách đưa ông ra Vinh để cùng tìm việc làm và cùng gây dựng lại cơ sở, cũng như tìm cách bắt liên lạc với tổ chức.
    Đến năm 1932, khi cụ Đặng Thai Mai tìm được việc dạy học ở trường Gia Long tại Hà Nội, cụ đã cùng Võ Nguyên Giáp ra Hà Nội dạy học kiếm sống. Những tháng ngày mới ra Hà Nội, cả hai người đều phải hết sức cố gắng, vừa lo kiếm tiền sống.
    Võ Nguyên Giáp vừa lo học tiếp để thi đỗ tú tài rồi cùng về dạy ở trường Gia Long với cụ Đặng Thai Mai, sau đó cả hai cùng chuyển sang dạy tại trường Thăng Long. Thời gian tiếp sau, vừa hoạt động, Võ Nguyên Giáp vừa học tiếp đại học, ông tốt nghiệp cử nhân Luật - Đại học Đông Dương vào năm 1938.
    Hai người ấy, bấy giờ không chỉ là bạn, là đồng chí mà còn là đồng nghiệp. Trong những năm 1936-1939, khi phong trào đấu tranh đòi quyền dân sinh dân chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương diễn ra mạnh mẽ, Võ Nguyên Giáp và cụ Đặng Thai Mai đã khởi xướng phong trào truyền bá chữ quốc ngữ rộng rãi trong cả nước.
    [​IMG]
    Đại tướng Võ Nguyên Giáp bên vợ và hai con Rồi sau đó, cũng chính Võ Nguyên Giáp là người tổ chức các cuộc vận động quần chúng và báo chí để cụ Đặng Thai Mai trúng cử vào Viện Dân Biểu Trung Kỳ. Chính bởi mối thân tình đó mà Gia đình cụ Đặng Thai Mai coi Võ Nguyên Giáp như người thân trong nhà.
    Còn Võ Nguyên Giáp cũng rất quý gia đình cụ Đốc Mai, những lần được về quê vợ cụ Đặng Thai Mai tại làng Quỳnh, được ăn những bữa cơm ấm cúng cùng gia đình, được nói chuyện cùng bố vợ cụ Đốc Mai là cụ cử Hồ Phi Thống, được chơi cùng hai người con của cụ Đốc Mai và được họ quý mến như một người anh cả.
    Những ngày chưa tìm được việc làm ở Vinh, Võ Nguyên Giáp đã học thêm chữ nho với cụ Cử Hồ Phi Thống, rồi những lúc rảnh rỗi lại cùng cụ nói chuyện về thời cuộc, về những tấm gương, những bài học cứu nước của các vị tiền bối.
    Những lần ấy, Võ Nguyên Giáp đã nhìn thấy hai cô bé tóc còn để chỏm, hay nghịch đất với nhau ngay trước sân nhà ông ngoại. Đó là cô Đặng Bích Hà và cô Đặng Thị Hạnh - hai người con gái đầu của cụ Đặng Thai Mai.
    Dù còn nhỏ tuổi nhưng cô bé Bích Hà khi ấy đã tỏ ra là một cô bé thông minh, tinh nghịch và rất bướng bỉnh, cô không thích chơi đồ hàng hay búp bê như những bé gái khác mà cô chỉ thích chơi những trò chơi của con trai.
    Có lần Võ Nguyên Giáp rủ cô đi ra Cửa Lò chơi nhưng cô bướng không chịu đi, đến khi bị Võ Nguyên Giáp quát: “Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn!”, cô không những không chịu mà còn lăn ra khóc, đợi tới khi Võ Nguyên Giáp dỗ dành rồi đền cho chiếc khăn thêu rất đẹp mới chịu nín.
    Thời gian ở làng Quỳnh, rồi cả sau này khi mới ra Hà Nội, lúc nào Võ Nguyên Giáp cũng xem cô Bích Hà như một người em nên rất chiều và chăm em. Hơn nữa cô lại là người con lớn nhất của cụ Đặng Thai Mai nên đi đâu cũng được ba cho đi cùng.
