1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những hiện tượng bí ẩn của cuộc sống

Chủ đề trong 'Yoga - Khí công - Nhân điện - Thiền' bởi battambattu, 07/11/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. matcuoi6807

    matcuoi6807 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/11/2007
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Kích Thước Mới Của Khoa Tâm Lý

    Người ta có thể học được nhiều việc bằng cách thử giải quyết những vấn đề khó khăn. Sự giải quyết nhiều vấn đề lý thú căn cứ trên một nguyên tắc quan trọng là sự lý luận hay suy gẫm.

    Vấn đề quan trọng nhứt trong mọi vấn đề bí hiểm của cuộc đời là sự bí mật về con người. Con người là ai? Y từ đâu đến và sẽ đi về đâu? Để giải đáp vấn đề này, chúng ta có thể áp dụng một phương pháp khoa học giản dị như sau: Chúng ta đưa cho một người kia sáu cái diêm quẹt và bảo y hãy sắp thành bốn hình tam giác đều cạnh với nhau (triangles équilatéraux.) Người ấy lần mò sắp đặt các diêm quẹt một hồi lâu... Sau cùng y đành chịu thua và bỏ cuộc vì không sao sắp được. Bài toán đố bí hiểm này chỉ có thể giải quyết được nếu người ấy bỏ cái ý nghĩ sắp các diêm quẹt theo hai chiều đo (chiều dài và ngang) trên một mặt bàn bằng phẳng, mà hãy thêm vào một chiều đo thứ ba (3ème dimension), tức là chiều sâu, và sắp thành một khối Kim Tự Tháp (Pyramide).

    Vấn đề bí hiểm của đời người đại khái cũng giống như cái trò chơi kể trên. Chúng ta chỉ cần thêm vào một bề đo thứ ba, tức là yếu tố thời gian, và chúng ta sẽ có thể hiểu được nguồn gốc và tương lai của con người.

    Người ta thường cho rằng đời người chỉ là cái kiếp sống của thể xác, kể từ khi bắt đầu sinh ra cho đến khi chết là hết. Nhưng nếu người ta có thể chứng minh một cách khoa học rằng con người không phải là cái thể xác vật chất, mà cũng là một linh hồn; linh hồn ấy đã từng sống trước khi y sinh ra và sẽ tiếp tục tồn tại sau khi y chết, thì sự khám phá đó sẽ làm đảo lộn tất cả khoa tâm lý học hiện naỵ Điều đó chẳng khác nào như một cái ống thăm dò mà người ta cắm xuống tận những lớp sâu trong lòng Trái Đất để tìm mỏ dầu. Khoa Tâm Lý Học hiện đại ví như một cái lỗ sâu có năm phân để trồng một củ hành, so với một cái giếng dầu lửa bề sâu ba ngàn thước tượng trưng cho bề đo vừa nói trên.

    Trong thời gian gần đây, các nhà tâm lý học đã nghiên cứu tỉ mỉ về cá tính của con người, và nhờ sự nghiên cứu công phu đó, người ta đã có nhiều sự áp dụng thực tế vào các vấn đề lao động, hướng nghiệp, công tác xã hội... Tuy thế những sự phát minh đó cũng chỉ biết một cách rất nông cạn về con người.

    Nếu người ta áp dụng thuyết Luân Hồi, thì đó là một ngọn đèn pha sáng rực soi vào những hang ngách tối tăm, sâu thẳm của vấn đề bí hiểm này. Nhờ đó, người ta có thể nhận thấy rõ bằng cách nào được cấu tạo nên những tánh tình, cử chỉ, thái độ, đức tánh, vận mạng cùng thân thế hiện nay của một người.

    Chúng ta có thể dùng một thí dụ khác: đời người có thể ví như một khối nước đá ngâm dưới nước; chín phần chìm xuống nước chỉ có một phần nổi lên trên. Thuyết Luân Hồi tiết lộ cho ta thấy chín phần khối nước đá chìm dưới mặt nước, còn khoa tâm lý học hiện nay chỉ nghiên cứu một cách vất vả mệt nhọc về một phần nhỏ bé nổi lên trên, mà ta có thể nhìn thấy!

    Những tập hồ sơ của Cayce còn đưa ra nhiều thí dụ về bề đo "Thời gian" kể trên, và về cách mà nó giải thích cá tính hiện nay của một người. Trong một cuộc soi kiếp, ông Cayce có nói về một người lính Gaulois bị tướng La Mã Annibal bắt làm tù binh và bắt làm nô lệ chèo thuyền ở giữa biển. Người tù binh này bị các tướng da đen ngược đãi và sau cùng, y bị một tên da đen đánh chết. Việc này xảy ra đã từ ba kiếp về trước, nhưng lòng căm thù uất hận về hành động tàn ác này đã ăn sâu vào tiềm thức của y trải qua 22 thế kỷ. Trong kiếp này, y làm nghề nông nghiệp và trồng tỉa ở tiểu bang Alabama, Hoa Kỳ.

    Suốt cả đời, y luôn luôn có một lòng thù ghét sâu đậm đối với dân da đen; thậm chí, y lập nên một Hội bảo vệ chủ quyền của người da trắng. Đó là một thí dụ điển hình về việc người ta giữ nguyên vẹn cá tính từ kiếp này sang kiếp khác. Người ta có thể tìm thấy rất nhiều trường hợp như thế trong các tập hồ sơ Cayce.

    Một nhà viết báo nó biểu lộ trong nhiều năm một tinh thần chống Do Thái rất mãnh liệt. Cuộc soi kiếp cho biết rằng thái độ ấy được truy nguyên ra từ một kiếp trước ở xứ Palestine, trong kiếp đó, y thuộc về giáo phái Samaritains, phái này thường có những cuộc xung đột dữ dội với người Do Thái ở nước láng giềng.

    Một người đàn bà 38 tuổi, độc thân, đã có nhiều mối tình duyên trong đời, nhưng không chịu kết hôn với một người nào vì bà ta có một lòng nghi kỵ rất thâm sâu đối với đàn ông. Sự dè dặt và nghi kỵ này do bởi ở một kiếp trước bà ta đã từng đau khổ vì bị chồng bỏ để đi tùng chinh trong trận Thánh Chiến.

    Một người phụ nữ nọ có một tinh thần tôn giáo rất rộng rãi khoan dung, được biết rằng cô có đức tính này là nhở bởi kiếp trước có tham dự cuộc Thánh Chiến, và đã từng sống chung với người Hồi Giáo. Trong khi tiếp xúc với những người thuộc một tôn giáo khác hẳn, lần đầu tiên cô dã nhận thức được rằng những người "Ngoại đạo" cũng biểu lộ những đức tính tốt như can đảm, nhân từ, khoan hậu, và lòng sùng tín thiêng liêng. Điều này đem đến cho cô một ấn tượng mạnh mẻ sâu xa đến nỗi nó đã làm cho cô có một ý thức rõ rệt và bền bỉ về đức tính khoan dung đối với người thuộc tôn giáo khác hơn mình.

    Trái lại, một nhà chuyên môn quảng cáo nọ có óc hoài nghi và không có tín ngưỡng tôn giáo, kiếp trước cũng là một chiến sĩ trong trận Thánh Chiến. Nhưng y cảm thấy có sự khác biệt giữa sự Thuyết Giáo và Hành Đạo trong số những người mà y đã gặp, đến nỗi trong kiếp này y vẫn còn giữ một sự nghi ngờ rất lớn đối với những sự biểu lộ tôn giáo về hình thức bên ngoài.

    Những thí dụ kể trên gồm ba thái độ khác nhau: Thái độ về vấn đề chủng tộc, đối với người khác phái và đối với vấn đề tôn giáo, mà nguyên nhân là do bởi ở một kiếp trước. Lẽ tụ nhiên trong mỗi trường hợp, đương sự phải gặp những hoàn cảnh địa phương thuận tiện để gây cho y sự phản ứng về các vấn đề đó. Người căm thù dân da đen sinh ra ở miền Nam Hoa Kỳ năm 1853 là thời kỳ mà những phong tục và truyền thống ở xứ này là những hoàn cảnh thuận tiện để gây cho y cái ý niệm kỳ thị chủng tộc da đen.

    Vấn đề ảnh hưởng của hoàn cảnh địa phương cũng được nêu ra trong những trường hợp khác như đã kể trên, hoặc trong nhiều trường hợp tương tự. Sự kiện rằng có nhiều người cũng ở vào những hoàn cảnh địa phương giống như nhau, nhưng lại có sự phản ứng khác hẳn, dường như chỉ rằng sự phản ứng đó có một nguyên nhân sâu xa hơn là do những hoàn cảnh sinh hoạt ở kiếp này.

