1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những Hình ảnh xưa về Đất Nước, Con Người, Văn Hoá Việt Nam (Updated ngày 19/6/2014)

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ruavang, 16/11/2002.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Thay Đổi Tên ĐƯỜNG cuả Thành Phố Sài Gòn Xưa Nay-- Nguyễn Công Tánh

    Nhận thấy đây là một biên khảo có giá trị của tác giả Nguyển công Tánh - Xin đựoc mang về đây sau khi đã chỉnh sửa một vài chi tiết theo như chỉ dẫn của tác giả...
    Hy vọng tài liệu này sẽ bổ ích cho nhưng ai còn nhớ Saigon xa xưa...với một hoài niệm đẹp về nó với những con đường đày ắp kỷ niệm thờì thơ ấu với những ngôi trường..những hàng cây rợp bóng mát..nay đã đổi thay tên tuổi.



    Phần 1

    Sơ lược về thành phố Sài Gòn từ năm 1795 đến 2004


    Tên đường của thành phố Sài Gòn đã bị đổi thay nhiều lần qua bao nhiêu trào lưu lịch sử của nước Việt Nam kể từ khi có sự xuất hiện của đoàn quân viễn chinh xâm lược Pháp đánh phá vụng cảng Đà Nẵng rồi quay xuống phía Nam đánh chiếm thành Gia Định vào năm 1861.

    Có thể nói rằng thành phố Sài Gòn là một thành phố lớn nhất của nước Việt Nam ở bất kỳ thời đại nào từ tháng 8 âm lịch năm Đinh Dậu (7-9-1788) là thời điểm Nguyễn Vương Phúc Ánh phá tan quân Tây Sơn để chiếm lại đất Gia Định một cách vĩnh viễn và kể từ năm đó đến năm 1801, Nguyễn Vương lập Kinh đô Gia Định dùng làm bàn đạp để Bắc tiến:
    Đầu năm Canh Tuất (1790), xây đắp lại một thành đồn cũ ở làng Tân Khai cho rộng thêm. Đồn nầy còn có tên là đồn Nghi Giang (Rạch Thị Nghè ngày nay) hay Đồn Đất. Thời Pháp thuộc, trên địa danh nầy là một bệnh viện quân đội của Pháp có tên là Hopital Grall, rồi trước 30 tháng 04 năm 1975 đổi gọi là Nhà Thương Đồn Đất, sau 1975 đổi gọi là Bệnh Viện Nhi Đồng số 2. Sau khi xây đắp lại, đồn đất Tân Khai trở nên một thành lũy kiên cố tráng lệ tức là thành Gia Định còn gọi là thành Bát quái hay thành Qui (hình con rùa). Về thành mới nầy, Trịnh Hoài Đức mô tả khá rõ ràng trong sách Gia Định Thành Thông Chí: "Ngày 4 tháng 2 mùa xuân năm Canh Tuất thứ 13 (1790) mới đắp thành Bát quái ở gò cao thôn Tân Khai đất huyện Bình Dương, thành như hình hoa sen, mở tám cửa, tám đường đi ngang dọc, bề đông tây 131 trượng 2 thước, bề nam bắc cũng thế, cao 10 thước, chân dày 7 trượng 5 thước, đắp làm 3 cấp. Ngồi ngôi kiểu trông hướng Tốn. Trong thành đằng trước bên tả dựng Thái miếu, giữa làm sở hành tại, bên tả là kho trữ tích, bên hữu là Cục chế tạo, xung quanh là các dãy nhà cho quân túc vệ ở. . . . . . . . . ., thành đặt xong, ngoài thành đường ngõ, phố chợ bày hàng ngang dọc, đều có thứ tự. Đường quan lộ bên tả từ cửa Chấn hanh qua cầu Hòa Mỹ, qua sông Bình Đồng mà đến trấn Biên Hòa"(Trịnh Hoài Đức, Gia Định Thành Thông Chí, bản dịch 1998; NXB Giáo Dục; trang 176). Tuy nhiên, theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí của Quốc sử quán triều Nguyễn thì còn có một con đường quan lộ khác cũng xuất phát từ cửa Cấn Chỉ của đồn thành cũ Tân Khai hướng về phía bắc, nguyên xưa khai thác từ Tất Kiều (nay là Cầu Sơn) phía bắc đến Bình Trị (?) ruộng bùn lầy lội chưa mở, hành khách muốn đến Biên Hòa hoặc lên Băng Bột đều phải đáp thuyền đò. Năm Mậu Thìn (1748), nhân có loạn Cao Man, quan Điều khiển là Nguyễn Doãn mới đăng dây đắp thẳng, gặp chỗ mương rãnh thì bắc cầu, gặp chỗ bùn lầy thì bỏ cây đắp đất để đi qua lại, từ cửa Cấn Chỉ của thành đồn cũ đến bến đò Bình Đồng dài 17 dặm, phía bắc tỉnh giới Biên Hòa có đặt trạm Bình Đồng theo hướng bắc qua núi Chiêu Thái (núi Châu Thới ngày nay) đến bến đò Bình Xan (hay Bình Thiển), qua bến Sa Giang (sông Cát) do đường Phủ sứ xuống Đông Môn (nay là Long Thành) đến Hưng Phước (nay là Bà Rịa), phàm gặp mấy sông lớn có đặt độ thuyền độ phu được miễn trừ sưu dịch. (ĐNNTC; Lục tỉnh Nam Việt; Tập thượng: Biên Hoà-Gia Định; phụ chép Thiên lý cù; trang 87; Sài Gòn; tái bản 1973). Như vậy, sau khi Nguyễn vương Phúc Ánh xây cất lại đồn Nghi Giang hay Đồn Đất để làm kinh thành Gia Định vào năm 1790 thì thành nầy đã có sẵn một con đường cái quan để đi ra bắc từ năm 1748 và một con đường cái quan khác cũng để đi ra bắc cũng được xây cùng một lúc với công trình sửa mới thành Đồn Đất như Trịnh Hoài Đức mô tả.

    [​IMG]
    (Bản đồ Saigon xưa)

    [​IMG]

    Theo sự mô tả của GĐTTC thì từ 1790 đến 1801, các cơ cấu kiến trúc của thành Quy gồm có: các vòng thành bao bọc hình hoa sen; trong thành có Thái Miếu (P), sở hành tại (A) (chỗ để Nguyễn vương cư trú và làm việc), kho trữ tích (E), Cục Chế Tạo (F), các dãy nhà cho quân túc vệ (H), cột cờ 3 tầng (I), các hào lũy. Ngoài thành thì đường ngõ, phố chợ được chỉnh trang thứ tự. Sửa sang và xây đắp 2 con đường quan lộ: một đường đi hướng Bắc từ cửa Chấn Hanh về phía Biên Hòa, một đường đi hướng Nam từ cửa Tốn Thuận. (Cần lưu ý rằng Thái Miếu được xây dựng vào năm 1796: xin đọc lại ở trang 1267 và 2 quan lộ chính yếu). Các tên cửa thành Quy trong khoảng thời gian nầy được gọi theo các quẻ bát quái đồ Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.
    -Hướng Đông - Nam có cửa Tốn Thuận.
    -Hướng Tây - Bắc có cửa Càn Khảm.
    -Hướng Đông - Bắc có cửa Cấn Chỉ.
    -Hướng Tây - Nam có cửa Khôn Hậu.
    -Hướng chánh Đông có cửa Chấn Hanh.
    -Hướng chánh Tây có cửa Đoài Duyệt.
    -Hướng chánh Nam có cửa Ly Minh.
    -Hướng chánh Bắc có cửa Khảm Hiểm.

    Năm 1801, Thái miếu trong thành Quy bị tháo gở lấy vật liệu đưa ra thành Phú Xuân - Huế để dựng Thái Miếu ở đó.

    Năm 1809, bên trong thành Quy lại có thêm Vọng cung, lầu bát giác hai bên tả hữu để canh phòng. Từ đó về sau lại có thêm những kiến trúc như: hành cung để dự bị khi vua đi tuần hành, các công thự của quan tổng trấn, của phó tổng trấn và của hiệp đốc trấn. Sửa sang trại quân ở 3 cửa Càn Nguyên, Ly Minh, Tốn Thuận (H) lợp ngói sơn son, hoa lệ, nghiêm chỉnh.

    [​IMG]

    (Thành phố Sài Gòn năm 1993 với tên đường cũ trước 30.04.1975 )

    Cũng theo Trịnh Hoài Đức, Đường quan lộ bên hữu gặp chỗ quanh co đều chăng dây làm cho thẳng, tự cửa Tốn Thuận qua chùa Kim Chương qua phố Sàigòn Gòn (tức Chợ Lớn ngày nay) đến cầu Bình Yên, qua gò Tuyên Tự mà đến sông Thuận An (Vàm Cỏ Đông), bến đò Thủ Đoàn, sang sông Hưng Hòa (Vàm Cỏ Tây), qua giồng Trấn Định rồi đến giồng Triệu. Đường rộng 6 tầm (14m61), hai bên đều trồng các cây thổ nghi như mù u, mít, cầu cống thuyền đò sở tại thường sửa chữa, đường phẳng như đá mài, gọi là đường thiên lý phía nam (Trịnh Hoài Đức; sđd; trang 176).