    Vì thế, suốt thời gian hoạt động và làm việc của Võ Nguyên Giáp từ 1931-1941, đây cũng là khoảng thời gian ông được sống cùng nhà với cô Bích Hà nhiều nhất. Khi mới ra Hà Nội, ngày nào đi luyện tập thể thao, ông cũng cho cô Hà đi cùng. Cô là một cô bé bướng bỉnh nhưng cũng rất biết nghe lời.
    Mỗi lần đi tập, Võ Nguyên Giáp tập dưới sân còn cô thì đứng chơi quanh trên khán đài, đợi khi nào ông tập xong thì hai anh em lại đèo nhau về. Ngày ấy, trên đường đi, thi thoảng ông cũng kể cho cô nghe về cô Quang Thái (khi đó là người yêu và sau này là vợ Đại tướng Võ Nguyên Giáp) và cô lắng nghe rất chăm chú.
    Ngày ấy, cả gia đình cô, nhất là cụ Đặng Thai Mai, rất quý cô Quang Thái và mọi người đều xem cô như người thân trong nhà. Sau khi cưới, Võ Nguyên Giáp ra ở riêng và tiếp tục hoạt động ở Hà Nội rồi sang Trung Quốc, còn cô Bích Hà học ở Hà Nội một thời gian, đến năm 1943 cô theo trường tản cư về Thanh Hóa cho đến năm 1945 mới quay về Hà Nội.
    Trong suốt khoảng thời gian 10 năm ấy, tình cảm giữa hai người ngày càng gắn bó, đó là tình cảm trong sáng của người em gái với người anh trai. Không ai, kể cả cô và Võ Nguyên Giáp nghĩ rằng một ngày nào đó họ sẽ là vợ chồng.
    Vì thế mới nói, giữa hai con người ấy dường như đã có một sự ràng buộc, một sợi dây vô hình nào đó đưa họ đến gần nhau mà các cụ ta thường hay gọi là “duyên số”. Từng bước trưởng thành của cô Bích Hà đều được Võ Nguyên Giáp dõi theo và luôn ở bên cạnh làm người động viên giúp đỡ.
    Còn với Võ Nguyên Giáp, trong suốt chặng đường dài từ sau Cách Mạng Tháng Tám đến nay, qua những lúc thành công, vinh quang hay có lúc quanh co khúc khuỷu, cô Bích Hà vẫn luôn bên cạnh động viên ông với tâm hồn bình thản qua những lời giản dị và lạc quan.
    Kỷ niệm thời thơ ấu
    Tôi cứ mải mê suy nghĩ mà không hay biết phía sau, cánh cửa phòng khách đã mở ra, chị Hạnh Phúc - con gái Đại tướng mời tôi vào gặp cô Bích Hà.
    Sở dĩ tôi gọi Phó Giáo sư Đặng Bích Hà là cô vì trước đây cô là Giảng viên khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Sau thời gian giảng dạy tại trường, cô chuyển sang công tác tại Viện Đông Nam Á, thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Những cuốn sách cô viết về lịch sử các nước Đông Nam Á đã giúp chúng tôi nhiều trong học tập và nghiên cứu.
    Năm nay cô đã bước sang tuổi 85, dù sức khỏe có giảm sút nhưng cô vẫn giữ được trí óc minh mẫn, cách nói chuyện hóm hỉnh và đặc biệt nụ cười luôn nở trên môi. Hai cô trò mải nói chuyện về khoa, về trường, về các vị giáo sư đầu ngành của khoa Lịch sử trường Đại học Sư phạm Hà Nội mà suýt nữa tôi quên mất nhiệm vụ của mình nếu không nghe câu hỏi của cô: “Nào thế giờ em muốn hỏi gì?”
    Tôi đánh bạo hỏi: “Dạ thưa cô, hôm trước em có đọc bài của cô Đặng Anh Đào trong cuốn “Võ Nguyên Giáp qua lời kể của những người thân”, cô ấy có nói đến chuyện lần đầu tiên Đại tướng ‘tỏ tình’ với cô là khi cô đang còn bé phải không ạ?”