    Các nhà chữa bịnh tâm thần đều đồng thanh cho rằng những thái độ tinh thần của con người vốn từ trong tiềm thức biểu lộ ra ngoài. Nguyên tắc Luân Hồi chỉ nới rộng lĩnh vực tìm thức để gồm luôn cả những kinh nghiệm của những kiếp trước. Cũng như trong nhữg trường hợp bệnh tật của xác thể, người ta đã truy nguyên lý do của mỗi chứng bịnh ở những kiếp trước là do bởi yếu tố thời gian. Đó là nói về những thái độ cử chỉ của con người đối với một vài vấn đề nhất định. Những thái độ đó, cũng như những khuynh hướng, đố kỵ, ưa thích... đều gồm lại làm thành phần cá tính của một người. Những bản năng tự tồn, bản năng sinh sản... đều hỗn hợp một cách chặt chẽ với tất cả những điều ham muốn khác của đời sống con người. Tuy nhiên, ngoài ra những sự nhu cầu căn bản chung của nhân loại, còn có những điều thích thú say mê và hứng khởi đặc biệt, biểu lộ một cách khác biệt nhau rất xa ở một số người. Thí dụ:

    Trong một gia đình có năm người con, một đứa thích âm nhạc, một đức thích máy móc, một đứa thiên về hội hoạ, một đức thích sưu tầm các loài ****; đứa sau chùng chơi bời du đãng và phá phách làng xóm.

    Sự giải thích thông thường của khoa học tâm lý về sự khác biệt giữa những khả năng và tính chất kể trên: Một là do sự di truyền và hai là do những yếu tố tâm lý phân giải (psychanalyse) tùy thuộc nơi vị trí của một người trong gia đình và những kinh nghiệm riêng mà y thâu nhập được.

    Những tập hồ sơ của Cayce chứa đựng những thí dụ dưới đây về những khuynh hướng đặc biệt của một số người, được truy nguyên ra từ nhiều kiếp trước.

    Một vị nha y sinh trưởng ở thành phố New York, mặc dầu rất hài lòng về chức nghiệp và đời sống ở thành thị, nhưng thỉnh thoảng lại thấy muốn sống ở ngoài đồng ruộng hoặc trên bờ sông với một khẩu súng đi săn và một cần câu; và cắm trại một mình với một chiếc lều dựng lên giữa bãi sa mạc. Sự thích thú sống gần với thiên nhiên này vốn không phù hợp với tâm tính của một người quen sống ở thị thành, nhứt là gia đình của y đã từng sống ở thành thị trải qua nhiều thế kỷ. Điều này chỉ có thể giải thích được bằng thuyết Luân Hồi. Cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết rằng trong một tiền kiếp, y là một người Đan Mạch di cư sang Bắc Mỹ trong thời kỳ khai thác thuộc địa. Y sống ở New Jersey, trong một vùng có nhiều đầm đìa, hồ ao, sông rạch; y sống với nghề săn bắt, gài bẫy thú rừng, và buôn bán các loại thú. Cuộc đời hoạt động chốn bụi trừng, đầm lạch, sông ngòi, đã đem cho y một sự thích thú đặc biệt vẫn còn tồn tại đến ngày nay, tuy rằng điều ấy còn phải lệ thuộc vào đời sống hành nghề nha sĩ của y trong kiếp này.
  2. matcuoi6807

    matcuoi6807 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/11/2007
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Có nhiều người cảm thấy yêu mến nồng nàn một xứ hay một vùng địa phương xa lạ. Những cuộc soi kiếp truy nguyên ra sự hấp dẫn này ở một kiếp trước của đương sự, trong kiếp đó y đã từng trải qua một thời kỳ sung sướng và hạnh phúc ở xứ ấy. Thí dụ: Một người đàn bà nọ kinh doanh buôn bán lớn ở vùng bờ biển phía đông xứ Hoa Kỳ, luôn luôn vẫn có ý muốn di cư xuống ở miền Tây Nam xứ ấy. Sau cùng bà ta di cư thật và hiện nay bà làm chủ một khách sạn lớn ở tại New Mexicọ Cuộc soi kiếp cho biết bà đã từng sống trong hai tiền kiếp ở vùng này, và lòng trìu mến của bà đối xử ấy vẫn còn tồn tại trong những thế kỷ trung gian.

    Có bốn người kia, một người cảm thấy yêu mến những vùng hải đảo miền Nam Thái Bình Dương, một người muốn sống ở tiểu bang New Orleans, một người yêu mến xứ Ấn Độ và một người lại thích ở xứ Trung Hoa. Những cuộc soi kiếp cho biết rằng trong kiếp trước, họ đã từng sống ở các xứ ấy, và đó là lý do của sự hấp dẫn nói trên.

    Sự thích thú về một môn nghệ thuật hay một nghề nghiệp nào cũng là do ở những kinh nghiệm trong các tiền kiếp. Một thiếu phụ kia yêu thích đến say mê môn khiêu vũ và kịch nghệ Hy Lạp, được biết rằng đó là do kinh nghiệm trong một kiếp trước của y ở Hy Lạp, trong thời kỳ những môn nghệ thuật này phát triển đến cực điểm. Sự thích thú của một thanh niên nọ về hiện tượng thần giao cách cảm được truy nguyên ra từ một kiếp trước ở châu Atlantide, trong kiếp trước y đã dạy môn tâm lý học và chuyển di tư tưởng.

    Cũng do một kinh nghiệm cũ về nghề hoa tiêu về giám đốc ngành chuyên vận ở châu Atlantide, mà một thiếu nữ nọ cảm thấy rất thích thú về môn lái máy bay và môn kỹ thuật hàng không trong kiếp này. Một người đàn bà nọ ham thích làm việc công tác xã hội phụng sự các trẻ em tật nguyền khốn khổ, được cho biết rằng kiếp trước y đã từng sống ở xứ Palestine, tại đây y chịu ảnh hưởng giáo lý của đức Jusus và bắt đầu hiến dâng cuộc đời để săn sóc cứu chữa những kẻ tàn tật và bịnh hoạn. Một vị kỹ sư nọ đảm nhiệm một cơ quan nghiên cứu, và đã từng làm việc nhiều năm trong phong trào phát triển ngành kỹ thuật, kiếp trước vốn là một người Atlante chuyên coi về ngành Quản trị Khoa học trong xứ ở châu Atlantide.

    Sự tái diễn những kinh nghiệm và khả năng đặc biệt từ những tiền kié6p, dường như càng biểu lộ rõ rệt trong cuộc đời của những nhân vật tên tuổi. Chúng tôi không căn cứ điều này trên những cuộc soi kiếp của ông Cayce, mà căn cứ trên tiểu sử của những nhân vật ấy.

    Thí dụ như trường hợp của ông Heinrich Schliemann, nhà khảo cổ Đức đã khám phá ra những di tích cổ của thành phố Troie bị chôn vùi dưới mặt đất, và nhờ đó đã xác nhận tánh cách lịch sử của thiên Anh Hùng Ca "Iliade" của Homèrẹ Ông là con của một vị mục sư nghèo, giảng đạo tại miền Bắc nước Đức nhưng trong lúc thiếu thời ông đã say mê "Iliade", ông nhất định học tiếng Hy Lạp và truy tầm nơi diễn tả sự tích của thiên Anh Hùng Ca bất hủ này.

    Trong ba mươi lăm năm, ông Schiemann cố gắng dành dụm một số tiền để giúp ông thực hiện công trình khảo cổ này. Ông trở nên một nhà sinh ngữ học ưu tú, nhưng ông lại thích nhất môn sinh ngữ Hy Lạp và tất cả những gì thuộc về xứ ngàn năm vạn vật này. Về sau, ông dùng những cách hành văn Hy Lạp trong khi nói chuyện và nhà chép tiểu sử của ông thuật lại rằng trong dịp làm lễ rửa tội cho con trai ông, ông đặc quyển Anh Hùng Ca của Homère trên đầu con ông và ngâm vang lên những câu thơ bất hủ trong đó trước khi giao nó cho vị linh mục làm phép rửa tội! Điều này chỉ là một trong những cử chỉ lố lăng khác, nó phản ảnh một lòng hâm mộ hâm mộ và say mê nồng nhiệt nền văn hóa cổ xưa của xứ Hy Lạp. Một sự say mê nồng nhiệt như thế có thể hiểu được nếu chúng ta thấy rằng đó chỉ là do ký ức của linh hồn muốn nhắc nhở và sống lại thời kỳ hạnh phúc đã qua trong dĩ vãng.

