1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những Hình ảnh xưa về Đất Nước, Con Người, Văn Hoá Việt Nam (Updated ngày 19/6/2014)

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ruavang, 16/11/2002.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Trường Albert Sarraut

    13/12/2009 20:53:25
    [​IMG] - Tên gọi của ngôi trường này lấy tên một viên Toàn quyền Đông Dương hai nhiệm kỳ trước và sau Thế chiến I, sau là Bộ trưởng Thuộc địa Pháp.

    Ban đầu nó mang tên Trường Trung học Đông Dương ở Hà Nội nhằm đào tạo cho con em những nhà cai trị, cộng đồng người Âu và tầng lớp trên của người bản xứ, đến năm 1923 mới mang tên riêng nhà cai trị thực dân.

    Trường do kiến trúc sư A.Bussy thiết kế theo một chuẩn mực hoàn chỉnh của một trường trung học như bên chính quốc, có hẳn một sân vận động hoành tráng.
    [​IMG]
    Trường Albert Sarraut được thiết kế theo chuẩn mực hoàn chỉnh của một trường trung học như bên chính quốc, có hẳn một sân vận động hoành tráng. Nằm xế cửa Phủ Toàn quyền Đông Dương cho thấy vị thế của trường trong đời sống thuộc địa. Vậy mà, không gian này chính là gò núi đất xưa nằm kề Cửa Tây thành Thăng Long mang tên Khán Sơn, là nơi sử chép vua Lê Thánh Tông từng ngự để duyệt binh, rồi ở những triều sau dựng một ngôi chùa cổ . Đến năm 1889, cùng với việc phá thành, Tây san bằng Khán Sơn để quy hoạch khu vực đầu não của bộ máy chính trị thuộc địa.

    Con đường đi ngang trước cửa tức trục đường đi thẳng vào Phủ Toàn quyền lúc đầu mang tên “Cộng hoà” (La République) (nay là đường Hoàng Văn Thụ), vì ở ngay vị trí trước cửa có một tượng đài khá hoành tráng mang tên “Nước Pháp” (La France) mà ngự trên đó có hình tượng người đàn bà tiêu biểu cho nền Cộng hoà. Công trình bằng bêtông này ít giá trị mỹ thuật nên khi quy hoạch lại khu vực này đã bị phá bỏ.
    [​IMG]
    Tượng đài mang tên “Nước Pháp” (La France) nay đã bị phá bỏ Một thời ở Hà Nội, giữa 2 trường Trung học thuộc loại lớn và danh giá nhất Đông Dương là Lycée Albert Sarraut và Trường Bưởi vẫn hình thành mối xung khắc học trò liên quan đến những xung đột ở thuộc địa.

    Từ sau ngày tiếp quản Hà Nội (1954), Trường phải chuyển địa điểm thành 2 ngôi trường nhỏ : Petit Lycée (phố Hai Bà Trưng) và Sainte Marie (Lý Thường Kiệt) rồi cuối cùng giải thể. Không gian và kiến trúc ban đầu của trường được dùng làm Trụ sở của Đảng bao gồm cả một không gian bao quanh 4 phố Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Cảnh Chân, Phan Đình Phùng và Hùng Vuơng.

    Dương Trung Quốc
  2. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Phố hai phố, bản doanh của quân Cờ Đen

    06/12/2009 15:28:02
    [​IMG]- Giờ đây, phố Mã Mây xưa kia là 2 phố với hai đặc trưng hàng nghề là Hàng Mây ở đoạn gần Hàng Buồm và Hàng Mã ở đoạn sát Hàng Bạc.


    Khi còn Sông Tô Lịch đây là nơi sầm uất vì buôn bán các thổ sản từ trên rừng xuôi về. Riêng đoạn Hàng Mã thì chuyên làm các đồ vàng mã tuỳ táng hay để hoá trong tín ngưỡng với người âm, sau này mới chuyển về khu vực Phố Hàng Mã gần Chợ Đồng Xuân như bây giờ. [​IMG]
    Mã Mây xưa kia là 2 phố với hai đặc trưng hàng nghề là Hàng Mây ở đoạn gần Hàng Buồm và Hàng Mã Vĩ ở đoạn sát Hàng Bạc Người Pháp gọi tên là Phố quân Cờ Đen để ghi nhận nỗi kinh hoàng của cả Tây lẫn ta với đám quan quân đến từ Phương Bắc hoành hoành và từng trú quân tại đây.

    Đạo quân này do Lưu Vĩnh Phúc đứng đầu vốn là tàn quân của phong trào Thái Bình Thiên Quốc nổi dậy chống triều Mãn Thanh rồi dạt sang nước ta, ban đâu được triều đình Việt Nam dung nạp để chống nạn thổ phỉ. Khi thực dân Pháp xâm lược, quân Cờ Đen tham gia các trận đánh Pháp, từng tiêu diệt hai viên chỉ huy của đạo quân xâm lược là Henri Rivière và Francis Garnier đều ở Cầu Giấy khiến quân Pháp e ngại.
    [​IMG]
    Người Pháp gọi phố này là Phố quân Cờ Đen Và năm 1882 quân Cờ Đen đã đồn trú tại đây trong khi bao vây quân Pháp đồn trú tai khu nhượng địa Đồn Thuỷ. Nhưng với người dân ta, quân Cờ Đen cũng là nỗi kinh hoàng vì những hành vi cướp bóc, hà hiếp không khác đám thổ phỉ.

