1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những Hình ảnh xưa về Đất Nước, Con Người, Văn Hoá Việt Nam (Updated ngày 19/6/2014)

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ruavang, 16/11/2002.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Cột đồng hồ

    27/08/2009 08:15:25
    [​IMG] - Hồi xưa, đồng hồ còn là vật dụng hiếm quý nên Hà Nội chỉ có dăm cái đồng hồ công cộng để báo giờ cho dân chúng. Tuy nhiên, chỉ duy nhất một cái đặt chơ vơ giữa khoảng không gian rộng, trên một cái cột gang, tựa như những cột đèn khá phổ biến đương thời.

    Khi đi trên cầu Chương Dương từ phía Gia Lâm về khu trung tâm phố cổ Hà Nội, bắt đầu vào đoạn cầu dẫn xoáy vòng tròn, bạn còn có thấy một chiếc đồng hồ đặt trên cột bằng gang nhưng 4 mặt vuông.
    [​IMG]
    Chiếc đồng hồ đặt trên cái cột gang tựa như những cột đèn khá phổ biến đương thời. [​IMG]
    Cột đồng hồ vẫn nằm ở cửa ngõ vào trung tâm Hà Nội Đương nhiên đồng hồ là để mọi người qua lại xem giờ, nhưng chiếc đồng hồ đặt ở chỗ đó dường như còn để lưu dấu rằng trước khi có cây cầu, tại không gian này từng có một cái đồng hồ cũng đặt trên một cái cột bằng gang, chỉ có điều như ta thấy trong ảnh, nó hình tròn. Nơi đó, ngày xưa mang địa danh “Cột Đồng Hồ”, dù không chính thức ghi trong bản đồ nhưng nói ra, người Hà Nội nào cũng biết.

    Hồi xưa, đồng hồ còn là vật dụng hiếm quý nên Hà Nội chỉ có dăm cái đồng hồ công cộng để báo giờ cho dân chúng: Một đặt trên nóc Hãng Godard (sau là Bách hoá Tổng hợp, nay là Hanoi Plaza), một nữa đặt trên nóc Hãng Anpo chuyên bán đồng hồ ở ngã năm Cửa Nam, đương nhiên còn phải kể đến cái đồng hồ gắn ở mặt tiền Nhà Thờ Lớn... Chỉ duy nhất có một cái đồng hồ đặt chơ vơ giữa một khoảng không gian rộng và trên một cái cột gang, tựa như những cột đèn khá phổ biến đương thời.

    Khi chưa có cầu Chương Dương, đây là một khoảng đất rộng kề bên một trục đường rất quan trọng của Hà Nội hồi mới thành hình một đô thị kiểu Âu Tây. Đó là con đường chạy dọc sông Hồng và điểm rẽ vào khu phố cũ của người bản xứ.

    Hồi đó, sông Hồng chưa có đê nên bên dòng sông là những bến tàu thuyền khá sầm uất , trong đó có bền tàu của Hãng Giang Hải Bạch Thái Công ty của ông Vua đường sông Bắc Kỳ Bạch Thái Bưởi. Và ngay kề bên cái cột đồng hồ về phía phố Hàng Tre bây giờ, chính là toà trụ sở của Hãng. Đồng hồ đặt ở đây chính là để phục vụ cho những khách lên bến xuống thuyền coi giờ cho khỏi lỡ chuyến. Vì vậy bao quanh còn có các bến xe ôtô hay các loại phương tiện thô sơ do người kéo.

    Từ sau vụ lụt năm 1925-1926, chính quyền khi đó mới đắp con đê chạy dọc sông và mở những cửa khẩu đi ra ngoài các bến bãi. Kể từ đó, quanh Cột Đồng Hồ không còn sầm uất nữa, dần trở nên hoang vắng. Cái địa danh “Cột Đồng Hồ” dần trở thành điểm hẹn của giới giang hồ, nơi diễn ra những vụ thanh toán nhau lẫn nhau. “Rủ nhau ra Cột Đồng Hồ” trở thành ...lời thách đấu.

    • Dương Trung Quốc
  2. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Indochine Saigon

    [​IMG] [​IMG]
    Souvenir de Saigon


    [​IMG] [​IMG]
    Souvenir de Saigon


    [​IMG] [​IMG]
    Souvenir de Saigon


    [​IMG] [​IMG]
    Lang ong



    [​IMG] [​IMG]
    lang ong - VIET-NAM - SAIGON


    [​IMG] [​IMG]
    Giadinh, Tombeau du Maréchal Le-Van-Duyet


    [​IMG] [​IMG]
    Saigon - lang Ta quan Le Van Duyet


    [​IMG] [​IMG]
    SAIGON - Tombeau du Maréchal Le-Van-Duyet



    [​IMG] [​IMG]
    bên trong Lăng Ông


    [​IMG] [​IMG]
    VIETNAM - MADAME A COTE DE L'HIBISCUS


    [​IMG] [​IMG]
    SAIGON 1950s - JEUNE FILLE DU VIETNAM


    [​IMG] [​IMG]
    Saigon 1950s - Jeunes filles Vietnamiennes



    [​IMG] [​IMG]
    LES DEUX SOEURS


    [​IMG] [​IMG]
    281_001


    [​IMG] [​IMG]
    SAIGON. - L'Hôtel des Postes


    [​IMG] [​IMG]
    buu dien



    [​IMG] [​IMG]
    Saigon Central Post Office


    [​IMG] [​IMG]
    Saigon - National Treasury


    [​IMG] [​IMG]
    Saigon Cathedral


    [​IMG] [​IMG]
    Saigon pousse pousse - xe kéo tay



    [​IMG] [​IMG]
    Saigon - Notre Dame Church


    [​IMG] [​IMG]
    Sud Vietnam - Saigon - Hôtel des Postes


    [​IMG] [​IMG]
    SAÏGON - Les Halles Centrales


    [​IMG] [​IMG]
    Marché Central à SAÏGON



    [​IMG] [​IMG]
    Sud Vietnam - Saïgon - La station de cyclos à moteur


    [​IMG] [​IMG]
    Bến xe thổ mộ truớc ga xe lửa Sài Gòn


    [​IMG] [​IMG]
    xe thổ mộ


    [​IMG] [​IMG]
    Day nha pho ben hong cho Ben Thanh



    [​IMG] [​IMG]
    Cho Ben Thanh


    [​IMG] [​IMG]
    Saigon - La policlinique


    [​IMG] [​IMG]
    SAÏGON - Halles Centrales


    [​IMG] [​IMG]
    Saigon - La Direction des C.F.I.



    [​IMG] [​IMG]
    Saigon - Les Halles Centrales vues du Boulevard Bonard


    [​IMG] [​IMG]
    Saïgon Nouveau Marche


    [​IMG] [​IMG]
    Saïgon - Nouveau Marché


    [​IMG] [​IMG]
    SAIGON - Marché



    [​IMG] [​IMG]
    SAIGON - Place du Marché


    [​IMG] [​IMG]
    VIETNAM - Saïgon - Place de Cuniac


    [​IMG] [​IMG]
    VIETNAM - Saïgon Tet


    [​IMG] [​IMG]
    Indochine Saïgon - Marchande de fleurs



    [​IMG] [​IMG]
    SAÏGON - Autobus Saïgon-Cholon


    [​IMG] [​IMG]
    SAIGON - STATION DE CYCLO-POUSSES


    [​IMG] [​IMG]
    saigon - station de cyclomoteur


    [​IMG] [​IMG]
    Souvenir de Saigon



    [​IMG] [​IMG]
    Saïgon - Eglise de Tan Dinh


    [​IMG] [​IMG]
    SAÏGON - Habitations flotantes devant la Chambre de Commerce


    [​IMG] [​IMG]
    Saïgon vue générale du port


    [​IMG] [​IMG]
    Cầu 3 Cẳng trong Chợ Lớn, gần phía sau chợ Kim Biên



    [​IMG] [​IMG]
    sud vietnam - le sampan sur une rivière


    [​IMG] [​IMG]
    Saigon river


    [​IMG] [​IMG]
    ENVIRON DE SAIGON - UNE PETITE RIVIERE


    [​IMG] [​IMG]
    ENVIRON DE SAIGON - SECHAGE DES FILETS DE PECHE



    [​IMG] [​IMG]
    Environs de Saïgon - Coin des Pêcheurs


    [​IMG] [​IMG]
    Indochine - Confluent de l'Arroyo Chinois et de la Rivière de Saïgon


    [​IMG] [​IMG]
    SAIGON - Pont de TAN-THUAN


    [​IMG] [​IMG]
    SAIGON - L´ARROYO CHINOIS ET LE PONT TOURNANT
  3. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
  4. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Có chuyện thực dân Pháp đào lăng các vua Nguyễn không?

    Từ thập niên hai mươi của thế kỷ XX, trong dân gian Huế đã lưu truyền câu nói:“Đày vua không Khả, đào mả không Bài”. Người ta giải thích: Khi thực dân Pháp có chủ trương đày vua Thành Thái (1907), ông Ngô Đình Khả không đồng ý, khi Khâm sứ Pháp Mahé đào lăng vua Tự Đức (1913), ông Thượng thư Nguyễn Hữu Bài phản đối.
    Đó là truyện dân gian.
    Qua tư liệu lịch sử thì hai chuyện ấy thực hư thế nào?
    Ở đây nói riêng về chuyện khâm sứ Pháp đào lăng vua Tự Đức.
    [​IMG]Lăng vua Tự Đức
    Để chuẩn bị kháng chiến, hồi mùa hè năm 1885, trước khi ra Tân Sở, triều đình Huế đã chon một số vàng bạc trong Đại nội. Sau này khi chiếm được Hoàng thành Huế, bọn thực dân Pháp đã đào bới được một số của cải quý. Mahé vốn là một tên thực dân tham lam, khi được cử làm khâm sứ Huế, y đã sai thuộc hạ là De La Suisse – Hộ lý bộ Lại và bộ Học – lập kế hoạch đào lăng vua Tự Đức để tìm vàng.
    [​IMG]Phủ phụ chánh triều vua Duy Tân. Từ trái sang phải: Tôn Thất Hân (thượng thư bộ hình), Nguyễn Hữu Bài (thượng thư bộ lại), Huỳnh Côn (thượng thư bộ lễ), Hoàng thân Miên Lịch, Lê Trinh (thượng thư bộ công), Cao Xuân Dục (thượng thư bộ học)
    Việc đào lăng tìm vàng liên quan đến tài sản nên hắn đã phải bàn với Thượng thư bộ Công Nguyễn Hữu Bài, ông Bài phản đối. Ngày 17/01/1913, De La Suisse lừa đưa Thượng thư bộ Lễ Huỳnh Côn lên lăng vua Tự Đức và buộc ông Côn phải chỉ huy đào lăng tìm vàng. Ông Côn bị bắt bí đành phải nhúng tay vào việc vi phạm đạo đức ấy.
    Quân của De La Suisse ra sức đào ba ngày nhưng không có kết quả đành bỏ cuộc[1]. Ngày 4/2/1913, nhân khi vào Huế họp hội đồng Chính phủ, Albert Saraut nghe có chuyện đào lăng vua Tự Đức, Saraut hỏi, lúc đó Mahé mới báo cáo và cho biết chưa có gì. Ba ngày sau, 7/2/1913, Saraut ra lệnh cho Mahe phải lập tức dừng ngay việc tìm vàng và tu sửa lại Khiêm lăng. Nhưng vì đang dịp nghỉ Tết Quý Sửu (1913), các đại thần Việt Nam hứa ra đầu tháng Giêng sẽ lấp lại các hố đào. Sự chậm trễ ấy đã giúp cho báo chí có dịp tiếp cận.
    Hạ tuần tháng 12/1913, báo Le Courrier d’Haiphong công khai chỉ trích việc làm của Mahe. Toàn quyền, A.Sarraut và các quan lại triều đình Huế nhận được nhiều thư trách móc, nguyền rủa. Việt Nam quang phục quân nhân dịp đó, “mượn tạc đạn” để bày tỏ sự bất mãn của mình. Toàn quyền A.Sarraut lại yêu cầu Mahé báo cáo việc tu sửa lăng Tự Đức nhưng cho đến lúc đó vẫn chưa hoàn tất[2].
    Tin lăng vua Tự Đức bị đào bay sang Châu Âu. Cụ phó bảng Phan Châu Trinh nghe tin rất phẫn nộ. Ngày 2/4/1913, nhân dịp ông Roux được thăng cấp thiếu tá, cụ Phan gửi cho Roux một lá thư dài bày tỏ sự bất mãn về việc đào mả Tự Đức và phản đối chính sách cai trị của thực dân Pháp ở Đông Dương.
    Vua Duy Tân hết sức giận dữ chê trách nặng nề các Thượng thư dưới quyền. Hai cụ Trần Cao Vân và Thái Phiên đã nắm lấy sự phẫn nộ của vua Duy Tân tìm cách liên lạc với nhà vua, mời nhà vua làm minh chủ cho cuộc khởi nghĩa chống Pháp hồi tháng 5/1916. Vua Duy Tân đã đồng ý. Cuộc khởi nghĩa chống Pháp năm 1916 đã diễn ra nhưng tiếc thay nó đã bị thất bại ngay sau khi vua Duy Tân vừa rời khỏi Hoàng Cung.
    Theo Nguyễn Đắc Xuân (ST)
  5. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Saigon – Đường Catinat
    đầu thế kỷ 20 – Phần 1



    Nguyễn Đức Hiệp



    Bài biên khảo này có mục đích trình bày cảnh quan, kiến trúc, sinh hoạt thương mại trên con đường Catinat trong bối cảnh đời sống chính trị, văn hóa của thành phố Saigon vào đầu thế kỷ 20. Phân tích các nét văn hóa, kinh tế đặc thù của một con đường trong một địa phương cho ta một cái nhìn vi mô, liên quan đến các cá thể địa phương, ít nhiều không được biết đến trong bối cảnh tổng quan của một nước. Tuy vậy, mặc dầu chỉ là một “tiểu tự sự” (petit recit) nhưng nó sẽ cho ta thấy sự đậm chất của môi trường văn hóa qua đấy con người hay quá trình lịch sử ít nhiều bị ảnh hưởng.
    Đường Đồng Khởi thời Pháp thuộc được gọi là rue Catinat (1), tức đường Tự Do trong thời Việt Nam Cộng Hòa và sau 1975 là đường Đồng Khởi. Con đường này là con đường xưa nhất và nổi tiếng nhất Saigon. Đây là một trong những con đường được thiết lập đầu tiên khi Pháp qui hoạch lại thành phố sau khi chiếm được và phá thành Saigon. Còn được gọi là “Rue no. 16” lúc ban đầu cho đến khi là con đường được tráng nhựa đầu tiên, đường Catinat nhanh chóng trở thành trung tâm sinh hoạt thương mại của thành phố.
    Sau các công trình xây dựng các cơ sở hạ tầng (đường xá, xe lửa), các kiến trúc công sở, cơ quan hành chánh và thương mại được thống đốc dân sự Le Myre de Vilers (1879-1883) năng động khởi công hay thúc đẩy hoàn thành thì thành phố Saigon cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 sau hơn 35 năm bị Pháp chiếm đã trở thành một thành phố có cảnh quan qui hoạch và kiến trúc với nét chính ở trung tâm giống như một thành phố Âu châu.
    Đầu thập niên 1910, xe hơi bắt đầu phổ biến ở thành phố Saigon và dịch vụ du lịch về các cảnh quan địa điểm, đời sống, sinh hoạt xã hội ở Saigon và Nam Kỳ được biết đến và giới thiệu qua các ảnh “cartes postales” từ những người Âu viếng hay ở Saigon gởi cho bạn bè, thân nhân ở các nước. Kỹ thuật nhiếp ảnh cũng tiến triển nhanh, và bắt đầu phổ biến rộng rãi và từ đó nhiều người đã sống được với nghề nhiếp ảnh hay trở thành nhiếp ảnh gia. Các du khách từ Âu châu và Viễn đông đã có cảm nhận chung Saigon là “Perle de l’Orient” đối với người Pháp hay “Paris of the East” đối với các du khách từ các nước hay thuộc địa nói tiếng Anh trong vùng Viễn Đông.
    Trong số các nhà nhiếp ảnh sống với nghề mới này ở Saigon có rất nhiều người Việt. Họ có cửa tiệm ở nhiều nơi trong thành phố, nhưng hiện nay hầu như tất cả các hình ảnh của họ không tìm lại được hay đã bị mất. Chỉ có một số các hình ảnh của các nhà nhiếp ảnh Pháp sống ở Saigon ở đầu thế kỷ 20 là còn để lại hay tìm lại được mà đa số là các ảnh “cartes postales” đã được các các cơ sở hay nhà kinh doanh in lại để bán cho các du khách hay người dân ở Saigon có nhu cầu gởi cho bạn bè hay người thân ở nước ngoài.
    Đầu thế kỷ 20 cũng là thời điểm mà người Việt bắt đầu thay đổi qua sự đối diện chạm trán với một nền văn hóa mới xa lạ và một tư duy phát triển xã hội, kinh tế và chính trị hoàn toàn khác trong một môi trường họ sinh sống đã hơn 35 năm từ khi người Pháp hiện diện ở Nam kỳ. Phong trào Minh Tân, do Trần Chánh Chiếu phát động, cổ vũ canh tân đất nước con người qua sự phát triển kinh tế, công nghệ. Qua báo “Nông Cổ Mín Đàm” (và sau này “Lục Tỉnh Tân Văn”), các nhà canh tân khuyến khích người nước Nam tham gia (“biển cải Nam nhân”) mở các cơ sở thương mại, sản xuất để cạnh tranh ở khắp Saigon và Lục tỉnh với người Pháp, Hoa và Ấn. Người Pháp, Hoa và Ấn lúc đó đang hầu như thống lĩnh hoàn toàn các hoạt động kinh tế ở Nam Kỳ.
    Trung tâm Saigon trên đường Catinat và các đường chung quanh từ năm 1904 đã bắt đầu xuất hiện các cửa hàng thương mại kinh doanh của người Việt như cửa hàng nhiếp ảnh của Jean-Pierre Trọng, nhà in của Nguyễn Văn Toán (Đinh Thái Sơn hay Phát Toán), nhà in Lê Phát Tân, cửa hàng bán xe đạp, làm bánh mì của nhà nhiếp ảnh Lê Văn Ba … Trong số các cửa hàng này có một số tham gia trong phong trào Minh Tân như cơ sở thương mại của Nguyễn An Khương, Trần Chánh Chiếu. Cho đến thập niên 1920 ngay cả sau khi phong trào Minh Tân tan rã (Trần Chánh Chiếu bị bắt và quản thúc năm 1908) thì rất nhiều cơ sở thương mại và dịch vụ của người Việt đã xuất hiện gia nhập tân trào ở khắp nơi (2).
    Bài này trình bày sinh hoạt xã hội, kinh tế ở đường Catinat (Đồng Khởi) Saigon đầu thế kỷ 20 qua các hình ảnh, hồi ký của các du khách và các tư liệu địa lý kinh tế đã được ghi lại khá đầy đủ và chi tiết trong Niên giám Đông Dương trong thập niên 1910 và 1920. Qua đó ta sẽ thấy sự thay đổi cảnh quan, kiến trúc, thiết kế đô thị từ đầu thế kỷ 20 đến ngày nay một phần lớn là nhờ những hình ảnh mà các nhà nhiếp ảnh ở Saigon đã chụp trong giai đoạn cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 đã để lại. Sở dĩ đường Catinat được chọn là tiêu biểu của đề tài này vì số lượng các hình ảnh chụp từ đầu thế kỷ 20 về đường Catinat là còn lại nhiều nhất so với các đường khác ở Saigon. Rất nhiều ảnh chụp trước kia đã được các nhà kinh doanh in ra làm “cartes postales” và vì thế chúng không bị mất hay thất lạc nhiều (3).
    Đặc biệt Niên giám Đông Dương trong Thư viện quốc gia Pháp (Bibliotheque National de France, BNF) từ năm 1905 đến 1912 đã có ghi đầy đủ tên và địa chỉ của các cơ sở kinh doanh, chủ hay người ở tại mỗi nhà trên các con đường ở Saigon. Sau đó từ năm 1914 trở đi thì Niên giám chỉ còn ghi lại, theo thứ tự chữ cái, các cơ sở kinh doanh, kỹ nghệ hay các doanh nhân mà thôi, không cho ta biết đầy đủ và chi tiết như các niên giám trước. Các tư liệu này đã được số hóa (digitized) trên mạng BNF và vì thế giúp cho người nghiên cứu tra khảo được dễ dàng các dữ liệu mà họ cần, qua sự tìm kiếm các từ chính (keywords).
    Ngoài những bức ảnh có ghi thời gian chụp, làm sao chúng ta có thể ước đoán được thời điểm các bức ảnh được chụp và vị trí của các tòa nhà hay cảnh quan trong hình để đặt chúng vào đúng chỗ trên con đường?. Để trả lời câu hỏi này, ta có thể dùng một số chi tiết biết được như sau.

    1. Nếu biết được tác giả bức ảnh hay nằm trong bộ sưu tập của họ hay các nhà kinh doanh “cartes postales” và theo các dấu ấn bưu điện ta có thể ước định khoảng thời gian ảnh được chụp.
    2. Dấu ấn của cảnh quan thí dụ như xe hơi chỉ có ở Saigon sau năm 1910, nếu chỉ có xe kéo thì bức ảnh chắc là trước 1910. Tòa nhà trong hình không có hay chỉ được xây sau này ở một thời điểm đã biết, sẽ giúp ta ước định thời điểm của bức ảnh. Vị thế của đường, các giao điểm (ngã ba, ngã tư) và các tòa nhà so với bản đồ, tên đường cũng là những mốc mà ta có thể phỏng đoán thời gian (thí dụ, bến Bạch Đằng có nhiều tên như “quai du Donnai”, “quai Napoleon”, “quai du Commerce” (từ 1870), “quai Francis Garnier” (từ 1896), “quai Le Myre de Vilers” (từ 1920), tùy thời điểm khi tên bến được đổi) (4).
    3. Ký hiệu của vật hay bảng hiệu các cửa tiệm nếu có sẽ được kiểm trong niên giám Đông Dương ở các năm phù hợp.
    4. Những chi tiết khác như chất lượng của ảnh, màu sắc, kỹ thuật, series ảnh cũng giúp ta xác định được tác giả hay khoảng thời gian của kỹ thuật chụp và rửa ảnh.
    Vì đặt trở lại thời gian đầu thế kỷ 20, nên bắt đầu từ đây trong bài này, tên gọi các con đường được đề cập đến sẽ được dùng như lúc đã được dùng trong thời điểm đó với chú thích tên tương đương với tên đường được dùng hiện nay..

    Đường Catinat (Đồng Khởi) – sinh hoạt kinh tế xã hội đầu thế kỷ 20


    Trong suốt thế kỷ 18 đến gần cuối thế kỷ 19, trung tâm buôn bán thương mại ở Saigon là dọc kinh Chợ Vải, tụ tập chung quanh chợ (vị trí chợ Cũ ngày nay) ở gần góc kinh và sông Saigon. Kinh Chợ Vải chảy từ sông Saigon từ đầu đường Nguyễn Huệ ngày nay đến tận cửa thành Saigon cũ (cửa Căn Nguyên hay Gia Định Môn của thành Quy hay thành Phiên An dưới thời Gia Long) (4) mà vị trí hiện nay là Ủy ban Nhân dân Thành phố.
    Đến thời Pháp thuộc từ năm 1861, trước khi kinh Chợ Vải (Kinh Lớn) bị lấp vào năm 1889 (khởi công lấp năm 1887), gộp chung hai đuờng Charner và Rigault de Genouilly ở hai bên bờ kinh thành Đại lộ Charner (Nguyễn Huệ ngày nay), thì đường Catinat và Route National (sau 1901 là đường Paul Blanchy, và Hai Bà Trưng ngày nay) là hai đường chính của thành phố Saigon. Nơi đây tập trung nhiều cơ sở kinh doanh Pháp, Hoa, Ấn và Việt với các dịch vụ cao cấp mà người dân (chủ yếu là người Pháp) đòi hỏi như ngân hàng, in sách, thuốc tây, máy móc (như máy đánh chữ Remington, Underwood), máy ảnh, rượu, dụng cụ âm nhạc, nữ trang, súng đạn săn bắn hay các đồ nhập từ nước ngoài.
    Đối với đa số người dân thường thì khu vực Chợ Cũ, nơi ghe tàu chở hàng hóa và những sản phẩm như gạo, cá, trái cây, vải... cập bến hai bên bờ các kênh, rạch, là nơi họ cần nhất. Đây cũng là nơi mà người Pháp, các cơ quan chính quyền, trại lính, tu viện… đến để mua thức ăn trong cuộc sống thường ngày.
    Chợ Cũ nằm giữa kênh Chợ Vải và rạch Cầu Sấu (đường Hàm Nghi ngày nay). Theo bản đồ “Plan du Port de Saigon (1863)” vẽ theo lệnh của đề đốc de La Grandière (4) thì kênh Chợ Vải chảy từ sông Saigon, mà hai bờ kênh là đường Charner và đường Rigault de Genouilly, lên đến đường Bonnard (Lê Lợi) và đường d’Espagne (Lê Thánh Tôn). Khi đến đường Bonnard, kênh rẽ ra bên phải đến tận khu vực mà sau này là nhà hát thành phố và bên trái đến đường Pellerin (Pasteur). Khúc kênh trên đường Bonnard còn gọi là kênh Coffyn (do Đại tá Coffyn thực hiện đào kênh). Khi kênh chảy đến đường Pellerin thì nó bắt đầu quay ngược lại đổ ra rạch Bến Nghé, để đi vào kênh Tàu Hủ vào Chợ Lớn. Và trước khi đổ ra rạch Bến Nghé, nó cũng rẽ trái thành một nhánh nối với rạch Cầu Sấu để đi ra lại cửa rạch Cầu Sấu và kênh Chợ Vải ở sông Saigon. Ta có thể dễ dàng nhận thấy vị trí Chợ Cũ là nằm ở trung tâm vận chuyển đường thủy qua kinh rạch ở thế kỷ 19. Vì thế khu vực Chợ Cũ và khu vực chung quanh là nơi tập trung nhiều nhất các cơ sở buôn bán của người Hoa, Việt và Ấn ở trung tâm thành phố Saigon.
    Cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, nhất là bắt đầu từ thập niên 1910, là lúc vai trò vận tải của đường thủy dần nhường chỗ cho hệ thống vận chuyển đường bộ và đường sắt. Các kinh rạch trong thành phố bị lấp dần để trở thành các lộ xá như kênh Coffyn trở thành đại lộ Bonnard, rạch Cầu Sấu thành đại lộ “Boulevard de la Somme” (Hàm Nghi), Kinh Lớn (Chợ Vải) thành đại lộ Charner. Vai trò thương mại của Chợ Cũ gần sông Saigon trong nền kinh tế giảm sút lần, cho đến khi Chợ Mới (5) (chợ Bến Thành ngày nay) được thành lập năm 1914 gần bến xe và nhà ga xe lửa nối với Chợ Lớn và các tỉnh miền Tây thì Chợ Cũ hầu như hoàn toàn không còn được nhắc đến. Cũng vậy sau khi kênh Chợ Vải bị lấp thì đại lộ Charner trở thành đường lớn song song với đường Catinat ở Saigon. Vị trí thương mại của đường Catinat tuy có yếu đi, nhưng nó vẫn còn được coi là trung tâm kinh tế và văn hóa ở Saigon.
    Theo ông Jottrand, cố vấn người Pháp về luật pháp cho vua Siam (Thái Lan), khi viếng Saigon đầu thập niên 1900 nhận xét là Saigon và toàn Đông Dương có thương mại và kỹ nghệ yếu kém so với các nước và thành phố trong vùng là vì thuế nhập khẩu hàng hàng nước ngoài quá cao, không khuyến khích được sự cạnh tranh và phát triển (16).
    Theo ông Jottrand đó là hệ quả của chính sách của những người có “tinh thần nhỏ bé” (petit esprit), bị áp lực của các thiểu số giàu có, của các nhà buôn, nhà sản xuất vải bông ở Elbeuf, hàng lụa của Lyon bảo vệ quyền lợi và thị trường của họ bằng hàng rào quan thuế cao. Mà dầu được đã bảo vệ như vậy họ cũng không cạnh tranh lại được với các sản phẩm của người Đức và các nước khác. Về thương mại, trong số khoảng 2500 người Pháp ở Saigon thì khoảng 2000 người là công chức và gia đình họ, chỉ có khoảng 150 nhà thương mại mà trong đó đa số phục vụ cho các công chức trên. Trừ thành phố Chợ Lớn, thì kỹ nghệ, thương mại rất yếu không so sánh được với các thành phố trong vùng.
    Đó là tình hình chung của thành phố Saigon đầu thế kỷ 20. Trở lại chuyện nhỏ, “tiểu tự sự” (“petit recit”), về con đường Catinat. Bắt đầu từ bến Bạch Đằng (“quai Francis Garnier”), chúng ta thử trở lại thời gian ở thập niên 1900 đầu thế kỷ 20, cách đây khoảng 100 năm và đi dạo từ đầu đường cho đến cuối đường chấm dứt ngay quảng trường Nhà thờ Đức Bà để quan sát hoạt động thương mại và đời sống của người xưa ở con đường nổi tiếng này của thành phố Saigon.
    Từ đầu đường ở bờ sông lên đến cuối đường có dốc lên thoai thoải đến Nhà thờ Đức bà (xưa kia vị trí này là trung tâm của thành Phiên An, tức thành Quy, thời vua Gia Long) là điểm cuối không còn dốc, từ đó ta sẽ nhìn lại con đường Catinat này.