    Một thí dụ khác cũng rất lý thú là trường hợp của nhà văn Lafcadio Hearn. Ông sinh ra trên một hòn đảo ở gần Hy Lạp, cha ông là người Ái Nhĩ Lan, mẹ Ông là người Hy Lạp. Ông đi phiêu lưu giang hồ từ Hy Lạp sang Anh quốc, Mỹ quốc, đảo Guadeloupe, Martinique, và sau cùng ông đã tìm thấy "Quê hương tinh thần" của ông ở xứ Phù Tang tại đây ông cưới vợ Nhật, đổi tên Nhật, và dạy học ở một trường Nhật. Sự hiểu biết sâu xa về tâm hồn của người Nhật bổn, tài năng lạ lùng của ông trong sự diễn đạt cái tinh hoa của nước Nhật cho thế giới Âu Tây và diễn đạt tư tưởng Âu Tây cho người Nhật, không làm cho ta ngạc nhiên nếu ta thấy rằng đó chỉ là do những kinh nghiệm cũ của ông ta trong một tiền kiếp ở Nhật Bản.

    Trường hợp của ông T.E.Lawrence là một thí dụ khác nữa. Ông ta rất đặc biệt khôn khéo trong việc tiếp xúc với người Ả Rập và đã sống chung với họ như một người Ả Rập. Ông không hề cảm thấy thoải mái dễ chịu ở tại quê hương xứ sở hay trong gia đình ông ở Anh quốc. Ông chán nản mọi sự học ở nhà trường, trừ ra lớp học lịch sử cuộc Thánh Chiến (Croisades), và việc nghiên cứu các tòa lâu đài cùng thành lũy thời Trung Cổ.

    Sự thành công đặc biệt của ông trong vai trò tướng soái chỉ huy quân đội Ả Rập có thể hiểu được như là kết quả của một giai đoạn phiêu lưu ở kiếp trước hồi thời Trung Cổ, trong kiếp đó chính ông ta là người Ả Rập và là một chiến thuật gia, nhưng không đạt được mục đích trước khi ông ta từ trần.

    Những khuynh hướng đặc biệt kể trên không phải chỉ có những nhân vật tên tuổi của lịch sử mà thôi; mỗi người đều có thể nhận thấy ít nhiều khuynh hướng đó ở chính những bạn bè thân quyến của mình.

    Những nét riêng hay đặc điểm về cá tính, cũng như những thích thú và cử chỉ cùng thái độ đặc biệt của một người là những yếu tố quan trọng trong việc phân tách tâm lý, và những tập hồ sơ của Cayce đã nêu ra những trường hợp vô cùng lý thú về sự truy nguyên ra những kiếp trước.

    Bà vợ của một nhà triệu phú nọ Ở miền Tây Hoa Kỳ có một tính chất rất độc tài và chuyên chế. Cuộc soi kiếp cho biết nguyên nhân là vì bởi kiếp trước, y đã từng làm giáo sư ở tiểu bang Ohio, và trong những kiếp trước nữa, y đã từng nắm giữ những chức vụ cao ở Palestine và ở Ẩn Độ.

    Một thanh niên nọ từ thuở nhỏ đã tỏ ra có tính rất hay tranh luận đôi co, và có thể lý luận mọi sự một cách rất hùng hồn và xác đáng. Nguyên nhân là trong một kiếp trước, y đã từng làm một luật gia và một luật gia và một kiếp trước nữa, y đã làm quan Tòa ở xứ Ba Tư.

    Một người đàn bà nọ có khuynh hướng trầm lặng và thần bí. Trong kiếp trước, bà ấy đã từng cầm đầu một tu viện kín, vào hồi đầu thế kỷ mười chín.

    Một thanh niên nọ con nhà giàu có lớn, nhưng lại có tật chè chén say sưa quá độ đến nỗi gây sự thất vọng và đau khổ cho một gia đình trưởng giả. Thói say sưa này được truy nguyên ra do sự chơi bời phóng túng trong kiếp trước, hồi thời kỳ thiên hạ đổ xô nhau đi tìm vàng ở California. Người ta thấy hằng trăm trường hợp tương tự trong những cuộc soi kiếp của ông Cayce.

    Khoa tâm lý học hiện đại cho rằng sự khác biệt giữa những người nhân loại được định đoạt trước hết bởi sự di truyền của cha mẹ và sau đó bởi ảnh hưởng của hoàn cảnh chung quanh. Tuy nhiên, theo quan niệm về thuyết Luân Hồi thì chính sự di truyền và ảnh hưởng của hoàn cảnh cũng là những kết quả báo ứng của những nguyên nhân gây ra từ những kiếp trước, và bởi đó mọi đức tánh của linh hồn đều là do cái công phu đào tạo của từng cá nhân chứ không phải do cha mẹ truyền lại.

    Đức Phật có nói: "Hành động là kết quả của tư tưởng." Những gì mà chúng ta làm hiện nay là kết quả của những điều ta đã suy ngẫm từ trước. Trong Phật giáo, thuyết Luân Hồi là một giáo lý căn bản; đức Phật dạy rằng những đức tính của con người bây giờ là kết quả của những tư tưởng và hành động của y trong những kiếp trước.

    Có nhiều người, tuy chấp nhận Nhân Quả, nhưng lại quan niệm luật ấy dưới khía cạnh trừng phạt và đau khổ. Ta nên nhớ rằng danh từ Karma chỉ có nghĩa là hành động, và đó là một danh từ trung lập. Mọi sự vật trong vũ trụ đều có hai phương diện Âm và Dương, và Nghiệp Quả (Karma) cũng không ngoài cái thông lệ đó. Lẽ tất nhiên, một hành động có thể tốt hay xấu, vị kỷ hay vị thạ Nếu cách hành động cư xử của một người là tốt, thì không có gì ngăn trở y cứ tiếp tục làm những điều phải và tốt lành do cái đà tiến hoá tự nhiên của con người. Điều đó có thể gọi là Nguyên Tắc Liên Tục của nghiệp quả. Trái lại, nếu một người có những hành động xấu xa hung dữ độc ác, thì nghiệp quả đó phải được sửa chữa bằng luật Quả Báo; điều này gọi là Nguyên Tắc Thừa Trừ.

    Do Nguyên Tắc Thừa Trừ, tức là do bởi mãnh lực tạo thế quân bình của Luật Nhân Quả, chúng ta được dìu dắt trở lại con đường chính, là con đường tự tu tiến và cải thiện lấy mình. Còn do Nguyên Tắc Liên Tục, chúng ta cứ từ từ tiến bước một cách đều đặn, không gián đoạn trên con đường chính, tức là con đường Tiến hóa đưa đến mục đích giải thoát vậy.
  3. matcuoi6807

    matcuoi6807 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/11/2007
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Những Hạng Người Khác Nhau

    Trong sự tiếp xúc hằng ngày với những người chung quanh, chúng ta có thể phân biệt được một vài loại mà chúng ta sắp thành hạng theo một hệ thống riêng. Có hạng người tánh tình cởi mở, xã giao lịch thiệp; có hạng người dè dặt kín đáo, tánh tình trầm lặng; có hạng người ích kỷ, hạng người vị tha...

    Nhiều nhà tâm lý học đi đến kết luận rằng con người có thể sắp thành hạng, và lập một căn bản khoa học cho việc sắp hạng ấy. Sự phân hạng thông thường nhất là cuả Carl Jung, ông này phân loài người ra làm hai hạng chính: Hạng người có tâm hồn khép chặt (intraverti); và hạng người có tâm hồn cởi mở (extraverti). Hạng người "Khép chặt" tức là hạng người hướng sự chú ý của họ vào bên trong, nghĩa là vào chính bản thân mình; còn hạng người "Cởi mở" tức là hạng người hướng sự chú ý của họ ra thế giới bên ngoài.

    Tuy nhiên, các Đạo gia cho rằng Carl Jung và những nhà tâm lý học khác đều không đưa ra những giải thích mỹ mãn và đích đáng về lý do nào đã khiến cho một người sinh ra đời lại có một tâm hồn khép chặt, và một người khác sinh ra lại có một tâm hồn cởi mở. Ông Carl Jung và những nhà bác học khác cho rằng hai trạng thái tâm lý căn bản này là do những nguyên nhân về sinh lý. Tuy nhiên quan niệm nhà Đạo gia đối với vấn đề này, cũng như các vấn đề khác, là những nguyên nhân về sinh lý kể trên chỉ là phụ thuộc; còn các sinh hoạt cùng thái độ cử chỉ của một người trong một kiếp trước mới là nguyên nhân chính.