    Cô nói: “Ừ đúng, có chuyện đó thật!”. Rồi cô im lặng như để lục lại trí nhớ về một kỷ niệm đã xảy ra cách đây hơn 70 mươi năm. Đó là một câu nói vui trong một lần ông Giáp đèo cô đi chơi đến sân vận động Hàng Đẫy (khi ấy gọi là Septo) khi ông đi tập thể thao.
    Lúc đó cô Hà mới 6 hay 7 tuổi. Chiều nào ông cũng chở cô đi cùng, nhưng có một hôm bỗng dưng ông nói với cô: “Anh sẽ cưới Hà bằng một đĩa xôi và một con gà”. Không ai ngờ câu nói đùa ấy hơn mười năm sau lại trở thành sự thật.
    Vào cuối năm 1946, trước ngày toàn quốc kháng chiến, Võ Nguyên Giáp được lệnh lên chiến khu Việt Bắc còn gia đình cụ Đặng Thai Mai cũng tản cư về Thanh Hóa. Khi ấy, cụ Đặng Thai Mai được giao giữ chức Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Thanh Hóa.
    Trước lúc chia tay, gia đình cụ Đặng Thai Mai đã đồng ý tổ chức lễ cưới cho Võ Nguyên Giáp và Đặng Bích Hà. Đám cưới của hai người được tổ chức rất giản dị, chỉ có gia đình nhà gái và khách mời thì chỉ có ông Trần Duy Hưng và bà Thục Viên (là Đại biểu quốc hội khóa đầu tiên) đến dự.
    Ông Trần Duy Hưng khi ấy là Chủ tịch Ủy ban hành chính Hà Nội (hay còn gọi là Thị trưởng), ông là người chủ trì cho buổi lễ kết hôn,và do thời gian quá gấp nên ông đã mang theo cuốn sổ đăng ký kết hôn đến để vợ chồng Võ Nguyên Giáp làm thủ tục đăng ký ngay tại phòng khách nhà cụ Đặng Thai Mai trong buổi lễ.
    Cho đến bây giờ, trải qua hơn 65 năm chung sống, cuộc sống với bao nhiêu lo toan bận rộn, nhưng với cô kỷ niệm đầu tiên ấy không bao giờ phai trong tâm trí.
    Tình yêu từ sự cảm phục
    Khi tôi hỏi cô có thể chia sẻ một vài cảm nghĩ về Đại tướng được không, cô chỉ cười mà không trả lời. Nhưng tôi đọc được trong nụ cười và ánh mắt ấy một niềm vui ấm áp khi nghĩ đến người bạn đời của mình. Người mà cô đã cảm mến và khâm phục từ những ngày thơ ấu.
    Cô nói, cô không sợ khổ, không sợ khó khăn mà chỉ sợ nhất là “ngu dốt”. Và cả cuộc đời cô đã cố gắng không ngừng cho việc học tập và nghiên cứu, để những hiểu biết của mình không ngừng tiến bộ, hay chí ít thì cũng không bị lạc hậu hơn với thời cuộc.
    Cô tranh thủ mọi lúc, mọi nơi để đọc sách báo và suy nghĩ, đó cũng là thói quen mà cô ảnh hưởng từ cha và từ người chồng yêu quý của mình.
    Những ngày cụ Đặng Thai Mai và người đồng chí Võ Nguyên Giáp của ông mới ra Hà Nội, Bích Hà đã được ở cùng cha. Hơn ai hết, cô hiểu những khó khăn vất vả của cha và người đồng chí của ông những ngày đầu ấy.
    Đêm nào hai người cũng thức đến khuya để chấm một xấp bài dưới ngọn đèn điện nóng rực trong khi trời oi bức. Hai người đàn ông mặc áo may ô, mồ hôi nhễ nhại, nhưng cả hai đều hăng say làm việc, đôi mắt vẫn sáng ngời, nhanh nhẹn như chẳng hề có chút gì mệt mỏi.