    [​IMG]

    Hình 1: Hình này là của nhà nhiếp ảnh Ludovic Crespin (có cửa tiệm “Photo Studio” ở số 136 đường Catinat). Bên trái là khách sạn “La Rotonde” (trên lầu là văn phòng của công ty tàu biển “Chargeurs Reunis” mà Nguyễn Tất Thành đến xin làm phụ bếp tàu đi qua Pháp). Theo Niên giám Đông Dương năm 1910 thì văn phòng Chargeurs Reunis là do ông Saravane quản lý. Bên trái hình là hai tiệm đổi tiền của ba người Ấn (mà người Pháp gọi là “malabar”), số 1 đường Catinat của ông Mougamadou Abdoullah (1909), ông Mougamadou Oussaine (1910) và số 1bis của ông Mougamade Abdoullah (3) (theo niên giám Đông Dương 1909, 1910). Cho đến 1912 số 1 vẫn là nơi đổi tiền của người Ấn. Hình này có lẽ chụp vào khoảng cuối thập niên 1910 và đầu 1920.


    [​IMG]

    Hình 2: Đường Catinat và các con đường chung quanh. Mũi tên chỉ các ảnh trong bài này được các nhà nhiếp ảnh cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 chụp theo hướng chỉ của mũi tên trong hình.


    [​IMG]

    Hình 3: Cũng vị trí đầu đường Catinat, bên trái là Khách sạn “Hôtel d’Annam” (Nam Việt khách lầu) của ông Huỳnh Huệ Ký. Hình chụp vào khoảng giữa hay cuối thập niên 1920. Theo quảng cáo trên báo “L’Ère nouvelle” tháng 9/1926 thì ông Ký có 2 khách sạn “Nam Việt khách lầu”, một ở số 72-80 đường Kinh Lấp (Charner) và khách sạn thứ hai ở số 15 đường Carabelli. Niên giám Đông Dương (1908, 1909, 1910, 1912, 1914, 1915, 1924, 1925) không thấy ghi địa chỉ này ở góc Catinat và “quai le Myre de Vilers” (năm 1920 đổi tên “quai Francis Garnier” thành “quai Le Myre de Vilers”).


    Trong trang quảng cáo trên báo “l’Ère Nouvelle” (Premiere année, numéro 4, Samedi 28 Aout 1926, trụ sở 112 rue d’Espagne) có đăng như sau về “Nam Việt khách lầu” (trích nguyên văn, chính tả giữ nguyên như in trong báo)
    “Hotel d’Annam Nam Việt Khách lầu, Đường Kinh-lấp Bd. Charner No 72 à 80 và đường Carabelli No. 15 Saigon
    Kính cùng quí khách rỏ, tôi dọn phòng rộng mát và sạch sẻ, lại cũng có phòng ở dưới đất, được cận tiện cho quí khách. Xin quí khách có đi Saigon thì đến tiệm tôi mà ở lấy làm thong thả lắm. Huỳnh Huệ Ký, Cẩm khái
    Từ đầu đường bắt đầu bên phải là số chẵn và bên trái là số lẻ Đi vào đường Catina phía tay phải, sau “Hôtel de la Rotonde” (số 2 Catinat) là văn phòng công ty “Denis Frères” ở số 4 Catinat. Công ty này đã hiện diện từ lâu đời ở Nam Kỳ, từ những năm của thập niên 1880 khi Pháp bắt đầu củng cố các tỉnh Nam Kỳ vừa chiếm được. Trụ sở công ty “Denis Frères” chiếm nguyên góc đường Catinat và đường Vannier (6) (số 4 Catinat và 5 rue Vannier).
    Công ty “Denis Frères” chuyên xuất nhập khẩu rượu, bảo hiểm tàu biển, đại lý cho nhiều công ty nước ngoài, và là đại diện lãnh sự cho hai nước Đan Mạch và Siam (Thái Lan) từ những năm 1880 cho đến thập niên 1920. Từ đây và bên kia đường đi lên là các cửa tiệm may, tiệm vải, sửa giày, nữ trang, tạp hóa của người Hoa, Ấn và Việt, đa số là của người Hoa.

    [​IMG]
    Hình 4: Đây là tòa nhà ngay góc đường Catinat và Vannier (bên kia đường Vannier là trụ sở công ty Dennis Frères, số 4 Catinat). Theo niên giám 1907, 1908, 1909 thì số 6 Catinat là tiệm bán café của ông Lương Trung, số 8 là tiệm may (tailleur) “Lương Tich” (trước cửa là 1 người đang đứng cầm dù), số 10 tiệm may “Dương Kim”, số 12 tiệm sửa giày (cordonnier) “Thai Thieu”, số 14 tiệm may-sửa giày “Ly Nhu”, số 16 tiệm may “Tran-On” (trước cửa là các người Hoa đang đứng ở giữa hình) và số 18 tiệm may “Lương-Can”. Kế bên tòa nhà này, phía trái hình là tiệm thuốc tây, số 20-22 Catinat, của ông Holbé. Trong Niên giám 1910 thì tiệm may “Lương Tich” không còn, do đó ta có thể kết luận là bức hình này chụp năm 1909 hay trước đó. Niên giám 1906 cho biết số 6 là tiệm may và tiệm sửa giày “Ngo-Thoai” và số 12 là tiệm may “Ly-Nhu”. Trong hình, tiệm số 12 có bảng hiệu (chữ mờ đọc không rõ nhưng có lẽ là Thai-Thieu). Như vậy là hình được chụp vào khoảng 1907-1909. Tiệm “café Luong-Trung” sau này là tiệm “café Alger” (số 6 Catinat)


    Tại ngã tư đầu tiên của đường Catinat, ngã tư Catinat và rue Vannier (ngày nay là đường Ngô Đức Kế), khi đi qua bên kia đường ta sẽ thấy các cửa tiệm may, sửa giày của người Hoa và Việt từ số 8 đến 16 rue Catinat (xem hình 4). Như đã nói trên, các cửa tiệm của người Hoa rất nhiều trên đường Vannier từ đại lộ Charner (Nguyễn Huệ ngày nay) cho đến quảng trường Rigault de Genouilly (quảng trường Mê Linh ngày nay).
    Tại ðây từ số 8 ðến 16 Catinat, góc đường Catinat và đường Vannier sau này, vào nãm 1930, Henry Edouard Charigny de Lachevrotière, mở một quán rượu, và năm 1932 ông Patrice Luciani kế vị. Nãm 1937 trở thành khách sạn “Saigon Palace” với quán rượu ở dưới. Một khách sạn thanh lịch ở Saigon và ngày nay là khách sạn “Grand Hotel”. Ông Lachevrotière sau này là chủ bút tờ “La Dépêche”. Ông là một người bảo thủ, đứng về phía quyền lợi Pháp chống lại sự thăng tiến độc lập của người Việt. Ông đã từng bút chiến với các nhân sĩ trên báo chí ở Saigon.
    Cũng trên đường Catinat phía bên kia, gần bến Bạch Đằng là các nhà in và tiệm bán sách “Imprimerie Librairie Saigonnaise” (15-17-19 rue Catinat, directeur Pointillon), “Imprimerie Nam-Tay” (51 và 53 rue Catinat). Trước nhà in Nam-Tay, ở số 35-41 rue Catinat là nhà in “Imprimerie Saigonnaise” của ông Lê Phát Tân (niên giám 1909), số 39-41 “Imprimerie Saigonnaise” của L. Roger (niên giám 1910) và số 29 “Imprimerie-reliure” của Ki-Cheong (có lẽ là người Hoa từ Singapore hay Malacca).
    Địa chỉ 29-31 sau này là trụ sở của công ty “Société Cochinchinoise d’ importation et d’exportation “Thuan-Hoa”” (niên giám 1922) do ông Nguyễn Phú Khai quản lý. Ông Nguyễn Phú Khai là chủ bút tờ báo “Tribune Indigene” (Diễn đàn bản xứ). Trước kia ông tốt nghiệp kỹ sư ở Pháp và mở nhà máy xay lúa ở Mỹ Tho cạnh tranh với người Hoa. Ông Khai chủ trương Việt Nam phải canh tân, tiến bộ, thoát khỏi nghèo khó, có sức mạnh về kinh tế. Ông Khai có tư tưởng cũng giống như ông Phan Chu Trinh, đấu tranh chống Pháp ôn hòa đem lại quyền lợi cho người bản xứ, vận động để Việt nam được quy chế lập hiến. Ông Nguyễn Phú Khai và các ông Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long,.. sau này lập ra đảng chính trị đầu tiên ở Nam Kỳ vào năm 1923, Đảng Lập Hiến (Parti Constitutionaliste).
    Đường Catinat gần phía bến Bạch Đằng vẫn còn nhiều cửa tiệm người Hoa. Cửa tiệm người Hoa nhiều hơn các cửa tiệm kinh doanh của người Pháp và Ấn.

    [​IMG]

    Hình 5: Các thương gia người Hoa ở đường Catinat (Collection Poujade de Ladevèze)


    Ta hãy xem niên giám Đông Dương 1908, trên đường Catinat có rất nhiều tiệm của người Hoa (phụ lục 1). Trong số 143 địa chỉ thì 43 là cơ sở doanh nghiệp người Hoa, chiếm 30% số lượng các cơ sở trên đường Catinat. Và rất nhiều các tiệm Hoa kiều chung quanh đường Catinat, ở trên các đường rue Turc, Vannier, d’Ormay trải dài từ công trường Rigault de Genouilly (công trường Mê Linh ngày nay) đến đại lộ Charner, rue d’Adran (Hồ Tùng Mậu ngày nay) và khu vực Chợ Cũ.
    Bà Louise Bourbonnaud (7), trong quyển sách về chuyến đi Ấn Độ và Viễn đông của minh (1889), có ghé Saigon ở một thời gian trong khách sạn “Hotel de l’Univers” gần đường Catinat, bà đã mua đồ ở các tiệm người Hoa và có tả một số tiệm người Hoa như sau (17):
    Ở bên kia đường, có tiệm may và tiệm sửa giày của người Hoa, ngoài ra còn có tiệm giặt (blanchisserie). Những người Hoa này làm việc siêng năng đáng ngạc nhiên. Người thợ may có máy may và may từ sáng đến nửa đêm không ngừng. Tôi không còn ngạc nhiên nữa khi nghe nói là những thợ thủ công và các nhà thương mại nhỏ người Âu sẽ không bao giờ biết cách cạnh tranh được với các người Hoa cùng nghề.
    Người ta biết rằng trong hơn một thành phố lớn ở Mỹ, chính những người “da vàng” (“hommes jaunes”) là chiếm độc quyền nghề giặt ủi. Ở đây cũng như vậy”
    Người Ấn có một số cửa hàng tạp hóa và đổi tiền trên đường Catinat (xem phụ lục 2), rue d’Ormay và nhiều cửa hàng (escompteurs) quanh Chợ Cũ, tập trung nhiều nhất là ở đường rue d’Adran, rue d’Ohier. Đường Ohier (trước kia là đường “rue de l’Église” (8) và ngày nay là Tôn Thất Thiệp) có thể được coi như là “Tiểu Ấn Độ” (Little India) như thường được gọi nơi mà cộng đồng của họ có các khu tương tự trong các thành phố khác ở Đông Nam Á như Singapore, Kulua Lumpur. Trên đường Ohier có ngôi đền Ấn Giáo lớn nhất Việt Nam. Và trên đường Amiral Dupré (cắt ngang đường Catinat) là ngôi đền thờ Hồi giáo của người Ấn.

    Nguyễn Đức Hiệp


    (Còn tiếp)


    Chú thích:


    (1) Catinat là tên một tướng Pháp thời Louis XIV, sau này là tên một chiến hạm (la corvette Catinat) tham dự trong trận đánh cảng Đà Nẵng (1856) và Saigon (1859) của hải quân Pháp. Toàn quyền Nam kỳ, đề đốc De la Grandière năm 1865, đổi tên đường “Rue no. 6” thành đường Catinat dựa theo tên của chiến hạm này.
    (2) Xem phụ lục 4 về quảng cáo một số cơ sở thương mại người Việt. Báo “Lục Tỉnh Tân Văn” mà Trần Chánh Chiếu chủ biên có trụ sở ở 6 rue Krantz (đường Hàm Nghi ngày nay) do F. H Schneider đứng tên. Kế bên tòa soạn là khách sạn “Nam Trung”, cơ sở gặp gỡ và kinh tài của phong trào Minh Tân. Niên giám Đông Dương (1910, 1911, 1912) ghi “4-6 F.H Schneider, aubergiste” và Niên giám 1907, 1908, 1909 ghi “8. Mme Lachal, proprietaire café de la gare”. Khách sạn “Nam Trung” là số 4, kế bên bưu điện số “2. Postes et Telegraphes”, gần ga xe lửa cạnh bến Bạch Đằng. Đường Krantz trước kia là đại lộ “boulevard de Canton” vì ở đây có rất nhiều người Hoa gốc Quảng Đông buôn bán trên đường dọc kênh rạch, đến năm 1897 thì chia ra làm hai đường hai bên, đường Krantz và đường Duperré. Đường xe lửa bắt đầu từ đầu đường Krantz đến ga Saigon gần chợ Bến Thành. Năm 1920 hai đường Krantz và Duperré nhập lại thành Boulevard de la Somme (nay là Hàm Nghi). Theo Niên giám Đông Dương 1906 có ghi một người ở số 11 rue d’Adran (đường Hồ Tùng Mậu ngày nay) gần Chợ Cũ tên là “Tran-Chieu, aubergiste”, có thể địa chỉ này cũng là một khách sạn của Gilbert Trần Chánh Chiếu.
    (3) Các ảnh “cartes postales” do các nhà tư nhân thỉnh thoảng xuất hiện (đôi khi có dấu ngày tháng trên tem) được bán đấu giá trên mạng như trên www.delcampe.net. Đây cũng là một nguồn ảnh tư liệu tốt cho ta nhiều thông tin
    (4) Năm 1920, hàng loạt các đường và địa danh đổi tên thành tên các địa danh hay nhân vật trong Thế chiến thứ nhất, như Boulevard de la Somme, rue d’Alsace Lorraine, rue d’Ypres, rue Général Lizé, rue Dixmude, rue Champagne, Boulevard Kitchener, Place Marechal Joffre. Rue Verdun và “quai de la Marne” (bến Vân Đồn) được đổi từ 1917 (9).
    (5) Chợ Mới (bến Thành) là do công ty Brossard & Mopin xây, Công ty Brossard & Mopin xây cất rất nhiều công trình ở Đông Dương và các nơi khác ở Viễn Đông, và có văn phòng ở Saigon, Singapore, Hồng Kông, Thượng Hải, Thiên Tân, Vladivostock. Ông Jean Brossard có một người con ngoài hôn thú với một phụ nữ Việt năm 1905. Sau này vào năm 1946 người con này và gia đình đã đệ đơn xin chính phủ Việt nam Dân chủ Cộng hòa trở lại quốc tịch Việt Nam (23).
    (6) Vannier là tên của một sĩ quan Pháp đã giúp vua Gia Long chống Tây Sơn vào đầu thế kỷ 19 và làm quan cho nhà Nguyễn một thời gian ở Huế, trước khi gia đình (vợ là người Việt nam) hồi hương về Pháp dưới thời Minh Mạng.
    (7) Bà quả phụ Bourbonnaud là phụ nữ can đảm, gan dạ đi nhiều nơi trên thế giới một mình (Bắc, Trung và Nam Mỹ, Ấn Độ, Borneo, Sumatra, Việt Nam, Nhật, Trung Quốc, Phi Châu,..), ghi lại các sự kiện, sinh hoạt, phong tục các nơi trong các sách bà xuất bản. Vào thế kỷ 19, phụ nữ đi các nơi xa lạ, bất trắc, là một sự khác thường. Bà là hội viên hội “Société de Géographie de Paris” và lập ra giải “Prix Lousie Bourbonnaud” cho các tác phẩm du ký. Chồng bà là nhà doanh nghiệp, xây dựng đường xá ở Paris, và là bạn của ông Haussmann, người thay đổi bộ mặt kiến trúc và đường xá Paris thành các đại lộ lớn trong thập niên 1860. Bà hay giúp đỡ các người nghèo ở Paris và các nơi bà đi qua. Louise Bourbonnaud cũng là hội viên sáng lập “Société de secours aux Blessés des Armées de terre et de mer”, sau này trở thành Hội chữ Thập đỏ (Croix-Rouge).
    (8) Đường “Rue de l’Église” đi ngang qua nhà thờ đầu tiên ở Saigon (1863). Nhà thờ này xây bằng gỗ ở vị trí sau này là Tòa Hòa giải (Justice de Paix) và ngày nay là tòa nhà Sun Wah, góc đường Nguyễn Huệ và Tôn Thất Thiệp.


    Tham khảo


    (1) Annuaire général de l'Indo-Chine française ["puis" de l'Indochine], Publisher: F.-H. Schneider (Hanoi) 1906, 1907, 1908, 1909, 1910, 1911, 1912, 1914, 1922, 1925
    (2) L. Lacroix-Sommé, R. J. Dickson et A. J. Burtschy, Annuaire complet (européen et indigène) de toute l'Indochine, commerce, industrie, plantations, mines, adresses particulières...: Indochine, adresses, 1ère année 1933-1934, A. Portail (Saigon), 1933
    (3) Guide pratique, renseignements et adresses. Saïgon, J. Aspar (24 rue Catinat Saïgon), 1934.
    (4) Huỳnh Ngọc Tráng, Trương Ngọc Tường, Phạm Thiếu Hương, Nguyễn Đại Phúc, Đỗ Văn Anh, Saigon-Gia Định xưa, Tư liệu & Hình Ảnh, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1996.
    (5) Annuaire de Cochinchine Française pour l’ année 1887, Saigon, Imprimerie Coloniale 1887.
    (6) L’Ère Nouvelle, 28/8/1926, 11/01/1927, 28/2/1928
    (7) Arthur Delteil, Un an de séjour en Cochinchine: guide du voyageur à Saïgon, Challamel aîné (Paris), 1887.
    (8) L. I., Saïgon-Souvenir, petit guide saigonnais à l'usage des passagers des débutants dans la colonie, Coudurier et Montégout (Saïgon), 1906.
    (9) Notice historique, administrative et politique sur la ville de Saïgon. Publiée par les soins du secrétaire général de la mairie, Impr. de l'Union (Saïgon), 1917
    (10) Vương Hồng Sển, Saigon năm xưa, 1992, Nxb Trẻ.
    (11) Các hình ảnh từ belleindochine.free.fr, www.delcampe.nethttp://www.flickr.com/photos/13476480@N07/sets/
    (12) Nguyễn Liên Phong, Nam Kỳ nhơn vật diễn ca, quyển 1: www.archive.org/details/NamKyPhongTucNhonVatDienCa và quyển 2: http://www.archive.org/details/NamKyPhongTucNhonVatDienCa2
    (13) Christopher Goscha, ‘The modern barbarian’: Nguyen Van Vinh and the complexity of colonial modernity in Vietnam, European J. of East Asian Studies, 2004, Vol. 3, no. 1, pp. 135-169.
    (14) Joseph Ferrière, Georges Garros, Alfred Meynard, Alfred Raquez, L' Indo-Chine 1906, publíé sous les auspices du Gouvernement général de l'Indo-Chine, 1906.
    (15) Annuaire de l'Indo-Chine française, première partie: Cochinchine, Imprimerie Coloniale, Saigon, 1897.
    (16) Emile Jottrand, Saigon et Cholen, opinions et souvenirs, La Vie coloniale: revue de la colonisation, du commerce et de l'industrie, No. 78 1/3/1909, pp. 47-48, No. 79, 1/4/1909 pp. 65-66.
    (17) Louise Bourbonnaud , Les Indes et l'Extrême-Orient, impressions de voyage d'une Parisienne, Paris, 1889, http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5684832m/f178.tableDesMatieres
    (18) Annuaire de la Cochinchine pour l’année 1876 (1879, 1880, 1881, 1885, 1887), Imprimerie du Gouvernement (Coloniale), Saigon, 1876 (1879, 1880, 1881, 1885, 1887).
    (19) Xavier Guillaume, La Terre du Dragon Tome 1, Publibook, Paris, 2004.
    (20) Antoine Brébion, Dictionnaire de bio-bibliographie générale, ancienne et moderne de l'Indochine française, publié après la mort de l'auteur par Antoine Cabaton, 1935.
    (21) Vương Hồng Sển, Saigon Tạp Pín Lù, Nxb Văn Hóa-Thông Tin, 1997.
    (22) Horace Fabiani, Souvenirs d'Algérie et d'Orient, E. Dentu (Paris), 1878.
    (23) Christina Firpo, personal communication.
  6. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Saigon – Đường Catinat
    đầu thế kỷ 20 – Phần 2



    Nguyễn Đức Hiệp



    Ông Nguyễn Liên Phong đã tả một góc cạnh của đường Catinat vào đầu thế kỷ 20 trong quyển “Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca” (9) đúng như các cơ sở kinh doanh Hoa, Ấn lúc ấy ở khu đầu đường Catinat như sau:
    Nhứt là đường Ca-ti-na,
    Hai bên lầu các, phố nhà phân minh

    Máy may mấy chỗ quá nhiều,
    Các tiệm tủ ghế dập dều phô trương
    Đồ sành, đồ cẩn, đồ đương [đan]
    Đồ thêu, đồ chạm trữ thường thiếu chi

    Nhà in, nhà thuộc, nhà chà,
    Nhà hàng ăn ngủ với nhà lạc son

    Tuy vậy cũng có một số cửa tiệm của người Việt trên đường Catinat. Và trên đại lộ Bonnard có cửa tiệm may của ông Nguyễn An Khương ở số 49 đại lộ Charner mà trong niên giám 1910 ghi là: “49. Nguyen-An-khuong, tailleur” (10). Ông Nguyễn An Khương chính là thân phụ của nhà cách mạng Nguyễn An Ninh. Nhà may này về sau là khách sạn Chiêu Nam Lầu, trở thành một cơ sở tham dự trong phong trào Minh Tân do ông Gilbert Trần Chánh Chiếu lãnh đạo. Chiêu Nam Lầu đón nhận những người An-Nam (Việt) ăn ở trú ngụ, khuyến khích người Việt kinh doanh, canh tân đất nước. Cũng chính tại số 49 Charner là nơi ông Phan Chu Trinh mất năm 1926, sau khi ông từ Pháp trở về Việt Nam và trú ngụ tại Chiêu Nam Lầu.
    Đi qua các cửa hàng cửa người Hoa và Việt là đến tiệm thuốc tây của ông Holbé ở số 22 Catinat. Đây là tiệm đầu tiên của ông Holbé, sau này ông chuyển đến tiệm thuốc tây Solirène ở số 171 Catinat (góc Catinat và Bonnard). Nhà riêng của ông Holbé ở số 2, place du Chateau d’Eaux (quảng trường tháp nước, nay là Hồ Con Rùa), nơi tụ tập của nhiều nhân sĩ và trí thức Pháp, Việt ở Saigon.
    Đến đây ta đến ngã ba Catinat và rue Turc (nay là Hồ Huấn Nghiệp, ông Turc là thị trưởng đầu tiên của thành phố Saigon). Ở bên kia đường Turc là cửa hàng bách hóa “Motte et Cie.” Bắt đầu từ đây lên ta sẽ thấy tiệm và phố người Pháp nhiều hơn và chiếm đa số cho đến cuối đường Catinat ở quảng trường nhà thờ (ngày nay gọi là quảng trường Công xã Paris).

    [​IMG]

    Hình 6: Magasins genereaux Mottet et Cie, 1908. Cửa hàng bách hóa công ty Mottet. Góc đường Catinat và đường Turc. “Carte postale” này là do chính công ty Mottet sản xuất.

    Công ty Mottet có cửa hàng trên đường Catinat (số 24-30 Catinat và 1-2-3 Café hotel de la maison Mottet, góc rue Catinat và rue Turc, tức góc Đồng Khởi và Hồ Huấn Nghiệp ngày nay. Niên giám Đông Dương 1908 ghi “Mottet et Cie. (approvisonnement general)”. Cửa hàng “Mottet et Cie.” là một trong hai cửa hàng bách hóa đầu tiên ở Saigon. “Mottet et Cie.” bán nữ trang, rượu (sỉ và lẻ), nước khoáng (eaux minerals), xe đạp (11), đăng ký gởi tàu biển, bán máy giặt. Niên giám 1908 có ghi “MM. Mottet et Ogliastro” (12) bán máy giặt chạy bằng hơi nước (Blanchisserie à vapeur), giày, nón, đại diện cho công ty đường sông (Compagnie de messageries fluviales) ở Cần Thơ... Công ty cũng in các “carte postales” hình ảnh về Saigon và nhiều nơi khác. Công ty Mottet et Cie. bắt đầu xuất hiện trong niên giám Đông Dương vào năm 1906 bán nữ trang. Trong niên giám 1908 có ghi M.-S. Mottet là nhà thương mại và niên giám 1907 cho biết ông Mottet là lãnh sự đại diện cho nước Nga hoàng (imperial Russie).
    Niên giám năm 1911 ghi ông Hauff (“maison Mottet”) là đại diện lãnh sự Nga và ông Novella (“maison Ogliastro”) đại diện lãnh sự Ý. Cũng trong niên giám năm 1911 có ghi ông Blanc ở nhà số 23 rue Bangkok là chủ“maison Mottet et Cie” và là người kế nhiệm của công ty “Mottet et Cie.” ở đường Catinat bán rượu sỉ và lẻ. Như vậy có thể nói năm 1911, hai ông Blanc và Hauff đã kế nhiệm ông Mottet điều hành công ty Mottet et Cie. Và đúng như vậy, niên giám Đông Dương năm 1915 chính thức ghi hai ông H. Blanc và P. Hauff là “successeurs Mottet et Cie.” ở các cơ sở công ty trên đường Catinat, đường Turc và đường Vannier
    Hai ông Blanc và Hauff cũng là chủ khách sạn “Hôtel de l’Univers” ở đường Turc. Nếu ở góc đường Catinat và đường Turc, ta quẹo phải vào đường Turc và đi đến hết đường thì sẽ thấy “Hotel de l’Univers” ở bên phải, số 3 rue Turc, cạnh quảng trường Rigault de Genouilly (quảng trường Mê Linh). Quang cảnh ở quảng trường này đầu thế kỷ 20 như trong hình sau (hình 7)

    [​IMG]

    Hình 7: Carte postale trong bộ sưu tập của nhà thương mại Poujade de Ladevèze - Tượng kim tự tháp tưởng niệm Douard de Lagrée và tượng Rigault de Genouilly nhìn từ đường Paul Blanchy (Hai Bà Trưng). Trong hình, nếu ở đường Paul Blanchy ta quẹo phải khoảng 30m thì sẽ đến khách sạn “Hotel de l’Univers” trên góc đường Turc và Vannier và cơ sở thương mại của ông Poujade de Ladevèze ở đầu đường Vannier (7 rue Vannier, niên giám 1909) cạnh khách sạn.