    Ngoài 3 con đường thiên lý cù vừa kể trên, sách ĐNNTC cũng có viết thêm một con đường thiên lý khác về phía cửa Đoài Duyệt của thành Qui như sau: "Một đường phía tây, niên hiệu Gia Long thứ 14, mệnh (tức là truyền lệnh) tỉnh thần đo từ cửa Đoài Duyệt ở tỉnh thành nơi nơi cầu Tham Cấn (Tham Lương) qua đò Thi Du, chằm Lão Phong, giáp ngã ba sứ lộ qua Xỉ Khê (Tây Ninh) đến địa phận A Ba Cao Man, giáp Đại Giang (Sông Mê Kông) dài 439 dặm. Gặp chỗ có rừng thì chặt cây đắp đường bề ngang 3 trượng (14m61), làm ra con đường bình an tiện lợi, chỉ hiềm đường xa vắng vẻ không có nhà cửa dân cư, Lại theo dọc sông A-Ba xuống phía nam 194 dặm đến đồn Lô Yêm (Lovea-em). Từ Kha Pha lên phía bắc 49 dặm đến sách Chế Lăng (Chelong hay Chlong) cũng là một yếu lộ dụng binh." (ĐNNTC; sđd; trang 87). Con đường nầy có thể đã có từ lâu và dùng để đi Cao Miên (ngày nay là Đường Lê Văn Duyệt nối dài trước ngày 30 tháng 04 năm 1975) nhưng mãi đến năm Gia Long thứ 14 (1815) mới được chỉnh đốn lại giống như ĐNNTC mô tả.
    Như lịch sử đã ghi lại, có rất nhiều người Pháp đánh thuê được Nguyễn Vương Phúc Ánh xử dụng để phục vụ trong chương trình xây dựng và củng cố vùng đất Gia Định Nguyễn Ánh đã tận dụng kiến thức quân sự của các sĩ quan Pháp bằng cách yêu cầu họ vẽ các họa đồ, và trông nom việc xây dựng, một tòa thành lũy tân tiến theo thiết kế của Âu Châu. Họa đồ được vẽ bởi Theodore Lebrun và đại tá Victor Olivier de Puymanel coi sóc công trình xây cất kinh thành Gia Định. Trên họa đồ vẽ bởi Theodore Le Brun theo lệnh của Nguyễn vương vào năm 1795 người ta thấy phía ngoài 4 mặt thành đã có nhiều phố xá; mặt phía trước thành, đường phố lấn ra tới bờ sông Bến Nghé; mặt phía trái tới bờ Thị Nghè nơi đó có dinh riêng dành cho giáo sĩ Bá Đa Lộc. (ngày nay là vị trí gần với Viện Bảo Tàng nằm bên trong Sở Thú Sài Gòn) và nhà phố lan tới phía bên kia cầu Thị Nghè; mặt phía sau thành nhà cửa phố xa đông đúc chạy dọc suốt đến Cầu Bông và cầu Kiệu ngày nay; về phía bên mặt của thành thì phố xá lan rộng ra tới đường thiên lý đi Cao Miên tức là đường Lê Văn Duyệt nối dài sau nầy. Nhìn sang hướng tây nam là các hiệu buôn bán của người Hoa mà trên bản đồ ghi là Bazar Chinois tức là thành phố Chợ Lớn Sau nầy. Trong sách Gia Định Thành Thông Chí được hoàn thành dưới thời hoàng đế Gia Long Nguyễn Phúc Ánh, Trịnh Hoài Đức đã dùng nhóm chữ Phố Sài Gòn để gọi khu phố người Hoa nầy (Trịnh Hoài Đức; sđd; trang 176). Phố xá vào lúc nầy nhất định là phải có số hoặc có tên bằng tiếng Việt Nam và khó có thể có -hoặc nếu có thì cũng chỉ là một vài trường hợp đặc biệt- những tên đường bằng tiếng ngoại quốc. Một điểm đáng chú ý là trên bản đồ của Le Brun nơi phần chú giải góc phải phía trên được ghi là Plan de la Ville de SAIGON-Đồ bản Thành Phố SÀI GÒN có nghĩa là kinh đô Gia Định vào năm 1795 bao gồm khu phố người Hoa BAZAR CHINOIS của Le Brun mà Trịnh Hoài Đức gọi là Phố Sài Gòn và khu phố rộng lớn bao quanh thành Qui.

    Nơi quyển III, mục Cương vực chí, Trịnh Hoài Đức viết:
    " ...Kể thì Gia Định, xưa là đất của nước Thủy Chân Lập (tức là nước Cao Mên ngày nay, nòi giống chia làm Thủy Chân Lập và Lục Chân Lập), đất ruộng béo tốt, sông nhiều, có nhiều địa lợi như thóc, đậu, cá, muối.
    "Các đấng tiên hoàng triều ta chưa nhàn rỗi mưu tính xa, tạm cho đất ấy là đất của nước Cao Mên, đời đời xưng là nước phiên ở phương Nam, cống hiến không ngớt. Đến năm Mậu Tuất đời Thái Tông Hiếu Triết hoàng đế năm thứ 11 (1658), (Lê Thần Tông Vĩnh Thọ năm thứ 1; ngang với niên hiệu Minh Vĩnh Lịch năm thứ 12, Thanh Thuận Trị năm thứ 14), mùa thu, tháng 9 , vua nước Cao Mên là Nặc Ông Chân xâm phạm biên giới . . . . . .
    "Vua sai Phó tướng dinh Trấn Biên (khi bắt đầu mở mang bờ cõi, phàm chỗ đầu địa giới gọi là Trấn Biên, xét dinh Trấn Biên nầy, tức là trấn Phú Yên ngày nay) là Yến Vũ hầu, Tham mưu là Minh Lộc hầu, Cai đội suất tiên phong là Xuân Thắng hầu, đem 2,000 quân , đi 2 tuần đến thành Mỗi Xoài (tức Bà Rịa ngày nay) nước Cao Mên, đánh phá tan được, bắt vua ấy là Nặc Ông Chân, đóng gông đem đến hành tại ở dinh Quảng Bình. Vua dụ tha tội, vẫn phong Nặc Ông Chân làm vua nước Cao Mên, cho làm phiên thần nộp cống, không được để cho dân phiên xâm nhiễu. Bèn sai quan quân hộ tống về nước. Khi ấy địa đầu trấn Gia Định là hai xứ Mỗi Xoài, Đồng Nai (đất trấn Biên Hòa ngày nay) đã có dân lưu tán của nước ta cùng ở lẫn với người Cao Mên, để khai khẩn ruộng đất, mà người Cao Mên Sợ phục uy đức của triều đình, lại nhường mà tránh, không dám tranh giành ngăn trở.

    "Giáp Dần năm thứ 27 (Lê Gia Tông Đức Nguyên năm thứ 1, Đại Thanh Khang Hy năm thứ 13) (1674), mùa xuân, tháng 2, người nước Cao Mên là Nặc Đài (xét Nam Việt Chí của Nguyễn Bảng Trung gọi là Nặc Ô Đài, Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn gọi là Nặc Đài) đuổi vua nước ấy là Nặc Ông Non chạy sang nước ta. Sai tướng dinh Thái Khang (trấn Bình Hòa ngày nay) là Dương Lâm Hầu làm thống suất và Tham mưu là Diên Phái hầu cùng phụ trách việc biên giới, đem quân đến đánh. Mùa hạ tháng 4, phá luôn 3 lũy Sài Gòn (tức đất trấn Phiên An ngày nay), Gò Bích, Nam Vang . . . . . Mùa hạ, tháng 6, tin thắng trận tâu lên, triều đình bèn lấy Nặc Thu là phái trưởng phong làm chính quốc vương của nước Cao Mên, đóng ở thành Vũng Long ( chữ Hán gọi là Long Úc, tức là thành U Đong), Nặc Non làm phó quốc vương, đóng ở thành Sài Gòn, triều cống như trước, bèn thăng Dương Lâm hầu làm trấn thủ dinh Thái Khang, phòng giữ việc biên giới ." (Trịnh Hoài Đức; sđd; trang 74,75)