    Mặc dù công việc hết sức khó khăn, vất vả nhưng Võ Nguyên Giáp vẫn phải cố gắng vừa làm vừa học để luyện thi tú tài. Những ngày được chứng kiến Võ Nguyên Giáp cùng cha làm việc và học tập cô Bích Hà đã hết sức khâm phục và ngưỡng mộ người thanh niên tài năng ấy.
    Bẵng đi một thời gian, khi Võ Nguyên Giáp sang Trung Quốc gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc rồi sau đó về Cao Bằng chuẩn bị cho Cách mạng Tháng Tám, Bích Hà không được gặp Võ Nguyên Giáp nhiều như trước.
    Trong thời gian này, cô cùng với người em là Đặng Thị Hạnh cùng về học tại Sầm Sơn- Thanh Hóa mấy năm, sau đó về Hà Nội cô vừa đi học vừa tham gia phụ trách đội Thiếu nữ tiền phong nên cũng không có nhiều thời gian, thế nhưng hình ảnh về người anh Võ Nguyên Giáp luôn cần cù, chịu khó, vượt lên mọi khó khăn để học tập luôn thôi thúc cô cố gắng.
    Đến năm 1945, khi hai người gặp lại nhau, lúc này Võ Nguyên Giáp đang phải gánh chịu một sự mất mát lớn, khi biết tin người vợ - người đồng chí Nguyễn Thị Quang Thái đã bị bắt và mất trong nhà tù Hỏa Lò từ đầu năm 1944.
    Từ sự kính phục và lòng quý mến, giờ đây cô tiểu thư Bích Hà lại có thêm một tình thương yêu, cô muốn được cùng ông chia sẻ mọi khó khăn, mất mát trong cuộc sống và được cùng ông đi trên một con đường, được cùng nắm tay ông vượt qua mọi khó khăn sóng gió của cuộc đời.
    Hạnh phúc bình dị
    Với cương vị là người Tổng chỉ huy Quân đội nhân dân, là Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ quốc phòng, từ khi đang còn đương chức cho đến khi về nghỉ hưu, ngày nào Đại tướng cũng rất bận rộn. Hết tiếp khách nước ngoài, đến tiếp các đoàn đồng bào từ các địa phương về thăm, rồi lại làm việc với các đồng chí lãnh đạo,…
    Dù bận rộn là thế nhưng chưa năm nào Đại tướng quên ngày cưới của hai người. Hàng năm, cứ đến ngày 27 tháng 11, Đại tướng lại nhờ con gái mua cho một bó hoa hồng nhung - một loài hoa mà cô Bích Hà rất thích để tặng cô.
    Sau này, khi nghe nói hoa hồng nhung chứa nhiều thuốc rất độc, lại không có mùi thơm như trước nữa, ông lại dặn con vẫn mua hoa hồng để ba tặng mẹ nhưng phải là hoa hồng có mùi thơm. Đến những năm gần đây, khi sức khỏe ngày càng yếu, hầu hết thời gian của Đại tướng là ở trong viện.
    Hàng tuần cô vẫn vào thăm chồng, cùng ông chuyện trò. Hôm nào mệt cô không vào được, không thấy cô đâu thể nào ông cũng hỏi các con: “Mẹ thế nào?”. Khi nghe các con nói: “Mẹ vẫn khỏe, mẹ bình thường ạ!” thì ông mới gật gật đầu: “Bảo mẹ giữ gìn sức khỏe!”
    Những năm tháng chiến tranh ác liệt, với cương vị là người Tổng chỉ huy quân đội, hàng ngày hàng đêm, Đại tướng luôn phải thức trắng để lo chiến sự. Thế nhưng Đại tướng luôn là người sống rất tình cảm.