    Sau khi Pháp đã ký được hiệp định với Nhà Thanh, người Pháp cũng chọn phố này để lập những cơ sở tạm thời, vì nó gần bờ sông dễ đi lại với khu vực nhượng địa ở Đồn Thuỷ lại gần sông nơi cấc hạm tàu của Pháp thả neo. Người Pháp thuê nhà làm nơi giam cầm tội nhân trước khi làm xây ở Hoả Lò, lập trụ sở Hội Tam điểm, mở quán cà phê...

    Đến khi được triều Đồng Khánh giao toàn bộ Hà Nội làm thành phố nhượng địa (1888) và sông Tô Lịch đã bị lấp hoàn toàn, thì Mã Mây hoàn toàn trở thành một phố của người bản địa với sắc thái cổ điển như bức ảnh được Bác sĩ Hocquard chụp năm 1884 (để in phải chuyển qua bản khắc đồng) và bức ảnh chụp muộn hơn để in làm bưu ảnh.

    Bây giờ thì con phố này đã trở thành một không gian dịch vụ du lịch khá sầm uất, thành nơi đi lại của nhiều du khách nước ngoài.
    Dương Trung Quốc
  3. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    “Qua Hàng Thợ Nhuộm thẳng dong Hàng Tàn”

    22/11/2009 12:50:01
    [​IMG]- Trên bản đồ, phố Hàng Lọng xưa nằm trên trục của con đường Nam Bộ (nay là một đoạn của đường Lê Duẩn), cũng là con đường cái-quan (route mandarine) dẫn các vị quan từ các tỉnh “thượng kinh” vào Cửa Nam của Kinh thành. Có lẽ vì thế, ở đoạn phố này có cái nghề làm lọng để các quan dùng vì nó không gọn nhẹ như cái ô hay dù được du nhập hay sáng chế sau này.



    Đọc sách cũ lại có thêm một cái tên khác cho phố này là “Hàng Tàn” (ca dao cũ có câu: “Qua Hàng Thợ Nhuộm thẳng dong Hàng Tàn”). “Tàn” hay “Tán” đều là vật để che mưa nắng, không khác nghĩa mấy với “Lọng”. Sách “Địa dư chí” của Nguyễn Trãi còn viết về “Phường Tàng Kiếm” chuyên làm đồ nghi trượng, trong đó có “dù lọng”, không rõ có liên quan đến Hàng Lọng hay không?
    [​IMG]
    Tổng đốc được che lọng. “Lọng” được sách “Việt Nam tự điển” của Hội Khai Trí Tiến Đức (1931) định nghĩa là “Đồ hành nghi, làm bằng tre, phất giấy, dùng để che cho các quan” nên “cái lọng” được biểu trưng cho sự danh giá (Ca dao: “Làm nên quan thấp quan cao/Làm nên lọng tía, võng đào nghênh ngang”).

    Câu chuyện truyền thuyết về cụ Lê Công Hành, người làng Thượng Phúc (nay thuộc Thường Tín, Hà Nội) vào đầu thế kỷ XVI, đi sứ Trung Hoa thoát hiểm nhờ dùng cái lọng nhảy từ gác cao xuống đất tựa như cái dù thời hiện đại để nâng đỡ khi nhảy từ trên cao xuống, người khiến ta hình dung được cái vật dụng khá cầu kỳ này.
    Khung bằng tre nứa với kết cấu có thể cụp xoè dễ dàng rồi lợp bằng loại giấy dai bền lại phết cật hay sơn ta chống thấm rất tốt. Tất cả được sơn vẽ bằng màu sắc và họa tiết làm nên sự sang trọng theo thẩm mỹ đương thời.
    [​IMG]
    Lọng và đồ thêu Tấm ảnh một cửa hàng sản xuất và bán lọng này không rõ có phải ở Phố hàng Lọng không. Nhưng xin giới thiệu để người ngày nay hình dung được. Những tấm ảnh minh họa kèm theo giúp các bạn thấy nó được nhiều tầng lớp khác nhau sử dụng nhưng công dụng còn nhằm tỏ rõ địa vị xã hội của mình chứ không chỉ để che nắng mưa.
    [​IMG]
    Cửa hàng bán lọng. Việc che mưa nắng về sau chuyển cho cái ô hay dù gọn nhẹ, nhưng cái lọng thì vẫn không thay thế được trong những đám rước của các hội hè, đình đám, dựng trong các đền, chùa để tỏ sự trang trọng như một thứ đồ tế tự.