    Hai nhà thương mại xuất nhập khẩu Henri Blanc và P. Hauff cũng biên tập và in các “carte postale” ký hiệu “en nuage” in các hình ảnh chụp trên khắp Đông Dương, và các hình ảnh chụp ở Trung Hoa: phần lớn các ảnh này nằm trong bộ sưu tập “Collection Phénix” (vers 1907), số còn lại trong bộ sưu tập “Collection Sylvia” (xem phụ lục 3 về các nhà nhiếp ảnh ở Saigon). Sau này vào thập niên 1930, số 24 đường Catinat là tiệm ông J. Aspar, người in quyển sách chỉ dẫn về đường phố, sinh hoạt ở Saigon, quyển “Guide pratiques” in năm 1934.
    Bây giờ từ ngã ba Catinat và rue Turc nơi cửa hàng bách hóa “Motte et Cie”, chúng ta đi lên về hướng nhà hát thành phố, sẽ gặp tiệm nữ trang, bán súng đạn đi săn (bijoutier, Noel, armurier) của ông Cafford ở số 32-36 Catinat (theo niên giám 1910, 1911) mà trước đó (1909) là tiệm nữ trang (bijoutier) của ông bà Fernand Michel. Sau này vào thập niên 1950-1960, tiệm bán nữ trang, súng đạn Cafford chuyển về ở góc đường Tự Do và Nguyễn Thiệp, đối diện với quán café Brodard.
    Kế tiệm nữ trang Cafford là tiệm thịt nổi tiếng và lâu đời nhất ở đường Catinat: tiệm thịt “Boucher, charcutier A. Guyonnet” số 38-40 Rue Catinat.

    [​IMG]

    Hình 8: Rue Catinat vào năm 1950 (café Brodard nằm ở góc Nguyễn Thiệp và Đồng Khởi ngày nay). Tiệm bán thịt A. Guyonnet ở số 121 rue Catinat, gần Brodard (131 Đồng Khởi).

    Tiệm của ông Guyonnet trước kia ở số 48 Catinat (theo niên giám 1908 và 1916, ông Guyonnet hành nghề “boulangerie, charcuterie, boucherie, fruits primeurs”). Sau đó tiệm chuyển đến số 38-40 rue Catinat (niên giám 1925 và niên giám 1933-1934 đề tựa “Frigorifique de l’alimentation, alimentation generale, R.C Saigon no. 501”). Và cuối cùng ở thập niên 1950 th́ì chuyển đến số 121 rue Catinat. Ông Alban Guyonnet (cùng thời với công ty tiệm cầm đồ Ogliastro-Hui Bon Hoa) là hội viên Phòng thương mại (niên giám 1933-34).
    Tiếp tục đi, ta sẽ đến tiệm sách lớn “Librairie des Écoles” cho học sinh của ông bà Léon Rousseau ở số 64-72 Catinat (1910, 1918).
    Đi lên một chút nữa ta sẽ đến một ngã tư thứ hai: đó là ngã tư rue Catinat và rue d’Ormay (13) (Mạc Thị Bưởi ngày nay). Ngay ở góc đường Catinat và rue d’Ormay là nhà in “Imprimerie commerciale”: địa chỉ “74-86 Catinat, M. Rey (Marcelin) imprimerie commerciale”“60-64 d’Ormay, Rey Imprimerie commerciale depot”. Nhà sách và nhà in của ông Marcelin Rey in đủ các loại sách, các quảng cáo thương mại kể cả các sách viết bằng chữ Quốc ngữ, chữ Hán và chữ Khmer.
    Nếu ta quẹo trái đi vào đường d’Ormay về hướng đại lộ Charner, gần góc đường d'Ormay và đại lộ Charner, số 63 rue d'Ormay là tòa nhà cơ sở điện ảnh (cinematographe) của công ty điện ảnh “Pathé frères” do ông Lebreton làm giám đốc (niên giám 1910). Sau này ở nơi đây, ông Louvet (nhà quay phim, cinematographe) làm nơi chiếu phim. Một nơi giải trí rất được ưa chuộng vào ban đêm, trước khi có rạp Eden (đường Catinat) và rạp Casino (đường Bonnard) sau này.
    Qua đường d’Ormay, theo niên giám 1909, 1910, 1911 thì số 88 Catinat là tiệm thịt (charcutier) của ông J. Martinon, và từ số 90 đến 94 Catinat là tiệm tạp hóa, trái cây, kim, chỉ, nút quần áo (epicerie-mercerie) của ông A-Koune (người Hoa còn có tên là Huynh-Can theo niên giám 1890). Năm 1912 thì ông J. Martinon dời tiệm thịt đến số 116 Catinat. Quay đầu về hướng ta đã đi qua, ta sẽ thấy phía bên kia đường là tòa nhà góc đường Catinat và d’Ormay ở số 25-27 Catinat của ông Lacaze (3) như trong hình dưới đây (hình 9).

    [​IMG]

    Hình 9: Đường Catinat, bên phải có lẽ là văn phòng nhà in báo Impartial (14). Bên phải là đường d’Ormay. Hình chụp về phía bến Bạch Đằng, khoảng thời gian cuối thập niên 1920 hay đầu 1930s. Đây là hình trong bộ sưu tập của nhà nhiếp ảnh F. Nadal. Để ý hai cột đèn nối nhau ở giữa đường. Điện thắp sáng Saigon bắt đầu từ năm 1896, từ nhà máy phát điện đầu tiên ở vị trí sau Nhà hát thành phố trên đường Paul Blanchy (Hai Bà Trưng ngày nay). Sau đó đầu thập niên 1910 thì nhà máy điện nhà đèn Chợ Quán được xây và đưa vào hoạt động cung cấp cho toàn Saigon và Chợ Lớn. Nhà máy phát điện cũ, sau nhà hát thành phố, trở thành trạm phụ (sub-station) biến thế cung cấp từ nhà đèn Chợ Quán.

    Đi lên nữa, ta sẽ đến ngã ba đường Catinat và đường Amiral Dupré (15) (góc Đồng Khởi và Đông Du ngày nay). Theo niên giám 1909, số 49-55 đường Amiral Dupré là tiệm làm bánh mì (boulangerie) của bà Soundan, sau này trở thành nhà hàng (1910, 1911, 1912). Đây chính là quán café, hộp đêm và vũ trường “Croix du Sud” hay Tự Do sau này ở thập niên 1950-1970.
    Bên kia đường Amiral Dupré là cửa hàng bách hóa Courtinat, cửa hàng bách hóa đầu tiên ở Saigon thành lập ít nhất từ năm 1890 (theo niên giám Đông Dương 1890). Công ty “A. Courtenat et Cie” hay Bazar Saigonnais (niên giám 1911). Địa chỉ số 96 đến 106 rue Catinat, và số 95 Rue Catinat (magasins de nouveautes).

    [​IMG]

    Hình 10: Bộ sưu tập Nadal - Cửa hàng bách hóa A. Courtenat số 96-106 rue Catinat và 48 Amiral Dupré (bên phải hình). Trên tòa nhà phía đường Dupré có đề chữ “A. Courtenat Cie, nouveauté” (bazar). Công ty có văn phòng ở Lyon, buôn bán cửa hàng dầu thơm, nước hoa, máy may, cung cấp dụng cụ điện và dịch vụ gắn điện... Ngoài ra công ty Courtenat còn có cửa hàng ở Rue Amiral Dupré (nay là đường Đông Du) số 19, 21, 23 etc. (Loueurs en garni), và số 48 Amiral Dupré (bazar de nouveautés)

    Ông Auguste Courtinat bắt đầu buôn bán ở Saigon it nhất là từ năm 1890 khi ông có tên trong niên giám Đông Dương (“Annuaire générale de l’Indochine”). Trong niên giám năm 1900 ông là hội viên Phòng thương mại Saigon (“Chambre commerce de Saigon”). Ông là người cùng thời với ông Paul Blanchy (thị trưởng Saigon 1895-1901), và ông Holbé (dược sĩ và nhà sưu tầm khảo cổ học).
    Ngoài ra công ty “Courtenat et Cie” còn có đất canh tác ở Vị Thủy (Rạch Giá) (theo niên giám 1917).
    Bên kia đường, số 89 Catinat là tiệm thuốc tây của ông Molinier (1905, 1906, 1907-1911). Theo niên giám 1912, số 95 là trụ sở của Hội Âm thanh Viễn Đông (Société phonique d’Extrême-Orient), mà các năm trước đó là tiệm đổi tiền của người Ấn. Theo niên giám Đông Dương từ 1906 đến 1910, thì ông F. Coudurier và Montégout là chủ nhà sách và nhà in (imprimeurs libraries) ở số 119 đến 129 Catinat. Trước đó vào năm 1905, thì cơ sở in và nhà sách này vẫn còn là của công ty của ông Claude (“Claude et Cie.”). Năm 1906, nhà in “Coudurier et Montégout” in cuốn sách hướng dẫn về Saigon “Saïgon-Souvenir “ của L. I. (8). Cuốn sách này rất có ích cho những ai muốn tìm hiểu về sinh hoạt Saigon đầu thế kỷ 20. Sau đó, theo niên giám 1912, thì ông Portail thay thế ông F. Coudurier và ông Montégout (“ancienne maison Coudurier et Montégout”). Đến năm 1924 thì ông A. Portail dời đến số 171-173-175 rue Catinat. Đây chính là tiền thân của nhà sách Xuân Thu ngày nay. Nhà in của ông Portail đã in nhiều sách của các tác giả sống ở Saigon, như quyển tiểu thuyết “L’Âme de Cochinchine” của Albert Viviès, và các Niên giám Đông Dương như niên giám các năm 1933, 1934.

    [​IMG]

    Hình 11: Bộ sưu tập Nadal - Pharmacie Normale 123 rue Catinat (theo Guide pratiques, 1934). Khoảng thập niên 1920 (theo sư hiện diện của các xe hơi trong hình). Theo niên giám 1922, L. Sarreau (pharmacien) có tiệm thuốc ở số 119 rue Catinat (ancienne maison Bérenguier, Molinier, de Mari). Hình chụp từ trước tòa nhà Courtenay et Cie. hướng về quảng trường nhà hát thành phố. Góc đường giữa hình gần 2 xe đậu song nhau là đường Carabelli (Nguyễn Thiệp sau này). Xem bức hình này với hình chụp năm 1950 (hình 8) trong đó có cửa tiệm A. Guyonnet ở số 121 rue Catinat, thì ta thấy tòa nhà “Pharmacie Normale” gần như không thay đổi (16).

    Kế cửa hàng bách hóa “Courtenat et Cie.” là tiệm đồng hồ, nữ trang, in khắc (horloger, bijoutier, graveur) của ông Reynault Monnier ở số 108-110. Đi lên nữa về hướng Nhà hát thành phố, ta sẽ gặp tiệm nón và giày (chapellerie et chaussures) của ông Canavaggio ở số 118-120 Catinat. Chính nơi này đầu thập niên 1920 là nơi nhà nhiếp ảnh Ả Rập Fernand Nadal có tiệm nhiếp ảnh và buôn bán dụng cụ nhiếp ảnh. Ông Nadal đã để lại các hình ảnh và các bộ sưu tập quý giá về Saigon.
    Nam Kỳ nhơn vật diễn ca” (1906) đã tả cảnh khu giữa gần nhà hát thành phố đường Catinat nơi có nhiều cửa hàng người Pháp như sau:
    ..Những đồ Đại Pháp, Huê Kỳ
    Ăng-lê, Nhựt Bổn món gì cũng sang
    Hàng Tây các sấp nhẩy tràn
    Xiêm, Miên, Bắc thảo đồ đoàn bố vi

    Số 128 là tiệm của bà Wirth ở (1907, 1908, 1909), một nhà buôn bán tạp hóa. Tiệm tạp hóa của bà Wirth trước đó ở số 120 Catinat (1905, 1906). Ngoài bán hàng, bà Wirth còn sản xuất và thương mại các ảnh “cartes postales” từ cuối thế kỷ 19 với các ảnh xưa ở Saigon, quí hiếm trong giai đoạn đó cho đến đầu thế kỷ 20. Tiệm bà Wirth cạnh ngay khách sạn và quán “Café de la Terrace” nổi tiếng của ông Bénard (1909, 1910, 1912) ở địa chỉ 130 Catinat, ngay góc đường Catinat và quảng trường Francis Garnier. Sau này số 128 Catinat là tiệm nữ trang “Bijouterie Parisienne” (1910, 1911) và năm 1912 do Guintoli và Bardotti làm sở hữu chủ, thì tiệm nữ trang dời tới địa chỉ 130 Catinat, ngay ở địa điểm của quán “Café de la Terrace”.
    Bây giờ trước khi đi đến quảng trường Francis Garnier, ta hãy nhìn lại đoạn đường vừa đi qua. Ta sẽ thấy cảnh quang giống như hình dưới đây (hình 12)

    [​IMG]

    Hình 12: Bộ sưu tập Nadal - Đường bên phải là Carabelli chứ không phải Garabaldy như trong hình (Carabelli là tên của ông thị trưởng người gốc Corse của thành phố Saigon vào cuối thế kỷ 19, rue Carabelli là đường Nguyễn Thiệp ngày nay). Tòa nhà ngay góc đường, 141-143 Catinat và 2 Carabelli, là quán “Café de l’Union” của bà Aymés. Cũng tại quán Café này là trụ sở “Amicale Bretonne” (Hội ái hữu Bretonne). Sau này là tiệm café Brodard, Gloria Jeans (131 Đồng Khởi). Cạnh “Café de l’Union”, số 131 đến 139 Catinat là tòa nhà của ông Lorin (1912), Flarin (1910), O. Sammarcelli (1909), với hai tiệm đổi tiền của hai người Ấn (Theo niên giám 1909, 1910, 1912, Va. Mougamadoucharif số 131 và Mougamadoumeinedine số 139, hai người Ấn này có thể mướn hai địa chỉ này). Trên đường Carabelli, thì số 1 Carabelli là hội “Amicale Corse”, nơi những người gốc Corse hội họp. Ảnh chụp về hướng bến Bạch Đằng. Để ý cạnh tòa nhà số 131-139 và 141-143, là tòa nhà “Pharmacie Normale”.

    Từ “Café de l’Union” đi qua đường Carabelli là tiệm thuốc tây của ông Trombetta ở số 145-147. Đi lên chút nữa, 149-151, là tiệm tóc “Lavatory Saigonnais” của ông Hombert và khách sạn “Hôtel de France” như hình dưới đây (hình 13).

    [​IMG]

    Hình 13: Hình này trong bộ album hình sưu tập của P. Dieulefils (hình chụp khoảng trước năm 1900). Bên trái hình là khách sạn “Grand Hotel de France” (157 rue Catinat theo niên giám 1905-1906 do bà Dabène làm chủ, 159bis rue Catinat theo niên giám 1907-1911, 157bis 1er étage theo niên giám 1912). Tòa nhà bên phải là “Café de la Terrace” và khách sạn (ngày nay là khách sạn Caravelle). Hình chụp vào đầu thế kỷ 20 (đầu thập niên 1900). Bức hình này tương tự như ảnh carte postale trong collection Poujade de Ladeveze. Hình chụp về phía quảng trường Nhà hát thành phố (“Place Francis Garnier” hay “Place de Theatre”) và nhà thờ Đức Bà. Trên đường chưa có xe hơi, như vậy là hình chụp trước ít nhất khoảng năm 1910. Hình chụp cho thấy khách sạn “Grand Hotel de France” chưa đổi đến góc đường ở số 159bis, như vậy hình chụp khoảng năm 1905-1906 hay trước đó.

    Góc đường Catinat và đại lộ Bonnard, số 159bis cũng là địa chỉ của công ty “Compagnie Générale exportation” (1907-1912), nơi nhà thương gia Edouard Tréfaut và kế toán Gaston Phélyzon trú ngụ. Số 159 là tiệm đổi tiền của người Ấn, Condassamy (1907-1911). kế bên ở số 157bis là tiệm tạp hóa và quần áo (epicerie et mercerie) của Hoa kiều có tên Soa-a-Pan, Sina et Cie (niên giám 1907-1912). Cùng địa chỉ 157bis năm 1910 là tiệm mứt kẹo (confiseur) của ông Marius Rousseng và tiệm đổi tiền của N. Labigang (niên giám 1910-1912). Đến năm 1922, theo niên giám Đông Dương, thì 157bis vẫn là của N. Labigang (“Maison Rousseng, Pâtisseur – Confiseur – Chocolatier”).
    Số 157 là tiệm đổi tiền của người Ấn (1907-1912), tòa nhà trước đó là khách sạn “Hôtel de France” (1905-1906). Sau này vào năm 1922, số 157 Catinat (theo niên giám 1922) là “Imprimerie Librairie de l’Union” của ông Nguyễn Văn Của mà ông G. Durrwell, một nhà nghiên cứu văn hóa, là người có trách nhiệm về luật pháp (fondé de pouvoir). Theo Vương Hồng Sển (10) nhà in này trước đó là của ông Đinh Thái Sơn, sau chuyển nhượng lại cho ông Nguyễn Văn Của vào năm 1918. Ông Durrwell cũng là chủ tịch “Hội Nghiên cứu Đông Dương” (“Société des Etudes Indochinoises”). Nhà in của ông Của đã có in các tập san nghiên cứu của hội Nghiên cứu Đông Dương.
    Ngoài ra nhà in “Imprimerie de l”Union” (157 Catinat) đã in các tác phẩm của nhà văn Hồ Biểu Chánh, Lề Hoàng Mưu và các quyển sách nghiên cứu có giá trị như “Notice historique, administrative et politique sur la ville de Saïgon” năm 1917 về lịch sử thành phố Saigon, và nguồn gốc các tên đường dưới sự hướng dẫn của thư ký tòa thị sảnh thành phố (9), quyển “Recueil de Morale Annamite par Yên Sa Diệp Văn Cương” năm 1917, quyển “Monographie de la province de Bac Lieu, par Louis Girerd” in năm 1925, quyển “La pagode des clochetons et la pagode Barbé, contribution à l’histoire Saigon-Cholon par P. Midan” in năm 1934 ở nhà in “Imprimerie de l’Union” (57 rue Lucien Mossard).
    Bây giờ ta đứng ở tiệm “Café de la Terrace” mà trên lầu là khách sạn. Đây là giao điểm của đường Catinat với quảng trường Francis Garnier (hay quảng trường nhà hát thành phố), “Café de la Terrace” ngày nay là khách sạn Caravelle (đặt theo tên một loại máy bay của hãng hàng không Air France, hảng này có văn phòng ở tầng trệt của khách sạn). Nhìn về phía tay phải của quảng trường, ta sẽ thấy nhà hát thành phố, được xây vào cuối thế kỷ 19 và hoàn thành vào năm 1900, năm đầu của thế kỷ 20.

    Nguyễn Đức Hiệp




    Chú thích:


    (9) Nguyễn Liên Phong tác giả “Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca” xuất bản tại Sài Gòn năm 1909, sách mô tả cuộc sống ở Lục tỉnh và các nhân vật tiếng tăm (đa số thân Pháp) vào cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Sách có nhiều tư liệu có giá trị về sinh hoạt xã hội, phong tục tập quán vào cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 ở khắp lục tỉnh Nam Kỳ.
    (10) Theo Vương Hồng Sển thì tầng dưới cửa tiệm là do em gái của Nguyễn An Khương (tức cô của Nguyễn An Ninh) trông coi cửa hàng may mặc trong khi trên lầu là khách sạn có các phòng cho mướn. Cũng tương tự như nhà in “Imprimerie de l’Union” của Nguyễn Văn Của, dưới làm nhà sách, trên lầu là cho người mướn ở.
    (11) Xem phụ lục 4 về quảng cáo tiệm “Viên An” bán xe đạp có đề cập đến tiệm Mottet, trên báo “L’Ère Nouvelle”.
    (12) Ông Louis Ogliastro, người Pháp gốc Corse, là một trong những doanh nhân có thế lực ở Saigon trong những năm đầu người Pháp hiện diện ở Nam Kỳ. Cũng như các doanh nhân người Hoa như Vạn-Hòa (Ban-hap), Vương Thái (Wangtai), ông là hội viên của Phòng Thương mại (Chambre de Commerce) Saigon như trong niên giám Nam Kỳ 1885, 1887 cho biết (18). Lúc đầu, ông có cơ sở thương mại trồng tiêu ở Hà Tiên (1876). Ông là đại diện lãnh sự Ý ở Saigon từ năm 1887, giám đốc công ty “Société Générale de Tramways à vapeur” và chủ công ty cầm đồ (mont-de-piété) “Ogliastro et Cie.” ở số “50 Quai de l’Arroyo Chinois” (“quai de Belgique”, Bến Chương Dương ngày nay). Sau này trong thập niên 1930, công ty cầm đồ “Ogliastro et Cie.” hợp tác với công ty cầm đồ của ông Hui Bon-Hoa (chú Hỏa) thành công ty “Ogliastro, Hui Bon Hoa et Cie.” có trụ sở ở số 66 rue d’Alsace Lorraine (Phó Đức Chính ngày nay).
    (13) Ormay là tên một bác sĩ quân y người Pháp sống ở Saigon vào cuối thế kỷ 19. Ông thường khuyên các bệnh nhân nên theo sự chỉ dẫn điều trị của ông, nếu không (như ông nói đùa) là sẽ bị chuyển xuống “Jardin d’Ormay” (tức là nghĩa địa Mạc Đỉnh Chi, nay là công viên Lê Văn Tám) sớm.
    (14) Địa chỉ các tờ báo ở Saigon thay đổi rất nhiều tùy qua sự thay đổi sở hữu chủ của tờ báo. Theo “Guide pratiques” (1934), địa chỉ các báo là: “L’Impartial” 64 rue Catinat, “La Dépêche” 25 rue Catinat, “L’Opinion” 146 rue Pellerin, “La Tribune indochinoise” 72 Lagrandière, “L’Alerte” 201 rue Fr. Louis, “La Presse indochinoise” 16 rue Colombert, “Le Populaire d’Indochine” 100 rue Lagrandière, “L’Annam” 73 rue Mac-Mahon.
    Niên giám 1908 cho các thông tin và các địa chỉ báo chí ở Saigon: “Luc Tinh Tan Van, hebdomadiare 6 rue Krantz – Pierre Jeantet redacteur en chef”, “Nông Cổ Mín Đàm, hebdomadaire. G. Chieu redacteur en chef”, “Moniteur des provinces, hebdomadaire, langue Annamite, G. Garros directeur”, “L’Opinion, quotient independant 12e année (ancienne Semaine colonial), 13 et 15 rue Catinat”.
    Sau này theo niên giám 1922, báo “l’Opinion” ở địa chỉ 146 rue Pellerin với “Lucien Héloury propietaire-directeur politique, Pierre Jeantet redacteur en chef, Albert Oudot administrateur, M. Agier, I. Isidore redacteurs”, “Courrier Saigonnais” 19e année (ancient “Courrier de Saigon”): “paraissant les lundi, mercredi, vendredi et samedi; J Ferriere Directeur, G. Moullet secretaire de redaction”.
    Niên giám 1925: “L’Impartial” 25-27 Catinat (theo niên giám 1909, 1910, 1911, 1912 thì số 17-25 Catinat là cơ sở buôn bán của ông Lacaze, và theo niên giám 1909, 1910, 1911 thì số 29 Catinat là tiệm in và đóng sách (imprimerie-reliure ) của Hoa kiều Ki-Cheong, và niên giám 1912 thì nơi này trở thành cơ sở in ấn và đóng sách “Nam-Tai imprimerie-reliure”). Báo “L’Impartial” hiện diện bắt đầu từ năm 1917 cho đến năm 1934 (19). Tờ báo “L’Opinion”“Cong Luan Bao” ở số 146 rue Pellerin (nay là đường Pasteur) và số 71 Catinat (theo niên giám 1909, 1910 thì số 65-77 Catinat là của ông Felix Delost, “maison Graf-Jacques et Cie”, một công ty nhập khẩu các đồ kim loại và có cơ xưởng cơ khí kim loại ở “quai de Khanh Hoi”, tức bến Vân Đồn ngày nay).
    Nhà in người Việt đầu tiên là của ông Đinh Thái Sơn, tự Phát Toán hay Nguyễn Văn Toán, ở số 55-57 rue d’Ormay. Niên giám Đông Dương 1909 ghi “55-57. Nguyen-van-Toan, relieur” và niên giám năm 1910 ghi “55 et 57. Phat-Toan, imprimeur”. Ông Đinh Thái Sơn là người công giáo, trước đó đã làm phụ in các sách quốc ngữ tại nhà in giáo sứ Tân Định. Nhà in Phát Toán số 55-57 đường Ormay in, bán sách và bán xe máy (xe đạp). Nhà in Phát Toán đã in quyển “Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca” của Nguyễn Liên Phong vào năm 1909.
    (15) Amiral Dupré là đề đốc Pháp, làm Thống đốc Nam Kỳ từ 1871-1874, kế nhiệm thống đốc Nam Kỳ Amiral de La Grandière, sau hai thống đốc tạm thời là Amiral Ohier và Amiral Cornulier-Lucinière. Thống đốc Dupré là người bắt đầu sự can thiệp của Pháp vào Bắc kỳ, mà cao điểm là gởi Francis Garnier, một sĩ quan trẻ, phiêu lưu mạo hiểm đánh thành Hà Nội. Đề đốc hải quân cuối cùng làm thống đốc Nam Kỳ là Amiral Lafont (1877-1879). Sau đề đốc Lafont là thống đốc dân sự đầu tiên, ông Le Myre de Villers, chính thức chấm dứt thời đại ”amiraux gouverneurs” (đề đốc làm thống đốc) của Hải quân Pháp, chủ lực trong quân đoàn viễn chinh Pháp ở Việt Nam vào thế kỷ 19.
    (16) Ngoài “Pharmacie Normale” còn có các tiệm thuốc tây “Pharmacie Solirène” 169 rue Catinat, “Pharmacie Centrale” 197 rue Catinat, “Pharmacie de l’Indochine” 134 rue d’Espagne. Theo niên giám Đông Dương 1908, 1909, 1910, “Pharmacie Holbé” (của ông Holbé mà sau này cũng là chủ “Pharmacie Solirène”) ở số 20-22 rue Catinat, tức là ở gần công ty “Mottet et Cie.” số 24-30 rue Catinat (bên kia đường Turc) và “Grande Pharmacie Indochinoise” của ông Trombetta ở số 143-147 rue Catinat.

    Tham khảo


    (1) Annuaire général de l'Indo-Chine française ["puis" de l'Indochine], Publisher: F.-H. Schneider (Hanoi) 1906, 1907, 1908, 1909, 1910, 1911, 1912, 1914, 1922, 1925
    (2) L. Lacroix-Sommé, R. J. Dickson et A. J. Burtschy, Annuaire complet (européen et indigène) de toute l'Indochine, commerce, industrie, plantations, mines, adresses particulières...: Indochine, adresses, 1ère année 1933-1934, A. Portail (Saigon), 1933
    (3) Guide pratique, renseignements et adresses. Saïgon, J. Aspar (24 rue Catinat Saïgon), 1934.
    (4) Huỳnh Ngọc Tráng, Trương Ngọc Tường, Phạm Thiếu Hương, Nguyễn Đại Phúc, Đỗ Văn Anh, Saigon-Gia Định xưa, Tư liệu & Hình Ảnh, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1996.
    (5) Annuaire de Cochinchine Française pour l’ année 1887, Saigon, Imprimerie Coloniale 1887.
    (6) L’Ère Nouvelle, 28/8/1926, 11/01/1927, 28/2/1928
    (7) Arthur Delteil, Un an de séjour en Cochinchine: guide du voyageur à Saïgon, Challamel aîné (Paris), 1887.
    (8) L. I., Saïgon-Souvenir, petit guide saigonnais à l'usage des passagers des débutants dans la colonie, Coudurier et Montégout (Saïgon), 1906.
    (9) Notice historique, administrative et politique sur la ville de Saïgon. Publiée par les soins du secrétaire général de la mairie, Impr. de l'Union (Saïgon), 1917
    (10) Vương Hồng Sển, Saigon năm xưa, 1992, Nxb Trẻ.
    (11) Các hình ảnh từ belleindochine.free.fr, www.delcampe.nethttp://www.flickr.com/photos/13476480@N07/sets/
    (12) Nguyễn Liên Phong, Nam Kỳ nhơn vật diễn ca, quyển 1: www.archive.org/details/NamKyPhongTucNhonVatDienCa và quyển 2: http://www.archive.org/details/NamKyPhongTucNhonVatDienCa2
    (13) Christopher Goscha, ‘The modern barbarian’: Nguyen Van Vinh and the complexity of colonial modernity in Vietnam, European J. of East Asian Studies, 2004, Vol. 3, no. 1, pp. 135-169.
    (14) Joseph Ferrière, Georges Garros, Alfred Meynard, Alfred Raquez, L' Indo-Chine 1906, publíé sous les auspices du Gouvernement général de l'Indo-Chine, 1906.
    (15) Annuaire de l'Indo-Chine française, première partie: Cochinchine, Imprimerie Coloniale, Saigon, 1897.
    (16) Emile Jottrand, Saigon et Cholen, opinions et souvenirs, La Vie coloniale: revue de la colonisation, du commerce et de l'industrie, No. 78 1/3/1909, pp. 47-48, No. 79, 1/4/1909 pp. 65-66.
    (17) Louise Bourbonnaud , Les Indes et l'Extrême-Orient, impressions de voyage d'une Parisienne, Paris, 1889, http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5684832m/f178.tableDesMatieres
    (18) Annuaire de la Cochinchine pour l’année 1876 (1879, 1880, 1881, 1885, 1887), Imprimerie du Gouvernement (Coloniale), Saigon, 1876 (1879, 1880, 1881, 1885, 1887).
    (19) Xavier Guillaume, La Terre du Dragon Tome 1, Publibook, Paris, 2004.
    (20) Antoine Brébion, Dictionnaire de bio-bibliographie générale, ancienne et moderne de l'Indochine française, publié après la mort de l'auteur par Antoine Cabaton, 1935.
    (21) Vương Hồng Sển, Saigon Tạp Pín Lù, Nxb Văn Hóa-Thông Tin, 1997.
    (22) Horace Fabiani, Souvenirs d'Algérie et d'Orient, E. Dentu (Paris), 1878.
    (23) Christina Firpo, personal communication.
  7. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Saigon – Đường Catinat
    đầu thế kỷ 20 – Phần 3



    Nguyễn Đức Hiệp



    Quảng trường Francis Garnier (Quảng trường Nhà hát thành phố).