    Những tập hồ sơ Cayce có ghi chép rõ ràng nhiều trường hợp hướng nội, tức là của những tâm hồn khép chặt, nguyên nhân do bởi những kinh nghiệm từ kiếp trước. Xét kỹ những trường hợp này, người ta thấy rằng nguyên tắc liên tục của luật Nhân Quả hành động một cách rõ ràng, và chuyển từ kiếp này sang kiếp khác một vài thái độ hay trạng thái tâm lý của con người một cách liên tục không gián đoạn. Dưới đây là một trường hợp: Một thiếu nữ 21 tuổi, sinh viên, có khiếu về âm nhạc, nhưng có tánh e lệ rụt rè một cách quá đáng. Mặc dầu cô có dung mạo đẹp đẽ, nhưng cô khó tìm bạn và rất buồn mà thấy mình không được nhận vào Câu Lạc Bộ của trường. Người ta không biết gì về những hoàn cảnh gia đình của cô trước khi cô vào trường, vì có thể đó là nguyên nhân gây cho cô cái tánh rụt rè nhút nhát bây giờ. Tuy nhiên, cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết rằng điều này có nguyên nhân ở một kiếp trước. Hồi đó, cô ta là một mệnh phụ dưới triều đình nước Pháp, có tài hoa, sắc đẹp và rất lịch thiệp. Nhưng chồng bà vốn là một người ích kỷ, không muốn cho bà xã giao khéo léo và lịch sự với tất cả mọi người. Bởi đó, ông ta ngăn trở mọi sự giao tế xã hội của vợ bằng một sự áp chế lạnh lùng và khắc nghiệt, thậm chí có khi ông ta đánh đập vợ bằng roi vọt. Điều này làm cho bà vợ e dè sợ sệt, và sự sợ sệt đó hãy còn in sâu vào tiềm thức cho đến bây giờ.

    Sau đây là một trường hợp cũng có sự áp chế tương tự, tuy rằng trong những hoàn cảnh khác hẳn. Ông Cayce soi kiếp cho một thah niên 28 tuổi, anh chàng này hiếu học và tâm tính "Khép chặt." Ông Cayce cho biết trong một kiếp trước, y bị khủng bố tàn nhẫn trong những vụ xử án các tay phù thủy ở Salem, thuộc tiểu bang Massachusetts, Hoa Kỳ. Kinh nghiệm đó đã bộc lộ bằng hai cách trong tâm tính của y bây giờ. Trước hết y có sự căm hờn đối với mọi hình thức áp chế; và sau đó y có tánh rất hiếu học, nhưng lại muốn giữ những điều hiểu biết riêng cho mình, không muốn thố lộ cho ai.

    Chúng ta đã thấy rằng cho một con chó hay con mèo mà bị đánh đập tàn nhẫn, chúng cũng biết tự vệ và có lòng đố kỵ với loài người. Lẽ tự nhiên, đối với người thanh niên này, trong tiềm thức của y vẫn còn in sâu một bản năng tự vệ, nó khiến cho y hãy giữ gìn đề phòng những người chung quanh, không chịu tiếp xúc với họ và không chịu thổ lộ với ai những điều hiểu biết của mình. Những tập hồ sơ Cayce còn ghi nhiều trường hợp giống như trên về những vụ án phù thủy ở Salem, mà kết quả là làm cho đương sự có một khái độ khép nép, ẩn độn, dè dặt cũng y như thế. Một vị bác sĩ có tính rất dè dặt kín đáo, không thích giao du, được biết nguyên nhân là vì trong một kiếp trước, y đã giữ giới tịnh khẩu theo kỷ luật của phái Quaker. Một vị giám đốc Thương Vụ Ở New York cũng có tính rụt rè, thiếu xã giao lịch thiệp. Trong một kiếp trước, ông ta là một nhà thám hiểm, sống một cuộc đời cô độc và tự lập ở miền Nam Phi Châu. Một cô nữ sinh nhút nhát và tự ti mặc cảm, được biết kiếp trước cô ta là một người thổ dân da đỏ dưới thời đô hộ của người thực dân da trắng ở Bắc Mỹ Châu và hãy còn giữ thái độ nghi ngờ và giữ mình đối với kẻ khác.

    Theo sự chứng minh của những trường hợp kể trên và nhiều trường hợp khác trong tập hồ sơ Cayce, thì tính rụt rè ẩn độn vẫn kéo dài một cách liên tục từ kiếp này sang kiếp khác, bắt đầu từ kinh nghiệm đầu tiên khiến cho đương sự có thái độ đó. Nguyên tắc liên tục này cũng áp dụng y như trong trường hợp những người có tánh tình cởi mở. Đây là trường hợp một người đàn bà ngoài ba mươi tuổi, đã hai lần ly dị, có một tâm hồn cởi mở và vẫn còn nghĩ đến một cuộc tái giá lần thứ bạ Cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết rằng cái thái độ hồn nhiên, yêu đời đó được truy nguyên từ hai kiếp về trước: Trong một kiếp, cô làm huấn luyện viên tại một khiêu vũ trường hồi thời kỳ khai mở thuộc địa ở Bắc Mỹ; trong một kiếp trước nữa dưới triều đình vua nước Pháp, cô là một bà ái phi của vua Louis thứ mười lăm. Trong kiếp đó, cô đã phát triển được những khả năng khôn khéo, lịch thiệp và quyến rũ, làm cho người người đều thương mến, từ ông vua cho đến chị bếp trong cung cấm. Trong kiếp làm huấn luyện viên khiêu vũ, cô cũng đã xử dụng và phát triển thêm những khả năng trên đây.

    Đây là một thí dụ lý thú khác nữa: Một nhà làm trò ảo thuật ở New York có một sức hấp dẫn rất mạnh, xã giao lịch thiệp, và đặc biệt có tài hài hước, được biết rằng những khả năng trên đây truy nguyên từ những kinh nghiệm trong hai kiếp trước. Cuộc soi kiếp cho biết trong một kiếp trước, y là một trong những người khai thác thuộc địa đầu tiên đến vùng Mohawk Valley ở Bắc Mỹ. Những đức tính mà y đã phát triển trong kiếp đó và một kiếp trước nữa, đã giúp cho y có cái khả năng hấp dẫn và chỉ huy kẻ khác trong kiếp này. Sự khôn khéo lịch thiệp và tài lãnh đạo của y được phát triển là do thời kỳ tranh đấu cho lý tưởng ở Bắc Mỹ hồi thuở ban đầu. Sự nhanh trí khôn và tinh thần hài hước của y nảy sinh ra từ một kiếp làm hề dưới triều vua Henri VIII ở Anh quốc.

    Nói tóm lại, tất cả những trường hợp của những người có tâm hồn cởi mở và xã giao lịch thiệp dường như kết quả của những hoạt động xã hội trong những kiếp trước đó. Trong những tập hồ sơ của Cayce, có nhiều trường hợp thành công hoặc thất bại trong sự giao tế và sống hòa bình với hoàn cảnh xã hội bên ngoài. Một trường hợp là của một người đàn bà có tính chất cởi mở, hoạt động và vị thạ Trước hết, cô có tham vọng trở nên một nữ tài tử, nhưng hoàn cảnh gia đình và một thể xác lùn thấp không làm cho được như y nguyện, cô bèn xoay qua vấn đề kinh doanh. Cuộc soi kiếp cho biết kiếp trước trong thời kỳ Cách Mạng ở Bắc Mỹ, cô đã hưởng thụ rất nhiều, có địa vị xã hội cao, sống một cuộc đời xa hoa lộng lẫy, nhưng thiếu lương thiện và khinh thường đạo lý. Khả năng lôi cuốn hấp dẫn kẻ khác, tinh thần hài hước và khoa ngôn ngữ của cô là do từ kiếp đó mà có; nhưng vì cô đã xử dụng khả năng ấy một cách thiếu đạo đức nên kiếp này bị thất bại trên trường đời.

    Những trường hợp kể trên chỉ cho ta thấy rằng vấn đề nghề nghiệp vẫn đi đôi với vấn đề đạo đức tâm linh. Người ta thường thấy, cũng như trong trường hợp này rằng sự thất bại về nghề nghiệp, lý do không phải vì thiếu khả năng, mà vì thiếu tinh thần đạo đức; điều này không thể sửa chữa nếu tham vọng về nghề nghiệp của đương sự được thỏa mãn một cách êm đẹp, tốt lành. Cuộc soi kiếp khuyên người thiếu phụ này, lúc ấy mới có ba mươi hai tuổi, hãy hành nghề tài tử hoặc săn sóc trẻ em thiếu nhi hay cô nhi nói tóm lại, cô phải dùng những khả năng của mìn vào những mục đích xây dựng và vị tha.

    Đây là một trường hợp khác của một người đàn bà, bốn mươi chín tuổi, làm thư ký ở Hoa Thịnh Đốn, vì trong kiếp trước đã lạm dụng những đức tính lịch thiệp xã giao của mình, nên phải chịu những điều kiện tâm lý khắc nghiệt để sửa đổi trong kiếp này. Trong những bức thơ, cô cho biết rằng trong bất cứ mọi giới mà cô cố gắng để tiếp xúc, cô đều cảm thấy rằng không được mọi người hoàn nghinh. Có lẽ đó là vì hồi thuở nhỏ, cô thường bị những người anh và chị trong gia đình ruồng bỏ, nên vẫn còn mang nặng cảm giác ấy kh ra tiếp xúc với đời. Cô viết thơ như sau: "Tôi lớn lên với một sự mặc cảm sợ sệt luôn luôn ám ảnh tôi. Khi tôi đi chơi với một nhóm bạn bè, tôi luôn luôn cảm thấy rằng sự có mặt của tôi không cần thiết, và tôi tự hỏi rằng tôi phải nói gì và phải làm gì. Tôi muốn đi sâu hơn vào các vấn đề, nhưng không biết phải làm sao. Tôi luôn luôn có cảm tưởng rằng tôi phải cố gắng làm nhiều hơn kẻ khác, để làm cho họ vui lòng. Bởi đó, tôi hy sinh sức khỏe và thời giờ của tôi để làm việc gì cho một người nào đó. Tôi muốn rằng người ta cần dùng đến tôi."