    Nhóm chữ lũy Sài Gòn do Trịnh Hoài Đức viết ra bằng chữ Hán nho và có thể đây là lần đầu tiên chữ Sài Gòn mới xuất hiện trên sách sử của Việt Nam để ghi thêm 1 biến cố lịch sử quan trọng thứ nhì xảy ra vào năm 1674, (biến cố quan trọng lần thứ nhứt là vua Cao Mên Nặc Ông Chân xâm phạm biên giới vào năm 1658 như vừa kể ra ở phần trên) hay nói khác đi địa danh Sài Gòn đã là một đồn lũy phòng thủ (nhỏ hơn một thành trì bình thường), hoặc là một thị trấn của nước Cao Miên từ xưa rồi. Câu hỏi nêu lên là lũy Sài Gòn nầy bởi từ đâu mà có ? Và đã có từ bao giờ ?

    http://wikimapia.org/#lat=10.776166&.....amp;m=h&v=2
    (Bản đồ Saigon hiện nay của Wikimapia.org)



    Như Trịnh Hoài Đức đã viết ở phần trên, kể từ năm 1658 "địa đầu trấn Gia Định là hai xứ Mỗi Xoài, Đồng Nai (đất trấn Biên Hòa ngày nay) đã có dân lưu tán của nước ta cùng ở lẫn với người Cao Mên, để khai khẩn ruộng đất, mà người Cao Mên sợ phục uy đức của triều đình, lại nhường mà tránh, không dám tranh giành ngăn trở" có nghĩa là 2 xứ nầy trên thực tế đã thành đất đai của các người dân lưu tán Việt Nam kể từ 1658 và những người dân Cao Mên bản địa của 2 xứ đó đã phải bỏ xứ mà đi nơi khác (Trịnh Hoài Đức viết là họ nhường mà tránh, không dám tranh giành ngăn trở). Mặc dù trên danh nghĩa thì các phần đất nầy vẫn là của nước Cao Miên và vẫn dưới quyền cai trị của phó quốc vương bù nhìn thân Việt Nặc Ông Chân rồi kế tiếp theo là vua bù nhìn Nặc Ông Nôn do triều đình Việt Nam tấn phong đóng ở thành Sài Gòn mà Trịnh Hoài Đức (hay là dịch giả quyển Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức) chú thích trong dấu ngoặc đơn như sau: (tức đất trấn Phiên An ngày nay): trước khi có thành Gia Định thì đã có thành Sài Gòn của các phó vương nước Cao Mên ở trên một vùng đất mà sau nầy dưới thời đại của Trịnh Hoài Đức, vào năm Mậu Thìn niên hiệu Gia Long thứ 7 (1808), ngày 12 tháng Giêng đổi gọi gọi là trấn Phiên An. Trấn Phiên An trước đó gọi là gì ? Trịnh Hoài Đức khi mô tả Trấn Phiên An có viết " Trấn ấy lúc mới dùng gọi là dinh Phiên Trấn, có 1 huyện, 4 Tổng, lỵ sở ở thôn Tân Lân (?), tổng Bình Trị, huyện Bình Dương ngày nay" (Trịnh Hoài Đức; sđd; trang 86: Trấn Phiên An) . Như vậy có thể nói rằng thành Sài Gòn là tên gọi 1 vùng đất dưới quyền kiểm soát của quan chức Việt Nam ở dinh Trấn Phiên nằm ở thôn Tân Lân, Tổng Bình Trị, huyện Bình Dương thời Trịnh Hoài Đức. Không thể truy cứu đích xác lỵ sở Tân Lân của "thành Sài Gòn" (tức dinh Trấn Phiên) vì trong danh mục xã thôn thuộc Tổng Bình Trị do chính Trịnh Hoài Đức liệt kê (THĐ; sđd; trang 87 và 88) không thấy tên vùng đất thôn Tân Lân .

    Tuy nhiên cũng theo THĐ thì dinh Trấn Phiên đã được thành hình từ năm 1698 :"Mậu Dần Hiến Tông Hiếu Minh hoàng đế (tức Chúa Minh Nguyễn Phúc Chu) năm thứ 8 (1698) (Lê Hy Tông Chính Hòa năm thứ 19, Đại Thanh Khang Hy năm thứ 37) mùa xuân, sai Thống suất chưởng cơ là Lễ Thành hầu họ Nguyễn (Nguyễn Hữu Cảnh) kinh lược nước Cao Mên lấy đât Nông Nại (nguyên cả một vùng miền Đông sau nấy) đặt làm phủ Gia Định, đặt xứ Đồng Nai làm huyện Phúc Long dựng dinh Trấn Biên (lỵ sở ở thôn Phúc Lư ngày nay, xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn (lỵ sở bên cạnh đồn mới ngày nay, mỗi dinh đặt ra các chức Lưu thủ, Cai bạ, Ký lục để giữ và chăm . . . . .(THĐ; sđd; trang 77) . Phải chăng là "đồn mới ngày nay" phải được hiểu chính là đồn của huyện Tân Bình mới đuợc thiết lập chứ không thể hiều là một đồn lũy nào đó mới được xây cất vào thời THĐ viết GĐTTC. Còn xứ Sài Gòn đã có từ thời xưa thì trở thành huyện Tân Bình vào năm 1698 . Vậy dinh Phiên Trấn được dựng lên để cai trị huyện Tân Bình. Dinh Trấn Biên vừa là lỵ sở vừa là đơn vị hành chánh.

    Còn địa phận của Tổng Bình Trị thì theo như sự mô tả của Trịnh Hoài Đức như sau: " Tổng Bình Trị (mới đặt ra) 76 xã thôn, phường, lân, ấp, phiá đông giáp sông Bình Giang (tức sông Sài Gòn bây giờ), từ trước thành sông dọc theo kho Gian Thảo (nay là vùng Cầu Kho), phía tây giáp đàu suối Bến Nãi đến đầu cầu Tham Lương (tức địa giới quận Tân-Bình-Hốc Môn bây giờ), giáp địa giới phía đông tổng Dương Hòa; phía nam giáp kho Gian Thảo, qua miếu Hội Đồng đến cầu Tham Lương, phía bắc giáp trấn Biên Hòa, từ trên sông Đúc Giang (tức là sông Sài Gòn ở khúc trên khoảng gần với Thủ Đức hiện nay), dưới đến bờ phía nam sông Bình Giang (tức bến cảng Bạch Đằng của sông Sài Gòn ngày nay)" (THĐ; sđd; trang 87) hay nói khác đi thì Tổng Bình Trị nằm lọt ở khoảng giữa Rạch Thị Nghè với Cầu Kho hiện nay tức là nằm trong phạm vi của Quận I bây giờ.

    "Trấn Phiên An, đất rộng việc nhiều, đường thủy đường bộ giao thông, phía bác giáp trấn Biên Hoà, trên từ sông Đức Giang (tục gọi là sông Thủ Đức) đến sông Bình Giang (về huyện Bình Dương, tục gọi là sông Bến Nghé), chuyển quanh xuống cửa ngã ba Phù Gia (tục gọi là ngã ba sông Nhà Bè) ra thẳng cửa Cần Giờ . Phàm ở bờ phía nam sông ấy là địa giới trấn Phiên An, phía Nam giáp trấn Định Tường, trên từ Quang Hóa, Quang Phong sang phía tây đến Vàm Dừa, Rạch Cỏ, đến sông Bát Chiên, phía đông xuống Vũng Cù, qua sông Tra Giang ra cửa bể Soi Rạp. Theo bờ phía bắc sông là địa giới trấn Phiên An, phía đông đến biển, phía tây giáp nước Cao Mên, ngăn cchặn người Man núi, gối vào đầm phá . Từ đông sang tây cách 352 dậm, từ nam sang bắc cách 107 dặm . . . . Năm Mậu Thìn Gia Long thứ 7 (1808, ngày 12 tháng giêng đổi làm Trấn Phiên An, lấy huyện làm phủ, lấy tổng làm huyện, cứ theo đất rộng hay hẹp, dân nhiều hay ít, hãy thấy liền nhau là bổ vào, lại thêm tên tổng, đều lập giuới hạn. Năm Tân Mùi Gia Long thứ 10 (1811), dời làm lỵ sở ở chợ Điều Khiển, lân Tân Mỹ" (THĐ; sđd; trang 86)

    Trở lại biến cố lịch sử năm 1674, vua nước Cao Mên thân Việt lúc bấy giờ là Nặc Ông Non bị người trong nước là Nặc Đài nổi dậy làm phản phải tháo chạy xuống vùng đất Sài Gòn để cầu cứu với các chức quyền Việt Nam. Quân nổi loạn Cao Mên do Nặc Đài cầm đầu không những truy đuổi Nặc Ông Non mà còn nhân dịp đắc thắng đã tiến thẳng xuống chiếm đóng trấn Phiên An mà THĐ viết tránh đi và gọi là lũy Sài Gòn. Sau đó thì chúa Nguyễn đã sai quan binh đi thảo trừ giặc loạn người Cao Mên, đánh bật họ ra khỏi Trấn Phiên An (lũy Sài Gòn), rồi tiến quân đánh chiếm luôn thành Gò Bích và thành Nam Vang. Nặc Đài thua chạy rồi bị chết trận. Chúa Nguyễn lại đặt Nặc Ông Thu làm Cao Mên Quốc vương ngự trị ở thành U Đong còn Nặc Ông Non thì cho làm phó Vương ngự trị ở thành Sài Gòn và thành Sài Gòn nầy của phó vương Ông Non có thể ở vào một vị trí gần với lỵ sở dinh trấn Phiên An của chúa Nguyễn để dễ bề giám hộ và kiểm soát. Chuyện xảy ra như vậy, nhưng sử thần nhà Nguyễn nào lại dám viết thật sự là quan binh chúa Nguyễn đã bị quân phiên Cao Mên nổi loạn đánh đuổi và phải bỏ chạy ra khỏi vùng lãnh thổ trấn Phiên An?