    • Dương Trung Quốc
  4. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Vườn Bách Thảo, bộ sưu tập cây thời Pháp

    15/11/2009 14:54:30
    [​IMG]- Ở Sài Gòn, chỉ một năm sau khi buộc nhà Nguyễn “nhượng đất”, viên Phó đô đốc thực dân Lagrandière đã ban hành quyết định thành lập một Vườn Bách Thảo và Bách Thú vào ngày 10/6/1863. Còn ở Hà Nội, một khu vườn tương tự được khởi công vào năm 1890, tức là chỉ 2 năm sau khi Hà Nội được vua Đồng Khánh trao cho Pháp làm thành phố nhượng địa.

    Ban đầu, khu vườn cây trồng và nuôi chim thú này chỉ là một cảnh quan hỗ trợ cho không gian của Phủ Toàn quyền Đông Dương, trên đất của các làng Ngọc Hà, Hữu Tiệp và Khán Xuân.

    Không gian này bao lấy môt gò núi đất nhỏ mà dân vẫn quen gọi là Núi Nùng, nhưng tên dân gian của nó là Núi Sưa vì trên đó mọc nhiều loại cây này. Trên lưng núi, lại có đền thờ Huyền Thiên Hắc Đế, tương truyền là người giúp nhà Lý đánh giặc phương Nam, nên được phong làm thành hoàng của mấy làng trong khu vực. Ngay chân núi lại có mấy hồ nước hơn hẳn vườn ở Sài Gòn. Ở đây từng có một ngôi “đền Hàng Hoa” rất đẹp.
    [​IMG]
    Ban đầu nó chỉ là một vườn thí nghiệm, được trao cho một viên dược sĩ hải quân biệt phái về Sở Nông lâm để nghiên cứu phương thức di thực các loại thảo mộc từ nước ngoài, nhất là từ các thuộc địa châu Phi qua để bổ sung cho các loại cây trồng đô thị và phát triển trồng trọt Dần dà cùng với các giống cây, ngày một phong phú là một số thú nuôi thích hợp như hươu nai, đặc biệt thu hút người xem là gấu, cọp và voi cùng nhiều loại chim muông nên vườn còn đựoc gọi là Bách Thú.
    [​IMG]
    Cạnh Bách Thảo còn có một trại giống, chuyên ươm các các loại cây và hoa gần gũi với người nhu cầu của người Âu được đưa từ nước ngoài qua trồng thử rồi nhân rộng, khiến các làng Ngọc Hà, Hữu Tiệp càng trở nên rực rỡ sắc màu hoa lá và phát triển nghề nghiệp bên cạnh những loài bản địa và truyền thống.
    [​IMG]
    Đền Hàng Hoa. Sức ép đô thị hoá và của chính các công thự của Phủ Toàn quyền khiến vườn không mở rộng được không gian, nhưng nó đã có một bộ sưu tập quý giá và phong phú mà nhiều cây nay đã thành cổ thụ một người ôm không xuể.

    Vườn Bách Thảo và cũng còn gọi là Bách Thú tuy không lớn lắm, nhưng cảnh quan và bóng mát của nó thu hút người đến thưởng ngoạn ngày một đông, khiến cho một thời, người phương xa đã đến Hà Nội là phải đi hóng mát Hồ Gươm, ghé chợ Đồng Xuân và thăm vườn Bách Thảo mới là “đủ món”.
    Dương Trung Quốc
  5. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Phố Hàng Đào

    01/11/2009 15:19:08
    [​IMG]- Rue de la Soie - tên gọi chính thức bằng tiếng Pháp trong bản đồ hành chính thành phố Hà Nội - đủ để giải thích tên gọi “Hàng Đào”. Đây chính là phố bán các loại vải vóc, tơ lụa mà có lẽ là loại vải màu điều (đào/đỏ).

    Nghề nhuộm màu tạo nên loại sản phẩm đặc trưng trở thành tên gọi của một trong những con phố nằm trên trục đường thuộc loại sầm uất nhất của người bản xứ, chạy dọc từ Bờ Hồ cho đến Chợ Đồng Xuân.
    [​IMG]
    Ngôi nhà ngoài cùng bên phải ảnh chính là nhà số 4 nơi cư trú của gia đình cụ Cử Lương Văn Can. Ngôi nhà 2 tầng có lan can màu trắng cách 2 ngôi nhà tiếp theo là nhà số 10 nơi mở trường Đông Kinh Nghĩa Thục. Sách “Dư Địa Chí” của danh nhân Nguyễn Trãi gọi tên gốc của phố này thuộc địa phận “phường Đại Lợi”, tâp trung dân làng Đan Loan chuyên nghề nhuộm tơ lụa có từ thời Trần - Hồ, rồi quy tụ đến đây như một khu chợ vải vóc cũng họp theo phiên. Phiên chợ thu hút các làng dệt tứ xứ đến mua bán, như the từ La Cả, La Khê, lĩnh từ làng Bưởi ven Hồ Tây, gấm vóc của Vạn Phúc, rồi các giao dịch của thợ nhuộm, thợ cửi, người bán tơ, bán sợi...
    [​IMG]
    Điểm rẽ của 2 tuyến xe điện, một đi thẳng vào Hàng Đào đi tiếp tới Chợ Đồng Xuân; một rẽ trái theo phố Hàng Gai lên Cửa Nam. Về sau, vải vóc còn giao dịch với miền Trung hay miền Nam, cũng như việc nhập hàng vải bông từ nước ngoài vào nội địa. Kể từ sau Đại chiến I, lại có thêm người Ấn Độ đến sinh sống với các cửa hàng “Tây Đen bán vải”, càng làm cho phố phường thêm sinh động, cạnh tranh với cái sầm uất của dãy phố liền kề là Hàng Ngang - có nhiều cửa hàng người Hoa giàu có nhưng không buôn bán loại hàng dùng làm đồ mặc này.