    [​IMG]

    Hình 14: Nhà hát thành phố, chụp từ gần tượng Francis Garnier. Ảnh của nhà nhiếp ảnh George Victor Planté (1847-1921). Ảnh chụp khoảng thập niên 1910. Nhà hát thành phố được bắt đầu xây vào năm 1896 qua kiến trúc được thắng giải của ông Ferret (có 3 kiến trúc sư dự thi: Ferret, Genêt và Berger). Nhà hát được khánh thành bởi thị trưởng thành phố Saigon, ông Paul Blanchy, với sự hiện diện của hoàng tử Đan Mạch Waldemar ngày 1/1/1900 (thật sự lúc đó chưa hoàn tất phải đến 1901 mới xong với tổn phí 914.940 piastres hay 2.500.275 francs) (14). Nhà hát trong ảnh chỉ hơn 10 năm từ lúc được khánh thành, vì thế hình dạng và kiến trúc được coi như đúng như khi được xây xong. Cho đến ngày nay, qua hơn 110 năm, nhà hát đã được sửa nhiều lần (nhất là kiến trúc ở chính diện), vườn hai bên nhà hát hiện nay không c̣òn.

    Sự xây dựng nhà hát thành phố không được sự đồng tình của mọi người trong Hội đồng quản hạt và người dân ở Saigon. Họ cho rằng nhà hát nhỏ và tổn phí quá đắt khoảng 3 triệu francs chỉ chứa tám trăm chỗ ngồi (16). Ngay cả đa số trong 2500 người Âu lúc bấy giờ sinh sống ở Saigon cũng không xem nhà hát là điểm họ chú ý. Hội đồng thành phố và ông thị trưởng, Paul Blanchy, thì lại cho rằng một thành phố lớn như Saigon thì phải có nhà hát dùng cho hoạt động văn hóa. Đây là cảm tưởng của ông bà Jottrand đến xem vở opéra “Carmen”, đăng trong báo “La Vie Coloniale” năm 1909:
    Trong rạp đầy những người đàn ông với y phục trắng nổi bật, cho thấy một khía cạnh bất ngờ trong nhà hát. Những người đàn bà làm tăng lên quang cảnh quá sức của sự đồng phục này bằng các y phục hở cổ ngực màu đậm, thường là màu đen. Thật là một thời trang đảo lộn giữa hai phái nam và nữ. Điều này thật ra cũng có gì không xấu.
    Một người, chỉ duy nhất một mà thôi, hút thuốc dễ nhận thấy: đầu ông ta sáng đẹp lạ, thật đáng ngưỡng mộ mà chúng tôi chưa bao giờ thấy, đúng là một tác phẩm nghệ thuật. Tôi tin là sự kiện toàn này chỉ có thể là do người làm tóc đã miệt mài phô trương.
    .
    Trong lúc hồi đầu (của vở opéra “Carmen”) được trình diễn thì một cơn mưa rào xảy ra, lớn đến nỗi hầu như người ta không nghe được hợp ca. Nhưng may thay những trận mưa này tuy lớn nhưng thường thì cũng ngắn; dầu vậy thì mùa xem hát rất là khá hòa giải với mùa mưa”

    [​IMG]

    Hình 15: Hình chụp từ trước nhà hát thành phố trên đường Catinat hướng về đại lộ Bonnard khoảng đầu thế kỷ 20 (thập niên 1900). Bên trái là tượng Francis Garnier, bên phải là “Hôtel des Nations” của ông bà Pancrazi ở góc đại lộ Charner và Bonnard (104-106 Charner). Ông bà Pancrazi cũng là chủ “Café de la musique” (trong thập niên 1900) ở số 171 Catinat, góc Catinat và đại lộ Bonnard, mà sau này là “Pharmacie Solirène”“Café Givral” (địa chỉ ngày nay là 169 Đồng Khởi, tòa nhà này nay đã bị phá). Tại khách sạn “Hôtel des Nations”, trong thập niên 1930 theo Vương Hồng Sển (21) thì cô Yvette Trà (tức cô Ba Trà hay Trần Ngọc Trà), một người đẹp có tiếng một thời ở Nam Kỳ Lục Tỉnh đã có trú ngụ tại đây một thời gian khi thời vận của cô gặp khó khăn về tài chánh, qua bài bạc và tăm tiếng.


    [​IMG]

    Hình 16: Góc trái hình là quán “Café de la Terrace”, trên lầu quán này là khách sạn. Một “carte postale” y hệt như hình này, cũng của nhà kinh doanh Decoly có ghi “Saigon 1909 – rue Catinat”. Người chụp hình này đứng gần tượng Francis Garnier chụp đường Catinat về phía bến sông. Bên phải hình, đằng sau hai người Pháp và gần xe kéo là khách sạn “Hôtel de France” và công ty “Compagnie Générale Exportation” ở ngay góc đường Catinat và đại lộ Bonnard.

    Khách sạn Continental


    [​IMG]

    Hình 17: Arc de Triomphe en l'honneur du Maréchal Joffre (Voir l'inscription en haut de l'Hôtel Continental). Cạnh Khách sạn Continental là “Khải hoàn môn” chào đón thống chế Joffre. Biểu ngữ trên lầu cao khách sạn là lời gởi chiến sĩ của thống soái Joffre trong trận đánh mở màn thế chiến thứ 1 : "Une troupe qui ne pourra plus avancer devra, coûte que coûte, garder le terrain conquis, et se faire tuer sur place, plutôt que de reculer" nhân dịp thống soái Joffre đến viếng Saigon vào tháng 12 năm 1921. Tạm dịch biểu ngữ là "đoàn quân khi không còn có thể tiến lên nữa, thì bằng bất cứ giá nào phải giữ trận địa chiếm được, thà chết ngay ở chỗ đó chứ không lùi".)


    [​IMG]

    Hình 18: Khách sạn Continental bên phải, bên trái là tiệm thuốc tây Solirène. Hình chụp từ nhà hát thành phố khoảng thập niên 1920. Tầng dưới của khách sạn Continental là nơi tụ tập của các nhân vật có tên tuổi ở Saigon như ông Paul Blanchy, bàn của các “senateurs” vào cuối thế kỷ 19.

    Khách sạn Continental được ông Pierre Cazeau xây và hoàn thành năm 1880. Khách sạn xưa có lịch sử lâu dài và nổi tiếng nhất Saigon cho đến ngày nay(17). Năm 1911, công tước (Duc) Ferdinand de Monpensier đã mua lại khách sạn này khi ông trú ngụ tại đây trong chuyến đi vượt rừng đường xa từ Saigon đến Angkor. Monpensier đã mang xe hơi vào Saigon, có thể nói là một trong những chiếc đầu tiên ở Việt Nam, để chạy chuyến đi này. Xe hơi của Monpensier khởi hành từ khách sạn Continental năm 1908 lên đường đi Angkor, một chuyến đi cam go, đầy gian nan vì đường xá lúc đó chưa được làm cho xe hơi chạy. Ông ở lại Việt Nam một thời gian, và lúc trên đường du ngoạn khi qua Phan Thiết, ông hoàng Monpensier đã mua và xây một biệt thự trên ngọn đồi nhìn ra biển và thanh phố Phan Thiết. “Lầu ông hoàng” này có máy diesel sản xuất điện riêng nên ban đêm rất sáng vì thời đó chưa có điện nhiều ở vùng xa.
    Năm 1930, Duc de Monpensier (18) bán khách sạn lại cho ông Mathieu Francini. Ông Francini, một người Pháp gốc Corse là một thương gia giao thiệp rộng. Sau khi đến Saigon, ông lập gia đình với một phụ nữ Việt Nam, con một điền chủ giàu ở Nam Kỳ. Vì ông là người Corse và có nhiều bạn bè đồng hương (“Amical Corse”) ở Saigon nên nhiều người đồn rằng ông có liên hệ đến các giới giang hồ xã hội đen ở Marseille, Corse và Saigon. Tuy vậy điều này không được kiểm chứng. Ông Francini quản lý khách sạn cho đến 1964 rồi trao lại cho người con Phillip Francini tiếp tục cho đến năm 1975. Trong các thập niên 1930-1950, nhà hàng và quán café ở khách sạn Continental là nơi tụ tập của các người gốc Corse gợi nhớ lại quê hương của họ.
    Tầng dưới của khách sạn, theo Niên giám Đông Dương từ năm 1907 đến 1910 là nhà sách của ông F.H. Schneider. Chính ông Schneider là người đã sáng lập ra tờ “Lục Tỉnh Tân Văn” năm 1907 mà chủ bút là ông Trần Chánh Chiếu. Ông Schneider cũng đứng tên là chủ của khách sạn và cơ sở Minh Tân ở số 4-6 đường Krantz(2). Năm 1911, ông dọn khỏi khách sạn Continental đến số 22 đường Kerlan, năm 1912 đến 15 đường Chasseloup-Laubat (1912) và cuối cùng năm 1914, 1915 ở số 2 đường Kerlan và số 7 Boulevard Norodom (trụ sở báo “Lục Tỉnh Tân Văn”, ra thứ 5 mỗi tuần). Sau khi Trần Chánh Chiếu bị bắt quản lý vào năm 1908, và giam năm 1917, “Lục Tỉnh Tân Văn” bị rút giấy phép và có lẽ ông Schneider cũng bị chút rắc rối với chính quyền(19).

    [​IMG]

    Hình 19: Hình này có lẽ chụp vào cuối thế kỷ 19. Góc đường bên trái là “Café de la Musique”, kế bên là tiệm “La civette”. Theo niên giám Nam kỳ 1887 (5) thì tiệm “La Civette” ở đường Catinat, do ông Ch. Montagne làm giám đốc, bán những hàng cho những người hút thuốc lá. Theo Antonie Brébion (20), thì người lập ra tiệm “La Civette” là ông A.-William Fabre, thương gia sinh ở Bordeaux năm 1856 đến Saigon năm 1884. Ở Saigon, lúc đầu ông lập ra kho bán thuốc lá. Sau đó ông mở ra khách sạn “Hôtel de l’ Europe”“quai de Commerce” (bến Bạch Đằng). Fabre cũng là người lập ra tờ báo “L’Independant” ngày 14 tháng 2 năm 1893, đối lập với chính quyền thuộc địa. Fabre mất ở Saigon năm 1896. Bên phải là khách sạn Continental và nhà in (tầng dưới) “Librairie-Imprimeur F.-H. Schneider”. Đây là một hình quí hiếm của cảnh trung tâm Saigon khi chưa có xe cộ, với các kiến trúc nhà cửa và thiết kế đường xá đẹp.

    Ngoài khách sạn “Hôtel de l’Univers” ở đường Turc, một khách sạn lớn, tiện nghi trên đường Catinat vào những năm của thập niên 1870 và 1880, trước khi có khách sạn Continental là khách sạn “Hôtel Fave”. Khách sạn Fave là nơi đầu tiên mà những viên chức quân, dân sự từ Pháp mới đến Saigon làm việc hay lập nghiệp đến tạm trú ngụ trước khi kiếm được nhà riêng. Theo ông Arthur Delteil (20), nhà dược học người Pháp, ghi lại (7) khi ông đến Saigon năm 1882 thì khách sạn Fave gồm 3 tầng: tầng trệt là nhà ăn có các quạt “panca” trên trần nhà, hai tầng trên là các phòng, mỗi phòng đều có nước “robinet” và vòi xen (một tiện nghi lúc bấy giờ). Khách sạn được ông Fave xây, và với sự thành công của khách sạn, ông đã trở nên giàu có khi trở về Pháp(21).
    Cũng theo ông Delteil thì khách sạn Fave ở trên đường Catinat, chiếm hầu hết không gian giữa đại lộ Bonnard và đường d’Espagne. Đối diện với khách sạn Fave là phòng bán đấu giá các bàn ghế, giường tủ... rất tiện lợi cho những ai muốn có hay mướn được nhà riêng đến để mua trang bị cho nhà mới. Hiện nay vẫn chưa xác định chính xác được “Hôtel Fave” ở đâu (ở vị trí cũ của khách sạn Continental, góc đường Catinat và đường d’Espagne hay cạnh đó ?). Cũng theo ông Delteil, trước khi có nhà hát thành phố thì nơi diễn kịch, hòa nhạc “concert” là tòa nhà ở trên đường Vannier (Ngô Đức Kế ngày nay) đối diện với quảng trường mà ông gọi là “Rond-Point”. Trong thời gian ông viếng Nam Kỳ năm 1882, ông chứng kiến và đã phụ giúp điều trị bệnh nhân trong trận dịch tả (cholera) lớn làm chết 20 000 người ở các tỉnh thành Nam Kỳ trong vòng 3 tháng vào năm 1882.
    Cạnh khách sạn Continental, số 134 rue Catinat theo niên giám Đông Dương 1900 là tiệm của nhà nhiếp ảnh J.P. Trong (Jean-Pierre Trong). Theo Niên giám Nam Kỳ (Annuaire de la Cochinchine, 1891 et 1892) thì ông J.P. Trong trước đó là người được nhà nhiếp ảnh Louis Talbot mướn làm trong phòng nhiếp ảnh của ông Talbot. Sau này khi ông Talbot rời Saigon đi Noumea (Nouvelle Caledonie, Tân Đảo) làm ăn, thì tiệm nhiếp ảnh này được giao lại cho ông Trọng.
    Niên giám Đông Dương (1905 đến 1909) không thấy đề địa chỉ 134 rue Catinat mà chỉ đề địa chỉ 136 rue Catinat là của nhà nhiếp ảnh nghệ thuật, Mme (bà) Terray. Như vậy có thể là vài năm sau, thì bà Terray đã thay thế ông Trọng tại cơ sở này và địa chỉ đã được đổi từ số 134 đến số 136. Và đến năm 1910 th́ì cơ sở nhiếp ảnh này là của nhà nhiếp ảnh Ludovic Crespin, người đã chụp và để lại nhiều bức ảnh đẹp và quí giá về Saigon. Cạnh tiệm ảnh, số 138 đến 142 Catinat là tiệm thuốc tây của ông Joseph Cormod (theo niên giám 1908, 1909, và năm 1910 là của ông Dourdon). Và số 144 đến 148 là tiệm tạp hóa “bazar Hôtel de Ville” của ông Charles Garçon (1908, 1909).

    Cuối đường Catinat


    Bên kia đường Catinat gần khách sạn Continental, giữa đại lộ Bonnard và đường d’Espagne (Lê Thánh Tông ngày nay), ta sẽ thấy quang cảnh như sau (hình 20).

    [​IMG]

    Hình 20: Ảnh sưu tập của Roger, do Voiry chụp (khoảng 1908-1916) (1) – Tiệm coiffeur (làm tóc, cắt tóc) phía trái hình có thể là tiệm của ông Mondin ở số 173 Catinat (theo niên giám Đông Dương 1908, 1909, của ông Ernest theo niên giám 1910). Theo niên giám 1910, kế tiệm tóc ở số 173bis là cửa hàng của ông Poujade de Ladevèze, một nhà buôn sản xuất các ảnh cartes postales. Đi ngược lại chút, số 171 là “Café de la Musique” của ông bà Pancrazi (đến 1910 thì theo niên giám là của ông bà Hollinger). Như vậy là hình chụp về hướng nhà thờ Đức Bà và người chụp đứng ở khách sạn Continental. Đi lên chút nữa về hướng nhà thờ Đức Bà, kế tiệm hớt tóc, nơi mấy người Pháp trong hình tụ tập là tiệm của ông Poujade de Ladevèze, tiệm đổi tiền người Ấn Aboubaker (số 175) và quày (comptoir) điện lực và bán súng đạn đi săn và tiệm nữ trang của Luc-Bai (số 175bis) mà sau này là tiệm sách của ông A. Portail (nhà sách Xuân Thu ngày nay).

    Cạnh quày điện lực, ở số 177 và 177bis là tiệm nữ trang Ky-Yun-Hing Ky và tiệm đổi tiền người Ấn. Số 179 Catinat là tiệm bách hóa tổng hợp “Omnium français” của ông bà Emile Gadault (do ông Armand Diebold đứng tên, “fondé de pouvoir”, niên giám 1908). Nơi đây sau này được xây lại trong đó có rạp Eden cinema (179 rue Catinat, địa chỉ trong “Guide pratique” năm 1934 của rạp Eden là 183 Catinat) của ông Frasseto và Sicé. Tại rạp Eden này, vở cải lương đầu tiên dựa theo hài kịch phương Tây “Vì nghĩa quên nhà” (do Lê Quang Liêm và Hồ Biểu Chánh soạn) được trình diễn ngày 11/9/1917. Theo niên giám Đông Dương 1922 thì hai ông Frasseto và Sicé còn là chủ rạp Petit-Eden (đường Tổng Đốc Phương, Cholon), rạp Eden ở Vũng Tàu (Cap Saint Jacques), Hôtel Frasseto et Sicé, Hôtel Victoria (còn gọi là “Hôtel de l’Univers”, 1 rue Turc, Saigon), khách sạn “Continental Palace” và khách sạn “Grand Hôtel du Cap” (Cap Saint Jacques).
    Kế cửa hàng “Omnium-français”, số 181 là cửa hàng bán và sửa nhạc cụ của bà quả phụ Barret. Và cạnh đó, số 183-185 là tiệm làm tóc và cắt tóc của ông bà Langlois.
    Tại ngã tư đường Catinat và đường d'Espagne (Lê Thánh Tôn ngày nay), từ đường Catinat phía bên trái đi về hướng nhà thờ Đức Bà, băng qua đường L'Espagne là tòa nhà nơi cư ngụ của viên chỉ huy trung đoàn 3 (Hôtel du général commandant de la 3ème brigade). Đi lên chút nữa về hướng nhà thờ là trụ sở của tờ báo “L’Opinion” ở số 187-189 (niên giám 1910) và kế đó là tiệm quần áo, may mặc của ông bà C. J Tournier (số 191-197 Catinat).

    [​IMG]

    Hình 21: Đường Catinat nhìn từ cuối đường về hướng bến Bạch Đằng. Bên phải là số 225 nơi ở của quản lý ngân khố, ông Gros (1910), Bên trái số 164 Catinat, theo niên giám 1905-1906 là nơi thu ngân địa phương (recette locale) và từ năm 1907-1911 là nơi ông bà Descourtis, thâu ngân đặc biệt (receveur spécial) tọa lạc (niên giám 1907-1911). Và từ năm 1912 trở đi là “Trésor public” (Kho bạc, nha ngân khố). Sau này tòa nhà ngân khố trở thành bót cảnh sát của an ninh (la Sureté) sau khi kho bạc mới được xây ở đại lộ Charner, ngay vị trí chợ Cũ trước kia.

    Gần cuối đường Catinat, ở số 199-203 (1906), 201-205 (1907, 1908) là “Hôtel des ventes” hay “Salle des ventes”, nơi đây bán đấu giá các hàng không còn dùng của chính phủ cho công chúng. Bà Louise Bourbonnaud tả nơi này như sau (17):
    “…Trước phòng đấu giá (Hôtel des ventes), một người bản xứ đang dùng hai tay đánh trống. Đây có một ít màu sắc bản địa rồi. Tôi đi đến gần và biết được rằng “người đánh trống” viễn đông báo cho mọi người biết là sẽ có đấu giá trong giờ. Thế là tôi đi vào trong. Những đồ bán đấu giá cho công chúng có đủ các loại: ly chén, bàn tủ, giường, đồ dùng trong nhà, dụng cụ đủ loại. Ở đây không có gì đáng thật sự để tôi tranh dành mua đấu giá…
    À, kia kìa, một lô dụng cụ nhạc sẽ làm thích thú giúp vui trong chuyến đi của tôi. Chỉ nghĩ tới, sở hữu dụng cụ âm nhạc mua được ở Saigon thì thật là hào hứng ! Nhưng lô đấu giá này chắc phải được bán sau cùng, người cảnh sát nói cho tôi biết khi tôi hỏi ông ta; nếu vậy thì tôi còn thì giờ, tôi sẽ trở lại trong chốc lát…
    Khi ra khỏi nhà thờ, tôi nghĩ đến trở lại phòng đấu giá; nhưng khi tôi đến thì lô dụng cụ âm nhạc đã được bán rồi. Thật là tiếc. Lúc này ở phòng đấu giá là lúc mà người ta bán các con ngựa và các xe ngựa và tôi thấy một cỗ xe ngựa rất đẹp mà một viên đại úy mua được với một số tiền đấu giá là một trăm mười đồng piastres”.
    Số 154 Catinat, theo niên giám 1905, 1906 là “Bureau de la 3ème brigade et du point d’appui de la flotte Saigon Cap St-Jacques”, số 156 Catinat là nơi ông Finet, “capitaine de l’infantrie coloniale” (đại úy bộ binh thuộc địa) cư ngụ, và số 158 là “Contrôle des contributions directes, verification des poids et mesures” (kiểm tra đo lường). Đến năm 1910 thì 154 Catinat trở thành “Service administratif”, 156 là trụ sở công ty “de Pommerey et Cie, Carbuse et Calcium”.
    Số 160 Catinat theo niên giám 1905, 1906 là tòa nhà “Direction de l’Enseignement” (nha giáo dục) nơi ông giám đốc M. de Cappe ở. Số 162 Catinat theo niên giám 1905, 1906 là “Cadastre et topographie” (nha địa dư), đến năm 1912 là “Commissariat central de police” (trụ sở trung ương cảnh sát) do ông M. Lecoeur lãnh đạo. Và tòa nhà cuối cùng ở đường Catinat là “Trésor public” (Nha ngân khố) ở số 164 Catinat.
    Đến đây chúng ta sẽ thấy Nhà thờ Đức mẹ (Notre-Dame) ngay giữa công trường nhà thờ (tức công trường công xã Paris ngày nay) và Bưu điện thành phố. Trước nhà thờ Đức mẹ là tượng của giám mục d’Adran (Bá Đa Lộc) và hoàng tử Cảnh. Vị trí của nhà thờ Đức bà xưa kia chính là trung tâm của thành Phiên An (thành Quy).
    Đằng sau nhà thờ là tượng của nhà chính trị gia Pháp, ông Gambetta (8). Từ tượng Gambetta, nếu đi thẳng lên sẽ gặp bồn nước (chateau d’eaux) cung cấp nước cho thành phố. Nước được bơm lên từ giếng lấy nước ngầm dưới lòng đất bằng một máy chạy bằng hơi nước lên bồn chứa cao (7). Đây là điểm cao của thành phố, một vị trí thuận tiện để phân phối nước.

    Tổng Luận

    Sau khoảng 40 năm từ khi người Pháp đến chiếm Saigon, thành phố này đã có một sự thay đổi hầu như toàn diện về kiến trúc và thiết kế. Chỉ có thành phố Chợ Lớn vào đầu thế kỷ 20 là vẫn còn hầu như nguyên vẹn như đầu thế kỷ 19. Saigon trở thành thành phố qui hoạch và có kiến trúc như các thành phố ở Pháp.
    Cuối thế kỷ 19 đến cuối thập niên đầu của thế kỷ 20 là thời bình an và thịnh vượng của nước Pháp và ở các thuộc địa, thời kỳ mà từ lúc Hội chợ thế giới 1900 ở Paris mở màn cho thấy có nhiều phát minh kỹ thuật thay đổi cuộc sống xã hội ở nhiều nơi trên thế giới như xe hơi, phim ảnh, diesel, đèn điện, điện thoại, điện tín, máy bay... Đây là thời kỳ gọi là “Belle Epoque” ở Âu châu hay “Gilded Age” ở Mỹ, với sự đua nở phát triển các phong trào, trào lưu mới trong nghệ thuật, âm nhạc, ballet, hội họa như hậu ấn tượng, biểu tượng, hiện đại... “art nouveau” trong kiến trúc. Ở Đông Dương, nói chung kinh tế phát đạt và chính trị ổn định cho đến đầu thế chiến thứ nhất và các kiến trúc đặc trưng thời đệ tam cộng hòa được xây dựng như nhà hát thành phố Saigon, nhà hát Hà Nội, tòa nhà Đấu xảo cho Hội chợ quốc tế (Đấu xảo) ở Hà Nội năm 1902 nơi có nhiều nước tham dự, các tòa nhà trên đường Catinat...
    Bắt đầu từ thập niên 60 của thế kỷ 20, cảnh quan của đường phố Catinat nói riêng và của thành phố Saigon nói chung thay đổi nhiều làm diện mạo của nó khác đi rất nhiều so với cảnh quan trình bày trong bài này, chỉ còn nhà hát thành phố và khách sạn Continental là còn sót lại từ đầu thế kỷ 20 trên con đường Catinat, tức Đồng Khởi ngày nay. Con đường lớn hơn và cũng thay đổi nhiều hơn là đường Nguyễn Huệ (Charner), hầu như chỉ còn tòa nhà Hải quan (nhà ông Vương Đại thế kỷ 19) và tòa Ngân khố ở đầu đường là còn, tòa Hòa giải (Justice de paix) bị phá gần đây để xây cao ốc Sun Wah.
    Trong cơn lốc xây dựng cao ốc ở Trung tâm Saigon trong các năm gần đây, thay vì ở các khu ngoại biên và qui hoạch thiết kế đô thị với mục tiêu thương mại lợi nhuận là chính yếu, với yếu tố văn hóa và cảnh quan không được coi trọng để ý đến thì hậu quả về lâu trong tương lai sẽ có nhiều mất mát. Kinh nghiệm ở nhiều xã hội ở nhiều nơi trên thế giới cho thấy ký ức và dấu ấn văn hóa lịch sử có giá trị nhiều hơn đồng tiền và vật chất hiện đại.