    Năm 1772, sau khi đánh thắng quân Xiêm, Nguyễn Cửu Đàm xây lũy đất hình bán nguyệt để bảo vệ vùng Sài Gòn:

    " . .Đàm ân hầu về đến dinh đồn, đắp thành đất, phía nam từ cát ngang, phía tây đến cầu Lão Huệ, phía bắc giáp cửa trên sông Nghi Giang, kéo dài 15 dậm, bao quanh dinh đồn, chặn ngang đường bộ để làm kế phòng ngừa."(THĐ; sđd; trang 127). Lũy nầy trên bản đồ Le Brun (hình bản đồ trích dẫn ở phần trên) ghi là Mur d'enceinte (vòng tường ngoại vi).

    Như vậy, từ khởi đầu đến đây, ai cũng có thể thấy đuợc rằng cái tên Sài Gòn đã hiện hữu từ lâu rồi, ít ra thì cũng đã được viết lên trên giấy trắng mực đen kể từ thời của Trịnh Hoài Đức biên soạn sách GĐTTC.

    Vùng Sài Gòn trở nên một vùng đất phồn thịnh và thu hút kể từ khi Nguyễn Cửu Đàm xây lũy đất bán nguyệt kể trên và đào kinh Ruột Ngựa vào năm (1772), THĐ ghi rõ:" Sông Mã Trường (tục danh sông Ruột Ngựa). Trước kia từ cửa Rạch Cát về bắc đến lò ngói, một lối vũng trâu, thuyền bè không đi lại được. Mùa thu năm Nhâm Thìn (1713) ((chỗ nầy trong sách ghi sai, phải là 1772 mới đúng) Đốc chiến Đàm Ân hầu (con thứ năm của Chánh thống Vân Trường hầu) nhân sau khi dẹp Cao Mên rồi, đào làm kênh cừ, thẳng như ruột ngựa, bèn lấy đó mà đặt tên. Nhưng còn nong nhỏ, nên thuyền đi đến đó tạm phải ngừng lại, để chờ nước triều lên mới qua được, nay khơi đào cho sâu rộng thêm, dân khen là tiện lợi." (THĐ, sđd; trang 35).

    Vùng Sài Gòn cũng bắt đầu biến đổi thành một thành phố đúng với ý nghĩa của 2 chữ thành phố : thành ở đây tức là tường thành bằng đât của Nguyễn Cửu Đàm và phố ở đây chính là vùng phố buôn bán của những ngưòi Hoa tàn dư của nhà Minh tha phương cầu thực mà Le Brun gọi là phố Bazar Chinois càng lúc càng trở nên sầm uất, cuốn hút dân tình tứ phương thuộc nhiều sắc tộc kéo nhau về tụ tập sinh sống trong vùng Sài Gòn, chợ búa bắt đầu nhóm họp ở nhiều nơi như Chợ Cầu Muối, Chợ Đũi, Chợ Gạo, dân cư lan tỏa ra các vùng chung quanh lũy đất Nguyễn Cửu Đàm như Phú Nhận, Gò Vấp, Bà Chiểu, Cầu Sơn, Thị Nghè, Thủ Thiêm, Xóm Chiếu, Lò Gốm và bắt đầu có sự phân biệt dân thành thị với dân ngoại ô, dân nội thành với dân ngoại thành, dân con buôn ở chợ và dân nhà quê làm ruộng rẫy.


    Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 1776 vùng Sài Gòn bị xáo trộn và đổi chủ nhiều lần qua sự tranh giành giữa chúa Nguyễn và anh em nhà Tây Sơn kéo dài mãi cho đến năm 1788 bởi vì Vùng Sài Gòn đã trở thành một vùng trọng yếu mà kẻ nào làm chủ thì kẻ đó cũng sẽ là chủ nhân cả miền Nam trù phú: lịch sử Việt Nam đã chứng minh điều đó. Trong khoảng thời gian nầy, vùng Sài Gòn đã phải gánh chịu hàng chục trận đánh lớn, tài sản tiêu hao, chết chóc nhân mạng dẫy đầy, dân tình xôn xao nhưng lạ lùng thay vùng Sài Gòn chưa bao giờ bị san phẳng thành bình địa và dân Sài Gòn vẫ trơ gan cùng tuế nguyệt, cách ăn ở, mức sống không hề bị suy sụp, nét văn hoá miền Sài Gòn không bị xóa nhòa hay biến dạng, người Sài Gòn luôn luôn nghiến răng chịu đựng, mãi cho đến tháng 8 năm Đinh Dậu tức là ngày 07-09-11788 nguyên soái Nguyễn Ánh lấy lại toàn vùng Sài Gòn và từ đây trở đi không còn bị quân của anh em nhà Tây Sơn đánh đuổi giành giựt được nữa.

    Và như đã trình bày ở phần trên, năm 1790, nguyên soái Nguyễn Ánh đã ra lệnh cho Le Brun và Olivier thiết kế và xây dựng kinh thành Gia Định.

    Theo sự kê chú trong bản vẽ lại đồ án kiến trúc của Le Brun 1790 thì các cơ sở bên trong thành Gia Định được xây cất từ 1790 cho đến khi họa đồ được vẽ ra vào năm 1795 là những vị trí được Le Brun đánh số từ số 1 đến số 17. Trước khi đi vào chi tiết về kiến trúc thành Gia Định, chúng ta thử truy cứu xem vào năm 1795 ai là người đã thực hiện bản vẽ lại đồ án kiến trúc của Le Brun?
    Dư luận từ trước tới nay đã căn cứ vào đoạn ghi chú trên bản đồ 1795 để cho rằng bản vẽ lại đồ án kiến trúc của Le Brun vào năm 1795 là chính tay Le Brun vẽ từ đồ án kiến trúc Grand plan do chính của người Pháp nầy thực hiện năm 1790. Hiểu như vậy rồi thắc mắc rằng Le Brun không phục vụ Nguyễn vương Phúc Ánh đến năm 1795 thì làm sao lại có thể cho rằng bản vẽ 1795 là do Le Brun vẽ ra?
    Alfred Schreiner trong sách Abrégé de L' Histoire d' Annam đã viết về Théodore Le Brun như sau:

    >. (Dịch: Le Brun Théodore, binh nhất hiện dịch của tàu chiến Méduse, đào ngũ khi tàu ghé cảng Ma Cao ngày 13 tháng 1 năm 1790 và đến phục vụ cho chúa. Được giao nhiệm vụ kỷ sư và phát họa bản đồ thành Sài Gòn. Tuy nhiên đương sự chỉ làm công cho Nguyễn Ánh khoảng 15 tháng rồi tự ý bỏ đi vì không được trả công trọng hậu mà còn bị đặt dưới quyền sai khiến của Olivier "binh nhì tham mưu trưởng trong quân đội của Nam Kỳ" ).

    Cũng theo Alfred Schreiner thì binh nhì Olivier de Puynamel đến phục vụ cho Nguyễn Ánh vào năm 1788 và được giao cho chức vụ tham mưu để lo việc tuyển mộ và huấn luyện binh sĩ. Sử cũ thường gọi người Pháp đánh thuê nầy là Cai Tín. Năm 1790 được Nguyễn Ánh giao cho việc xây cất thành Quy Sài Gòn. Năm 1799 sang Mallaca chữa bệnh và chết ở đó vào lúc 31 tuổi.

    Sử sách cũ của triều Nguyễn cũng cho biết là từ năm 1790, tức là từ lúc khởi sự xây cất thành Quy, Nguyễn vương Phúc Ánh rất bận rộn trong việc chinh chiến đối phó với quân Tây Sơn:

    -Năm Nhâm Tý (1792) Nguyễn vương khởi động chiến dịch tấn công "gió mùa", đem quân đi đánh Tây Sơn, gió thuận ra đi, gió trái trở về.

    -Năm Quý Sửu (1793), Nguyễn vương ra đánh Qui Nhơn, lấy lại phủ Diên Khánh, thâu phục phủ Phú Yên. Tháng 9 âl, Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc chết.