    Nói đến Hàng Đào, không thể không kể đến một thời ngắn ngủi sôi động bởi một phong trào yêu nước của các nhà Duy Tân đầu thế kỷ XX, khi lập ra Đông Kinh Nghĩa Thục. Ngôi nhà số 4 là nhà của Cụ Cử Lương Văn Can, vị thục trưởng và ngôi nhà số 10 được dùng làm nơi mở lớp của ngôi trường danh tiếng, nhưng chỉ tồn tại được không trọn một niên khoá (1907) đã bị thực dân đóng cửa và đàn áp, vì sợ dân trí dân ta lên cao thì nền đô hộ của ngoại bang bị đe dọa.
    Cả hai ngôi nhà này đều có trong tấm ảnh kèm đây. Lại thêm cái tàu điện rất đặc trưng với tấm biển quảng cáo cho sản phẩm “Dubonnet”, ngày ngày di chuyển trên đường phố, kề cận với đầu mối ở Bờ Hồ toả đi tất cả các cửa ô của thành phố. Còn tấm ảnh thứ hai nhìn từ Bờ Hồ vào chính là nơi hiện giờ mang tên Quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục và là cửa ngõ đi vào khu vực trung tâm của Khu phố cổ Hà Nội.
    Dương Trung Quốc
  6. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Hà Nội nhìn từ trên cao: Một góc Hồ Gươm

    08/11/2009 22:20:10
    [​IMG]- Dòng lưu bút ghi bên lề tấm bưu ảnh (ngày 10/11/1902) cho biết tấm hình này phải được chụp trước thời gian nó được in thành bưu ảnh và được một khách hàng sử dụng.



    Phía xa, Nhà Thờ Lớn được khánh thành từ Giáng sinh 1887 sừng sững như một công trình kiến trúc cao nhất giữa khu vực dân cư của Hà Nội mà Hồ Guơm luôn định vị như một trung tâm. Phía xa góc phải cũng thấy nhú lên ngọn Cột Cờ của thành Hà Nội xưa. Cây xanh thì nhiều, kiến trúc còn ít khiến tầm nhìn xa hơn.

    Như thế có thể ghi chú cho tấm hình này là: “Cảnh quan Hồ Gươm đầu thế kỷ XX nhìn từ bờ phía Đông”. So sánh với những gì sách báo người Pháp đã từng viết về cảnh quan Hồ Gươm sau khi Hà thành thất thủ lần thứ 2 (1883) và Hà Nội hoàn toàn bị chiếm đóng, thì thấy những thay đổi thật nhiều. [​IMG]
    Cảnh quan Hồ Gươm nhìn từ bờ phía Đông Trong khung cảnh loạn lạc, giặc giã, khu vực quanh Hồ Gươm đã trở thành những xóm dân cư đến tập trung sinh sống tạo nên một cảnh quan hỗn độn và vô cùng mất vệ sinh. Hồ Gươm từng mang tên “Lục Thuỷ”, nằm kề bên Phủ Chúa (bờ phía Tây của Hồ), đã được “thần bút” Nguyễn Văn Siêu mô tả như như một cái chén đặt dưới đất lật cả trời mây xuống mặt nước (Nhất trản trung phù địa/ Trường lưu đảo tái thiên) nay cũng trở thành nơi cư trú của những người cùng khổ nhất và trở thành cảnh quan xấu nhất của kinh kỳ xưa.

    Nhưng con mắt quy hoạch của người Pháp vẫn nhận ra giá trị của mặt hồ giữa lòng thành phố nay đã trở thành nhượng địa nằm trong cái thuộc địa mà họ đã cai trị hoàn toàn. Và họ đã ra tay giải toả bằng một phương thức của kẻ chiếm đóng . Năm 1891, xuất hiện hàng loạt những vụ cháy các khu phố dân cư quanh Hồ lan sang cả Hàng Bạc, Hàng Bè, Hàng Mắm, Hàng Thùng... Rồi sau đó chính quyền thành phố ban lệnh từ nay cấm cất nhà bằng tranh, tre, nứa, lá ở khu vực trung tâm thành phố.