    Nguyễn Đức Hiệp




    Chú thích:

    (17) Đường Catinat từ bờ sông bắt đầu với khách sạn “Hôtel de la Rotonde” là số 2 rue Catinat, cho đến “Hotel Continental” ở số 132 rue Catinat. Địa chỉ hai địa điểm này vẫn giữ nguyên cho đến ngày nay, chỉ khác tên đường. Ngoài hai khách sạn này, vào đầu thế kỷ 20 còn có các khách sạn khác trên và chung quanh đường Catinat như: “Hôtel de France” 157 Catinat, “Hôtel de l’Univers” 1 rue Turc, “Hôtel des Nations” 104 b. Charner, “Hôtel de marine” 1-7 Paul Blanchy, “Hôtel de Bretagne” 35-37 b. Charner.
    (18) Ngoài ông hoàng de Monpensier (1908) và hoàng tử Đan Mạch Waldemar (1900) đến viếng thăm Saigon, trước đó còn có hoàng tử Henri d’ Orleans, vừa là nhà nhiếp ảnh và thám hiểm, đã đến Hà Nội và Saigon trong thập niên 1890 (mất ở Saigon năm 1901 vì bệnh sốt rét) và các hoàng gia khác được biết nhiều sau này trong lịch sử thế giới đã đến Saigon như hoàng tử Nga, Nicolas II (sau này là sa hoàng cuối cùng của Nga mất sau cách mạng tháng 10) đến thăm năm 1891 và hoàng tử Miến Điện Mingoon (hay Myinkun, 1866-1921), lưu vong sau chính biến ở kinh đô Mandalay năm 1866, đến và sống ở Saigon cho đến khi mất (20/09/1921).
    (19) Ông F.H. Schneider là người Pháp cởi mở tiến bộ, nhưng anh rể ông, Henry Chavigny de Lachevrotière, lại là một thực dân bảo thủ. Ông F.H. Schneider về sau còn thiết lập cơ sở in ở Hà Nội, in các tập san nghiên cứu của trường Viễn Đông Bác Cổ, và nhiều sách nghiên cứu về Đông Dương (Cam Bốt, Lào và Việt Nam). Ông giúp Nguyễn Văn Vĩnh học nghề in, xuất bản và quảng cáo và cùng với Nguyễn Văn Vĩnh lập ra nhà in “Phổ Thông Giáo khoa Thư xã” (13). Quyển tiểu thuyết lịch sử đầu tiên trong văn học chữ quốc ngữ Việt Nam “Phan Yên ngoại sử, tiết phụ gian truân” của Trương Duy Toản (người trong phong trào Minh Tân) cũng do nhà in Schneider in năm 1910.
    (20) Ông Delteil là một nhà dược học của hải quân Pháp (pharmacien principal de la Marine), ông có tác phẩm nghiên cứu khoa học mà cho đến nay vẫn còn được tham khảo và vừa được tái bản, đó là: quyển “La cane à sucre” (cây mía). Ông làm việc ở Trung Mỹ, nghiên cứu về cách trồng mía, các thành phần hóa học của các loại mía, các bệnh sâu mọt của cây mía, khí hậu và đất thích hợp... và đã thử nghiệm trồng mía ở các nơi trong đó có Saigon. Tại đây người Pháp đã thành lập một trại trồng thí nghiệm gọi là “Nouvelle Espérance” trong cách đồng mả (plaine des tombeaux), tức trong khu vực đường cách mạng tháng 8 và đường 3/2 ngày nay. Ngoài ra còn có trại thử nghiệm ở Biên Hòa và “Lacan” ở Đồng Nai (nơi có nhà máy làm đường của ông Michelot). Theo ông Delteil đất ở Saigon và vùng Nam bộ không thích hợp cho loại mía có năng xuất cao và cho nhiều đường như các nơi khác và về phương diện kinh tế thì trồng mía rất cực và khó khăn ít có lợi so với lúa gạo và các cây khác nên người Việt không để tâm đến và vì thế không thành công được ở Nam Kỳ như người Pháp mong muốn.
    (21) Ông Delteil ghi trong sách ông là “Hôtel Favre” nhưng theo Niên giám Nam Kỳ thuộc Pháp (“Annuaire de la Cochinchine française”) các năm 1879, 1880, 1881 thì có ghi là “Hôtel Fave” (khách sạn Fave) trên đường Catinat chứ không phải Favre. Và người điều hành khách sạn là ông A. E. Fave (hôtelier, restaurateur). Đến năm 1881 thì khách sạn Fave là do ông Laval quản lý và niên giám năm này có ghi ông A. E. Fave làm bánh mì (boulanger) ở đường Catinat và đường Bonnard. Như vậy thì ông Delteil đã ghi lầm Fave thành Favre. Theo ông Fabiani (22) trong hồi ký xuất bản năm 1878 thì khách sạn “Hôtel Fave” (ghi đúng là Fave) là khách sạn tiện nghi, đẹp, có vườn và thiết kế qui củ. Các phòng đều rộng rãi, có nước, phòng tắm. Khách sạn do ông Élisée Fave thiết kế và được xây bởi các ông Bazin, Cazaux và Salvaire dưới thời của chuẩn đề đốc (contre-amiral) Duperré trên một nền đất đầm lầy mà mọi người cho là khó xây dựng được. Niên giám Nam Kỳ 1876 ghi các ông François Bazin là thầu (entrepreneur), ông Cazeaux là thợ thiếc (ferblantier) và ông Salvaire làm đèn (lampist) trên đường Catinat.

    Phụ lục


    (1) Các địa chỉ thương mại của Hoa kiều trên đường Catinat (theo niên giám Đông Dương 1908, 1909)

    Tailleurs (tiệm may):
    A-Hong 61 rue Catinat, A-Hôi 43 rue Catinat, Luong Da 3 rue Catinat, Luong-Tich 8 rue Catinat, Luong-Cau 18 Catinat, Ly-Can 48 Catinat, Ly-Quoi 50 Catinat, Luong-Thao 54 Catinat, Luong-Boi 59 Catinat, Ngo-Thoai 6 Catinat, Quang-Can 51 Catinat, Tran-Phuoc 63 Catinat, Tran-Hoa 57 Catinat, Tran Thuan *** A-Hoai 85 Catinat, Tran Phu 3 Catinat, Truong Anh 60 Catinat, Thoi-Thiem 12 Catinat, Dang-Chuong 61 Catinat, Duong Kim 12 Catinat, Duong-Hua 42 Catinat, Hua-Ung 63 Catinat, Huynh-Thoai 51 Catinat, Huynh-Trong 52 Catinat, Huynh-Xuong 56 Catinat, Huynh-Tuong 64 Catinat, Hua-Nu 5 Catinat, Ly-Nhu 14 Catinat, Tran-An 16 Catinat, Truong-Binh 37 Catinat, Tran-An 42 Catinat, A-Houai 55 Catinat.
    Horlogers (đồng hồ):
    A-Cuu 120 Catinat, Au-Thien 45 Catinat, Lu-Nhien 58 Catinat, Luong-Ngu 111 Catinat, Luc-Vien 87 Catinat, Luc-Phu 85 Catinat, Ly-Yen 45 Catinat, Ngô-Kim 101 Catinat
    Bazars (tạp hóa), epicerie, mercerie:
    A-Hi 99 Catinat, A-Sui 113-117 Catinat, A-koune 90-92 Catinat, Soa-a-Pan, Sina et Cie 157bis Catinat.
    Bijoutiers (nữ trang):
    Ho-Thanh 44 Catinat, Luc-Kinh 58 Catinat, Tran-Thai 83 Catinat, Ngo-Kim 101 Catinat, Kong-cheong-Seng (có lẽ là người Hoa từ Singapore hay Mã Lai) 35 Catinat.
    Các nghề khác:
    Ki-Cheong, imprimerie-reliure (in và dán sách) 29 Catinat, Lam-hiong-Long, chinoiseries 31 Catinat, Nam-Tai imprimerie-reliure 49 Catinat.

    [​IMG]

    Hình 22: Một tiệm tạp hóa của người Hoa. Ảnh của nhà nhiếp ảnh George Victor Planté (1847-1921). Planté bắt đầu sự nghiệp nhiếp ảnh vào năm 1893. Qua kỹ thuật ảnh và chất lượng ảnh so với các ảnh khác của Planté, ta có thể đoán bức ảnh này chụp rất sớm khoảng đầu thập niên 1900.


    (2) Các cơ sở thương mại người Ấn trên đường Catinat (1908)

    Changeur de monnaies:
    Mougamadancany 1 Catinat, Mougamadanaly 1bis, Checmedine 1bis, S. P. Tambiravanttar 89 Catinat, K. Adabakar 95 Catinat, K. Oudoumanesah 119bis, Sababady 157 Catinat, Condassamy 159 Catinat, Aboubaker 175 Catinat, Mougamadoucamy 177bis Catinat, Bavena-Oumersah, Vevena-Assengamy 179 Catinat, Mougamadoumeidine 199 Catinat.
    Marchand de Bombay:
    Chortimal 38-42 Catinat, Wassiamul 44-46, Netharan 60-62 Catinat

    [​IMG]

    Hình 23: Tiệm đổi tiền của người Ấn, mà người Pháp gọi là Chettys (Chệt theo tiếng Việt). Ảnh của nhà nhiếp ảnh Planté, chụp khoảng đầu thập niên 1910.


    (3) Địa chỉ các cơ sở và các nhà nhiếp ảnh ở Saigon (theo “Guide pratiques”, 1934)

    “Khong Minh” 118 b. Albert 1er, “My Dung” 113 b. Albert 1er, “Phuoc Tuong” 21 rue Am. Courbet, “Antoine Giau” 45 b. Bonnard, “Khanh Ky” 54 b. Bonnard, “Morise” 70 b. Bonnard, “Artista Photo” 76 b. Bonnard, “Photo Nadal” 118 rue Catinat, “Nguyen Duyen” 138 rue Catinat, “Innovat Photo” 155 rue Catinat, “Studio Catinat” 158c Catinat, “Catinat photo” 217 Catinat, “In-Ich” 78 b. Charner, “Yiem Yung” 81 b. Charner, “I. Dong” 93 b. Charner, “Nguyen v. Thuan” 120 rue d’Espagne, “Ha Van” pl. Francis Garnier, “Modern Photo” pl. Francis Garnier, “Dakao Photo” 10 rue Martin Palliere, “Marina Photo” 5 rue Paul Blanchy, “Le Van Hau” 11 rue Vannier, “Nam Tan Loi” 74 rue Vannier, “Photographie (fournitures generales pour): Nadal” 118 rue Catinat, “Depot Kodak” pl. Francis Garnier, “Agence Commerciale de Saigon” 68 rue Pellerin)
    Trong giai đoạn đầu, ông Nadal trú ngụ ở cơ sở thương mại ảnh số 150 rue Catinat. Trong niên giám 1922, Nadal ở số 120 rue Catinat (sau này mới dọn đến địa chỉ số 118 như trên), và ông Paullussen ở số 10 đại lộ Charner (Saigon photo). Cũng vậy, nhà nhiếp ảnh Ludovic Crespin trong giai đoạn đầu trụ tại số 19 và 134 đường Catinat (niên giám Đông Dương 1909). Trong thập niên 1910-1920, Ludovic Crespin có văn phòng ở 136-138 rue Catinat và 10 đại lộ Charner (cùng chỗ với Paullussen). Sau này trong thập niên 1930, số 138 là của nhà nhiếp ảnh Nguyễn Duyên thay thế ông Crespin và vào cuối thập niên 1940 và đầu thập niên 1950, số 136-138 “photo studio” trở thành cửa hàng của nhà nhiếp ảnh Paul Gastaldy.
    Một nhà buôn bán, nhưng cũng sản xuất các “cartes postales” xưa và quí thuở ban đầu ở Saigon là bà quả phụ Wirth. Theo niên giám Đông Dương 1897 (phần Nam Kỳ) (15) thì bà “Mme Veuve Wirth, marchand en detail” ở số 59 Catinat. Niên giám 1905, 1906 bà Wirth “epicerie art. de luxe Au Gagne Petit” (bán hàng cao cấp của cửa hàng Au Gagne Petit, lúc bấy giờ là nơi bán hàng nổi tiếng ở Paris) ở số 120 Catinat ; và niên giám 1907, 1908, bà “Mme Vve Winth, commerçante” ở số 128 Catinat. Ngoài ra trong giai đoạn này còn có nhà nhiếp ảnh Joseph Brignon ở 319 đại lộ Bonnard và nhà nhiếp ảnh Lê Văn Ba, có cửa tiệm ở số 95 Charner (theo niên giám 1908), nơi đây ông Ba cũng bán xe đạp và làm bánh mì (boulanger).

    [​IMG]

    Hình 24: Photo-Studio 136 rue Catinat của nhà nhiếp ảnh Crespin, kế bên khách sạn Continental (chính giữa hình). Hình chụp hướng về quai Francis Garnier (bến Bạch Đằng). Hình chụp khoảng đầu thập niên 1920.


    (4) Một vài quảng cáo...

    ...trên báo “L’Ère Nouvelle” (28/8/1926) của luật sư Phan Văn Trường, tiệm “Viên An”, “Phong cảnh khách lầu” của ông Nguyễn Phong Cảnh (nơi này hiện nay là di tích về buổi họp đầu tiên, tháng 8 1929, của Đảng Cộng sản Annam do Châu Văn Liêm sáng lập), và các quảng cáo của người Hoa, Pháp và Ấn. Cách hành văn và ngữ pháp đầu thế kỷ 20 có nhiều khác biệt với ngày nay. “Lục châu” là tên người Hoa dùng để chỉ Lục tỉnh (6 tỉnh) Nam Kỳ, và người Hoa cũng tự gọi họ là “Tàu” như người Việt thời đó và cho đến trước 1975 từ này vẫn được dùng để chỉ Hoa kiều. Boulevard Bonhoure sau này là đường Khổng Tử và ngày nay là đường Hải Thượng Lãn Ông. Đường Mac-Mahon nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa, đường Fipippini là Nguyễn Trung Trực và Ohier là Tôn Thất Thiệp. Chúng tôi giữ nguyên văn, kể cả chính tả, của các quảng cáo dưới đây :
    *

    “Về việc kiện tụng
    Các đồng bào hể khi nào có việc kiện thưa chi, trước hết nên tới Saigon đường Mac-Mahon, số 116
    Hỏi ông trạng sư
    Phan Văn Trường
    Nguyên trạng sư tòa thượng thẩm thành Paris
    Ông sẽ nói trước cho biết việc ấy hay dở thế nào, và chỉ cách cho mà theo, khỏi lầm đường và khỏi tốn công tốn của.”
    *

    “Viên An Boulevard Bonhoure No. 14
    Bán sỉ và bán lẻ
    Bán xe máy hiệu BRILLANT tốt nhứt và nhiều thứ hiệu khác
    Đồ phụ tùng theo xe máy đủ thứ và giá rẻ
    Bổn hiệu mới lại thứ xe “BRILLANT” thiệt tốt mà chắc lắm. Có hơn 20 năm danh tiếng trong Nam kỳ. Khi trước nhà Mottet trử bán. Thứ xe nầy thiệt nhẹ nên mới ra đua kỳ nào cũng có ăn hết. Hôm ngày 14 Mars 1926 đua trên Plate 5000 thì Thiên (Maurice) ăn hạng nhứt, Xuân hạng nhì. Hôm 21 Mars chạy 2000 thước Xuân ãn hạng nhứt, còn chạy 5000 thước thì Thiên (Maurice) hạng nhì. Còn kỳ vô địch 2000 thước hôm ngày 28 Mars thì Thạch ăn hạng nhứt, hết thảy cũng đều cởi xe “BRILLANT” có đủ thứ màu.
    Xin quí vị đến bổn tiệm xem chơi cho biết.
    Ở Lục-tỉnh có muốn mua sỉ hay là mua lẻ viết thơ thương nghị. Và có trữ đồ phụ tùng nhiều lắm.”
    *

    “Phong Canh Khach Lau
    Angle des boulevard Bonnard et rue Filippini
    Chambres confortablement meublées, propres, aérées, 2e et 8e étages. Ascenseur. Douche et W.C. dans tous les chambers. Personnel discipliné.
    Nguyen-Phong-CANH, Propriétaire”
    (Ère Nouvelle, 28/2/1928)​
    *

    “Thiệt rất tiện và lại có lợi
    Là thứ đèn cầy hiệu “SAM-KONG” đốt không khói, mà ít hao, không có mùi như các thứ khác, còn sự sang ít thứ sánh cho bằng; nhưng vậy mà giá lại rẻ.
    Xin quí vị ai có dùng xin nài cho được thứ đèn cầy hiệu “SAMKONG” đỏ hay trắng thì thấy sự lợi nhiều.
    Bán sĩ và bán lẻ tại hảng Lucien Berthet & Cie ở đường Mac-Mahon môn bài 66 và tại các nhà hàng cùng tiệm chạp-phô toàn trong cỏi Đông-Pháp.
    Ba hiệu: hình thánh giá. Hai trái đất. Hai sư tữ cầm trái đất.
    SAMKONG CANDLES FACTORY”
    *

    “Thợ làm đồ nữ trang
    A.– Chanh
    Đường Ohier, số 7, Saigon
    Bổn hiệu có thợ thiện-nghệ, lảnh làm đũ kiểu đồ nữ-trang bằng vàng và hột xoàn theo kiểu kim thời. Công việc làm đã kỷ lại tinh-xảo hơn các nơi. Quí khách đến viếng bổn-hiệu và xem công cuộc của bổn-hiệu sắp đặt đặng toại lòng. Tính giá thiệt nhẹ.
    A.– Chanh”
    *

    “Đồ sứ và đồ sành
    Kính trình lục-châu quí-khách đặng rỏ: bổn tiệm thân tự chuyên bán các thứ đồ sành và đồ sứ ở tỉnh Giang-tây (1) bên Tàu đem qua. Đồ cổ-ngoạn có kim-thời có, cũng có huê thảo nhân vật thứ thì bông chìm, thứ thì bông nổi v.v. Những đồ nầy càng dùng lâu ngày càng tốt không hề xuống màu.
    Tiệm chúng tôi bán giá hạ hơn các nơi là bởi bổn-tiệm chúng tôi mua cất tại chổ làm. Vậy xin lục châu quí khách các ngài mô muốn chưng dọn trong nhà cho sang trọng, vườn cảnh cho ngoạn nhỉ mục, đồ ăn thức đựng cho lịch-sự xin hẩy dời gót lại hiệu Phúc-Xương-Hằng số nhà 22 đường hẻm Gialong Chợlớn, chúng tôi hết lòng hoan nghinh
    Phúc-Sương-Hằng Tư Trang
    Kính Cáo”
    *

    “Wishwanath Bazar
    Naraindas Thadharam & Cie
    Commercant du Bombay
    Quai de Vinh-Phuoc. — SADEC
    CÁO BẠCH
    Kính cùng lục-châu quí bà đặng rỏ. Bổn hiệu có mở một ngôi hàng rất lớn, bán rông các thứ hàng lụa trong toàn cầu: như hàng Tây, hàng Nhựt-bổn, hàng Huê-kỳ, hàng Bombay và hàng Bắc đũ kiểu và đũ màu.
    Hàng của bổn hiệu thiệt, rộng tin những đồ thương hạng rất chắc và rất đẹp của mấy hảng có danh tiếng bấy lâu nay bên Âu-mỹ.
    Bổn hiệu buôn bán rất thật thà và người của bổn hiệu dùng bán rất nên khuôn phép, tuy là người Bombay chớ ở xứ Nam đã lâu rồi nên lời ăn nói rất nên lể nghĩa và chẳng hề xão trá. Còn giá cả thì tính rất phải chăng, chớ không phải như mấy tiệm khác đâu.
    Bổn hiệu cũng chuyên gởi hàng đi Lục-tỉnh, như quí ông quí bà không thể đến tiệm đặng, xin cứ viết thơ thì bổn hiệu cũng vui lòng mà hồi âm lại cùng muốn mua chi bổn hiệu cũng gởi lập tức.
    Bổn hiệu gởi đồ không tính tiềng chở chuyên, đều về phần bổn hiệu chịu cã.
    Như quí ông quí bà có diệp chi đi Sadec xin ghé tiệm tôi một khi thì mới rỏ.
    Vài lời thành thật xin quí ông quí bà chiến cố.
    NAY KÍNH”
    (Ère Nouvelle, 11/01/1927)​


    Tham khảo

    (1) Annuaire général de l'Indo-Chine française ["puis" de l'Indochine], Publisher: F.-H. Schneider (Hanoi) 1906, 1907, 1908, 1909, 1910, 1911, 1912, 1914, 1922, 1925
    (2) L. Lacroix-Sommé, R. J. Dickson et A. J. Burtschy, Annuaire complet (européen et indigène) de toute l'Indochine, commerce, industrie, plantations, mines, adresses particulières...: Indochine, adresses, 1ère année 1933-1934, A. Portail (Saigon), 1933
    (3) Guide pratique, renseignements et adresses. Saïgon, J. Aspar (24 rue Catinat Saïgon), 1934.
    (4) Huỳnh Ngọc Tráng, Trương Ngọc Tường, Phạm Thiếu Hương, Nguyễn Đại Phúc, Đỗ Văn Anh, Saigon-Gia Định xưa, Tư liệu & Hình Ảnh, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1996.
    (5) Annuaire de Cochinchine Française pour l’ année 1887, Saigon, Imprimerie Coloniale 1887.
    (6) L’Ère Nouvelle, 28/8/1926, 11/01/1927, 28/2/1928
    (7) Arthur Delteil, Un an de séjour en Cochinchine: guide du voyageur à Saïgon, Challamel aîné (Paris), 1887.
    (8) L. I., Saïgon-Souvenir, petit guide saigonnais à l'usage des passagers des débutants dans la colonie, Coudurier et Montégout (Saïgon), 1906.
    (9) Notice historique, administrative et politique sur la ville de Saïgon. Publiée par les soins du secrétaire général de la mairie, Impr. de l'Union (Saïgon), 1917
    (10) Vương Hồng Sển, Saigon năm xưa, 1992, Nxb Trẻ.
    (11) Các hình ảnh từ belleindochine.free.fr, www.delcampe.nethttp://www.flickr.com/photos/13476480@N07/sets/
    (12) Nguyễn Liên Phong, Nam Kỳ nhơn vật diễn ca, quyển 1: www.archive.org/details/NamKyPhongTucNhonVatDienCa và quyển 2: http://www.archive.org/details/NamKyPhongTucNhonVatDienCa2
    (13) Christopher Goscha, ‘The modern barbarian’: Nguyen Van Vinh and the complexity of colonial modernity in Vietnam, European J. of East Asian Studies, 2004, Vol. 3, no. 1, pp. 135-169.
    (14) Joseph Ferrière, Georges Garros, Alfred Meynard, Alfred Raquez, L' Indo-Chine 1906, publíé sous les auspices du Gouvernement général de l'Indo-Chine, 1906.
    (15) Annuaire de l'Indo-Chine française, première partie: Cochinchine, Imprimerie Coloniale, Saigon, 1897.
    (16) Emile Jottrand, Saigon et Cholen, opinions et souvenirs, La Vie coloniale: revue de la colonisation, du commerce et de l'industrie, No. 78 1/3/1909, pp. 47-48, No. 79, 1/4/1909 pp. 65-66.
    (17) Louise Bourbonnaud , Les Indes et l'Extrême-Orient, impressions de voyage d'une Parisienne, Paris, 1889, http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5684832m/f178.tableDesMatieres
    (18) Annuaire de la Cochinchine pour l’année 1876 (1879, 1880, 1881, 1885, 1887), Imprimerie du Gouvernement (Coloniale), Saigon, 1876 (1879, 1880, 1881, 1885, 1887).
    (19) Xavier Guillaume, La Terre du Dragon Tome 1, Publibook, Paris, 2004.
    (20) Antoine Brébion, Dictionnaire de bio-bibliographie générale, ancienne et moderne de l'Indochine française, publié après la mort de l'auteur par Antoine Cabaton, 1935.
    (21) Vương Hồng Sển, Saigon Tạp Pín Lù, Nxb Văn Hóa-Thông Tin, 1997.
    (22) Horace Fabiani, Souvenirs d'Algérie et d'Orient, E. Dentu (Paris), 1878.
    (23) Christina Firpo, personal communication.
  8. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [FONT=Arial,Helvetica,sans-serif][/FONT][FONT=Arial,Helvetica,sans-serif][​IMG][/FONT]
    [​IMG]







    Saigon 1961 - Tu Do Street

    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]

    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]

    [​IMG]









    Saigon 1961 - Tu Do Street



    ngã tư Tự Do - Nguyễn Văn Thinh trước 1975, nay là ngã tư Đồng Khởi - Mạc Thị Bưởi




    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]







    Bản đồ khu vực trung tâm SÀI GÒN năm 1961



    [​IMG]







    SAIGON - LA RUE CATINAT EN PLEINE CIRCULATION



    góc đường Catinat và D'Ormay thời thuộc địa (thời VNCH trước 1975 là Tự Do - Nguyễn Văn Thinh, và nay là Đồng Khởi - Mạc Thị Bưởi)
    [​IMG]








    Saigon 1961 - Le Loi Avenue



    Street cafe in South Vietnam.
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]






    Saigon 1961 - Le Loi Avenue

    [​IMG]
    [​IMG][​IMG][​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]


    [​IMG]
    [​IMG]

    [​IMG][​IMG][​IMG][​IMG]
    [​IMG][​IMG]






    Saigon 1961 - Phía trước chợ Bến Thành (41)

    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]

    Saigon 1961 - Bầu cử Tổng Thống (28)



    [​IMG]
    [​IMG][​IMG][​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]


    Chợ Lớn 1961

    [FONT=Arial,Helvetica,sans-serif][/FONT]
    [FONT=Arial,Helvetica,sans-serif][​IMG]
    [/FONT]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]


    Independence Palace



    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]


    Saigon 1961



    trong một nhà máy dệt tại SG
    [​IMG]
    [​IMG]






    Saigon 1961



    chưa biết chỗ này là trường học nào
    [​IMG]
    [​IMG]


    Hình nhiều quá! mình sẽ update !

    Bài đăng 11 tháng trước (06/08/2011) • Chỉ
  9. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    BÌNH PHONG TRONG KIẾN TRÚC TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM

    Wednesday, January 5, 2011 2:29:25 AM
    VĂN HÓA CƯ TRÚ
    [​IMG]
    I. Từ một huyền thoại

    Năm 1636, chúa Nguyễn Phước Lan đã vì sự nghiệp phát triển của Đàng Trong và cả vì mối tình với một cô gái yêu kiều ở đất làng Kim Long mà đã quyết định dời thủ phủ-kinh đô từ Phước Yên về vùng đất tươi đẹp bên bờ con sông Hương mang tên Kim Long. Hơn 50 năm tiếp đó, thủ phủ Kim Long đã được xây dựng thành một “đô thị lớn”, phồn hoa diễm lệ bậc nhất của Đàng Trong khiến không ít giáo sĩ phương Tây khi đến đây đã tỏ ra hết sức thán phục. Vậy mà đến năm 1687, ngay sau khi kế vị, chúa Nguyễn Phước Thái đã cho dời ngay thủ phủ về đất Phú Xuân, cách đó chỉ khoảng 3km. Nguyên nhân của sự dịch chuyển này là do đâu? Các nhà nghiên cứu khi phân tích sự kiện trên đã đưa ra nhiều nguyên nhân, nhưng trong huyền thoại dân gian Huế thì dường như chỉ có một: đó là vì ngọn núi Ngự Bình vốn xưa mang tên là Bình Sơn! Ngọn núi này được trời đất tạo ra dường như là để che chắn cho kinh đô của bậc đế vương. Chính chúa Nguyễn Phước Thái là người đầu tiên nhận ra điều này và ông đã không ngần ngại cho xây dựng lại cả một kinh đô chỉ vì một chiếc bình phong! Cũng từ đó Bình Sơn mới chính thức trở thành Ngự Bình và dần dần trở thành biểu tượng của đất Huế (miền Hương-Ngự)(1).


    II. Nguồn gốc của bình phong

    Bình phong có từ bao giờ? Thật khó trả lời chính xác câu hỏi này, chỉ biết rằng, ở phương Đông, từ khi con người biết xây dựng nhà cửa thì các quan niệm về phong thuỷ cũng dần dần xuất hiện và từng bước hoàn thiện, chiếc bình phong ra đời cũng từ các nguyên lý của phong thuỷ học.

    Theo các nhà nghiên cứu về phong thuỷ Trung Quốc, việc sử dụng bình phong cho gia trạch cũng như mộ phần bắt nguồn từ lý thuyết về Triều và án trong Phong thuỷ. Triều có nghĩa là “quay về, hướng về”, viết tắt của chữ Triều sơn, tức chỉ núi quay về, chầu về nhà cửa hay mộ phần – tựa như sự đối ứng giữa chủ và khách. Núi chầu về trong nghĩa triều sơn chỉ những ngọn núi ở phía xa và ở mặt trước. Triều sơn có nhiều loại, có loại đỉnh nhọn, đỉnh bằng, đỉnh tròn…. Trong Phong thuỷ thường chỉ chuộng loại núi tròn đều hay ngang bằng bởi cho rằng loại núi nhọn hay có góc cạnh thường phát ra khí chẳng lành.

    Còn “Án” vốn nguyên có nghĩa gốc là cái bàn, bàn đương nhiên là đặt trước mặt của người ngồi. Án sơn là để chỉ ngọn núi nhỏ ở phía trước gia trạch hay mộ phần (2).

    Nói chung, triều và án hết sức cần thiết cho gia trạch và mộ phần, tác dụng của chúng là ngăn cản những ảnh hưởng xấu (theo quan niệm dân gian) hay Hỏa khí (theo thuyết âm dương Ngũ hành) xâm nhập trực diện từ phía trước. Nhưng không phải lúc nào triều và án cũng mang lại những điều tốt lành mà đòi hỏi phải có sự lựa chọn phù hợp nhưng việc lựa chọn này lại hoàn toàn không dễ dàng.