    Tháng 10 âl (1793), sai Nguyễn Văn Thành giữ thành Diên Khánh, Nguyễn Ánh rút quân về Gia Định. Sai Chánh đội Quang Nôi Ve (tức Cai Tín Olivier de Puynamel) và đội trưởng Ba Đờ Chê (có thể là người Pháp Laurent Barisy) qua thành Cổ Á (thành Goa) và Ma Lac Ca (Malacca) để mua binh khí. (theo sách QTCBTY/ trang 29).

    -Năm Giáp Dần (1794), sửa lại Văn Miếu dinh Trấn Biên.

    -Năm Bính Thìn (1796), xây dựng Thái Miếu.

    Rõ ràng là trách nhiệm trông coi công tác xây cất thành Quy từ năm 1793 đến năm 1796 không còn do Cai Tín Oliver đảm nhiệm nữa vì đương sự đã xuất ngoại để lo việc mua súng óng, binh khí cho Nguyễn vương Phúc Ánh. Trong khi Nguyễn vương bận rộn với chiến dịch Gió mùa, Le Brun bất mãn bỏ đi, vậy thì công tác xây thành Gia Định giao cho ai trông coi? Không thấy sử sách cũ của triều Nguyễn nói rõ về việc nầy.

    Gần đây, một số ít học giả Việt Nam nghiên cứu về lịch sử Việt Nam đã dựa vào Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, quyển 15 để viết rằng chính Trần Văn Văn Học đã phụ trách việc đo đạc, phân chia khu vực và dự trù khai mở những con đường trong thành Gia Định. Trần Văn Học cũng là tác giả Bản đồ Gia Định 1815. Cũng dựa vào ĐNCBLT, người ta được biết rằng Trần Văn Học sinh quán ở Bình Dương (là Sài Gòn thời đó ), từng đi theo giáo sĩ Giám mục Bá Đa Lộc trong đoàn cầu viện sang Pháp nhưng khi phái đoàn sang đến Pondichéry (Ấn Độ) thì Học trở về. Học thông thạo quốc ngữ La tinh và tiếng Pháp, được Bá Đa Lộc đề đạt làm thông ngôn cho Nguyễn vương Phúc Ánh. Sau khi từ Pondichéry trở về, đương sự được giao phó việc dịch sách đặc biệt là các loại sách kỹ thuật của Pháp; cùng một lúc, đương sự cũng được giao phó nhiệm vụ chế tạo chất nổ, tàu hỏa, và chế tạo binh khí. Năm 1790, khi bắt đầu xây dựng thành bát quái Gia Định (tức thành Quy), Trần Văn Học phụ trách việc phát họa đường sá và phân chia khu vực phố phường.

    Người Pháp đánh thuê cho Nguyễn vương là Jean Marie Dayot (Nguyễn Văn Trí) đã tự kể lại rằng chính đương sự và Olivier đã cùng nhau thực hiện đồ án thiết kế vùng sông Sài Gòn cùng nhiều địa điểm khác nối liền với Cao Miên: "Nous avons relevé ensemble le plan de la Rivière de Saigon, ainsi que celui de plusieurs endroits qui communiquent avec le Cambodge". (trong La geste française en Indochine, G.Taboulet, tập I, trang 243 đến trang 251). Việc nầy nếu có thật thì chỉ có thể xảy ra vào năm 1790 vì năm nầy chính là năm Dayot mới đến xin phục vụ dưới quyền của Nguyễn vương Phúc Ánh và có thể được giao phó làm việc dưới quyền của Olivier trong việc quy hoạch xây cất thành Gia Định, sau đó thì Dayot được giao phó chức vụ chỉ huy hai thuyền chiến hiệu Đồng Nai và Vương tử Nam Kỳ và phải theo Nguyễn Ánh trong những chiến dịch Gió Mùa bắt đầu từ năm 1792. Chiến dịch Gió mùa chỉ tạo được thắng lợi khi lực lượng của Nguyễn Ánh chiếm được Qui Nhơn vào năm 1799. Võ Tánh được giao trọng trách trấn thủ Qui Nhơn và Nguyễn vương Phúc Ánh rút quân về Gia Định. Rất có thể vào lúc nầy Nguyễn vương lại giao nhiệm vụ cho Dayot theo dõi đôn đốc việc tiếp tục xây dựng thành Sài Gòn và vì thế lại có thêm một bản đồ khác gọi là bản đồ 1799 của Dayot.

    Le Brun bỏ đi, Olivier và Barisy bận công tác thu mua binh khí ở nước ngoài và Dayot thì phải theo Nguyễn Ánh trong các trận đánh Gió Mùa, như vậy thì công tác xây thành Gia Định từ năm 1792 đến 1799 nhất định là phải do Trần Văn Học đảm trách giám quản và năm 1795 Trần Văn Học đã vẽ bản đồ thành phố Sài Gòn dựa trên đồ án kiến trúc- Le Grand plan – do Le Brun thiết kế vào năm 1790. Có thể đồ án kiến trúc của Le Brun chỉ là kiểu mẫu prototype của một thành phố Sài Gòn thu nhỏ đặt trên bàn chứ không phải là một họa đồ được vẽ trên giấy trắng mực đen.

    Thành phố thu nhỏ hay đồ án kiến trúc năm 1790 có thể đã bị Le Brun phá hủy khi đương sự bất mãn tự ý bỏ đi mà cũng có thể đã bị dân phu thầy thợ đắp thành vì bị lao dịch khổ cực, bất mãn đã nổi loạn đập phá đồ án nguyên thủy của Le Brun: một tác giả người Pháp là Jean Bouchot viết một bài có tựa đề là Saigon sous la domination cambodgienne et annamite, đăng trên tập chí Bulletin de la Société des Études Indochinoises, 1926 có cho biết rằng: "Đông đảo dân chúng và quan binh đã nổi dậy phản đối việc xây thành Gia Định".

    Từ những sự truy cứu kể trên, người ta có thể suy diễn một cách dè dặt rằng bản đồ thành phố Sài Gòn đã do một người Việt Nam ở miền Nam là Trần Văn Học lần đầu tiên vẽ ra vào năm 1795, được J.M Dayot bổ túc vào năm 1799 và lại được Trần Văn Học trao chuốt, bổ túc và vẽ lại vào năm 1815 với nhiều chi tiết được ghi chú rõ ràng hơn, chính xác hơn.
    Theo sự mô tả của GĐTTC thì từ 1790 đến 1801, các cơ cấu kiến trúc của thành Quy gồm có: các vòng thành bao bọc hình hoa sen; trong thành có Thái Miếu (P), sở hành tại (A) (chỗ để Nguyễn vương cư trú và làm việc), kho trữ tích (E), Cục Chế Tạo (F), các dãy nhà cho quân túc vệ (H), cột cờ 3 tầng (I), các hào lũy. Ngoài thành thì đường ngõ, phố chợ được chỉnh trang thứ tự. Sửa sang và xây đắp 2 con đường quan lộ: một đường đi hướng Bắc từ cửa Chấn Hanh về phía Biên Hòa, một đường đi hướng Nam từ cửa Tốn Thuận. (Cần lưu ý rằng Thái Miếu được xây dựng vào năm 1796: xin đọc lại ở trang 1267 và 2 quan lộ chính yếu). Các tên cửa thành Quy trong khoảng thời gian nầy được gọi theo các quẻ bát quái đồ Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.
    -Hướng Đông - Nam có cửa Tốn Thuận.
    -Hướng Tây - Bắc có cửa Càn Khảm.
    -Hướng Đông - Bắc có cửa Cấn Chỉ.
    -Hướng Tây - Nam có cửa Khôn Hậu.
    -Hướng chánh Đông có cửa Chấn Hanh.
    -Hướng chánh Tây có cửa Đoài Duyệt.
    -Hướng chánh Nam có cửa Ly Minh.
    -Hướng chánh Bắc có cửa Khảm Hiểm.

    Năm 1801, Thái miếu trong thành Quy bị tháo gở lấy vật liệu đưa ra thành Phú Xuân - Huế để dựng Thái Miếu ở đó.
    [/B]
    Năm 1809, bên trong thành Quy lại có thêm Vọng cung, lầu bát giác hai bên tả hữu để canh phòng. Từ đó về sau lại có thêm những kiến trúc như: hành cung để dự bị khi vua đi tuần hành, các công thự của quan tổng trấn, của phó tổng trấn và của hiệp đốc trấn. Sửa sang trại quân ở 3 cửa Càn Nguyên, Ly Minh, Tốn Thuận (H) lợp ngói sơn son, hoa lệ, nghiêm chỉnh.

    *Xin lưu ý: xin tham chiếu các bản đồ về thành Qui ở phần trên.

    Cũng nên lưu ý rằng, cách sắp xếp các quẻ Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đài (tương ứng với các phương, hướng Đông Tây, Nam, Bắc, Đông-Bắc, Đông-Nam, Tây-Bắc, Tây-Nam) trong các sách bói toán của Việt Nam có thể không đồng nhất giống nhau mà cũng không giống với sự sắp xếp trên bát quái đồ của người Hoa. Hơn nữa, nạn tam sao thất bản, thêm vào, bớt ra đối với các thư tịch cũ khiến cho việc truy cứu rất khó khăn và chỉ đưa tới một cách vẽ suy diễn thành Quy không chính xác như trên.