    Các đơn vị quân đội đồn trú trong các đền (như Bà Kiệu, Ngọc Sơn) hay chùa (như Báo Ân) cũng rút dần để chính quyền cải tạo hạ tầng quanh hồ và kiến thiết các thiết chế của thành phố như Toà thị chính, Nhà máy phát điện... Kể từ đó, hình thành quanh Hồ Gươm một sự phân ranh tự nhiên: khu bờ phía Bắc giáp với “36 phố phường” dành cho dân bản xứ; bờ phía Đông là các công sở của chính quyền thành phố; bờ phía Nam mở ra một không gian đô thị mới của thời thuộc địa, còn bờ phía Tây là không gian cho các sinh hoạt dịch vụ cho các tầng lớp trên, cả nguời Pháp và người Nam.

    Tấm ảnh cho thấy bờ bên kia kiến trúc chưa nhiều, bên cạnh những mái nhà kiểu bản địa, kiến trúc Âu-Á đã xuất hiện nối dài về phía phố Hàng Trống. Còn bờ bên này, hiển hiện một quán hàng mang tên “Café de Paris” và những toà kiến trúc nhỏ có lẽ làm nhà trọ hay câu lạc bộ dành cho người Âu, lại thêm một vườn dừa nho nhỏ trồng sát ven hồ. Sách báo cũ cho biết, các nhà báo, trong đó có cả người của các hãng tin quốc tế thường thuê trọ và tìm nơi làm việc bên Hồ, nơi có một toà báo khá nổi tiếng thời đó là tờ “L” Avenir du Tonkin” (Tương lai xứ Bắc Kỳ) toạ lạc tai bờ phía Tây, chính là nơi đặt trụ sở của tờ “Hà Nội Mới” ngày nay.
    Dương Trung Quốc
  7. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Điện Kính Thiên

    18/10/2009 11:57:21
    [​IMG]- Hoàng thành Thăng Long qua các triều đại có thể to nhỏ khác nhau, vòng thành có thể rộng hẹp khác nhau, nhưng trên trục hoàng đạo nối từ Cửa Bắc đến Cửa Nam có một địa điểm không khi nào thay đổi, đó chính là Điện Kính Thiên.



    Từ khi triều Nguyễn rời đô vào Huế, đã đổi cả tên lẫn đơn vị hành chính của Kinh thành Thăng Long ra Bắc Thành rồi tỉnh Hà Nội, thành quách bị phá đi xây gọn nhỏ lại. Không gian của Điện Kính Thiên xưa, nay được làm nền xây Hành Cung để mỗi lần Hoàng đế ngự giá Bắc Hà làm nơi Ngài ngự và tiếp kiến quần thần.

    Điện Kính Thiên đương nhiên không còn như xưa, duy nhất còn mấy đôi rồng đá rất đặc trưng của nghệ thuật tạo hình thời Lê là còn nguyên vẹn, trừ mấy đôi rồng nhỏ phía sau đã bị mất. Toà Hành Cung vẫn hiện diện khi quân Pháp mới chiếm thành nên ta mới có hình ảnh toà nhà xây trên nền Điện cũ khá hoành tráng. Ảnh này được chụp nhưng để in họ phải chuyển sang hình thức khắc đồng (iconographie) (ảnh 1). [​IMG]
    Ảnh 2: Công trình phòng thủ của đội quân chiếm đóng Nhưng rồi toà kiến trúc ấy cũng biến mất, thay bằng những bức tường dày xây gạch làm công trình phòng thủ của đội quân chiếm đóng khi chiến sự chưa chấm dứt (ảnh 2).
    [​IMG]
    Ảnh 1: Hình ảnh toà nhà xây trên nền Điện cũ khá hoành tráng Hình bóng những tên lính đánh thuê ngoại quốc lố nhố trên nền điện linh làm ta liên tưởng đến câu ca trong áng văn vần “Hà Thành thất thủ” nói lên cái nỗi nhục của một dân tộc bị mất nước :

    “Kính Thiên ngai ngự thiếp vàng
    Tây ngồi đánh chén với đoàn thanh lâu”

    Đến năm 1887, khi công cuộc bình định của người Pháp đã hoàn thành, trên nền điện cũ, thực dân xây một kiến trúc hoàn toàn Tây phương làm Đại bản doanh lực lượng Pháo binh thuộc địa (Direction d’ Artillerie)

    Sau ngày ta tiếp quản Thủ đô (1954), khu vực thành cũ trở thành doanh trại quân đội ta và Toà nhà trên Điện Kính Thiên được củng cố tầng hầm để trở thành “Tổng hành dinh” chỉ huy cuộc Kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

    Vì thế ngày nay, không gian này trở thành một di tích “kép” cho cả hai thời đại, Điện Kính Thiên của Hoàng thành Thăng Long xưa (đang được đệ trình UNESCO công nhận quần thể Hoàng thành là Di sản Văn hoá Thế giới) và Bộ Tổng chi huy Quân đội Nhân dân, di tích lịch sử quan trọng của Lịch sử hiện đại Việt Nam.