    Thường thì mộ phần đặt ở vùng núi non nên việc chọn triều án khá thuận tiện, nhưng nhà cửa gia trạch lại chủ yếu nằm ở miền đồng bằng nên rất khó tìm triều và án. Trừ trường hợp cung điện đồ sộ của nhà vua thì đương nhiên phải tìm ra triều và án, còn thì đa số quan lại, thường dân chỉ mong tìm được án đã là tốt lắm rồi. Nếu không có án, người ta thường tạo nên những vật thay thế như đắp non bộ, trồng hàng rào hay xây bức tường ngắn… Chiếc bình phong ra đời từ đây. Thuở ban đầu bình phong được làm rất đơn giản bằng các vật liệu dễ kiếm như tre nứa, gỗ, phiến đá, thậm chí bụi cây cũng được. Nhưng càng về sau, bình phong càng ngày càng được chú trọng làm bằng vật liệu bền vững như xây gạch, đắp đá; hình thức của bình phong cũng ngày càng cầu kỳ và phong phú.

    Người Việt vốn chịu ảnh hưởng rất sâu sắc của văn minh Trung Hoa và các học thuyết Phong thuỷ nên cũng từ rất sớm, chiếc bình phong đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong ngôi nhà của họ. Còn hơn cả người Hán, người Việt đã phát triển quan niệm về chiếc bình phong trở nên phong phú, đa dạng lên nhiều.


    III. Các loại bình phong

    Đối với đại đa số chúng ta, khái niệm bình phong hầu như không được phân biệt rõ ràng, dù là triều hay án, dù to hay nhỏ đều gọi chung là bình phong. Tuy nhiên trong Phong thuỷ thì không phải như vậy. Như trên đã nói, triều và án là hai khái niệm khác nhau và tác dụng của chúng cũng khác nhau khi áp dụng. Phong thuỷ rất chuộng triều sơn, nhưng trên thực tế thường chỉ áp dụng được cho các công trình có quy mô lớn hoặc cả một quần thể công trình như Kinh đô, lăng tẩm của vua chúa… Ngót ngàn năm trước, khi tìm ra đất Thăng Long, Lý Thái Tổ đã ca ngợi đây là mảnh đất “long bàn hổ cứ” có “sơn triều, thủy tụ”, địa thế tuyệt vời để xây dựng kinh đô. Lê Quý Đôn khi vào tiếp quản đô thành Phú Xuân năm 1775, cũng đã hết lời ca ngợi thế phong thủy của mảnh đất này, đặc biệt là vai trò của triều sơn: “Đất rộng bằng như bàn tay, độ hơn 10 dặm, ở trong là Chính dinh, đất cao, bốn bề đều thấp, tức là chỗ nổi bật giữa đất bằng, ngồi vị Càn trông hướng Tốn; đằng trước quần sơn chầu về la liệt, toàn thu nước về bên hữu, vật lực thịnh giàu”.(3)

    Nhưng phần lớn đối với các cuộc đất, do không có triều sơn nên người ta chỉ chú trọng đến án. Đối với kinh đô Huế, núi Ngự Bình cũng không phải là triều sơn mà chính là án, cũng như với lăng Thiên Thọ (lăng Gia Long), án chính là ngọn Đại Thiên Thọ Sơn…

    Thế nhưng án cũng có 2 loại: ngoại án và nội án; ngoại án hay tiền án là chiếc bình phong đặt ở phía bên ngoài, ở phía trước công trình; còn nội án là chiếc bình phong (cũng có khi gọi là trấn phong) đặt ngay trong công trình.

    Nhìn chung, đối với các công trình lớn, ngoại án thường là các ngọn núi, có thể là núi tự nhiên để nguyên, có thể là núi tự nhiên nhưng được sửa sang lại cho phù hợp, cũng có thể là núi nhân tạo hoàn toàn như ngọn núi nhỏ đắp phía trước phần lăng vua Tự Đức (Khiêm Lăng). Đối với những công trình hoặc cụm công trình có quy mô nhỏ hơn thì ngoại án thường được xây dựng thành một bức bình phong bằng gạch đá, hoặc có thể là một bờ rào, hàng cây, một phiến đá…

    Đối với các loại bình phong được xây dựng cẩn thận bằng gạch đá, thường ngoài ý nghĩa về phong thuỷ còn là những công trình mang ý nghĩa trang trí thật sự. Về đại thể, tuy chỉ là một bức tường xây ngang nhưng kỳ thực kiểu dáng và cách thức trang trí của bình phong thì thật vô cùng phong phú. Kiểu bình phong phổ biến nhất có lẽ là kiểu cuốn thư nhưng có rất nhiều biến thể. Các đề tài trang trí trên bình phong cũng đa dạng, nhưng phổ biến nhất vẫn là những con vật trong Tứ linh, gồm long(rồng)-lân-phượng-quy (rùa). Tại các đình làng, các am miếu dân gian, hình tượng long mã hay hổ cũng được sử dụng rất nhiều trên bình phong.

    Nội án tức chiếc bình phong đặt bên trong công trình, ngay sau cửa chính. Dù có kiểu dáng, hình thức rất phong phú nhưng chúng đều là loại bình phong có thể di chuyển được. Chất liệu làm các loại bình phong này cũng rất đa dạng, bằng gỗ, bằng mây, bằng tre, bằng đá hoặc đá kết hợp với gỗ, thậm chí bằng đồng, bằng bạc, vàng… nhưng có thể nói, gỗ là loại chất liệu được sử dụng phổ biến hơn cả. Hầu hết các bức bình phong được sử dụng làm nội án đều được trang trí rất công phu và có giá trị nghệ thuật cao.

    Căn cứ vào hình thức kiểu dáng có thể chia nội án thành 2 loại: loại bình phong một tấm cố định và loại bình phong nhiều tấm rời ghép thành.

    Loại bình phong một tấm cố định phổ biến nhất là có kiểu cuốn thư, được làm chắc chắn, có chân cố định, khi di chuyển phải di chuyển nguyên tấm. Còn loại bình phong nhiều tấm rời ghép thành thường có hình chữ nhật hoặc vuông, do 6,8 hay10 tấm gỗ hình chữ nhật ghép lại với nhau bằng bản lề. Loại này có thể có chân hoặc không có chân, khi di chuyển có thể di chuyển cục bộ từng phần hoặc có thể tháo rời ra để tiện vận chuyển. Kiểu bình phong này hiện còn khá phổ biến tại Nhật Bản, Hàn Quốc (4).


    IV. Sử dụng bình phong thế nào cho phù hợp

    Đây thực sự là một bí ẩn của Phong thủy học. Sách vở về Phong thuỷ xưa rất hiếm khi đề cập đến điều này, các kiến thức về sử dụng bình phong chủ yếu được truyền thừa qua các thế hệ thầy Địa lý. Phỏng vấn một số thầy Địa lý có uy tín ở khu vực miền Trung thì được biết, kích thước triều sơn không quan trọng lắm, chủ yếu là do dáng vẻ, thần thái của chúng tạo nên; còn kích thước của án (kể cả ngoại án và nội án) thì rất quan trọng đối với chủ nhân công trình. Tuy nhiên, đối với phần đông dân chúng do không hiểu hết các nguyên lý uyên áo của Phong thủy nên thường cho rằng, bình phong cốt để che kín ngôi nhà (hoặc huyệt mộ) cho ấm cúng và ngăn chặn gió độc, hay để ngăn chặn những thứ khí chẳng lành phát ra từ những vật lạ phía trước nhà (cây cối, cột mốc, đường đi…), nên việc dựng bình phong không theo quy chuẩn và kích thước phù hợp, gây mất cân đối cho công trình, ảnh hưởng đến thẩm mỹ thậm chí gây trở ngại cho việc đi lại.

    Thực ra, theo Phong thủy, nguyên do phải đặt bình phong (kể cả ngoại và nội án) đều nhằm cản bớt hỏa khí xâm nhập quá mạnh vào nhà gây hại cho chủ nhân. Phong thủy căn cứ vào thuyết Ngũ Hành cho rằng, phía trước công trình thuộc Hỏa(phía Nam); bên phải công trình là Kim (phía Tây), tượng cho chủ nhân; bên trái thuộc Mộc(phía Đông) tượng thê tài (vợ, tiền tài); phía sau thuộc Thủy(phía Bắc) tượng tử tôn (con cháu); còn trung ương thuộc Thổ. Quy định này cũng dễ hiểu vì vốn xưa nhà được đắp bằng đất (thổ); nhà sinh ra chủ (Kim), chủ sinh ra con cháu (Thủy) và điều khiển vợ, người làm (Mộc). Ngũ hành tương sinh hay tương khắc tùy thuộc khi ta đặt công trình vào các hướng cụ thể của thiên nhiên. Nếu đặt mặt trước công trình về hướng Nam (đây lại là hướng được người Việt yêu thích nhất khi làm nhà: “Lấy vợ hiền hòa, làm nhà hướng Nam”) thì Hỏa khí càng thêm vượng, dễ gây tổn hại cho chủ nhân nên mới đặt bình phong để ngăn chặn. Còn đối với các công trình xoay mặt về phía Bắc (nhất là các chùa) thì hầu như không sử dụng bình phong vì phía Bắc thuộc Thủy, mà Thủy lại khắc Hỏa. Chính vì những nguyên lý này mà khi làm nhà (hoặc lăng mộ) người ta phải mời thầy Địa lý để có sự nghiên cứu điều chỉnh cho phù hợp.

    Kích thước bình phong thế nào là vừa phải? Theo Phong thủy, khí được dẫn vào công trình từ cổng hay cửa. Trường hợp cổng và cửa công trình cùng một hướng thì Hỏa khí được dẫn trực tiếp vào mặt trước công trình. Trong kiến trúc truyền thống, cửa giữa là cửa chính để chủ nhân ra vào nên bình phong phải làm sao che kín được cửa giữa. Kinh nghiệm của các thầy Địa lý cho biết, kích thước của bình phong thường lấy từ kích thước của cửa giữa công trình nhưng có gia giảm để làm sao đứng từ trung tâm công trình nhìn ra thì cảm thấy bình phong vừa che kín hết cửa giữa là được. Đó là bề ngang của bình phong, còn chiều cao thì lấy theo mái hiên công trình. Nhà cửa xưa mái hiên thường thấp, chiều cao của bình phong (nhất là nội án) làm sao nhìn ngang bằng mái hiên nếu ta đứng từ trung tâm công trình nhìn ra; còn đối với ngoại án, kích thước là phù hợp nếu ta ngồi trên ghế mà cảm thấy có thể gác hai tay vừa vặn trên đầu bình phong (tức như đặt hai tay trên bàn).

    Khoảng cách đặt bình phong (ngoại án) đối với công trình cũng khá linh động nhưng đều có căn cứ vào kích thước công trình. Theo phần lớn các thầy Địa lý, khoảng cách giữa công trình và bình phong (Phong thủy gọi là Tiểu minh đường) thường lấy tương đương với kích thước bề ngang công trình. Tuy nhiên, nếu do hoàn cảnh, ngoại án phải đặt hơi xa thì cần có một lớp bình phong khác hoặc nội án hỗ trợ. Tiêu biểu là trường hợp Kinh thành Huế, do núi Ngự Bình cách Kinh thành đến 3km, Tiểu minh đường hơi rộng hơn bề ngang Kinh thành (chỉ khoảng 2,2km) nên trước mặt Hoàng Thành đã có thêm Kỳ Đài có vai trò như lớp án thứ hai che chắn cho nhà vua.

    Ở Việt Nam, có lẽ Huế là nơi còn giữ lại được nhiều kiểu bình phong nhất. Điều này cũng dễ hiểu vì Huế là cố đô cuối cùng của Việt Nam, lại vẫn giữ được khá nguyên vẹn diện mạo của kinh đô thời quân chủ. Nhưng không chỉ trong kiến trúc cung đình mà ngay cả ở đền chùa, am miếu, đình làng, nhà thờ họ… dường như nơi nào chúng ta cũng có thể nhìn thấy những bức bình phong được trang trí cầu kỳ, tinh xảo. Tại Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế hiện nay vẫn còn giữ được một số bức bình phong tuyệt đẹp, trong đó có cả bình phong bằng gỗ loại một tấm cố định, có cả loại ghép nhiều tấm hình chữ nhật đan bằng mây trên khung gỗ, lại có cả những bức bằng đá, bằng bạc, bằng ngà voi được chạm trổ cực kỳ tinh xảo. Đây thật sự là những kiệt phẩm của các nghệ nhân tiền bối mà mỗi khi đứng trước chúng ta thường có cảm giác như bị mê hoặc hút hồn. Chẳng biết do chúng quá đẹp hay do chúng đã hội tụ được phần nào những điều thần bí của Phong thuỷ.


    V. Chú thích:

    (1) Sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc Sử Quán triều Nguyễn, tập Kinh sư có phần nói rõ về núi Ngự Bình: “ở Tây bắc huyện Hương Thủy, nổi vọt lên ở quãng đất bằng như hình bức bình phong, làm lớp án thứ nhất trước Kinh thành..” ( Bản dịch của Viện Sử học. nxb KHXH, Hà Nội, tr 107). Vua Thiệu Trị đã từng xếp ngọn núi này là một trong 20 thắng cảnh của đất Thần kinh, có thơ vịnh lấy nhan đề là Bình lãnh đăng cao. Bài thơ được khắc vào bia đá, hiện vẫn còn ở chân núi.

    (2) Phong thủy không giải thích thật chi tiết vì sao phải dùng triều và án, chỉ thấy truyền lại những câu phú như:

    Nguyên văn:


    Điện tiền hữu án trị thiên kim
    Viễn hỉ tề mi cận ứng tâm
    Án nhược bất lai vi khoáng đãng
    Trung phòng phá hoại hoạ tương xâm.

    Ngoại sơn tác án diệc kham cầu
    Quan bão nguyên cầu khí bất lưu
    Túng hữu huyệt tình vô cận án
    Trung phòng điên bái tẩu tha châu.

    Tạm dịch:
    Trước điện có án ngàn vàng
    Xa hợp ngang mày, gần chính giữa.
    Án nếu không được khoáng đãng,
    Gia đình bị phá, hoạ tìm ngay.

    Núi xa làm án chẳng mong cầu
    Ôm kín nguyên thần khí chẳng thông
    Nếu ở gần huyệt không có án
    Gia đình điên đáo tẩu phương xa.

    (3) Lê Qúy Đôn toàn tập, tập I: Phủ biên tạp lục. Bản dịch của Viện Sử học. Nxb KHXH, Hà Nội, 1977, tr.112.

    (4) Tháng 7 năm 2003, tại cuộc Hội thảo khoa học “Văn hoá dân gian Đông á với hoạt động bảo tồn và triển lãm” (The Preservation and Exhibition of East Asian Culture in Relation to Folk Craft Aesthetics), bà KATAYAMA Mariko (thuộc Bảo tàng Triều Tiên tại thành phố Kyoto, Nhật Bản) đã trình bày một tham luận rất thú vị về sự tương đồng và dị biệt giữa bình phong Hàn Quốc và bình phong Nhật Bản. Chính qua tham luận này tôi mới biết rằng, tại Nhật Bản và Hàn Quốc hiện nay chỉ còn tồn tại loại bình phong chữ nhật ghép từ nhiều tấm gỗ, còn loại bình phong nguyên tấm như kiểu Việt Nam và Trung Quốc đang sử dụng khá phổ biến thì hầu như không còn.

    Ths. Phan Thanh Hải
    NGUỒN TRÍCH DẪN
    http://vovinamvvd.com/modules.php?name=news&op=viewst&sid=1451
  10. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    NGÀNH ĐÓNG THUYỀN VÀ TÀU THUYỀN Ở VIỆT NAM THỜI CHÚA NGUYỄN VÀ THỜI NGUYỄN

    Friday, December 31, 2010 4:38:47 AM
    VĂN HÓA GIAO THÔNG
    Việt Nam nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, có lượng mưa hàng năm cao, trung bình khoảng 1.500mm, có nơi lên đến 2.000 mm - 3.000 mm, chủ yếu tập trung vào một mùa, nên khi mùa mưa đến nhiều vùng miền bị nước ngập trên diện rộng. Địa hình Việt Nam có nhiều sông rạch, hệ thống đầm phá, ao hồ dày đặc, phân bố trên hầu khắp lãnh thổ; phía đông và phía nam tiếp giáp với biển, có chiều dài bờ biển khoảng 3.000 km. Vì thế, môi trường sống của người Việt Nam từ bao đời nay luôn gắn liền với sông nước, biển cả. Sống trong môi trường như thế, việc đi lại, vận chuyển, giao thương của người Việt Nam chủ yếu dựa vào đường thủy, cho nên thuyền bè đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội và văn hóa của người Việt. Bài viết này cung cấp một cái nhìn tổng quát về ngành đóng thuyền và tàu thuyền ở Đàng Trong trong các thế kỷ XVII - XIX và ở Việt Nam trong thời kỳ đầu của vương triều Nguyễn (1802 - 1945).


    KỲ 1 : NGÀNH ĐÓNG THUYỀN Ở ĐÀNG TRONG THỜI KỲ CÁC CHÚA NGUYỄN

    Trước khi Nguyễn Ánh (1762 - 1820) lập ra vương triều Nguyễn, Việt Nam đã trải qua một thời kỳ chia cắt và nội chiến kéo dài trong gần 2,5 thế kỷ (từ giữa thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII). Lãnh thổ Việt Nam bấy giờ chia thành hai vùng: Đàng Ngoài, từ phía bắc sông Gianh trở ra do chính quyền vua Lê - chúa Trịnh quản lý; Đàng Trong, từ phía nam sông Gianh trở vào do họ Nguyễn, một thế lực ly khai do Nguyễn Hoàng (1525 - 1613) khởi đầu, đã rời bỏ Đàng Ngoài đi về phương Nam, mở mang bờ cõi, lập nên một vương quốc mới, tồn tại trong 220 năm (1558 - 1777), trải 9 đời chúa trị vì.

    Trong 220 năm cai trị xứ Đàng Trong, các vị chúa Nguyễn đã mở mang bờ cõi, xây dựng quân đội hùng mạnh, mở cửa giao thương với ngoại quốc, phát triển kinh tế và thực thi nhiều chính sách an dân. Nhờ vậy, Đàng Trong đã phát triển nhanh chóng, an ninh quốc phòng ổn định, kinh tế vững mạnh.

    Đặc biệt, các chúa Nguyễn rất chú trọng phát triển ngành đóng thuyền, trước tiên là để phục vụ cho nhu cầu đi lại của phủ chúa và của bộ máy nhà nước ở Đàng Trong. Ngoài ra, việc xây dựng lực lượng thủy binh đủ mạnh để chiến đấu với thủy binh của họ Trịnh ở Đàng Ngoài cũng là một lý do khiến các chúa Nguyễn chú trọng phát triển ngành đóng thuyền. Thứ ba là do vấn đề phòng thủ bờ biển, xác lập chủ quyền và khai thác hải vật và tìm kiếm hóa vật (là những vàng bạc, của cải, vật dụng… của các tàu bị mắc nạn bỏ lại) trên hòn đảo và quần đảo nằm trong quyền kiểm soát của chính quyền các chúa Nguyễn như: Bãi Cát Vàng (tức quần đảo Hoàng Sa), Bắc Hải (quần đảo Trường Sa), Côn Lôn (ở nam biển Đông) và các hòn đảo Thổ Chu, Phú Quốc (ở vịnh Thái Lan)... Và cuối cùng là do việc giao thương bằng đường thủy giữa các vùng thuộc Đàng Trong, cũng như việc giao thương giữa Đàng Trong với các nước Đông Nam Á, Trung Quốc, Nhật Bản và Lưu Cầu (Ryukyu, nay là quần đảo Okinawa thuộc Nhật Bản), đã khiến các chúa Nguyễn tập trung ưu tiên phát triển ngành đóng thuyền trên tất cả phương diện: kỹ thuật đóng thuyền, số lượng và chủng loại tàu thuyền.

    [​IMG]
    Ảnh : Thuyền bè trên sông Hội An vào thế kỷ XVIII. Tranh do William Alexander vẽ khi ông tham gia vào phái bộ của Macartney ghé Đàng Trong vào các năm 1792 - 1794.


    Theo phản ánh trong các hồi ký của những người nước ngoài từng đến Đàng Trong trong các thế kỷ XVII - XVIII, ngành đóng thuyền ở Đàng Trong là một ngành độc quyền của nhà nước, do các chúa Nguyễn đích thân kiểm soát, chỉ đạo. Các vị chúa Nguyễn vừa là người ra lệnh đóng thuyền, vừa là kỹ sư trưởng chỉ huy mọi hoạt động liên quan đến việc đóng thuyền. John Barrow, một nhà buôn người Anh đã đến Đàng Trong trong 2 năm 1792 - 1793, đã ghi lại trong hồi ký của mình: “Chúa là người quản đốc các cảng, nhiều kho binh khí, kỹ sư trưởng của xưởng đóng thuyền… Trong công việc đóng thuyền thì không có một cái đinh nào được đóng xuống mà lại không xin ý kiến chúa Nguyễn trước tiên”.[John Barrow, A Voyage to Cochinchina, Oxford University Press, 1975, pp. 289]. Các chúa Nguyễn đã cho lập những xưởng đóng thuyền do nhà nước quản lý ở hai bên bờ sông Hương ở Phú Xuân.

    Thợ đóng thuyền được huy động thợ từ nhiều địa phương trong nước, tùy thuộc vào thế mạnh nghề nghiệp của họ: “… Thợ xẻ ở xã Duy Đức là thạo nhất. Thợ đóng thuyền người Động Hải và Cừ Hà quen đóng thuyền to; các xã huyện Khang Lộc và huyện Lệ Thủy đều có thợ, hay đóng thuyền nhỏ để chở đò buôn bán”. [Lê Quý Đôn, Toàn tập, Tập 1, “Phủ biên tạp lục”, KHXH, 1977, tr. 325].

    Những người thợ thủ công này sau khi trưng tập về Phú Xuân, được biên chế vào các ty, đội chuyên trách việc đóng thuyền như: ty thợ đóng thuyền, ty thợ mộc thuyền chuyên lo xẻ ván để phục vụ việc đóng thuyền, ty thợ làm đinh sắt, ty thợ làm mái chèo, ty thợ làm buồm, ty thợ hỏa luân chuyên đóng tàu thủy cỡ lớn…

    Ngoài ra, chúa Nguyễn còn sử dụng một lượng nhân lực rất lớn để khai thác gỗ làm nguyên liệu đóng thuyền. Năm 1729, chúa Nguyễn Phúc Khoát (1714 - 1765) cho lập đội mộc than ở Trường Đúc gồm 195 người, chuyên khai thác gỗ đóng thuyền đem về nộp cho phủ chúa. Chúa còn cử người vào tận vùng Quang Hóa (nay thuộc huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh) để khai thác các loại gỗ tốt, chở về Phú Xuân để đóng thuyền.

    Ngoài việc đóng thuyền mới, các công xưởng đóng thuyền của các chúa Nguyễn phải đảm trách việc tu sửa tàu thuyền theo định kỳ. Hàng năm, chúa sai bộ Công và các đội tiểu sai đi khám thuyền, đánh giá mức độ hư hỏng theo từng hạng ngạch và định ra mức tiền cần phải đầu tư để tu sửa các hạng thuyền bị hư hỏng, rồi cho dựng xưởng để tu sửa. Theo sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, bấy giờ chỉ riêng Phú Xuân đã có đến 256 sở đóng và sửa chữa tàu thuyền.

    [​IMG]
    Ảnh : Ghe câu ở Đà Nẵng. Tranh do J.B. Piétri vẽ trong sách Contrôleur des Pêches de l’Indochine (Thuyền buồm Đông Dương).

    Với chủ trương ưu tiên phát triển ngành đóng thuyền của các chúa Nguyễn, cùng với những chính sách hợp lý trong việc trưng dụng nhân lực, khai thác vật liệu và tiếp thu kinh nghiệm đóng thuyền của người Chăm, vốn rất giỏi đóng ghe bầu, một loại phương tiện kết hợp giữa thuyền buồm truyền thống của Mã Lai với thuyền đi biển của vùng Ấn Độ Dương - Địa Trung Hải. Nhờ đó, ngành đóng thuyền ở Đàng Trong trong các thế kỷ XVII - XVIII đã đạt được những thành tựu nổi bật. Các chúa Nguyễn đã có được một đội thuyền hùng hậu, đảm bảo cho các nhu cầu quốc phòng, giao thông và thương mãi, đáng chú ý là những chiến thuyền của thủy quân.

    Alexandre de Rhodes, vị giáo sĩ người Pháp đến Đàng Trong vào năm 1625 đã ước tính số tàu thuyền mà chúa Nguyễn dùng để phòng vệ bờ biển lúc bấy giờ là khoảng 200 chiếc [Alexandre de Rhodes, Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài, Ủy ban Đoàn kết Công giáo, 1994, tr. 14-15].

    Theo sách Đại Nam thực lục, vào tháng 3 năm Quý tị (1653), tại xã An Cựu ở Phú Xuân có cuộc duyệt binh lớn. Chúa Nguyễn Phúc Tần (1620 - 1687) đã huy động một lực lượng thủy quân đông đảo để tham gia cuộc duyệt binh này, với hơn 22.740 người và 377 thuyền được huy động. Một tư liệu khác cho biết đến năm 1674, lực lượng thủy quân của chúa Nguyễn Phúc Tần đã có 133 chiến thuyền do các xưởng trực thuộc phủ chúa đóng. Theo Thomas Bowyear, một nhà buôn người Anh đến Đàng Trong trong 2 năm 1695 - 1696, thì lực lượng thủy quân ở Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1675 - 1725) có: “200 chiến hạm, mỗi chiếc có từ 16 đến 22 khẩu đại bác, 500 chiến thuyền nhỏ từ 40 đến 44 tay chèo. 100 chiếc thuyền lớn từ 50 đến 75 tay chèo, 3 chiếc của người Âu. Các thuyền chiến trên đều do xưởng của phủ chúa đóng”. [L. Cadière et Mme. Mir, “Les Européens qui ont vu le vieux Hué: Thomas Bowyear 1695 - 1696”, BAVH, Vol. 2/1920, pp. 183-240].

    Cả Alexandre de Rhodes và Thomas Bowyear đều nhận định rằng vào thế kỷ XVII tuy số thuyền do người Đàng Trong đóng không nhiều bằng thuyền ở Đàng Ngoài, nhưng chất lượng kỹ thuật thì không hề thua kém. Họ cũng đánh giá cao về trình độ đóng thuyền và vũ khí trang bị trên các loại tàu thuyền ở Đàng Trong.

    [​IMG]
    Ảnh : Ghe bầu Nam Bộ. Tranh do J.B. Piétri vẽ trong sách Contrôleur des Pêches de l’Indochine (Thuyền buồm Đông Dương).


    Nhờ vào lực lượng thủy quân hùng mạnh này mà năm 1644, Nguyễn Phúc Tần, lúc bấy giờ còn là thế tử, đã chỉ huy thủy quân của chúa Nguyễn Phúc Lan (1600 - 1648), đánh bại một đội tàu của Hà Lan ở cửa Eo (cửa biển Thuận An sau này).

    Ngoài những đội thuyền chiến do chính quyền các chúa Nguyễn tổ chức đóng và trực tiếp quản lý, còn có những loại thuyền vận tải, thuyền buôn do người dân tự đóng để phục vụ nhu cầu đi lại và thương mãi. Các xưởng đóng thuyền tư nhân này tập trung chủ yếu ở các địa phương ven biển, trải dài từ Nam Bố Chính (nay là tỉnh Quảng Bình) cho đến Bình Thuận (ở cực nam Trung Bộ) và ở vùng châu thổ sông Mê Kông (Nam Bộ). Đặc biệt, những cánh rừng trong lưu vực sông Mê Kông chính là nơi cung cấp những loại gỗ tốt nhất dùng để đóng thuyền. Theo sách Phủ biên tạp lục, trong thế kỷ XVIII, có nhiều thương nhân ở vùng Nam Bố Chính đã đi tới vùng đồng bằng sông Mê Kông để khai thác gỗ và đóng thuyền tại chỗ, rồi đưa thuyền về bán lại ở quê hương của mình. [Li Tana, “Thuyền và kỹ thuật đóng thuyền ở Đàng Trong cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX”, Nghiên cứu và Phát triển, số 1/2002, tr. 79-94].