    Kế đó, cô thuật lại rằng đã bị ba lần thất vọng vì tình, trong đó có hai lần người yêu bỏ đi cưới vợ khác. Cuộc soi kiếp cho biết người đàn bà này trong kiếp trước là một trong những người khai phá thuộc địa đầu tiên ở tiểu bang Ohio, Hoa Kỳ. Y đối xử với người khác một cách vui vẻ, lễ độ, nhưng chỉ vì mục đích ích kỷ, trục lợi. Cuộc soi kiếp nói: "Linh hồn này tuy được thỏa mãn về sự thành công của mình, nhưng đã đem lại sự thất vọng cho nhiều người. Những người mà y lợi dụng trước kia, ngày nay trở lại gâu những sự lo âu phiền muộn cho y trong kiếp này. Lợi dụng kẻ kác làm cái đà tiến thân cho mình, tức là tạo nên nghiệp quả xấ mà ngày nay y phải trả." Định luật vũ trụ rất mực công bình: Nó trả lại một cách đúng đắn những gì của ta cho ra. Cũng như một cái gương phản chiếu, những điều kiện sinh hoạt của người đàn bà này phản ảnh những gì y đã gây ra trong cuộc đời kẻ khác. Thật ra, trong kiếp trước cô không mong muốn sự họp bạn với kẻ khác, trừ ra khi nào cô có thể lợi dụng họ. Trong kiếp này, từ thuở nhỏ sống trong gia đình, cô đã bị ngược đãi, làm cô cảm thấy bị ruồng bỏ. Bởi đó cô cảm thấy cuộc đời bấp bệnh và tâm hồn y trở nên khép chặt cho đến lúc trưởng thành cũng vẫn còn. Cô có một dung nhan khá đẹp và những đức tính đầy đủ để có thể hấp dẫn nhiều người, nhưng mặc dầu cô tưởng rằng được mọi người yêu mến, sau cùng cô đã bị thất vọng. Cô nhìn nhận rằng cái cảm giác bị ruồng bỏ và tâm hồn khép chặt của cô đã làm cho cô thay đổi thái độ và cố gắng giúp đỡ kẻ khác để được mọi người yêu mến, và được mọi người cần dùng đến mình. Và đó chính là cách hành động sửa đổi tốt lành của luật Nhân Quả.

    Sự xã giao khôn khéo mà cô đã lạm dụng do lòng ích kỷ và thiếu thành thật trong kiếp trước, đã đem đến cho cô sự khó khăn trở ngại hiện nay, mà cô chỉ có thể vượt qua được bằng những việc làm vị tha, với một tinh thần thành thật giúp đỡ người khác. Sự lợi dụng lường gạt kẻ khác dường như là một thói xấu thông thường, và thuộc về loại quả báo dội ngược trên bình diện tâm lý. Về điểm này, dưới đây là một đoạn trong cuộc soi kiếp của ông Cayce mà ông đã thốt ra với một giọng không úp mở:

    "Linh hồn này thường bị kẻ khác làm cho thất vọng. Hãy nghe đây cái định luật căn bản và bất diệt này: Ai gieo giống nào có ngày sẽ gặt giống nấy. Kiếp trước, cô đã phỉnh lừa gạt gẫm kẻ khác. Ngày nay, chính cô bị kẻ khác gạt gẫm phỉnh lừa, làm cho cô bị thất vọng để cho cô học bài học kiên nhẫn, là đức tính đẹp đẽ nhất trong tất cả mọi đức tính."

    Nói chung, luật Nhân Quả luôn luôn hành động theo nguyên tắc giáo dục, sửa đổi, cải tiến, và lập lại thế quân bình trong tâm tính của con người. Mục đích rốt ráo là làm cho người đời sẽ quay đầu hướng thiện, và cứu cánh sẽ trở nên trọn lành.
  4. matcuoi6807

    matcuoi6807 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/11/2007
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Quả Báo Tâm Lý

    Chúng ta đã thấy bằng cách nào tánh kiêu căng một thói xấu trên địa hạt tinh thần có thể gây nên quả báo cụ thể trên địa hạt vật chất dưới dạng những bịnh tật khốn khó. Những tập hồ sơ Cayce cũng chứa đựng nhiều trường hợp mà những tội lỗi trên địa hạt tinh thần gây nên quả báo thuộc về tâm lý; trong số đó có hai trường hợp đáng kể về quả báo lạc loài cô đơn, mà nguyên nhân là tội bất khoan dung.

    Trường hợp thứ nhất là của một vị nữ tu trong một tu viện Pháp hồi thời vua Louis mười bốn. Vị nữ tu này rất nghiêm khắc, lạnh lùng và thiếu đức bao dung đối với những sự lầm lạc yếu đuối của người đời, hiểu Thánh Kinh một cách quá chặt chịa, gò bó từng chữ từng cầu, và khinh bỉ những người nào vi phạm những lời răn dạy trong Thánh Kinh. Hậu quả của thái độ khắc nghiệt đó biểu lộ trước hết trong kiếp này bằng một chứng bịnh đau hạch, dây dưa không dứt, làm cho bịnh nhân bị hoại huyết quá nhiều trong lúc có kinh nguyệ. Chứng bịnh này làm cho cô không thể đi học đều đặn, mỗi tháng nằm liệt giường hết hai tuần lễ, làm cho cô trở nên nhút nhát, thích sống cô đơn, và tránh xa các bạn bè đồng lứa tuổi. Những điều này có ảnh hưởng đến cá tính của cô về mọi mặt.

    Về sau những chứng bịnh kể trên đã lần lần giảm bớt. Nhờ có một thân hình đẹp đẽ, cân đối, cô làm nghề kiểu mẫu ở New York và lập gia đình. Tuy nhiên, cuộc tình duyên của cô không có hạnh phúc. Vợ chồng không hợp ý tâm đầu: Người chồng thì lạnh lùng và khắc khổ, còn cô thì lại khao khát sự yêu đương. Trận Thế Chiến Thứ Hai bùng nổ, người chồng phải vượt biển tùng chinh. Từ đó, cô bắt đầu sống một thời kỳ độc thân, làm cho cô buồn không thể chịu nổi cảnh đơn chiếc, nên phải dọn vào ở trong một trại nghỉ mát. Tại đây, cô bắt đầu uống rượu và sống một cuộc đời bê thạ Lúc đầu cô cảm thấy rằng uống một hai ly rượu giúp cô thoát khỏi sự ám ảnh nặng nề của cơn sầu khổ. Nhưng một khi đã bước vào con đường ấy rồi, cô không thể ngưng lại đượ nữa; càng ngày càng uống rượu nhiều thêm. Có khi cô uống luôn ngày đêm không dứt, trong ba tuần liên tiếp như vậy, và ngủ với bất cứ người nào, lính thủy, lính tập hay phi công, tùy theo lúc cao hứng. Khi cô say rượu thì mất cả mọi sự dè dặt trong cử chỉ, và bất chấp cả áo quần. Cô đi tiểu tiện và đại tiện ngay ở giữa sân nhà chỉ khoác một cái áo choàng để hở, và nếu người ta không ngăn cản thì cô cứ điềm nhiên khỏa thân đi thẳng vào phòng khách lữ quán đang ở trọ. Sau cùng, sức khỏe của cô bắt đầu suy sụp dưới ảnh hưởng chất men rượu nồng. Hai bàn tay bắt đầu run đến một mực mà cô không thể cầm viết ký tên vào những ngân phiếu để lãnh tiền của chồng gởi về. Trong những lúc tỉnh táo và đầy đủ trí khôn,cô quyết định rời khỏi trại nghỉ mát trung tâm quy tựu hằng nửa chục những căn cứ hải quân và đồn trại ở gần bên. Những bức thư cuối cùng cho biết rằng nay cô làm thơ ký với ít nhiều trách nhiệm; nhưng về sau cô vẫn tiếp tục chè chén bê tha, và sau cùng đã ly dị chồng. Dường như sự trụy lạc của cô trước hết là do bởi thần kinh quá căng thẳng, mà điều này lại phát sinh từ chứng bịnh đau hạch mà ra. (Ông Cayce hay nhấn mạnh rằng các bộ phận hạch tủy trong thân người thường là những phương tiện biểu lộ của luật quả báo). Chứng bịnh này lại là cái hậu quả trực tiếp của những hành vi kết án khắc nghiệt của cô đối với kẻ khác và sự thiếu lòng nhân từ của cô ở kiếp trước. Những sự lầm lạc yếu đuối của kẻ khác, mà trước kia cô lên án một cách khắt khe, nghiệt ngã, ngày nay đã trở nên những sự lầm lạc yếu đuối của chính mình. Bằng cách trả quả báo như thế, cô mới hiểu được rằng sự lầm lạc tội lỗi của người đời là đáng thương, và họ là những người mà ta phải thông cảm và giúp đỡ thay vì lên án và chê bai. Cũng như những kẻ chế nhạo, những người chỉ trích chê bai kẻ khác phải chịu nhận lãnh cái số phận của những kẻ mà họ đã lên án.