    • Dương Trung Quốc
  8. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Tết Trung thu Hà Nội qua ảnh xưa

    03/10/2009 08:59:55
    [​IMG]- Chùm ảnh này nằm trong một bộ sưu tập do Viện Viễn Đông Bác cổ của Pháp (École Francaise d’ Extrême - Orient) hiện lưu tại Thư viên Khoa học Xã hội. Đó là những tấm ảnh chụp về những sinh hoạt trong ngày Tết Trung thu cách đây chừng 70, 80 năm, những hình ảnh ở đầu thế kỷ XX khi đời sống đô thị đã hình thành tạo ra những nét sinh hoạt thời cận đại.


    Tết Trung Thu đối với trẻ nhỏ trước hết là những bánh trái đặc trưng bởi hai món chính là bành dẻo và bánh nướng mà tập trung nhất là trên các cửa hàng ở phố Hàng Đường (của người Việt) và Hàng Buồm (của Hoa kiều). Điều hấp dẫn đối với lũ trẻ là đứng nhìn những người thợ đóng bánh ngoài quầy tạo nên những âm thanh rộn ràng khi khuôn bánh gõ mạnh trên mặt bàn theo những nhịp điệu khoan nhặt rất đặc trưng trên đường phố.
    [​IMG]
    Trẻ con tò mò nhìn những người thợ làm bánh Trung thu. Sau bánh trái là những đồ chơi mà tiêu biểu nhất là các loại đèn được thắp sáng trong đêm Trung Thu khi đợi trăng lên hay rước rong ngoài phố. Những cửa hàng bán các loại đèn làm bằng nan lợp giấy bóng kính hình các con vật mà nhiều nhất là thỏ và cá.
    Ngoài ra còn các loại đèn ***g xếp bằng các loại giấy màu và cầu kỳ nhưng cũng gây hấp dẫn nhất là đèn kéo quân với rất nhiều tích truyện được thể hiện bằng những bóng hình xoay tròn nhờ sức nóng của những ngọn nến tạo ra những luồng khí đẩy những cái vòng quay tròn theo trục đèn. Các loại đèn này tập trung nhiều trên phố Hàng Mã những còn được bày bán ở Hàng Gai...
    [​IMG]
    Đèn ***g xếp bằng nhiều loại giấy màu sắc cầu kỳ
    [​IMG]
    Đèn kéo quân cũng thu hút trẻ con [​IMG]
    Ngắm nghía những cái đèn (hình con cua) được người lớn mua cho là cái thú âm ỉ đối với lũ trẻ trong những ngày chờ Trung Thu đến.
    [​IMG]
    Lại thêm “ông tiến sĩ giấy” gửi gắm lòng cầu mong của đấng sinh thành đối với con cái của mình lấy danh vị “tiến sĩ’ làm mơ ước. Có người bảo rằng cái ông tiến sĩ bằng giấy có bộ mặt non choẹt nhưng đáng yêu ấy chính là hình ảnh ông Trạng trẻ Nguyễn Hiền có thật trong lịch sử (!?) Chắc từ thời Tây sang mới có một loại đồ chơi mới vì nó làm bằng một thứ vật liệu được gọi là “sắt Tây”. Nó có thể cắt ra từ những tấm kim loại hoặc tận dụng các loại bao bì bằng sắt Tây như hộp sữa bò, thùng dầu hoả...
    Cái khéo léo của người thợ trên phố Hàng Thiếc với cái kéo cắt săt và những mỏ hàn bằng thiếc tạo ra những con giống đặt trên các bánh xe và nhờ những liên kết khéo léo của các tay đòn bằng giây thép cứng mà nó cử động được như con thỏ đánh trống hay con **** đập cánh.
    Rồi hợp với thời thượng là những chiếc ôtô, tàu bay bên cạnh cái xe kéo cũng mới có từ khi Tây sang. Xem kỹ ảnh thấy rất nhiều đồ chơi loại này, nào là Hai bà cưỡi voi, vinh quy bái tổ, con lân, con phượng , Tôn Ngộ Không và rất nhiều nhân vật làm hình nhân.
    [​IMG]
    Đồ chơi bằng thiếc từ ô tô xe kéo...
    [​IMG]
    Đến con lân, con phượng, Tôn Ngộ Không, Hai Bà cưỡi voi.... Nhưng có thể nói cái gây hứng thú nhất cho lũ trẻ là những chiếc tàu thuỷ làm bằng sắt Tây bên trong có cái phao dầu khi đốt cháy đẩy khí nóng thổi mạnh vào nước kêu “pành- pạch” đẩy con tàu về phía trước và trong những cái chậu tôn được lũ trẻ hình dung là biển cả. Hẳn là món đồ này có muộn hơn thời điểm chụp những tấm ảnh này (?).
    Còn những lũ trẻ năng động nhất thì thích ở ngoài đường với cái đầu sư tử bồi bằng giấy. Chúng hợp thành những đoàn có trống, xèng xèng và thế nào cũng có một chú phỗng múa may làm vui. Chúng múa chơi đôi khi đòi những cửa hàng nơi chúng đến múa phải treo giải...
    [​IMG]
    Múa lân vẫn là hoạt động được lũ trẻ yêu thích Cuối cùng là cái phút chờ đợi nhất, trong sự ấm cúng của gia đình xoay quanh nơi bày cỗ. Những món đồ ăn và đồ chơi được bày biện trong nhà hay ngoài trời phô bày sự chăm sóc của gia đình với con trẻ trong ngày Tết được chờ đợi nhất trong năm, lại vào lúc tiết trời đẹp nhất: gió mát trăng trong.
    [​IMG]
    Bàn cỗ Trung thu với nhiều bánh trái, hoa quả Chưa thật đầy đủ, nhưng những tấm ảnh này giúp bạn trẻ biết được cảnh xưa và người già có dịp hồi nhớ quá khứ và so sánh với Trung thu hôm nay.