    Để định hướng vị trí của nhiều kiến trúc bên trong thành Quy, Trịnh Hoài Hoài Đức đã dùng tên của những con đường để làm điểm hướng dẫn: phía trước đường Cấn Chỉ - Đoài Duyệt, bên hữu đường Càn Nguyên - Khảm Hiểm . .v.v . . .Cách mô tả nầy của Trịnh Hoài Đức rất mơ hồ, rất khó cho người đọc suy định để vẽ ra một cách chính xác. Trên đây chỉ là một bản vẽ sơ phát theo sự suy diễn riêng của người viết bài nầy, cần có sự bổ túc, sửa đổi của những nhà biên soạn Sử Việt Nam trong tương lai.


    Ghi Chú: (dùng cho hình vẽ bát quai đồ đã nêu lên ở kỳ trước)

    A: Vương cung B: Hậu điện C: Thái tử điện E: Kho Trữ Tích
    F: Cục Chế Tạo G: Trại xe trận H: Trại lính túc vệ P: Thái Miếu G: Chòi canh

    Trong bản họa đồ 1795 do Trần Văn Học vẽ lại từ đồ án xây cất "Grand Plan" 1790 của Le Brun có ghi chú hai kiến trúc số 2 gọi là Palais de la Reine -Vương hậu cung và kiến trúc số 4 gọi là Palais du Prince – Vương thái tử cung tương ứng với kiến trúc (B) và � trong sơ đồ thành Quy Các vị trí (B), � và (G) không thấy được kê ra trong Gia Định Thành Thông Chí nhưng sau năm 1801, Trịnh Hoài Đức có mô tả địa điểm các kiến trúc dùng làm các công thự cho quan tổng trấn, quan phó tổng trấn và quan hiệp trấn rất trùng hợp với 3 vị trí (B), � và (E) được vẽ ra trong sơ đồ thành Quy kể trên. Chúng tôi suy định rằng: trước năm 1801, vị trí (B) là vương hậu cung nhưng sau đó thì được dùng làm dinh quan tổng trấn, và cũng tương tự như thế, cung vương thái tử � đựợc dùng làm dinh của quan phó tổng trấn, và (E) trước là kho trữ tích sau dùng làm dinh của quan hiệp trấn.

    Riêng vị trí kiến trúc (G) thì Trịnh Hoài Đức mô tả rằng sở sửa chữa súng và sở tạo tác thợ rèn đối diện với Cục Chế tạo (F). Có thể cơ sở (G) nầy trước năm 1801 đã được dự trù làm trại chứa xa giá của Nguyễn vương Phúc Ánh chăng?

    Bên ngoài thành Quy theo GĐTTC thì có những cơ sở như:

    - Xưởng Chu sư hay xưởng thủy dài 3 dặm (nay là xưởng Ba Son), ở phía đông thành khoảng 1 dặm góc bờ sông Tân Bình (nay là sông Sài Gòn) và sông Bình Trị (nay là đầu rạch Thị Nghè).
    - Xưởng nuôi dưỡng voi ở ngoài trại đất cửa Khảm Hiểm.
    - Trường thuốc súng ở ngoài cửa Khôn Trinh (Khôn Hậu?) của thành, cách 2 dặm. Trường rộng 1 dặm, chung quanh rào bằng loại cây có gai.
    - Khám đường nhà ngục ở ngoài trại đất cửa Khôn Trinh.

    - Sứ quán ở bên hữu, phía trước cửa Ly Minh, cách thành 1 dặm.
    - Năm 1813 đặt học đường ở nền cũ dinh đồn Điều Khiển.
    - Kho bốn trấn. Ở nền cũ kho giản thảo, cách phía Nam thành 4 dặm rưỡi.
    - Trường Diễn Võ rộng 50 dặm. Ở phía tây nam cách thành 10 dặm.

    - Đồn Giốc Ngư (Giác Ngư). Ở bờ Bắc sông Tân Bình (sông Sài Gòn), cách thành 7 dặm thuộc địa giới trấn Biên Hòa (ở về phía Thủ Thiêm khoảng đối diện với cầu Tân Thuận ngày nay).

    - Đồn Thảo Câu. Ở bờ Nam sông Tân Bình (sông Sài Gòn), cách thành 6 dặm, thuộc địa giới trấn Phiên An (ở vào khoảng vị trí của cầu Tân Thuận ngày nay).

    Về vị trí của thành Quy so chiếu với các đường phố của Sài Gòn ngày nay thì đa số các thư tịch cận đại và ngày nay của Việt Nam cũng như của ngoại quốc đều căn cứ vào sự mô tả của học giả Pétrus Trương Vĩnh Ký để suy đoán vị trí của Thành Quy.

    Trong sách Souvenirs historiques sur Saigon et ses environs, học giả Trương Vĩnh Ký viết như sau:
    >.
  2. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [​IMG]
  3. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa.


    [​IMG]
    Người Thượng hoặc đồng bào sắc tộc là danh từ được dùng thời trước 75 để gọi chung những nhóm sắc tộc thiểu số sinh sống trên cao nguyên miền Trung, như Ba Na, Gia Rai, Ê đê, Cơ Ho, Mạ, Xơ Đăng, Mơ Nông...

    "Thượng" có nghĩa là ở trên, "người Thượng" là người ở miền cao hay miền núi, một cách gọi đặc trưng để chỉ những sắc dân sinh sống tại Tây Nguyên, còn gọi là miền Thượng (tức là miền thượng du). Chính sách dân tộc dành cho miền này được gọi là Thượng Vụ. Ngày nay, thường dùng chữ "người dân tộc" để gọi chung những sắc dân thiểu số.

    Trước thế kỷ 19 thì Tây Nguyên là vùng đất tự trị, địa bàn sinh sống của các bộ tộc thiểu số, chưa phát triển thành một quốc gia hoàn chỉnh. Do đất rộng, người thưa, các bộ tộc thiểu số ở đây thỉnh thoảng trở thành nạn nhân trước các cuộc tấn công của vương quốc Champa hoặc Chân Lạp nhằm cướp bóc nô lệ.

    [​IMG]
    Những đàn voi với số lượng không đếm xuể ở Tây nguyên ngày xưa. >



    Ổ Tây Nguyên thuở xưa thì chiêng, ché, voi, trâu có thể đổi được nô lệ. Có loại chiêng chỉ ngang giá vài con trâu nhưng cũng có loại chiêng giá trị tới 40 con trâu hay một tá tù binh, nô lệ.
    [​IMG]


    Tháng 2 năm Tân Mão niên hiệu Hồng Đức thứ 2 (1471), vua Lê Thánh Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành, phá được thành Chà Bàn, bắt sống vua Chăm Pa là Trà Toàn, sáp nhập phần lãnh thổ Chăm Pa thời đó vào Đại Việt.
    [​IMG]


    Tuy có sự ràng buộc lỏng lẻo, nhưng về danh nghĩa, vùng đất Tây Nguyên vẫn thuộc phạm vi bảo hộ của các chúa Nguyễn. Thời Tây Sơn, rất nhiều chiến binh thuộc các bộ tộc thiểu số Tây Nguyên gia nhập quân Tây Sơn, đặc biệt với đội tượng binh nổi tiếng trong cuộc hành quân của Quang Trung tiến công ra Bắc xuân Kỷ Dậu (1789).
    [​IMG]


    Sau khi người Pháp nắm được quyền kiểm soát Việt Nam, họ đã thực hiện hàng loạt các cuộc thám hiểm và chinh phục vùng đất Tây Nguyên. Trước đó, các nhà truyền giáo đã đi tiên phong lên vùng đất còn hoang sơ và chất phác này.
    [​IMG]


    Năm 1888, một người Pháp gốc đảo Corse tên là Mayréna sang Đông Dương, chọn Dakto làm vùng đất cát cứ và lần lượt chinh phục được các bộ lạc thiểu số. Ông ta thành lập Vương quốc Sedang có quốc kỳ, có giấy bạc, có cấp chức riêng và tự mình lập làm vua tước hiệu Marie đệ nhất.

    Nhận thấy được vị trí quan trọng của vùng đất Tây Nguyên, nhân cơ hội Mayréna về châu Âu, chính phủ Pháp đã đưa công sứ Quy Nhơn lên “đăng quang” thay Mayréna. Vùng đất Tây Nguyên được đặt dưới quyền quản lý của Công sứ Quy Nhơn. Sau đó vài năm, thì vương quốc này cũng bị giải tán.
    [​IMG]


    Năm 1891, bác sĩ Alexandre Yersin mở cuộc thám hiểm và phát hiện ra cao nguyên Lang Biang. Ông đã đề nghị với chính phủ thuộc địa xây dựng một thành phố nghỉ mát tại đây.