    Trường hợp thứ nhì là của một người đàn bà có thói kiêu căng và thành kiến trong hai kiếp trước. Trong một kiếp vào thời kỳ của đấng Christ tại Palestine, cô là vợ của một vị giáo sĩ Do Thái. Với địa vị xã hội này, cô đã tỏ ra khắc nghiệt và khinh bỉ những người thanh niên phóng đãng, tự do, vô tôn giáo. Thời gian trôi qua cũng không làm phai mờ và giảm bớt lòng kiêu căng và tự phụ của cộ Trong kiếp thứ nhì, cô tái sinh ở Salem, tiểu bang Massachusetts, Hoa Kỳ, nhưng vẫn không chừa thói khắc nghiệt và lên án kẻ khác, mà dường như cô càng trở nên khó khăn nghiệt ngã hơn! Cuộc soi kiếp cho biết rằng: Linh hồn này đã gặp phải những người rất khó tính trong kiếp hiện tại, những người khắc khe, soi mói và saün sàng lên án kẻ khác. Trước kia linh hồn này đã gây nhiều đau khổ cho kẻ khác. Khi người ta nhận chìm một vài người xuống nước trong vụ xử án những người phù thủy, cô chứng kiến việc ấy và vỗ tay hoan nghinh. Khi những người khác bị đánh bằng roi vọt, cô cũng biểu đồng tình. Bởi vậy, linh hồn này thường nhớ lại những sự hành phạt đau khổ của những thời kỳ đó trong những khi cô bị loạn trí. Hiện thời cô bị chứng nội thương trong mạch máu và tủy xương sống, do bởi thiếu sự điều hành giữa bộ thần kinh giao cảm và bộ Óc, chứng bịnh này là cho cô có những thời kỳ "Phản ứng thể xác." Sự phản ứng thể xác này là một chứng bịnh thần kinh mà đương sự bị đau từ năm 39 tuổi, và những cơn khủng hoảng thường tái phát trải qua 14 năm kế đó. Cô không có gia đình; nhà ở khu sang trọng tại New York, và sự kiện rằng cô không có làm nghề nghiệp gì dường như chứng tỏ rằng cô có phương tiện và tài sản. Người ta có thể cho rằng sự Ở không, vô sự có thể là một yếu tố quan trọng gây nên những cơn khủng hoảng tinh thần. Nhưng đó chỉ là một nguyên nhân tạm bợ bên ngoài, có tính cách nhất thời mà thôi, chứ không phải nguyên nhân sâu xạ Trong tận thâm tâm của người đàn bà này, có một lòng khắt khe nghiệt ngã đối với nhân loại, một sự thản nhiên lạnh lùng trước những điều nguyện vọng và đau khổ của người đời. Sự khắc nghiệt, bất khoan dung của cô đã làm cho nhiều người thất vọng đau khổ trong những kiếp trước: Bởi vậy, thật là công bình mà thấy cô trải qua kinh nghiệm thất vọng đau đớn trong kiếp này.

    Người ta có thể tự hỏi rằng tại sao người đàn bà này không bị trả quả báo về sự khắc nghiệt của cô hồi thời ở xứ Palestine, trong kiếp đầu thai ở Salem. Câu hỏi này có thể giải đáp bằng hai cách khác nhau. Trước hết, kiếp đầu thai ở Salem có lẽ có một mục đích khác hơn là sửa chữa tánh khắc nghiệt của cộ Bởi đó, tánh khó khăn này đã bành trướng thêm trong khi cô theo đuổi một công việc quan trọng khác ở kiếp nói trên. Lẽ thứ hai là thái độ khắc nghiệt của cô ở Palestine có thể chưa rõ rệt lắm, và chưa biểu lộ bằng những hành động gây tổn thương cho kẻ khác. Đó chỉ là tánh bất khoan dung lúc mới đầu, chưa đủ mạnh để có thể gây nên một nghiệp quả lớn lao. Ngoài ra, mọi việc xảy ra trong đời cô là một sự thử thách. Trong kiếp sống ở Salem, cô có thể là một người khoan dung hay khắc nghiệt, tùy ý cô chọn lựa con đường tâm tính của mình. Nhưng cô đã thất bại trước sự thử thách đó; cô càng tăng cường thêm tánh khắc nghiệt đã có ở Palestine thay vì sửa chữa lại, và bởi đó cô tạo nên quả báo mà cô phải trả trong kiếp này.

    Trong những thói xấu đồng một loại với tánh bất khoan dung và nghiệt ngã, có tánh hay chỉ trích. Trường hợp sau đây là một thí dụ lý thú về quả báo gây nên bởi tánh hay chỉ trích. Đó là một người thanh niên 27 tuổi, làm thiếu úy trong quân đội, có tánh tự ti mặc cảm, và luôn luôn nghĩ rằng mình bất lực, không làm nên trò trống gì. Chúng tôi không được biết những lý do nào làm trở ngại sự phát triển cá tính của y thuở thiếu thời. Có thể rằng y đã có một người cha hay người mẹ có thói hay công kích một cách vô lý; hoặc y có một thân hình dị dạng, làm cho bè bạn trong lớp chế diễu nhạo báng. Chúng tôi đưa ra những sự phỏng đoán trên đây là vì căn cứ vào cái quả báo hiện thời của đương sự, vì trong cuộc soi kiếp, ông Cayce nói: "Ai giống nào sẽ gặt giống nấy. Vì anh đã chỉ trích kẻ khác, nên ngày nay anh phải bị chỉ trích lại."

    Cuộc soi kiếp cho biết rằng người thanh niên ấy trong kiếp trước là một nhà phê bình nghệ thuật, thường có thói quen chỉ trích một cách gắt gao, cay đắng, nghiệt ngã, mọi nghệ phẩm mà y không vừa lòng. Vì trong quá khứ y đã gieo sự ngờ vực trong lòng kẻ khác, làm cho họ mất tin tưởng về khả năng của chính mình, thì ngày nay đến lượt y phải bị cái quả báo tương đương là thói tự ti mặc cảm.

    Chúng ta thấy ở đây một khía cạnh mới của Luật Nhân Quả vô cùng phức tạp, một khía cạnh rất quan trọng về mặt tinh thần, đáng để cho ta suy gẫm. Tự nhiên những nhà phê bình chuyên môn chỉ gồm một số rất ít, nhưng trên Trái Đất hiện nay người ta đếm có gần hai tỷ rưỡi những nhà phê bình tài tử, tay ngang, nghĩa là không chuyên nghiệp. Có lẽ không một nghề nghiệp nào trên thế gian có nhiều tay hành nghề tài tử như nghề này, họ phê bình và chỉ trích thiên hạ một cách say mê thỏa thích, kể từ ngày họ mới tập nói cho đến ngày mà Thần Chết khóa miệng họ lại dưới nấm mồ! Nghề này không cần bỏ vốn, và dễ làm hơn ăn cơm! Ngoài ra, nó còn khác hẳn với mọi thứ tiêu khiển của người đời, đó là một trò chơi mà người ta có thể thực hành ở ngoài đường hoặc trong nhà, suốt cả năm này qua tháng nọ, mà chỉ cần dùng một khí cụ duy nhất, là một cặp lưỡi sắc bén! Chỉ cần có hai hay ba người tụ họp lại, là cái trò chơi phê bình, chỉ trích này bắt đầu!

    Tuy nhiên, mặc dầu sự chỉ trích là môt trò tiêu khiển không tốn kém, nhưng nó có thể bắt buộc ta trả một cái giá rất đắt một ngày về sau. Nguồn tài liệu (đó là danh từ mà ông Cayce dùng để ám chỉ cái quyền năng của ông) thấy rõ sự hành động của luật Nhân Quả trải qua giòng thời gian vô tận, thường đưa ra những lời cảnh cáo nghiêm khắc và rõ ràng cho những người nào có cái tật này. Thí dụ sau đây, trong hằng trăm những thí dụ khác, là một bằng chứng hiển nhiên để cho ta dùng làm tài liệu suy gẫm:

    "Chúng tôi thấy linh hồn này thường tỏ ra quá nghiêm khắc trong sự chỉ trích kẻ đồng loại. Phải tốp bớt lại, vì những gì mà ta chỉ trích ở kẻ khác, sẽ đến với ta dưới một hình thức nào đó."