    Các chúa Nguyễn còn ban hành chính sách quản lý và thu thuế đối với tàu thuyền của tư nhân. Tại các địa phương đều có những cai lại, là viên chức nhà nước trông coi việc chuyên chở hàng hóa và khách buôn trên các thuyền tư nhân, và những cai trưng chuyên trách thu thuế hoạt động của thuyền tư nhân. Nhiệm vụ của các cai là kiểm đếm số lượng thuyền tư, kê biên vào sổ sách của nhà nước để quản lý; tiến hành đo đạc lòng thuyền, tính toán độ dài rộng là bao nhiêu để định hạng thuyền lớn hay nhỏ rồi theo đó mà thu thuế di chuyển. Chẳng hạn, nếu lòng thuyền rộng 11 thước, chủ thuyền phải nộp thuế di chuyển là 11 quan tiền/năm; nếu lòng thuyền rộng 9 thước, thì thuế di chuyển là 9 quan tiền/năm; lòng thuyền rộng 4 thước, là hạng nhỏ nhất thì thuế di chuyển là 4 quan tiền/năm.

    Ngoài hình thức nộp thuế di chuyển, các thương thuyền tư nhân còn bị trưng dụng thuyền để chở hàng hóa (chủ yếu là thóc gạo) cho nhà nước. Tàu thuyền tham gia chở hàng hóa cho nhà nước sẽ được miễn thuế di chuyển, đồng thời còn được nhà nước cấp phát 15 quan tiền, gọi là tiền kiên trì, để làm phí tổn sửa chữa tàu thuyền. Thuyền mới đóng, còn tốt thì số tiền phí tổn ấy chỉ là 10 quan tiền. Ngoài ra, họ còn được cấp 10 quan tiền để làm lễ cầu phong trong những lần chuyên chở hàng hóa cho nhà nước. Nhà nước sử dụng khoản thu từ tiền thuế di chuyển do các chủ thuyền khác nộp để trả tiền kiên trì và tiền làm lễ cầu phong cho các thuyền tham gia vận tải hàng hóa cho nhà nước. Nhà nước còn quản lý các xưởng đóng thuyền của tư nhân bằng cách ấn định số lượng số thuyền đóng mới (định ngạch) của các xưởng để thu thuế.

    Trong vòng 220 năm, các chúa Nguyễn đã mở mang, khai phá đất Đàng Trong và biến nơi này thành một vương quốc trù phú và hùng mạnh. Một trong những điều góp phần làm nên sự hùng mạnh của Đàng Trong chính là việc các chúa Nguyễn đã chú trọng phát triển ngành đóng thuyền ở Đàng Trong, cả về kỹ thuật đóng thuyền, lẫn quy mô, chủng loại và số lượng tàu thuyền. Đây chính là tiền đề quan trọng, có những tác động tích cực đến sự phát triển của ngành đóng thuyền và hoạt động của tàu thuyền thời Nguyễn sau này.

    KỲ 2 : CHIẾN TRANH NGUYỄN - TÂY SƠN VÀ VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁNH TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN NGÀNH ĐÓNG THUYỀN Ở NAM BỘ CUỐI THẾ KỶ 18

    Năm 1771, phong trào Tây Sơn do ba anh em Nguyễn Nhạc (? - 1793), Nguyễn Huệ (1753 - 1792) và Nguyễn Lữ (1754 - 1787) lãnh đạo nổ ra ở Bình Định nhằm chống lại chế độ cai trị của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Phong trào Tây Sơn nhanh chóng phát triển và lan ra cả nước, là tiền đề dẫn đến sự sụp đổ chế độ chúa Nguyễn ở Đàng Trong và của triều đình vua Lê - chúa Trịnh ở Đàng Ngoài sau này.

    Những biến động chính trị trong thời kỳ này đã khiến cho Nguyễn Ánh, một hậu duệ của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, phải rời bỏ Phú Xuân vào nương náu ở Nam Bộ. Sau nhiều phen chạy trốn những cuộc truy đuổi của anh em nhà Tây Sơn, ra tận các đảo Phú Quốc, Thổ Châu… đến năm 1788, Nguyễn Ánh trở về Gia Định, bắt đầu tập hợp lực lượng, gây dựng cơ nghiệp và tiến hành cuộc chiến tranh bền bỉ chống lại anh em Tây Sơn cho đến lúc giành thắng lợi cuối cùng vào năm 1801.

    Trong những năm đứng chân trên đất Nam Bộ để xây dựng lực lượng cho cuộc chiến tranh chống Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã thực thi nhiều chính sách tích cực để phát triển kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế đồn điền và kinh tế thủ công nghiệp, mà ngành đóng thuyền là một điểm sáng.

    Để vực dậy ngành thủ công nghiệp, Nguyễn Ánh áp dụng chế độ công tượng ở Nam Bộ giống như các chúa Nguyễn đã từng thực thi ở Phú Xuân trước đây. Năm 1791, Nguyễn Ánh quy hoạch các ngành nghề thủ công, biên chế thợ thuyền thành những lính thợ và biên chế họ thành 62 ty thợ thủ công, dựa theo các ngành nghề chuyên biệt và phân bổ khắp các dinh trấn ở Nam Bộ. Thợ thủ công trong các ty này được coi như binh lính, được trả lương và miễn xâu thuế. Ngoài các ty, còn có các đội chuyên trách như đội mộc đỉnh chuyên khai thác gỗ để đóng thuyền, đội biệt nạp buồm lá chuyên đi lấy lá buông để làm buồm… Thợ trong các đội được phân làm 3 hạng và được tổ chức như một loại quân dự bị. Khi trong nước yên ổn thì họ làm dân, đóng thuế sưu bằng chính sản phẩm của mình. Khi có chiến tranh họ trở thành người lính chiến đấu trong quân đội của Nguyễn Ánh. Ngoài ra còn có những tổ chức của những người dân cùng làm một nghề ở những vùng hẻo lánh, dân cư thưa thớt, gọi là các nậu. Các nậu hoạt động trong nhiều lĩnh vực, trong đó có những lĩnh vực có liên quan đến nghề đóng thuyền như các nậu khai thác dầu rái, dầu trám, sơn… đem nộp cho chính quyền của Nguyễn Ánh để phục vụ cho việc sơn, trét, chống thấm nước tàu thuyền. Nhà nước quản lý, thu thuế thân của dân nậu và buộc họ nộp sản phẩm thay cho sưu dịch. [Tôn Nữ Quỳnh Trân, “Vua Gia Long và ngành đóng thuyền tại Nam Bộ”, Những vấn đề lịch sử về triều đại cuối cùng ở Việt Nam, 2002, tr. 311].

    Nam Bộ là vùng đất của sông ngòi, kênh rạch, phương tiện đi lại chủ yếu bằng ghe thuyền. Với địa hình và thiên nhiên như vậy, cần phải phát triển ngành đóng thuyền ở Nam Bộ mới cung ứng đủ phương tiện đi lại cho quan lại và binh dân. Mặc khác, nhà Tây Sơn, đối thủ của Nguyễn Ánh đã xây dựng được một lực lượng thủy quân hùng hậu. Cho nên Nguyễn Ánh cần phải phát triển ngành đóng thuyền và xây dựng lực lượng thủy quân hùng mạnh mới đủ sức đương đầu với thủy quân Tây Sơn.

    Chủ trương phát triển thủy quân của Nguyễn Ánh đã làm gia tăng nhanh chóng số lượng tàu thuyền. Theo sách Phủ biên tạp lục, vào năm 1768 ở Gia Định chỉ có 7 chiếc thuyền công dùng để việc chuyên chở lúa gạo, hàng hóa và vật liệu cho nhà nước. Nhưng đến năm 1776, thì ở Gia Định đã có hơn 500 tàu thuyền do nhà nước quản lý. Trong đó, dinh Trấn Biên có 160 thuyền chiến và 18 ghe bầu hải sư, dinh Phiên Trấn có 310 thuyền chiến và 18 ghe bầu hải sư và dinh Long Hồ có 75 thuyền chiến và 18 ghe bầu hải sư. [Lê Quý Đôn, Toàn tập, Tập 1, “Phủ biên tạp lục”, KHXH, 1977, tr. 264].

    Năm 1778, Nguyễn Ánh cho đóng ngay 50 chiến thuyền đầu nhọn, gọi là thuyền Long Lân sung vào thủy quân. Năm 1780, một viên tướng của Nguyễn Ánh là Đỗ Thanh Nhơn đã sáng chế một kiểu thuyền, gọi là thuyền trường đà, rất tiện dụng trong việc đi biển và đánh trận bằng thủy binh. Đây được xem là một bước cải tiến quan trọng về mặt kỹ thuật của ngành đóng thuyền ở Đàng Trong thời bấy giờ.

    Kể từ khi trở lại Gia Định, Nguyễn Ánh đã tập trung sức lực và trí tuệ cho ngành đóng thuyền. Năm 1793, Nguyễn Ánh mua một chiếc tàu cũ từ châu Âu, rồi cho tháo rời ra từng mảnh để nghiên cứu, lấy mẫu. Sau đó, cho ráp lại theo mô hình cũ để tạo thành một chiếc thuyền mới. Đích thân Nguyễn Ánh trông coi việc này. Bằng cách này, Nguyễn Ánh đã học được kỹ thuật đóng thuyền của phương Tây để đóng mới thuyền chiến, trang bị cho thủy quân của mình. Chỉ trong 2 năm 1793 - 1794, Nguyễn Ánh đã đóng được gần 10 chiếc thuyền chiến theo kỹ thuật châu Âu. Trong số đó, có 3 chiếc quan trọng nhất là thuyền Phụng Phi do Vannier chỉ huy, thuyền Ưng Phi do De Forçans chỉ huy và thuyền Long Phi do Chaigneau chỉ huy.* Ngoài ra, còn có một thuyền chiến mang tên Trân Châu do đích thân Nguyễn Ánh chỉ huy [Archives des Missions Étrangeres de Paris, Cochinchine, Vol. 747, pp. 869-872].

    Trong các năm tiếp theo, Nguyễn Ánh cho đóng thêm nhiều thuyền chiến khác với số lượng lớn. Năm 1796, Nguyễn Ánh cho đóng thêm 15 thuyền chiến, đều mang hiệu Gia kèm theo 1 chữ thuộc tam tài (Thiên, Địa, Nhân) hay thập nhị chi (Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi). Năm 1800, Nguyễn Ánh cho đóng thêm 150 thuyền hải đạo (thuyền đi biển). Năm 1801, lại cho đóng thêm 200 thuyền hải đạo cùng các thuyền chiến mang tên: Anh, Vũ, Thước, Nga, Quyên, Phu, Lê, Diên, Chiêu, Ly. [Đại Nam thực lục, Tập II, Sử học, 1962, tr. 451].

    Với tốc độ đóng thuyền rất nhanh, mỗi chiếc chỉ đóng mất 3 tháng, thậm chí có khi không đến 3 tháng, nên số lượng thuyền chiến của thủy quân Nguyễn Ánh tăng lên nhanh chóng. Cho đến khi chấm dứt cuộc chiến với Tây Sơn, lực lượng thủy quân của Nguyễn Ánh gồm gần 100 chiến hạm, 800 pháo hạm, 500 bán pháo hạm.

    Ngoài việc đóng thuyền để phục vụ cho nhu cầu trong nước, Nguyễn Ánh còn đóng thuyền cho Xiêm La (Thái Lan) do mối quan hệ liên minh giữa Nguyễn Ánh với Xiêm La trong cuộc chiến tranh chống Tây Sơn. Theo sách Đại Nam thực lục, vào năm 1789, Nguyễn Ánh ra lệnh đóng hơn 40 đại chiến thuyền và hơn 100 ghe bầu. Số ghe thuyền này đã được hoàn thành năm 1791 và được Nguyễn Ánh chuyển giao cho Xiêm La để đổi lấy vũ khí của Xiêm La để trang bị cho binh sĩ trong cuộc chiến chống Tây Sơn. [Li Tana, “Thuyền và kỹ thuật đóng thuyền ở Đàng Trong cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX”, Nghiên cứu và Phát triển, số 1/2002, tr. 86]. Mặt khác, do lực lượng thủy quân Xiêm La bấy giờ có ít tàu thuyền so với thủy quân của Nguyễn Ánh, nên họ cần thêm nhiều thuyền chiến để gia tăng sức mạnh quân sự nhằm gây áp lực với quốc gia láng giềng Campuchia, và trong một chừng mực nhất định, còn để cạnh tranh ảnh hưởng với Việt Nam.

    Để phục vụ cho ngành đóng thuyền ở Nam Bộ, Nguyễn Ánh đã lập nhiều xưởng đóng thuyền ở ven các dòng sông trong trấn Gia Định. Ngoài việc tổ chức đóng mới, tu sửa tàu thuyền dùng trong thủy quân và vận tải công, Nguyễn Ánh còn tổ chức việc đăng ký và quản lý tàu thuyền của tư nhân, vừa để thu thuế, vừa để chống lại tình trạng kẻ xấu dùng tàu thuyền tiến hành những vụ cướp bóc trên các dòng sông và vùng biển ở Nam Bộ. Chính quyền định ra phép đo lòng thuyền và dựa vào độ rộng hẹp của lòng thuyền để định ra các hạng mức tiền thuế mà thuyền buôn phải nộp cho chính quyền của Nguyễn Ánh. Chính quyền của Nguyễn Ánh ở Nam Bộ cũng định ra phép tắc, luật lệ trong giao thông đường thủy. Thuyền nào phạm luật sẽ bị xử phạt bởi những chế tài thích hợp.

    Có thể nói rằng, Nguyễn Ánh đã có nhiều công lao trong việc đặt nền móng và phát triển ngành đóng thuyền ở Nam Bộ, nhất là việc áp dụng kỹ thuật đóng thuyền của phương Tây. Nhờ vậy mà ngành đóng thuyền ở Nam Bộ vào cuối thế kỷ XVIII đã có những tiến bộ đáng kể, cả về kỹ thuật đóng thuyền lẫn số lượng tàu thuyền các loại. Nguyễn Ánh cũng đã ban hành những chính sách phù hợp trong việc khai thác nguyên liệu để đóng thuyền, tuyển mộ và sử dụng nhân công trong ngành đóng thuyền, ban hành những quy định để quản lý và thu thuế tàu thuyền.

    Ngoài ra, còn có một nguyên nhân khác khiến cho công nghiệp đóng thuyền ở Đàng Trong có sự bùng nổ đột ngột vào giữa thế kỷ XVIII, đó là do chính sách khuyến khích buôn bán lúa gạo, kết hợp với đóng thuyền chở lúa gạo từ Việt Nam và Thái Lan về Trung Quốc do nhà Thanh (1644 - 1911) chủ trương trong thời kỳ này.

    Chính sách khuyến khích buôn bán lúa gạo giữa Trung Hoa với Việt Nam và Thái Lan được nhà Thanh ban hành từ năm 1722 nhưng không được thương nhân quan tâm nhiều lắm. Nguyên nhân là do lúa gạo là một thứ hàng hóa cồng kềnh, giá vận chuyển cao nên ít sinh lợi. Vì thế, giới thương nhân buôn bán lúa gạo ở Trung Hoa mong muốn được đóng thuyền ở các nước Đông Nam Á, với giá rẻ hơn rất nhiều so với thuyền đóng ở Trung Hoa, rồi dùng những chiếc thuyền mới đóng chở lúa gạo mua từ vùng này đưa về Trung Hoa để bán cả lúa gạo và thuyền. Nguyện vọng này được nhà Thanh chính thức chấp thuận vào năm 1747. Điều này đã khiến cho nhiều thương nhân Trung Hoa tìm đến Việt Nam và Thái Lan thuê thợ đóng thuyền để chở lúa gạo về bán ở Trung Hoa. Hệ quả của chính sách này đã khiến cho vùng châu thổ sông Mê Kông trở thành một trong hai công xưởng đóng thuyền nhộn nhịp nhất châu Á vào thế kỷ XVIII. Thương nhân người Hoa chiêu mộ cả thợ đóng thuyền người Việt ở Nam Bộ lẫn thợ đóng thuyền người Hoa từ Trung Quốc sang để đóng thuyền cho họ. Phần lớn thuyền buôn gạo này đều do các xưởng đóng thuyền tư nhân đóng. Thuyền đóng ra không chỉ bán cho thương nhân người Hoa, mà bán cho cả thương nhân Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha.

    Nếu chính quyền của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong trong các thế kỷ XVII - XVIII và chính quyền của Nguyễn Ánh ở Nam Bộ vào cuối thế kỷ XVIII quan tâm đến việc đóng thuyền dùng cho quân đội và cho nhu cầu vận tải công, thì các xưởng đóng thuyền của tư nhân lại tập trung đóng thuyền cho các thương nhân buôn bán lúa gạo người Trung Hoa và người phương Tây. Điều này đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của ngành đóng thuyền ở Đàng Trong trong các thế kỷ XVII - XVIII và tạo nền tảng thuận lợi cho sự phát triển của ngành đóng thuyền dưới thời nhà Nguyễn.

    Chú thích ảnh

    Ảnh 1: Kiểu thuyền buồm của Xiêm La từng đến buôn bán ở Đàng Trong vào cuối thế kỷ XVIII.

    Ảnh 2: Thuyền Châu ấn của Nhật Bản từng đến buôn bán ở Đàng Trong vào thế kỷ XVII - XVIII.


    --------------------------------------------------------------------------------

    Ba người này là những sĩ quan người Pháp hợp tác và phục vụ dưới quyền của Nguyễn Ánh trong những năm tháng chiến tranh chống lại nhà Tây Sơn.

    Kỳ 3: Hoạt động đóng thuyền và tu sửa tàu thuyền thời Nguyễn
    KỲ 3 :
    Sau khi đánh bại Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Gia Long (1802 - 1820), chọn Huế làm kinh đô, khai sinh ra vương triều Nguyễn (1802 - 1945).

    1. Hoạt động đóng thuyền trong các công xưởng của triều Nguyễn

    Ý thức được vị trí của tàu thuyền trong vấn đề xây dựng lực lượng thủy quân, giao thông vận tải và phát triển kinh tế, vua Gia Long tiếp tục cho duy trì các xưởng đóng tàu thuyền cỡ lớn ở Gia Định mà ông đã thiết lập trong thời gian chiến tranh với Tây Sơn. Đồng thời, vua cho mở các công xưởng đóng thuyền mới ở kinh đô Huế để đóng thuyền phục vụ cho nhu cầu đi lại của nhà vua, hoàng gia và triều đình, và các loại tàu thuyền khác dùng cho lực lượng thủy quân ở kinh đô.

    Ngoài ra, ở các địa phương ven biển như: Quảng Bình, Nghệ An, Thanh Hóa, Nam Định, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Bình Thuận, Biên Hòa đều có các xưởng đóng thuyền do nhà nước tổ chức, đảm trách việc đóng thuyền để phục vụ cho nhu cầu của quan quân ở các địa phương đó và sẵn sàng đóng tàu thuyền cho triều đình mỗi khi triều đình có nhu cầu.

    Kết quả của chủ trương phát triển ngành đóng thuyền của vua Gia Long là số lượng tàu thuyền ở Việt Nam tăng lên nhanh chóng. Theo sách Đại Nam thực lục, đến năm 1821, tổng số tàu thuyền ở Việt Nam là 3.190 chiếc [Dẫn theo: Li Tana, “Thuyền và kỹ thuật đóng thuyền ở Đàng Trong cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX”, Nghiên cứu và Phát triển, số 1/2002, tr. 81]. Riêng lực lượng thủy quân dưới triều Gia Long có: “200 thuyền mang 16, 18, 20, 22 đại bác; 500 tiểu chiến thuyền có 40 đến 44 tay chèo, vũ trang bằng nhiều tiểu bác và 1 đại bác; 200 đại chiến thuyền với 50 đến 70 tay chèo, vũ trang bằng các đại bác và tiểu bác; 3 tàu chiến kiểu Âu châu là Phụng Phi, Long Phi và Ưng Phi… mỗi thuyền có đến 30 đại bác. Xưởng đóng tàu Hà Mật có tới 4.000 thợ và đóng những chiếc thuyền trọng tải đến 400 tấn bằng gỗ cứng, theo kiểu thức phương Tây” [P. Huard, et M. Durand, Connaissances du VietNam, École Francaise d’Extrême-Orient, Hanoi, 1954, p. 299]. Kết quả này đã phản ánh sự phát triển vượt bậc của ngành đóng thuyền dưới triều vua Gia Long, khiến nhiều người phương Tây đến Việt Nam thời kỳ này phải khâm phục.

    Sang triều Minh Mạng (1820 - 1841), nhà nước đẩy mạnh việc đóng thuyền ở kinh đô Huế, không chỉ chú trọng gia tăng số lượng, mà còn gia tăng chủng loại tàu thuyền, đồng thời tăng cường cải tiến kỹ thuật đóng thuyền và triển khai đóng các loại thuyền theo kỹ thuật của phương Tây.

    Vua Minh Mạng định ngạch các hạng thuyền (tức là ấn định số lượng các loại thuyền cần đóng) ở kinh sư (tức kinh đô Huế) và các địa phương trong cả nước, rồi yêu cầu các xưởng thuyền ở kinh sư và các địa phương phải đóng cho đủ số thuyền đã được định ngạch. Theo đó, vào năm 1828, ngoài 20 chiếc thuyền ngự để vua dùng, số thuyền định ngạch ở kinh sư là 379 chiếc thuyền các hạng; còn thuyền định ngạch ở các địa phương khác trong cả nước là 1.042 chiếc thuyền các hạng [Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập XIII, Thuận Hóa, 1993, tr. 384-387]. Ngoài ra, vua Minh Mạng còn ra lệnh cho kinh sư đóng thêm 35 thuyền ngoại ngạch, phòng khi có thuyền hư hỏng, cần phải sửa chữa thì lấy thuyền ngoại ngạch bù vào cho đủ số lượng.

    Triều đình cũng định ra quy thức (kích thước và kiểu dáng) cho từng hạng thuyền, thống nhất trong phạm vi cả nước. Theo đó, năm 1809, ngoại trừ thuyền ngự để vua dùng, thuyền bọc đồng, thuyền hải đạo và thuyền ván sam dùng ở kinh sư, các hạng thuyền còn lại gồm: thuyền hiệu Ba, thuyền hiệu Lãng, thuyền hiệu Hải, thuyền hiệu Dương, thuyền hiệu An, thuyền hiệu Tĩnh thuyền hải đạo ở các tỉnh, thuyền lê, thuyền ô, thuyền châu, thuyền sai, thuyền ván sam, thuyền khoái, thuyền khinh… đều có quy thức cụ thể để các xưởng thuyền theo các quy thức đó mà đóng cho chuẩn.

    Đặc biệt, vua Minh Mạng rất chú trọng học tập kỹ thuật đóng tàu thuyền của người phương Tây để phát triển kỹ nghệ đóng tàu thuyền trong nước. Thành tựu nổi bật nhất của vua Minh Mạng là phát triển việc đóng thuyền bọc đồng theo kỹ thuật của người Pháp và sáng chế thành công tàu máy hơi nước.

    Năm 1822, vua Minh Mạng cho mua một chiếc thuyền bọc đồng của Pháp, dài 6 trượng 5 thước 5 tấc, rộng 1 trượng 8 thước, sâu 1 trượng 2 thước 5 tấc, đưa về Huế, đặt tên là Điện Dương, để làm mẫu cho các xưởng đóng thuyền ở Huế, nghiên cứu, triển khai đóng theo mẫu thuyền này. Tháng 6 năm ấy, vua “sai Thống chế thủy sư Phan Văn Trường coi đóng thuyền hiệu theo kiểu Tây dương”. Qua năm sau, vua “sai binh lính 2 vệ Thần Uy, Chấn Uy, cơ Ngũ Thủy, cơ Kiên Chu đi lấy gỗ đóng thuyền Thụy Long” (phỏng theo mẫu thuyền Điện Dương). Thuyền đóng xong vua thưởng 2.000 quan tiền”. [Đại Nam thực lục, Tập VI, Khoa học, 1963, tr. 183].

    Ngoài ra, do thực tế khi lùng bắt hải tặc trên biển, quan quân triều đình sử dụng loại thuyền gỗ dài và lớn nên xoay trở chậm, còn các loại thuyền ô và thuyền lê đi kèm thì thấp bé nên khó khăn khi tác chiến. Vì thế, vua cho kết hợp hai loại thuyền ấy để đóng một loại thuyền mới, kích thước trung bình, thân bọc đồng, ưu thế hơn hai loại thuyền kia, gọi là thuyền tuần dương để tuần tiễu, canh phòng mặt biển và chống hải tặc.

    Năm 1838, vua Minh Mạng cho mua một chiếc tàu chạy bằng máy hơi nước, cũng của người Pháp, đưa về chạy thử ở Huế. Sau đó, vua Minh Mạng ra lệnh cho Vũ Khố nghiên cứu chiếc tàu máy hơi nước này, để ứng dụng đóng một chiếc tương tự. Tháng 2.1839, chiếc tàu do Vũ Khố đóng xong được đưa ra chạy thử trên sông Hương nhưng thất bại vì nồi hơi nước bị vỡ. Tháng 4.1839, cuộc thử nghiệm lần thứ hai trên sông An Cựu diễn ra tốt đẹp. Vua Minh Mạng khen thưởng rất hậu hĩ cho những người tham gia đóng chiếc tàu máy hơi nước này. Tháng 10.1839, chiếc tàu máy hơi nước thứ hai, dài 4 trượng 3 thước 2 tấc, rộng 8 thước 1 tấc, sâu 3 thước 6 tấc; thùng nước dài 4 thước 5 tấc, rộng 5 thước, cao 3 thước 2 phân, được chế tạo thành công với phí tổn hơn 11.000 quan tiền [Đại Nam thực lục, Tập XXI, KHXH, 1969, tr. 227]. Việc đóng tàu máy hơi nước thành công, mở ra khả năng triều Nguyễn ứng dụng công nghệ này để phát triển đội ngũ tàu máy hơi nước của triều Nguyễn. Tuy nhiên, sau khi vua Minh Mạng qua đời, vua Thiệu Trị (1841 - 1847) lên kế vị chỉ đóng thêm 2 chiếc tàu máy thì ngưng hẳn.

    Sang triều Tự Đức, ban đầu, nhà nước có ý duy trì việc đóng tàu máy hơi nước như các triều trước đã làm. Vì thế, năm 1863, vua Tự Đức đã cử viên Ngoại lang Hoàng Văn Sưởng, cai đội Lê Văn Mân cùng 8 người thuộc Thủy sư Vũ khố sang Hương Cảng học tập kỹ thuật đóng tàu trong các xưởng của người Anh. Năm 1866, vua Tự Đức lại sai hai tỉnh Vĩnh Long và An Giang lựa chọn 20 thợ thủ công có tay nghề cao, cử tới Gia Định để học tập các nghề kỹ thuật cao như đúc súng bằng sắt, đóng tàu thủy, chế tạo máy móc trong các xưởng của người Pháp ở Gia Định. Việc học tập để chế tạo thuyền theo kiểu Tây dương của nhóm Hoàng Văn Sưởng và Lê Văn Mân ở Hương Cảng, cũng như việc học tập các nghề kỹ thuật cao của 20 người thợ An Giang và Vĩnh Long trong các xưởng của người Pháp ở Gia Định, không rõ có phát huy hiệu quả hay không, bởi không thấy sử sách của triều Nguyễn ghi chép thêm về chuyện này.

    Trong khi đó, các tàu máy hơi nước do các triều Minh Mạng, Thiệu Trị đóng, sau một thời gian sử dụng đã trở nên cũ nát, hư hỏng. Vì thế vua Tự Đức cho dừng hẳn việc sửa chữa các tàu này và đặt mua các tàu mới do nước ngoài đóng. Từ năm 1865, đến năm 1872, triều đình Tự Đức đã mua 4 chiếc tàu máy hơi nước của phương Tây. Năm 1876, người Pháp tặng cho triều đình Tự Đức 5 chiếc tàu máy hơi nước khác để sử dụng. Đến năm 1876, tổng số tàu máy của nước ngoài do triều đình Tự Đức đặt mua và do người Pháp tặng là 9 chiếc. Không chỉ đặt mua tàu của nước ngoài, triều đình Tự Đức còn thuê hoa tiêu người nước ngoài về để coi sóc các tàu máy này.