    Nhân dịp này, người Pháp bắt đầu chú ý khai thác kinh tế đối với vùng đất này. Tuy nhiên, về danh nghĩa, vùng đất Tây Nguyên vẫn thuộc quyền kiểm soát của triều đình Đại Nam.
    [​IMG]


    Vì vậy, năm 1896, khâm sứ Trung kỳ Boulloche đề nghị Cơ mật viện triều Nguyễn giao cho Pháp trực tiếp phụ trách an ninh tại các cao nguyên Trung kỳ.

    Năm 1898, vương quốc Sedang bị giải tán. Một tòa đại lý hành chính được lập ở Kontum, trực thuộc Công sứ Quy Nhơn. Năm 1899, thực dân Pháp buộc vua Đồng Khánh ban dụ trao cho họ Tây Nguyên để họ có quyền tổ chức hành chính và trực tiếp cai trị các dân tộc thiểu số ở đây.


    Năm 1900, Toàn quyền Paul Doumer đích thân thị sát Đà Lạt và quyết định chọn Đà Lạt làm thành phố nghỉ mát. Vùng đất cao nguyên Trung kỳ (Tây Nguyên) hoàn toàn thuộc quyền cai trị của chính quyền thực dân Pháp.

    [/LEFT]
    Năm 1956, Ngô Đình Diệm của chính quyền Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam cho thành lập Văn phòng Cố vấn Thượng Vụ để góp ý về những vấn đề liên quan đến cao nguyên miền Thượng. Năm 1957, Văn phòng Cố vấn Thượng Vụ được nâng cấp lên thành Nha Công tác Xã hội Miền Thượng trực thuộc Phủ Tổng Thống, trụ sở đặt tại Huế.
    [​IMG]


    Năm 1958, Phòng Xã Hội được thành lập tại Tây Nguyên với mục đích chính giúp học sinh người sắc tộc được theo học như người Kinh. Năm 1964, Nha Công tác Xã hội miền Thượng đổi thành Nha Ðặc trách Thượng Vụ trực thuộc Bộ Quốc Phòng và sau đó được nâng cấp lên thành Phủ Ðặc ủy Thượng Vụ.
    [​IMG]
    Hồ Lak ngày xưa.
    [​IMG]
    Phụ nữ Tây nguyên xưa và những trang sức trên người. >

    Năm 1969, Bộ Sắc Tộc (Bộ Phát triển Sắc Tộc) được thành lập ngay trong chính phủ VNCH thời Đệ nhị Cộng hòa do một người Thượng lãnh đạo, và có chức năng tương đương các bộ khác trong chính phủ.

    Tổng trưởng Bộ Sắc tộc là các ông Paul Nưr, Ya Ba, cuối cùng là ông Nay Luett (Nay Louette), một lãnh tụ Gia Rai, cho đến khi Việt Nam thống nhất năm 1975.
    [​IMG]


    Ba Na là nhóm sắc tộc đầu tiên, sau người Kinh, có chữ viết phiên âm dựa theo bộ ký tự Latin do các giáo sĩ Pháp soạn năm 1861. Đến năm 1923 hình thành chữ viết Ê Đê.
    [​IMG]


    Đàn ông Mạ thường để tóc dài búi sau gáy, ở trần, đóng khố. Khố cũng có nhiều loại khác nhau về kích thước và hoa văn trang trí. Loại khố trang trọng có đính hạt cườm, tua dài. Bên cạnh đó họ còn mặc áo chui đầu, xẻ tà, vạt sau dài hơn vạt trước che kín mông. Áo có các loại : dài tay, ngắn tay và cộc tay. Thủ lĩnh búi tóc cắm lông chim có bộ khiên giáo kèm theo.
    [​IMG]


    Tổng thể áo chỉ là hình chữ nhật màu trắng. Nửa thân dưới áo trước và sau lưng được trang trí hoa văn các màu đỏ, xanh là chính trong bố cục dải băng ngang thân với các mô típ hoa văn hình học là chủ yếu. Chiều dọc hai bên mép áo được dệt viền các sọc trang trí. Váy là loại váy hở được dệt trang trí hoa văn với những phong cách bố cục đa dạng.


    Từ 1976 đến đầu thập kỷ 1990, Tây Nguyên gồm 3 tỉnh là Gia Lai-Công Tum, Đắc Lắc, Lâm Đồng. Sau đó tỉnh Gia Lai-Công Tum được chia thành hai tỉnh: Gia Lai và Kon Tum (thay đổi cả cách viết chính thức tên tỉnh). Tỉnh Đắc Lắc chia thành hai tỉnh: Đắk Lắk và Đắk Nông.


    Hiện tại, địa bàn Tây Nguyên có 5 tỉnh là Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng.
    [​IMG]
    Bức ảnh nổi tiếng về người Tây nguyên.
    [​IMG]



    Ngày nay, Tây nguyên phát triển mạnh về kinh tế với các đồn điền bạt ngàn trồng ao su, cà phê, hồ tiêu, chè bát ngát - trở thành vùng kinh tế động lực, vùng chuyên canh các loại cây công nghiệp dài ngày.
    Chuyện điện đã về tận các buôn làng biên giới của Chư Prông, Đức Cơ, Chư Pah, Ia Grai, đường giao thông xẻ núi về với “ốc đảo” Kon Pne - vùng căn cứ kháng chiến. Đường giao thông, chợ búa, trường học, trạm xá và những cánh đồng bạt ngàn, quanh năm xanh ngắt nhờ hệ thống thủy nông Ayun Hạ.


    Riêng văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên đã được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại vào ngày 15 tháng 11 năm 2005.

    Tây nguyên xưa và nay vẫn là một vùng đất huyền thoại giàu đẹp, một điểm nhấn giữa ngã ba Đông dương.


    Nguồn: Du lịch, GO!
  4. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Bảo Đại ngồi kiệu qua mấy trăm mét nữa ngăn cách điện Kiến Trung với sân rồng là nơi sẽ cử hành lễ. Ông ngồi trên kiệu cao, nhìn được hết quang cảnh xung quanh. Đồ đạc trong điện của ông không giống các đồ gỗ nhiều màu sắc trong hoàng cung. Kia là một chiếc kiệu bằng gỗ do vua nước Pháp tặng một cụ tổ của ông, trông rất đẹp. Giữa thế kỷ XX rồi mà mỗi khi vua đi đâu trong Đại nội đều ngồi trên kiệu. Đó là quy tắc, mà ở đây quy tắc là luật được áp dụng không có giới hạn gẩn như một bức tranh hài hước. Như số lượng người khiêng tuỳ theo địa vị người ngồi trên kiệu. Có kiệu tám, bốn hoặc hai người khiêng như là các xe thổ mộ ở thế kỷ XVIII. Dĩ nhiên, Vua có quyền sử dụng kiệu cần nhiều người khiêng nhất, tức là loại kiệu cần tám người khiêng.

    Hôm đó, ngày 7 tháng 3 năm 1939 là một ngày quan trọng. Con trai đầu của ông, hoàng tử Bảo Long được chỉ định làm người kế vị, trở thành Hoàng Thái tử. Một cơ hội mới, một sự hồi sinh. Đứa con trai nhỏ của ông làm vai trò thắt chặt hơn sự hoà hợp với triều đình.
    Cuộc hôn nhân với Nam Phương, một tín đồ công giáo đã được năm năm. Vậy việc Bảo Long được tấn phong Hoàng Thái tử chứng tỏ ông quay về xin tha thứ không phải của hàng triệu người dân Việt ít khi gặp mà của hàng ngàn quan lại đang cai trị đế đô.
    Đám đông hoan hô ông hôm nay chính là những người năm năm trước đã hờn dỗi với ông buộc ông phải sống nửa ẩn dật như kẻ có tội.
    Vua mặc một áo dài vàng. Đó là màu của ông, chỉ riêng ông được dùng. Như lá cờ đuôi nheo chỉ treo khi chiến thắng, là biểu hiện của sức mạnh, của quyền vua.
    Ông thiết tha đến việc này. Cũng như ông tha thiết quan tâm đến chiếc khăn vàng quấn quanh trán, đến đôi ủng lót lông đến sự phục tùng của các quan hay các người hầu gặp trong hoàng cung còn đạng chìm đắm trong giấc ngủ, đến hàng nghìn dấu hiệu kính trọng hay tôn thờ, phù phiếm hay đầy xúc động.
    Ông tỉnh dậy từ lúc rạng đông, ngủ ít nhưng bộ mặt nhẵn bóng không giữ lại dấu ấn thiếu ngủ. Ông năm nay đã tròn 25 tuổi. Lúc nào cũng ra dáng một vị Hoàng đế trẻ tuổi đẹp trai đúng là bắt đầu trị vì thật sự.
    Trong bộ sắc phục truyền thống thêu kim tuyến, trông ông giống hệt tổ tiên ông. Cũng vẫn vẻ trịnh trọng, nghiêm trang trong cử chỉ, ánh mắt. Mặc dù những cải cách hiếm hoi, mặc dù đã cưới một bà Hoàng hậu công giáo, ở đây hình nhừ mọi việc vẫn y nguyên không có gì thay đổi. Hoàng thành vẫn im lìm đắm mình trong tập quán cổ xưa.