    Những lúc phải đi công tác xa nhà Đại tướng chưa bao giờ để vợ con phải có cảm giác lo lắng, hụt hẫng vì bị “lãng quên”, mà ông vẫn cố dành thời gian mấy phút để viết những dòng thư ngắn gọn gửi ra cho bà và các con để hỏi thăm sức khỏe và động viên tinh thần học tập, công tác.
    Trong những lá thư ấy, có nhiều lúc con cái hỏi ông chuyện nọ, chuyện kia, có lúc ông giải thích, có lúc ông nói với chúng “các con đi hỏi mẹ, mẹ các con là người biết rất rõ”! Ông luôn tin tưởng ở bà, vì thế mà ông đã giao cho bà một trọng trách hết sức khó khăn là nuôi dạy con cái khôn lớn nên người.
    Sau này khi các con đã trưởng thành, trong những bữa cơm gia đình Đại tướng thường nói: “Ba rất tin tưởng ở mẹ các con, nhờ có mẹ mà ba mới có thể yên tâm công tác”.
    Đã hơn 65 năm trôi qua kể từ ngày bà theo ông đi trên cùng một con đường, cô tiểu thư Bích Hà chỉ biết có sách vở ngày nào giờ đã ngoài 80 tuổi. Mái tóc đã ngả hoa râm, đôi mắt cũng không còn tinh nhanh như trước nữa nhưng cô vẫn giữ thói quen chăm sóc chồng từ những sở thích nhỏ nhất.
    Trước đây trong vườn có một cây bơ rất ngon, một loại quả mà Đại tướng rất thích ăn. Đặc biệt cây bơ ấy thường ra quả rất muộn, đúng vào dịp sinh nhật Đại tướng, nên năm nào cô cũng hái những quả to nhất, ngon nhất để dành cho ông.
    Những năm gần đây khi cây bơ ấy không còn nữa, các con đã ươm một cây mới thay thế. Ngày ngày cô vẫn chăm sóc cho cây chóng lớn để cây sớm ra quả và cô lại hái vào để dành cho ông vào dịp sinh nhật như mọi khi cô vẫn làm vậy.
    Một thói quen nữa của vợ chồng vẫn được cô Bích Hà gìn giữ dù mấy năm nay sức khỏe của cô đã yếu hơn trước. Đó là thói quen đọc sách báo hàng ngày. Đọc sách cũng là một trong những điểm chung gắn kết ông bà với nhau trong suốt cuộc đời.
    Trước đây, cô quen và mến Đại tướng cũng là bởi cùng chung cái sở thích ấy… và nó trở thành điểm chung theo vợ chồng cô đến suốt cuộc đời. Dù cuộc sống có khó khăn, bận rộn, mỗi ngày gia đình cô vẫn dành ra một khoảng thời gian nhất định cho việc đọc sách báo và lúc rảnh rỗi lại cùng nhau đàm đạo, chuyện trò từ trong sách báo đến cuộc sống hiện tại.
    Giờ đây, những bước chân đã không còn nhanh nhẹn như trước nữa, cô vẫn bước chậm rãi, thanh thản vào thăm nom ông trong viện. Hai mái đầu bạc, hai bàn tay nhăn nổi những nếp gân nắm chặt nhau thì thào trò chuyện.
    Những câu chuyện, những cái gật, cái lắc đầu mà các con đều không hiểu không nghe rõ. Chỉ có ông bà là hiểu, là nghe thấy. Những câu chuyện ấy chỉ có những người sống cả đời bên cạnh nhau, chỉ có những người đồng cảm và hiểu rõ nhau hơn ai hết mới có thể biết rõ ngọn nguồn của nó.
    Thế mới nói, giữa hai người yêu nhau, họ nói chuyện với nhau không chỉ bằng lời mà bằng ánh mắt, bằng sự thấu hiểu và thương yêu lẫn nhau, bằng những trải nghiệm mà họ đã cùng nhau vượt qua trong cuộc sống. Và tình yêu của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Phó giáo sư Đặng Bích Hà là như vậy, bình dị nhưng sâu đậm cho đến suốt cuộc đời.

    • Nguyễn Thị Hải

Chia sẻ trang này