    2. Hoạt động tu sửa tàu thuyền trong các công xưởng của triều Nguyễn

    Ngoài việc đóng thuyền, triều Nguyễn còn đề ra nhiều quy định về việc sửa chữa tàu thuyền. Năm 1824, triều đình ban hành quy định về niên hạn tu sửa tàu thuyền. Theo đó, thuyền đóng mới sau 3 năm thì tiểu tu một lần, 5 năm kế tiếp đại tu một lần, rồi 3 năm kế tiếp tiếp tục tiểu tu một lần, 5 năm kế tiếp lại đại tu một lần. Năm 1832, triều đình lại quy định 6 năm 1 một lần tiểu tu, 6 năm kế tiếp một lần đại tu cho các hạng tàu thuyền nói chung do triều đình cho đóng. Riêng với loại thuyền bọc đồng, triều đình có những quy định rất chặt chẽ trong việc sửa chữa và thanh lý loại thuyền này. Năm 1855, triều đình quy định niên hạn tu sửa là 5 năm, kể từ khi khởi đóng đối với thuyền bọc đồng và 3 năm đối với thuyền không bọc đồng. Triều Nguyễn cũng quy định cụ thể về tuổi thọ của từng loại thuyền, theo đó, thuyền bọc đồng có tuổi thọ khoảng 15 - 16 năm, còn tuổi thọ của thuyền không bọc đồng chỉ khoảng 9 - 10 năm [Đại Nam thực lục, Tập XXVIII, KHXH, 1973, tr. 107].

    Cuối triều Tự Đức, hoạt động đóng mới tàu thuyền không còn nhiều như trước. Ngược lại, việc tu sửa tàu thuyền diễn ra liên tục và khẩn trương. Nhiều loại vật liệu mới, làm bằng gang thép được dùng để thay thế cho các chi tiết trước kia làm bằng gỗ, nhưng nay đã bị hư hỏng nặng. Tuy nhiên, các xưởng sửa chữa tàu thuyền của triều đình lại không thể sửa chữa các tàu máy hơi nước mua từ nước ngoài. Vì thế khi tàu Đằng Huy mua từ nước ngoài về bị hư hỏng, triều đình phải phái người đưa tàu sang Hương Cảng để sửa chữa. Đến cuối triều Tự Đức việc đóng mới và sửa chữa tàu thuyền bị đình trệ trong một thời gian dài rồi ngưng hẳn. Ngành đóng thuyền và sửa chữa tàu thuyền của nhà nước quân chủ Việt Nam chính thức chấm dứt.

    3. Công xưởng đóng thuyền

    Công xưởng đóng thuyền của triều Nguyễn đặt tại kinh đô Huế và một số địa phương trong nước như Gia Định, Quảng Bình, Nghệ An, Nam Định… Các công xưởng này chịu sự quản lý trực tiếp của ty Doanh Thiện, cơ quan chuyên trách về việc đóng sửa tàu thuyền. Thợ đóng sửa tàu thuyền được biên chế theo chuyên môn, gồm 2 cơ: cơ Kiên Chu và cơ Thiện Chu, được thành lập vào tháng 8.1801, đến năm 1837, thì được đổi tên thành tượng cục Kiên Chu và tượng cục Thiện Chu. Tham gia vào quá trình đóng mới, tu sửa, hoàn thiện tàu thuyền còn có thợ thủ công đến từ các ty thợ khác như ty thợ xẻ ván, chuyên cung cấp ván đóng thuyền; ty thợ đóng đinh thuyền, chuyên đóng các đinh tán làm bằng thép để liên kết các bộ phận của thuyền…

    Tại Huế, công xưởng đóng thuyền được lập ở hai bên bờ sông Hương, gồm 255 xưởng [Đại Nam nhất thống chí, Tập 1, Thuận Hóa, 1992, tr. 71], tập trung ở 3 khu vực: khu vực thứ nhất ở “hai bờ tả hữu sông Hương, từ Thạch Than đến địa phận xã Thiên Lộc” (từ trước mặt Kinh thành Huế đến vị trí của Đập Đá hiện nay); khu vực thứ hai từ “Vi Dã (Vĩ Dạ hiện nay) đến địa phận xã Võng Trì” ở bờ nam sông Hương, dài khoảng 3 km; khu vực thứ ba ở “địa phận xã Thanh Phước, chỗ tàu đồng to đỗ”, ở bờ bắc sông Hương. Trong mỗi khu vực như vậy có hàng chục xưởng lớn nhỏ, đảm trách các phần việc khác nhau theo các quy trình của kỹ nghệ đóng thuyền, chuyên sản xuất các loại tàu thuyền có kích thước, tên gọi và công năng khác nhau.

    Các xưởng này không chỉ đảm trách việc đóng thuyền mới mà còn lo tu sửa tàu thuyền bị hư hỏng theo yêu cầu của nhà nước. Trong số các công xưởng đóng thuyền của triều Nguyễn ở Huế, xưởng Thanh Phước có quy mô lớn nhất, chuyên đóng thuyền bọc đồng cho triều đình. Dưới triều Minh Mạng, xưởng Thanh Phước có khoảng “1 trung đoàn lính thợ chuyên đóng và sửa chữa tàu bè cho thủy quân hoàng gia” [R. Morineau, “Những di tích lịch sử ở vùng hạ lưu Bao Vinh”, Những người bạn cố đô Huế (BAVH 1915), Thuận Hóa, 1997, tr. 298].

    Ngoài xưởng đóng thuyền quy mô ở Thanh Phước, triều Nguyễn còn duy trì một xưởng đóng thuyền lớn ở Sài Gòn. Xưởng này được lập từ thời chiến tranh với Tây Sơn, tiếp tục hoạt động dưới các triều Gia Long và Minh Mạng.

    T.Đ.A.S.

    Chú thích ảnh

    Ảnh 1: Hình thuyền mông đồng ở trên Chương đỉnh

    Ảnh 2: Hình thuyền ô ở trên Dụ đỉnh

    Ảnh 3: Thuyền ngự Tế Thống đời vua Tự Đức

    Kỳ 4: Các loại tàu thuyền thời Nguyễn

    Trên Cửu đỉnh đặt trước Thế Tổ Miếu trong Hoàng Thành Huế có đúc nổi hình của 7 loại tàu thuyền thời Nguyễn. Đó là: đa tác thuyền (ở trên Cao đỉnh), lâu thuyền (Nhân đỉnh), mông đồng thuyền (Chương đỉnh), hải đạo (Nghị đỉnh), đĩnh (Thuần đỉnh), lê thuyền (Tuyên đỉnh) và ô thuyền (Dụ đỉnh). Có lẽ, 7 loại tàu thuyền này được coi là thành tựu của ngành đóng thuyền dưới triều Gia Long và Minh Mạng nên mới được chọn đúc lên Cửu đỉnh.

    Tuy nhiên, danh mục các loại tàu thuyền do triều Nguyễn đóng từ đời Gia Long đến đời Tự Đức được liệt kê trong sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ lại nhiều hơn các loại thuyền được đúc trên Cửu đỉnh. Có hơn 25 loại thuyền khác nhau đã được liệt kê trong sách này, gồm: thuyền ngự (thuyền của vua), thuyền ngự bọc đồng, thuyền rồng, thuyền lầu, từ chu (thuyền của thái hậu), thuyền lê, thuyền đĩnh, thuyền dẫn đĩnh, thuyền sai, thuyền ván sam, thuyền ván sam nhỏ kiểu Tây dương, thuyền khoái, thuyền khinh, thuyền ô, thuyền châu, thuyền bọc đồng, thuyền đồng nhiều dây, thuyền tuần dương, thuyền hải đạo, thuyền hải vận, thuyền hiệu Ba, thuyền hiệu Lãng, thuyền hiệu Hải, thuyền hiệu Dương, thuyền hiệu An, thuyền hiệu Tĩnh…

    Các loại tàu thuyền này được phân thành 4 nhóm, dựa theo chức năng, đối tượng sử dụng và quy thức của tàu thuyền, gồm: thuyền vua, thuyền bọc đồng, tàu máy hơi nước và thuyền công cấp phát.

    1. Thuyền vua và thuyền quan

    Đây là các loại thuyền dùng để phục vụ nhu cầu đi lại và giải trí của vua, thái hậu, các thành viên trong hoàng tộc và các quan đại thần.

    Thuyền của vua có rất nhiều hạng với những danh xưng khác nhau, tùy thuộc vào chức năng sử dụng, kiểu dáng và trang trí của thuyền. Mỗi khi vua tuần du bằng đường thủy thì dùng các loại ngự chu (thuyền của vua), long thuyền (thuyền rồng) hay kim đĩnh (thuyền dẫn đầu đoàn ngự thuyền của vua) và đoàn thuyền tùy tùng theo hầu. Đoàn thuyền tùy tùng gồm nhiều loại: thuyền lê (dùng để kéo thuyền vua), thuyền câu (dùng để truyền lệnh của vua tới các quan tùy tùng), dẫn đĩnh (thuyền đi trước để báo hiệu), đĩnh (thuyền đi sau để hộ tống), cùng các loại thuyền ô và thuyền châu chở lính đi theo để bảo vệ đoàn tuần du.

    Tham gia đoàn tuần du của vua đôi khi còn có thái hậu, hoàng hậu, các phi tần, hoàng tử, công chúa, các hoàng thân và đại thần. Tùy theo chức phận, những người này được bố trí những chiếc thuyền riêng hay ngồi chung thuyền với nhà vua: Thái hậu sẽ ngồi trong một chiếc thuyền riêng cùng với các người hầu cận, thuyền của thái hậu gọi là từ chu; hoàng trưởng tử, những vị hoàng thân và đại thần quyền cao chức trọng tháp tùng nhà vua trên những chiếc thuyền riêng; hoàng hậu, phi tần và các hoàng tử, công chúa còn nhỏ tuổi thường ngồi chung thuyền với nhà vua [Nguyễn Đình Hòe, “Thuyền ngự và thuyền quan ở Huế xưa”, Những người bạn cố đô Huế (BAVH 1916), Thuận Hóa, 1997, tr. 298-305].

    Phần lớn các loại thuyền vua dùng và thuyền của đoàn tùy tùng nhà vua đều đóng ở Huế. Tuy nhiên, mỗi khi vua đi tuần du ở các địa phương thì ngoài các những chiếc thuyền đóng ở Huế (được chuyển đến các địa phương từ trước), vua còn lệnh cho các địa phương nơi đoàn tuần du của vua đi qua phải đóng thêm thuyền để phục dịch. Chẳng hạn, vào năm 1842, vua Thiệu Trị ra Bắc nhận sắc phong của triều đình Trung Hoa, thì trước đó một năm, vua đã ra lệnh cho các tỉnh “Quảng Bình, Nghệ An, Thanh Hóa đóng thuyền Ngự chu, Kim đĩnh mỗi thứ một chiếc. Nam Định đóng 1 chiếc Ngự chu, 2 Kim đĩnh”. [Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập XIII, Thuận Hóa, 1993, tr. 353]. Các hạng thuyền vua dùng trực tiếp không nhiều, nhưng thuyền cho đoàn tùy tùng chiếm số lượng khá lớn. Năm 1828, vua Minh Mạng ra định ngạch các hạng thuyền ngự ở kinh sư gồm: Từ chu 1 chiếc, ngự chu 1 chiếc, thuyền Phước An 1 chiếc, hải thuyền ngự 1 chiếc, thuyền lầu 1 chiếc, thuyền Long Kha 1 chiếc, thuyền Kim Long 6 chiếc, thuyền rồng 3 chiếc, kim đĩnh 2 chiếc, thuyền đỉnh 20 chiếc. Số thuyền này đặt do vệ Long thuyền thuộc Kinh kỳ Thủy sư quản lý. Đến năm 1845, số thuyền rồng dùng cho các chuyến tuần du của vua Thiệu Trị lên đến 67 chiếc [Đại Nam thực lục, Tập XXV, KHXH, 1975, tr. 263].

    Phần lớn các thuyền vua và thuyền của thái hậu đều được đặt tên riêng. Chẳng hạn các thuyền: Thái Long, Ngự Hải, Tế Thống, Thanh Yến lâu, Vĩnh Ninh lâu…; hay thuyền của thái hậu được đặt tên là Nhân Thọ, Yến Như.

    Kích thước của thuyền vua và thuyền quan không lớn lắm, chiều dài trung bình từ 4 đến 7 trượng. Chẳng hạn, thuyền Thái Long dài 4 trượng 4 thước 5 tấc, rộng 5 thước 7 tấc, sâu 2 thước 2 tấc; thuyền Ngự Hải dài 6 trượng 3 thước 4 tấc, rộng 7 thước 4 tấc, sâu 2 thước 8 tấc, thuyền Phước Kha dài 7 trượng 8 tấc 5 phân, rộng 5 thước 5 tấc, sâu 1 thước 5 phân*...

    Về trang trí, thuyền của vua thường được sơn son thếp vàng, hay thếp bạc, có chạm khắc các hoa văn hình rồng năm móng, mây, văn sóng nước, có những chiếc thuyền lầu chạm trổ tinh xảo, sơn thếp lộng lẫy, như những tòa lâu đài nổi trên sông. Chẳng hạn như thuyền Tế Thống của vua Tự Đức, là 1 chiếc thuyền lầu hai tầng, tầng trên dành cho vua, có 4 phòng, tầng dưới dành cho đoàn tùy tùng, có 5 phòng. Phía trước thuyền được chạm trổ nhiều, sơn son thếp vàng, có 1 đầu rồng và 6 hình rồng quyện nhau. Theo quy định, chỉ huy vệ Long thuyền mới được chầu trên thuyền vua. Vì thế, bánh lái thuyền này được điều khiển bởi các thủy thủ đứng trên một chiếc thuyền nhỏ không mui che đi phía sau. Mỗi khi di chuyển, thuyền Tế Thống được 4 hoặc 5 thuyền lê kéo ở đằng trước, trên mỗi thuyền lê có 24 đến 32 tay chèo.

    Thuyền của thái hậu chạm khắc hình chim phụng; thuyền của thái tử khắc hình lân hoặc rồng 4 móng, sơn thếp bạc, thuyền của hoàng thân, đại thần có khắc hình rồng nhưng giản lược rất nhiều… Theo hồi ký Souvenir de Hué của Michel Đức Chaigneau, con trai của Jean Baptiste Chaigneau, một cận thần của vua Gia Long, thì “thuyền của các quan lớn không được vượt quá giới hạn về chạm khắc và sơn son thếp vàng. Một ông quan cấp cao được quyền có cho chạm trổ và sơn son thếp vàng trên thuyền của mình nhiều hơn một ông quan cấp thấp hơn, nhưng bản thân ông quan cấp cao cũng vi phạm phép tắc nếu để cho thuyền mình được chạm trổ sơn son thái quá, chỉ có vua và các ông hoàng mới có những chiếc thuyền được chạm theo những đề tài như là con rồng, hay được thếp vàng toàn bộ diện tích chạm trổ” [Nguyễn Đình Hòe, “Thuyền ngự và thuyền quan ở Huế xưa”, Những người bạn cố đô Huế (BAVH 1916), Thuận Hóa, 1997, tr. 303-304].

    2. Thuyền bọc đồng

    Thuyền bọc đồng là loại thuyền chiến, kích thước lớn, dùng trong thủy quân triều Nguyễn. Đây là loại thuyền do vua Minh Mạng học tập và tiếp thu kỹ thuật đóng thuyền chiến của phương Tây, rồi sai binh lính thuộc vệ Thần uy và vệ Chấn uy và lính thợ thuộc cơ Ngũ thủy và cơ Kiên chu theo mẫu tàu của Pháp đóng thử. Chiếc thuyền bọc đồng đầu tiên của triều Minh Mạng được đặt tên là Thụy Long. Sau khi đóng thuyền Thụy Long thành công, vua Minh Mạng thưởng kíp thợ 200 quan tiền và ra lệnh triển khai đóng hàng loạt thuyền bọc đồng để trang bị cho thủy quân. Ngoài ra, triều Nguyễn cũng đóng những chiếc thuyền bọc đồng nhưng không phải là thuyền chiến mà là thuyền dùng trong các chuyến công cán ở nước ngoài. Thuyền bọc đồng chủ yếu được đóng tại xưởng Thanh Phước ở Huế.

    Thuyền bọc đồng được phân thành 4 hạng khác nhau:

    - Hạng rất lớn, gồm các thuyền mang tên: Bảo Long, Thái Loan, Kim Đỉnh, Linh Phụng, Phấn Bằng. Trong đó, chiếc Bảo Long có kích thước lớn nhất, dài 9 trượng 9 thước, rộng 2 trượng 3 thước, sâu 1 trượng 7 thước [Đại Nam thực lục, Tập XXV, KHXH, 1971, 309].

    - Hạng lớn, gồm các thuyền mang tên: Vụ Phi, Vân Điêu, Thần Giao, Tiên Ly, Thọ Hạc. Kích thước của thuyền bọc đồng hạng lớn: dài 7 trượng 2 thước, rộng 1 trượng 8 thước, sâu 1 trượng 5 thước [Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập XIII, Thuận Hóa, 1993, tr. 364].

    - Hạng vừa, gồm các thuyền mang tên: Tĩnh Dương, Bình Dương, Định Dương, Thanh Dương, An Dương (thường gọi là thuyền hiệu Dương). Kích thước của thuyền bọc đồng hạng vừa: dài từ 5 trượng 1 thước đến 6 trượng 1 thước, 1 trượng 2 thước đến 1 trượng 3 thước chiều rộng, sâu 1 trượng 2 thước [Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập XIII, Thuận Hóa, 1993, tr. 361].

    - Hạng nhỏ, gồm các thuyền mang tên: Tĩnh Hải, Bình Hải, Định Hải, Thanh Hải, An Hải (thường gọi là thuyền hiệu hải). Trong đó, chiếc Thanh Hải dài 4 trượng 3 thước 6 tấc, rộng 1 trượng 2 tấc 3 phân, sâu 6 thước [Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập XIII, Thuận Hóa, 1993, tr. 361].

    Đến cuối thời Minh Mạng, triều Nguyễn có khoảng 20 chiếc thuyền bọc đồng các loại. Về sau, các vua kế vị có cho đóng thêm một số thuyền bọc đồng đặt tên là Bằng Đoàn, Chuẩn Kích, Diêu Phi, Điện Dương…Nội các triều Nguyễn, Sách đã dẫn, 371(126)

    Vua Thiệu Trị còn ra lệnh cho các xưởng đóng thuyền của triều đình tại Nghệ An, Thanh Hóa chiếu theo quy thức thuyền bọc đồng ở kinh sư để đóng thêm một số thuyền bọc đồng mới, để thay thế cho các thuyền bọc đồng cũ đã bị hư hỏng hay quá niên hạn sử dụng. Đó là các thuyền bọc đồng hạng lớn tên là Thụy Hồng (do tỉnh Nghệ An đóng) và Tường Nhạn (do tỉnh Thanh Hóa đóng) [Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập XIII, Thuận Hóa, 1993, tr. 370].

    Thuyền bọc đồng được đóng bằng các loại gỗ tốt như gỗ thị, gỗ nam, vỏ thuyền được bọc các lá đồng để tăng thêm độ bền chắc. Thuyền sử dụng nhiều cột buồm, dây buồn, dây neo... vì thế, kiểu thuyền này được chạm nổi lên Cao đỉnh với tên gọi là đa tác thuyền. Cánh lái của thuyền cũng làm bằng đồng, quy cách và trọng lượng của bánh lái được triều đình quy định rất quy thể: “thuyền bọc đồng hạng rất lớn (dùng) cánh lái bằng đồng định là 8 cánh, số đồng nặng trên dưới 500 cân; (cánh lái) thuyền hạng vừa định là 6 cánh, số đồng nặng trên dưới 400 cân” [Đại Nam thực lục, Tập XXIII, KHXH, 1967, 239].

    Về sau, vua Minh Mạng còn cho cải tiến các loại dây, trục đỡ trên thuyền bọc đồng theo hướng nhỏ gọn và bền hơn, thuận tiện cho xoay trở, giương buồm và hạ buồm.

    Đi kèm với mỗi chiếc thuyền bọc đồng còn nhiều thuyền nhỏ như thuyền ván sam, thuyền khoái, thuyền khinh để hỗ trợ cho thuyền bọc đồng khi cần thiết, nhất là lúc tác chiến trên biển.

    T.Đ.A.S.

    Chú thích ảnh

    Ảnh 1: Thuyền ngự Tường Long đời vua Tự Đức

    Ảnh 2: Binh lính chèo thuyền lê, để kéo thuyền ngự của vua, thái hậu hoặc thuyền quan

    Ảnh 3: Hình đa tác thuyền ở trên Cao đỉnh


    --------------------------------------------------------------------------------

    Thời Nguyễn có 3 loại thước đo độ dài do bộ Công của triều đình quy định, gồm thước đo ruộng, thước mộc và thước vải. 1 thước đo ruộng = 0,470m; 1 thước mộc = 0,425m; 1 thước đo vải = 0,625m. Người ta dùng thước mộc để đo kích thước của tàu thuyền. Thang đo như sau: 1 trượng = 10 thước = 100 tấc = 1.000 phân = 10.000 ly.

    Kỳ 5: Các loại tàu thuyền thời Nguyễn

    (tiếp theo)

    3. Tàu máy hơi nước

    Tàu máy hơi nước xuất hiện ở Việt Nam dưới triều Minh Mạng. Năm 1838, vua Minh Mạng cho mua một chiếc tàu máy hơi nước của Pháp đã cũ, đem về tháo ra nghiên cứu để lấy mẫu đóng thử.

    Tháng 2.1839, tàu máy hơi nước do triều Nguyễn đóng xong, được đưa ra chạy thử trên sông Hương nhưng thất bại do vỡ nồi hơi. Sau khi sửa chữa, tháng 4.1839, chiếc tàu này lại được đưa ra chạy thử trên sông An Cựu và đã thành công. Vua Minh Mạng ban thưởng hậu hĩ cho những người có công thực hiện chiếc tàu này và ra lệnh đóng thêm chiếc tàu máy hơi nước thứ hai. Chiếc tàu này hoàn thành vào tháng 10.1839 và cũng thu kết quả tốt. Nhà vua giao cho vệ Long Thuyền quản lý 2 chiếc tàu máy này và giám sát việc sử dụng than củi đốt lò hơi để chạy tàu trong một thời gian cụ thể để xây dựng định mức tiêu hao than củi, trình cho triều đình xem xét để cấp tiền mua theo thời hạn 6 tháng 1 lần [Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập XIII, Thuận Hóa, 1993, tr. 373].

    Từ việc đóng thành công 2 chiếc tàu máy hơi nước này, căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể của sông nước ở Việt Nam và các điều kiện về vật tư, thiết bị, vua Minh Mạng ra lệnh cho Hoàng Văn Lịch chế tạo ra một bộ máy và nồi hơi mới, lớn hơn bộ máy và nồi hơi của hai tàu máy đã đóng trước đó, rồi sai chưởng vệ thủy sư và giáo đốc kho gỗ dự trù số gỗ để đóng mới chiếc tàu máy mới phù hợp với bộ máy và nồi hơi do Hoàng Văn Lịch vừa chế tạo. Từ đó, xây dựng quy thức cho các tàu máy hơi nước sẽ đóng sau này. Theo quy thức này, tàu máy hơi nước do triều Nguyễn đóng từ năm 1840 trở về sau có thân rộng 7 thước 5 tấc, dài trên dưới 4 trượng, nhưng thân không quá sâu, khoảng 1 trượng, để dễ dàng di chuyển trên các dòng sông [Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập XIII, Thuận Hóa, 1993, tr. 347].

    Vua Minh Mạng cũng ra lệnh cho thợ thuyền tiếp tục nghiên cứu, cải tiến kỹ thuật để chế tạo những thứ phụ tùng phù hợp với kích thước tàu máy mới; quy định độ chìm dưới nước của tàu để tăng tải trọng cho tàu. Thủy thủy đoàn của tàu máy hơi nước loại mới này được quy định là 22 người.

    Năm 1840, vua Minh Mạng cho mua thêm một chiếc tàu hơi nước cũ của Pháp, đem về sửa chữa rồi cho chạy thi với thuyền bọc đồng Bình Hải từ Thuận An vào Đà Nẵng và ngược lại. Kết quả tàu máy chạy nhanh hơn thuyền Bình Hải. Vua Minh Mạng ra lệnh nghiên cứu máy móc của chiếc tàu máy mới mua về này để đóng thêm tàu máy hơi nước, gọi là tàu hạng trung.

    Đến cuối triều Minh Mạng, nhà Nguyễn đã đóng được ba chiếc tàu máy hơi nước: tàu lớn gọi là Yên Phi, dài 8 trượng 5 thước 2 tấc, rộng 2 trượng 6 tấc, sâu 8 thước 6 tấc 1 phân; tàu vừa gọi là Vân Phi, dài 5 trượng 9 thước 2 tấc 4 phân, rộng 1 trượng 4 thước 5 tấc 9 phân 5 ly, sâu 6 thước 2 phân 5 ly; tàu nhỏ gọi là Vụ Phi, dài 3 trượng 8 thước, rộng 6 thước 7 tấc, sâu 3 thước 2 tấc.

    Dưới triều Thiệu Trị, vua cho sửa chữa tàu Yên Phi và đổi tên tàu Vân Phi thành tàu Huy Phi đồng thời cho sửa lại để nâng vận tốc của tàu cao hơn so với trước. Cũng trong thời gian này, triều đình cho mua một thuyền máy hơi nước mới, dài 9 trượng 5 thước 7 tấc, rộng 1 trượng 5 thước 1 tấc, sâu 6 thước, đặt tên là Điện Phi. Đây là chiếc tàu máy hơi nước lớn nhất mà triều Nguyễn sở hữu. Đồng thời vua đóng thêm một chiếc thuyền máy nhỏ, dài 2 trượng 3 tấc, rộng 3 thước 3 tấc, sâu 1 thước 6 tấc, đặt tên là Hương Nhi. Đây là chiếc tàu máy hơi nước cuối cùng do triều Nguyễn đóng vì từ thời Tự Đức trở đi, nhà Nguyễn không đóng mới tàu hơi nước mà chỉ cho mua từ nước ngoài về. Như vậy, từ năm 1839 đến năm 1844, các xưởng đóng tàu của triều Nguyễn ở Huế chỉ đóng được 4 tàu hơi nước mà thôi. Đó là các tàu Yên Phi, Vân Phi (sau đổi tên là Huy Phi, rồi Hương Phi), Vụ Phi và Hương Nhi.

    4. Thuyền công cấp phát

    Thuyền công cấp phát là những loại thuyền do triều đình cho đóng trong các xưởng thuyền của nhà nước để cấp phát cho quân đội, các cơ quan của triều đình ở kinh sư và chính quyền ở các địa phương để phục vụ cho việc công như: hộ tống thuyền vua, đi công cán, tuần tiểu, trao đổi công văn liên lạc giữa trung ương với địa phương và giữa các địa phương với nhau, vận tải hàng hóa cho triều đình… Các loại thuyền công này chủ yếu làm bằng gỗ, được đóng ở kinh sư và ở nhiều xưởng thuyền khác trong nước, với nhiều loại khác nhau như: thuyền lê, thuyền sai, thuyền ván sam, thuyền khoái, thuyền khinh, thuyền đĩnh, thuyền dẫn đĩnh, thuyền hải đạo, thuyền hải vận, các thuyền hiệu để vận tải hàng hóa cho nhà nước (như thuyền hiệu Hải, thuyền hiệu Dương, thuyền hiệu Ba…). Song thuyền công được cấp phát nhiều nhất là thuyền ván sam, là loại thuyền tam bản, đóng bằng gỗ sam, có mũi cong, rất tiện dụng cho các nhu cầu đi lại, trao đổi thông tin, sai phái việc công…

    Năm 1829, triều đình chuẩn định thống nhất về kích thước và số mái chèo cho 12 loại thuyền công đóng trong các xưởng ở kinh sư và các xưởng khác trong nước. Các xưởng thuyền của triều đình phải căn cứ vào quy định này để đóng thuyền và tính toán số vật tư, kinh phí cần thiết cho mỗi hạng thuyền.

    Trong các loại thuyền công cấp phát, các loại thuyền hiệu, gồm thuyền hiệu Ba (về sau đổi là thuyền hiệu Bình, rồi thuyền hiệu An), thuyền hiệu Lãng (về sau đổi thành thuyền hiệu Định, rồi thuyền hiệu Tĩnh), thuyền hiệu Dương và thuyền hiệu Hải, là những loại thuyền công giữ vai trò quan trọng trong việc vận tải đường biển c

Chia sẻ trang này