    • Dương Trung Quốc
  9. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Nữ thần tự do hay "Bà đầm xòe" Hà Nội

    21/09/2009 00:39:18
    [​IMG]- Nhiều người nhìn tấm ảnh này đều dễ dàng nhận ra bức tượng “Nữ thần Tự do” đã quá quen thuộc, sừng sững ở cửa ngõ TP New York của Hoa Kỳ... Bức tượng trong ảnh này đúng là Tượng nữ thần Tự do, nhưng rõ ràng là nó nhỏ hơn, lại nằm trên một đường phố của Hà Nội.


    Với những người từng sống ở Hà Nội trước ngày Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945) thì vẫn có cơ hội trông thấy bức tượng này, được dựng tại Vườn hoa Neyret (nay là Cửa Nam) ngay đầu phố Hàng Bông và nhìn sang đường Cấm Chỉ.
    [​IMG]
    Tượng Công lý, thường được dân gian gọi là tượng Bà Đầm Xòe. Bức tượng này vốn là một phiên bản thu nhỏ của bức tượng Nữ thần Tự do bên Hoa Kỳ, hay nói đúng hơn, nó là phiên bản tượng mẫu của Bartholdi, sau đó được phóng to để làm bức tượng nước Pháp tặng cho Hoa Kỳ. Nó được đúc bằng đồng và cao chừng hơn 2 thước Tây. Chỉ có điều sang Việt Nam, nó lại mang tên là “Tượng Công lý” (Monument de la Justice) như lời chú trong tấm bưu ảnh.
    Còn dân gian thì quen miệng gọi là “Bà Đầm Xoè”, không biết vì cái tà váy hay vì những tia sáng toả ra trên đầu (?). Mới đây, ông Đại sứ Ai Cập tại Hà Nội cho biết rằng, bức tượng này thoạt đầu được sáng tác để đặt tại Kênh đào Suez mà lúc đó Pháp đang giữ nhiều lợi ích, vì vậy nguyên mẫu là một cô con gái Ai Cập (?!), về sau, mới chuyển ý định tặng cho Hoa Kỳ với biểu tượng: Tự do.

    Bức tượng này vốn được đưa sang nước ta để trưng bày nhân một cuộc đấu xảo tổ chức tại Tràng Thi năm 1887, sau đó nó được dựng tạm tại vườn hoa gần Toà thị chính thành phố (nay là Vườn hoa Lý Thái Tổ). Đến khi chính quyền thực dân quyết định đặt một bức tượng đồng tạc vị Toàn quyền dân sự đầu tiên của xứ Đông Dương là ông Paul Bert tại chính cái vườn hoa này, thì tượng "Bà Đầm Xòe" phải di chuyển đi nơi khác.

    Có tài liệu cho rằng đã có một thời, tượng này được “ngự” trên nóc của Tháp Rùa giữa Hồ Hoàn Kiếm. Claude Bourin, tác giả một pho biên niên những sự kiện văn hoá, nghệ thuật về Hà Nội cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, có nói đến chuyện này nên mới dẫn ra dư luận đăng trên báo phản đối cách xử sự như vậy mà đưa ra lập luận: “Liệu người ta có thể đặt tượng Trấn Võ lên nóc Nhà Thờ lớn được không !?”. Nhưng cũng nhiều người nghi ngờ, vì làm thế nào đặt được một pho tượng đồng nặng như vậy lên nóc một kiến trúc nhỏ (?!)