    Đó là một lời tuyên bố rõ ràng về luật quả báo, theo đó một nguyên nhân gây ra trên địa hạt tâm lý sẽ mang đến một hậu quả tâm lý tương đương. Điều này nhắc nhở cho chúng ta nhớ lại những lời răn dạy trong Kinh Thánh Gia Tộ Đức Jesus có dạy rằng: "Ta nói cho các ngươi biết, mỗi lời nói vô ích mà mỗi người thốt ra, họ sẽ phải trả lời trong ngày Phán Xét cuối cùng," và kế đó là những lời răn: "Không phải những gì chui vào lỗ miệng của một người, nó làm cho y bị Ô nhiễm, nhơ bợn, mà là những gì từ trong lỗ miệng của y chui ra!" "Ngươi chớ lên án nếu ngươi không muốn bị kẻ khác lên án. Vì ngươi lên án kẻ khác như thế nào, thì đến phiên ngươi sẽ bị lên án cũng y như thế đó!"

  5. matcuoi6807

    matcuoi6807 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/11/2007
    Bài viết:
    151
    Đã được thích:
    0
    Lời răn trên đây, đối chiếu với luật quả báo mà chúng ta phải thấy, có một ý nghĩa hùng hồn, mạnh mẽ và hợp lý trên phương diện thực tế mà người ta chớ khá coi thường. Về những trường hợp kể trên, chúng ta nên nhớ rằng chính cái nguyên động lực, và mục đích của mỗi hành động mới là cái sức chuyển vận luật Nhân Quả. Không phải nghề phê bình văn nghệ nó làm cho người thanh niên kia bị sa đọa trong kiếp trước, mà chính là cái thái độ bên trong của y và sự ngờ vực mà y đã gieo trong lòng kể khác về tài năng của họ, trong khi y hành nghề một cách cẩu thả. Người ta thấy một tình trạng tương tự khi người lính La Mã ngược đãi những tín đồ đạo Gia Tô, như đã kể ở Phần 5. Nghiệp của y gây ra không phải là vì y thừa hành chức vụ của người lính gác, mà do bởi hành động tàn ác của y đối với những người không sức tự vệ đặt dưới quyền sinh sát của ỵ Ở đây cũng như mọi trường hợp, chính cái tinh thần bên trong mỗi hành động mới là cái nguyên động lực tạo nên nghiệp quả.

    Trước đây, chúng ta thấy rằng những khuynh hướng độc tài chuyên chế nguyên nhân là do những kinh nghiệm chỉ huy ở kiếp trước. Khả năng lãnh đạo là một đức tính tốt, nhưng nó thường biến chứng thành thói chuyên chế độc tài. Trong lịch sử, người ta thấy những người có chức vụ cao, nắm quyền thế trong tay, thường lạm dụng quyền hành để thỏa mãn lòng tham vọng riêng của mình. Những trường hợp lạm dụng quyền thế một cách trắng trợn và những quả báo gây ra do những hành động đó, đều được thuật lại rất nhiều trong những tập hồ sơ Caycẹ Thí dụ, đây là trường hợp của một người có quyền thế trong thời kỳ các vụ án phù thủy ở Salem. Y là một trong những viên chức có trách nhiệm trừng trị khủng bố những người đàn bà bị tố giác là hành nghề phù thủy. Tuy nhiên, trong khi thừa hành chức vụ đàn áp khủng bố những người theo tà đạo để bảo vệ thuần phong mỹ tục và bảo vệ tín ngưỡng Gia Tô, con người mô phạm và đạo đức giả này lại lạm dụng quyền hành của mình để thỏa mãn điều sắc dục: Những người phụ nữ bị giam cầm đều bị cưỡng bách phải thất tiết với y! Những tập hồ sơ cho biết nhà đạo đức giả ấy đã đầu thai trở lại kiếp này. Hiện nay y là một thiếu niên 11 tuổi, con của một người đàn bà nghèo khổ, bị chồng bỏ rơi. Y thường bị chứng động kinh rất dữ dội; trong lúc soi kiếp cho y, y đã liệt bại hết nửa thân mình bên trái, và câm không nói được nữa. Y không thể tự mình mặc hay cởi áo quần, hoặc ăn uống hay đi lại, tiểu tiện mà không có người dìu dắt. Hai vai của y đã còng, và sau một cơn động kinh kéo dài suốt nhiều ngày, trong khi đó ông bị chứng phong giựt, mỗi ngày cách khoảng độ nửa giờ, y không thể nào giữ vững đầu trên cổ được nữa, và không thể ngồi dậy được nếu không có người nâng đỡ.

    Theo ông Cayce, bịnh động kinh thường là quả báo của sự hoang dâm vô độ. Dầu sao, sự lạm dụng quyền hành trong trường hợp này là một yếu tố quan trọng. Sự nghèo khổ và địa vị thấp kém của người mẹ y dường như là một sự đảo lộn địa vị giàu sang quyền thế của y trong kiếp trước. Chứng động kinh là cái hậu quả của sự cưỡng hiếp, dâm dục khi y lạm dụng quyền hành để thỏa mãn thú tính.

    Trường hợp sau đây là một thí dụ lạm dụng quyền thế trong thời kỳ khủng bố đạo Gia Tô ở La Mã. Có một người tên Romus, làm quân nhân trong đạo binh La Mã. Ngoài ra số tiền lương tháng, với cấp bậc khá cao của y, y đã dùng thế lực để kiếm những món tiền khổng lồ. Cuộc soi kiếp không nói rõ y dùng phương pháp nào, không biết là y biển thủ công quỹ hay dọa nạt để làm tiền; nhưng y đã dùng phương tiện bất chính để mưu lợi, thâu được rất nhiều của cải vật chất, nhưng lại mất mát nhiều về phương diện tâm linh. Trong kiếp hiện tại, Romus bị nhiều đau khổ: Sự nghèo đói, lầm than, không nhà cửa, luôn luôn theo dõi y suốt đời. Nghề thợ may của y không đủ sinh lợi để nuôi một vợ và năm con. Chỉ nhờ sự giúp đỡ của cha mẹ y mà vợ chồng và gia đình y mới có thể sinh nhai một cách tạm bợ và bấp bênh ở một khu phố nghèo nàn tại Luân Đôn. Trong trường hợp này cũng vậy, kẻ lạm dụng quyền hành đã phải chịu những quả báo tương đương với hành động quả báo của y gây ra. Tình hình tài chánh tuyệt vọng của y phản ảnh những nỗi lầm than khốn khổ mà y gây ra cho kẻ khác trong kiếp trước.

    Dưới đây là một trường hợp khác về sự lạm dụng quyền hành, cũng đáng được cho chúng ta ghi nhớ: Một người đàn bà nọ thuộc giai cấp trưởng giả hồi thời Cách Mạng Pháp, đã tham gia cuộc nổi loạn chống giai cấp quý tộc. Với tấm lòng thành thật tranh đấu cho một lý tưởng, bà đã thực hiện một sự tiến bộ lớn về đường tâm linh. Nhưng sau cuộc Cách Mạng, khi dịp may đưa đến bà đạt tới một địa vị quan trọng trong chánh phủ, bèn trở nên độc tài và lạm dụng quyền thế chẳng thua gì những người mà bà đã tranh đấu chống lại trước kia. Cuộc soi kiếp nói: "Hậu quả đưa đến, là trong kiếp hiện tại, linh hồn này phải chịu dưới quyền sai khiến của kẻ khác, để đè nén bớt những khuynh hướng độc tài và hách dịch của y trước kiạ" Hiện thời, người đàn bà này sống một cuộc đời rất khó khăn, lúc soi kiếp, bà đã 40 tuổi, góa chồng đã mười năm và có một đứa con gái nhỏ. Bà phải chiến đấu với nghịch cảnh để tư mưu sinh và nuôi con. Bà đã tìm được việc làm trong một cơ sở cứu trợ nạn nhân thất nghiệp của chánh phủ trong một thời gian nhưng tình trạng của bà vẫn bấp bênh. Sự cô đơn và thiếu nguồn vui sống đã làm cho bà tuyệt vọng và chán nản. Tình trạng này không phải là do sự ngẫu nhiên tình cờ: đó là cái phản ảnh đúng đắn của những sự đè nén áp bức mà bà đã gây ra cho kẻ khác, khi lạm dụng quyền hành trong taỵ Xét qua bề ngoài, thì bà là nạn nhân của một tình trạng kinh tế khủng hoảng và một số mạng hẩm hiu; nhưng xét về luật quả báo, thì bà chỉ là nạn nhân của chính mình.