    Có lẽ vì thế mà “Bà Đầm Xoè” phải di chuyển ra khu vực Vườn hoa Cửa Nam, vốn là một không gian công cộng của Hà Nội. Xa xưa, nó chính là Quảng Văn Đình của thành xưa, nơi triều đình công bố những chỉ lệnh hay giấy tờ, tổ chức để các “câu kê” là những viên quan chuyên giảng tập “thập điều” thời vua Minh Mạng dạy cho dân chúng sống tử tế và biết tuân phục . Vì thế mà dân gian mới có câu ca để nói chuyện đổi thay:
    “Nhớ Quảng Văn Đình tớ đến nghe
    Câu kê chẳng thấy, thấy Đầm Xoè
    Thập điều bặt tiếng ê a giảng
    Choáng óc kèn Tây rúc tí toe”
    .

    Sau ngày Nhật Đảo chính Pháp (3-1945) tượng Bà Đầm Xoè cùng ông Paul Bert đều chung số phận như nhau: Bị hạ bệ rồi nấu chảy thành đồng để đúc thành pho tuợng Phật hiện thờ tại Chùa Ngũ Xã.

    • Dương Trung Quốc
  10. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Trường Bảo hộ

    27/08/2009 08:18:39

    [​IMG] - Từ đây đã sản sinh ra những tên tuổi như Dương Quảng Hàm, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Mạnh Tường, Hoàng Xuân Hãn, Tôn Thất Tùng, Tạ Quang Bửu, Võ Nguyên Giáp, Ngô Gia Tự, Phạm Văn Đồng...



    Lời chú trên góc tấm bưu ảnh mang mã số 3043 của Sưu tập Dieulefils dịch ra tiếng Việt là: “Xứ Bắc Kỳ - Hà Nội - Trường Bảo hộ gần Hồ Tây” chính là Trường Bưởi. Tên gọi rất phổ biến nhưng chưa bao giờ mang tinh chính thức ấy bắt nguồn từ mảnh đất mà ngôi trường đã tọa lạc trên một vùng đất cổ, vốn có cái tên nôm là “ Kẻ Bưởi” (thuộc làng Thuỵ Chương, đến thời Tự Đức đổi thành Thuỵ Khuê). [​IMG]
    Tấm bưu ảnh Trường Bảo hộ
    [​IMG]
    Trường Bảo Hộ nay được đổi tên thành trường Chu Văn An. Ảnh Huấn Cao Nó ra đời theo một quyết định của Toàn quyền Đông Dương Klobukovski ký ngày 9/12/1908, trên cơ sở sáp nhập các trường Thông ngôn, Nam sư phạm Hà Nội và Jules Ferry Nam Định, để trở thành trường trung học lớn nhất dành cho nam sinh ở Bắc Kỳ, bên cạnh Lycée Albert Sarraut dành cho người Pháp và tầng lớp trên.



    Cái tên chính thức “Trường trung học Bảo hộ” (Collègue du Protectorat) cho thấy mục tiêu của nền giáo dục đương thời nhằm đào tạo nhân lực cho chế độ thuộc địa, nhưng đấy cũng là nguồn đào tạo trí thức tân học của người Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ XX. Từ đây đã sản sinh ra những tên tuổi như Dương Quảng Hàm, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Mạnh Tường, Hoàng Xuân Hãn, Tôn Thất Tùng, Tạ Quang Bửu, Võ Nguyên Giáp, Ngô Gia Tự, Phạm Văn Đồng...

    Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, Khâm sai Bắc bộ Phan Kế Toại thời Chính phủ Trần Trọng Kim đã ra quyết định ngày 12/6/1945 đổi tên thành “Trường Chu Văn An” và được giữ cho đến ngày nay, tạo nên truyền thống của một ngôi trường bậc trung học danh tiếng nhất, có tuổi đời cao nhất của Hà Nội. Năm 2008, nhà trường đã long trọng kỷ niệm tròn 100 năm tuổi (1908-2008).

    Những bộ cánh cổ điển nhưng rất Việt Nam của cả thầy và trò đứng trước cổng trường, xen lẫn với bộ âu phục rất “thuộc địa” của một người Pháp, cùng với hàng rào còn sơ sài ấn định thời gian chụp bức ảnh này cách đây đã rất lâu. Toà nhà trong ảnh đến nay vẫn được giữ nguyên như một mẫu mực về kiến trúc trường sở. Người Pháp đã đầu tư vào ngôi trường này một cơ sở vật chất được coi là hoàn hảo.

    Đến nay, những tòa kiến trúc cũ về căn bản vẫn còn giữ được nguyên vẹn, tuy có được sửa sang lại. Nhiều lớp thày trò đã dạy và học tại đây, nhiều thế hệ đã đi qua, nhiều người đã khuất bóng. Chỉ còn những những cây xà cừ trong ảnh vẫn còn và đến nay đã to cao hơn nhiều. Chúng như những nhân chứng của thời gian, toả bóng râm mát cho các thế hệ tiếp nối nhau giữ vững truyền thống của một ngôi trường tiêu biểu bên bờ Hồ Tây của Thủ đô Hà Nội.
    • Dương Trung Quốc

Chia sẻ trang này