    Những trường hợp kể trên có thể giúp cho ta một cái tiêu chuẩn quan trọng để tìm hiểu những nỗi khó khăn trắc trở của người đời cùng những nỗi khổ đau của họ, và tìm ra những nguyên nhân xa gần, căn cứ vào quả báo trong hiện tại. Khi nhà hiền triết Eschyle cách đây hai ngàn năm ở Hy Lạp nói rằng: "Số mạng, tức là hạnh kiểm" ông ta đã thốt ra một câu châm ngôn mà nếu ta nói ngược lại cũng vẫn đúng. Vì những trường hợp đã xét qua như trên dường như chỉ rằng số mạng con người ngày nay, tức là phản ảnh cái hạnh kiểm của y trong quá khứ. Đến đây, một vấn đề quan trọng được nêu ra, một vấn đề mà bất cứ người nào học hỏi nghiên cứu và suy gẫm chính chắn về thuyết Luân Hồi, cũng không khỏi nêu ra để tự vấn lấy mình. Nếu như sự nghèo khổ là những quả báo cần thiết để giáo dục sửa đổi những kẻ hung dữ, độc ác, bất công theo định luật Nhân Quả, thì tại sao người ta cần phải cố gắng hoạt động trong những công việc cứu tế xã hội để làm gì. Phải chăng những cố gắng của ta để trợ giúp kẻ khác bần hàn khốn khó, sẽ làm ngăn trở sự hành động của luật Nhân Quả?

    Chúng ta nên hiểu rằng thuyết Luân Hồi không phải chủ trương một thái độ nhắm mắt buông xuôi đối với những nhu cầu cấp bách của xã hội. Những linh hồn cần phải học bài học nghèo nàn khốn khó, sẽ sinh ra trong một thời kỳ lịch sử và trong một hoàn cảnh địa phương mà sự bất công của xã hội có thể tạo nên cái quả báo nghèo khổ khốn cùng cần thiết cho bài học kinh nghiệm của họ.

    Nhưng đồng thời, những người nào không cố gắng làm việc để cải thiện đời sống của kẻ đồng loại, tức là họ phạm vào tội "Thờ ơ, chểnh mảng" (omission); còn những kẻ lợi dụng và khai thác kẻ đồng loại vì mục đích ích kỷ, là những kẻ tích cực phạm tội (commision); hai thứ tội lỗi này, có ngày họ sẽ phải trả quả.

    Thuyết Luân Hồi, nếu hiểu một cách đúng đắn, sẽ không thể dùng làm một thuyết để bào chữa cho những hành vi của kẻ bất lương. Giáo lý mà thuyết ấy cho ta trước hết thuộc về địa hạt tâm lý, bởi vì nó nhắm vào mục đích cải tiến linh hồn người cho tới mức Toàn Thiện. Nhưng giáo lý ấy cũng nằm trong địa hạt xã hội, bởi vì mục đích tối cao của nó là tình thương; và tình thương chính là cái mãnh lực mầu nhiệm làm tiêu tan mọi điều nghiệp chướng và quả báo xấu xa, theo định luật Nhân Quả cai quản sự tiến hóa của con người.

    Những Đạo gia quả quyết rằng hành động của con người không thể nào sửa đổi được định luật của Vũ Trụ. Định luật Nhân Quả Công Bằng cũng ví như nước, luôn luôn giữ mực bằng phẳng, quân bình. Dầu cho con người gặp hoàn cảnh nào và dưới thời kỳ nào, điều đó không quan hệ, đó chỉ là cái khung cảnh bên ngoài làm nền tảng và bối cảnh cho linh hồn đầu thai để học hỏi kinh nghiệm ở cõi trần. Đối với một linh hồn đã chọn lựa nhũng hoàn cảnh đó, thì luôn luôn có những phương tiện thích nghi để giúp cho họ sửa chữa những khuyết điểm và lầm lạc bên trong của họ.
  6. battambattu

    battambattu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/11/2003
    Bài viết:
    812
    Đã được thích:
    1
    Cảm ơn bạn matcuoi6807 đã tham gia viết bài.
    Nhưng có lẽ bạn chưa hiểu rõ mục đích của topic này:
    Mục đích của chủ đề này nhằm lý giải những vấn đề "bí ẩn", những khả năng đặc biệt của con người bằng những lý luận khoa học thông thường. Hy vọng chúng ta có thể đóng góp một phần công sức nhỏ bé để thu hẹp khoảng cách lý luận giữa Đông và Tây, gạt bỏ những thành kiến của mọi người về vấn đề này.
    Các bài viết của bạn khá hay, nhưng nó ít có tính lý giải, nó chủ yếu chỉ nêu lên hiện tượng mà thôi, do đó có lẽ bạn nên chuyển chúng sang một topic khác, ví dụ như topic: "Sưu tầm các bài viết hề hiện tượng kì lạ" chẳng hạn, và nên ghi rõ xuất xứ của bài viết.
    Nhân tiện, xin nhờ các Mod chuyển giùm các bài viết của matcuoi6807 sang chủ đề khác phù hợp hơn, để topic này tiếp tục đi theo hướng ban đầu.
    Cảm ơn nhiều.
  7. ly_tieu_long_19121985

    ly_tieu_long_19121985 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    22/06/2006
    Bài viết:
    773
    Đã được thích:
    0
    bác battambattu tiếp tục đi nào , rồi mệt thì em vào tiếp , khoa học tự nhiên là món em rất thích
  8. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    Topic này bị chìm xuồng rồi àh?
  9. battambattu

    battambattu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/11/2003
    Bài viết:
    812
    Đã được thích:
    1
    Chào tất cả các bác,
    hôm nay bắt đầu rỗi rãi, em xin tiếp tục topic này.
    Với quan điểm như trên, có thể coi Khí là thứ vật chất cơ bản cấu tạo nên vũ trụ này. Và khí có nhiều cấp độ khác nhau (thứ ?oKhí? trong bài viết về Khí công ở trên chỉ là một trường hợp riêng, là một cấp độ của Khí mà thôi). Vật chất tồn tại trong tự nhiên với nhiều cấp độ khác nhau, và con người cũng không thoát khỏi quy luật đó: Trong con người ta có nhiều cấp độ vật chất cùng tồn tại, từ phần thực, phần thanh đến phần linh...
    Trên cơ sở các lý luận đó, em xin được trình bày một giả thiết về bản chất của hiện tượng xuất hồn, xuất vía. Mong các bác cùng đóng góp ý kiến.
    Được battambattu sửa chữa / chuyển vào 11:42 ngày 02/02/2008
  10. battambattu

    battambattu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    01/11/2003
    Bài viết:
    812
    Đã được thích:
    1
    Hiện tượng xuất Vía, xuất Hồn.
    Rất nhiều người đã gặp phải hiện tượng này, có thể do tình cờ, do sự nhạy cảm của cơ thể, cũng có thể là do một quá trình luyện tập lâu dài. Nhìn chung, hiện tượng đó thường được họ mô tả lại như sau: Đầu tiên là cảm giác thấy mình nhẹ đi, bay lên cao, hoặc bay vòng quanh, rồi bỗng nhìn thấy cơ thể của mình vẫn còn nguyên ở chỗ cũ, bất động. Nếu là xuất vía thì vẫn có thể cảm nhận được cơ thể, còn xuất hồn thì không cảm nhận được cơ thể nữa (?). Trong khi đó, họ có thể đi tới bất cứ nơi nào họ muốn, chỉ cần nghĩ tới là đã đến nơi, thích xem cái gì cũng được, thậm chí có thể đồng thời đến nhiều nơi khác nhau (giống như phép phân thân vậy)?
    Hiện tượng này đã gây bao tranh cãi trong suốt mấy nghìn năm qua. Phái Duy tâm cho rằng có một cái ?oTâm? phi vật chất nào đó, tồn tại độc lập bên ngoài cơ thể. Còn phái Duy vật thì cho rằng đó chỉ là ảo giác, là những trạng thái đặc biệt của hệ thần kinh mà thôi!
    Liệu có cần thiết phải đặt Duy vật và Duy tâm ở hai vế đối lập nhau như vậy không? Phải chăng Duy vật và Duy tâm cũng chỉ là hai cách nhìn ở hai góc độ khác nhau của cùng một sự vật, hiện tượng. Hoặc có lẽ ta đã hiểu sai về cả hai quan điểm đó chăng?
    Trong bài viết nhỏ này, em không tham vọng giải quyết được tất cả các vấn đề to tát đó, mà chỉ muốn đưa ra một ý kiến của riêng mình, giống như một sự chia sẻ cảm nhận vậy.
    Được battambattu sửa chữa / chuyển vào 12:16 ngày 02/02/2008

Chia sẻ trang này