    [​IMG]

    [​IMG]

    Ảnh: Ngày 7-3-1939, tấn phong Hoàng tử Bảo Long

    Nhà vua đã đến vị trí dành cho mình trên một bệ cao giữa sân rồng, cái sân rồng đầu tiên trước điện Thái hoà được gọi là sân đại triều nghi dành cho các cuộc lễ trọng đại trong triều. Ông nhìn sang bên cạnh xem đã đủ mặt những nhân vật trọng yếu chưa. Ông chú ý đến bà Hoàng Thái hậu Từ Cung lúc này thấy lặng lẽ hơn mọi ngày, bà Hoàng hậu Nam Phương lúc nào cũng rất đẹp, đứng thẳng, hơi lạnh lùng và xa cách. Và cuối cùng đứa con trai bầu bĩnh và bình tĩnh, kiên nhẫn đợi buổi lễ bắt đầu. Bảo Đại thấy thoả mãn trong lòng. Việc tấn phong sẽ diễn ra đúng như dự kiến. Không có sự can thiệp của Toàn quyền Đông Dương, của chính quyền bảo hộ.
    Bảo Đại tiếp tục kiểm tra đám đông các quan đại thần rồi lại một lần nữa dán mắt nhìn những người thân trong hoàng tộc. Ông đưa mắt nhìn xem có thấy người em họ Vĩnh Cẩn không. Ông ta cũng ở tuổi thanh niên như ông, có lẽ hơn một chút. Họ coi nhau như bạn thân thiết, xa lánh các mưu mô mánh khóe, các tham vọng. Hoàng thân Vĩnh Cẩn lúc nào cũng đi bên cạnh vua nên có lúc gọi là hoàng tùng đệ Vĩnh Cẩn đôi khi là bạn tâm tình, lắm khi lại là người trung gian truyền mệnh lệnh hay ý muốn riêng của vua. Đó là đôi tai của ông nghe mọi chuyện không phải ở trong triều. Vua ít tiếp xúc với bên ngoài. Huế là một thành phố công chức quan lại chủ yếu là thủ đô của nghi lễ. Mặc dù vẻ huy hoàng trong các thái độ trịnh trọng nghiêm trang của triều đình, của các quan đại thần nhưng thực quyền ở chỗ khác: tại dinh Khâm sứ Pháp, các đồn điền thực dân hay ở các câu lạc bộ chính trị. Tóm lại là quyền lực thật sự không ở trong các toà nhà tráng lệ của trung tâm Đại nội, trong mười hai cung điện trong hoàng cung. Cũng không phải ở nơi làm việc riêng và chỗ ở của gia đình Bảo Đại, một gia đình đông như một bộ tộc, một thị tộc hay một dân tộc của một mình gia đình ông. Không biết dùng làm gì? Khi từ châu Âu trở về Bảo Đại đã tự đặt câu hỏi. Xung quanh Hoàng đế An Nam và triều đình có đến một vạn người cả nam lẫn nữ, tất cả đều là con cháu hậu duệ của một vị vua sáng lập triều Nguyễn là Gia Long từ gần một thế kỷ nay.
    Một đám người đông đảo có chức vị, phẩm trật khác nhau, tranh giành đòi hỏi mỗi người một mẩu quyền hành, chờ đợi sự thất sủng hay ân sủng, lợi dụng sự phế truất của vua này để ủng hộ một vua khác. Mười nghìn anh em họ các đời vua kế tiếp nhau đang tranh chấp, phản bội nhau, bày đặt âm mưu này nọ hay chỉ đơn thuần hưởng thụ một đặc ân là sinh từ một gia đình quyền quý. Từ một trăm năm nay nhờ có nhiều vợ các vua đều đông con. Gia Long có năm mươi mốt người con nối nghiệp. Người con trai nối ngôi lấy niên hiệu là Minh Mạng có một trăm bốn mươi hai người con! Mỗi một ngóc ngách xó xỉnh trong hay ngoài hoàng thành đều có căn nhà, mảnh vườn làm nơi trú ngụ và nuôi sống họ hàng con cháu gần xa với vua và không ít trong số này chỉ cam lòng có tên trong danh sách dài dằng dặc những người trong hoàng tộc.
    Bé trai Bảo Long đã sinh ra ở đó cách đây ba năm. Vui vẻ biết bao, tự hào biết bao khi cha mẹ biết giới tính của nó. Sinh con trai trong một gia đình An Nam là một tin mừng, một hạnh phúc lớn. Đứa trẻ lớn lên sẽ là người tiếp nối việc thờ cúng tổ tiên, nối dõi tông đường, lưu truyền tên họ. Ở các gia đình người Việt điều khổ tâm, điều bất hạnh lớn là không có con trai nối giõi. Hạnh phúc và hoan hỉ càng gấp bội nếu đứa bé trai đó là con vua. Việc nối ngôi thế là được bảo đảm. Hạnh phúc hơn nữa là Nhà vua, cha đứa trẻ sẽ được lòng dân hơn vì sinh hoàng nam và thể tạng đứa bé lại khỏe mạnh.
    Bảo Đại đã viết: "Con trai của chúng tôi là hoàng tử Bảo Long còn trẻ mà được trời phú cho những phẩm chất tự nhiên cao quý, có năng khiếu lỗi lạc, khiến chúng tôi có thể nuôi hy vọng tốt đẹp về tương lai của nó".
    Đứa bé được đặt cách mẫu hậu vài bước, trước mặt một dãy triều thần. Một đứa bé kháu khỉnh xinh đẹp.
    Không khỏi mủi lòng thấy đứa bé phải chịu đựng những nghi thức trang trọng, rườm rà và nặng nề với chiếc mũ miện và bộ sắc phục hình như không vừa với thân hình đứa bé. Nó không cười, không nhảy nhót chơi đùa, trái lại ngồi yên với dáng vẻ nghiêm trang.
    Hôm sau, quan Toàn quyền Đông Dương, người có trách nhiệm cao nhất của chính quyền thuộc địa sẽ viết thư cho Nhà vua để nói rõ ông đã rất xúc động về tính nghiêm túc và trịnh trọng của lễ tấn phong.
    Đứa trẻ vẫn nhìn thẳng vào đám đông triều thần che kín mặt đất trong gian phòng để ngai vàng. Một, hai trăm con người. Dáng vẻ nặng nề, lễ phục thêu kim tuyến. Một cảnh tượng oai nghiêm và trịnh trọng trong khung cảnh uy nghi của Đại nội. Các quan lại trong triều đều coi Huế như nhà họ. Đó là thủ đô của họ, thành phố của họ, là sân chơi của họ. Người ta gặp họ ở mọi nơi, ở mọi lúc. Như công chức ở một thành phốhiện đại, hàng ngày họ đến công sở buổi sáng bằng xe tay và về muộn vào buổi tối ở vùng ngoại ô có những lùm cây xanh. Ngày nay họ không còn đi võng sơn son thếp vàng mà đến bằng xe ôtô. Những lính hầu xúm lại, mở lọng che. Cả một đội quân đem theo đồ lề dụng cụ: điếu khảm xà cừ, các loại ấn, bút lông và mực tầu và có khi cả trầu cau, ống nhổ. Họ đều mặc áo dài bằng vóc hay gấm thêu kim tuyến vàng, mũ cánh chuồn, đai lưng rộng có hai cánh tạo cho một một dáng đi mạnh mẽ như quan võ, chân đi ủng dạ đế dày, mũi ngỏng lên. Khi họ bước đi trông nặng nề như thợ lặn, có vẻ như ngập ngừng hay kéo lê đôi chân theo tiến trình của buổi lễ.
    Bảo Đại chỉ định con trai đầu lòng làm Hoàng Thái tử. Đó là ý nghĩa của lễ tấn phong, một sự kiện quan trọng, một sự lựa chọn thiêng liêng đối với đứa trẻ. Đến lượt nó, khi vua cha băng hà, nó sẽ làm vua tức Thiên tử (Con Trời) vì ở nước An Nam Vua cũng nắm quyền lực của thế giới bên kia. Lúc này một mình nó như bị cô lập, cách mẫu hậu vài bước, vị vua tương lai im hơi lặng tiếng, hơi ngạc nhiên vì vẻ tráng lệ diễn ra trước mặt nó và vì nó. Nó chẳng hiểu gì về ý nghĩa các nghi thức, nó cũng không hiểu lời tung hô của người đứng đầu hàng các quan đại thần và quan tuyên cáo. Vị vua tương lai mới biết nói và khi nói là nói bằng tiếng Pháp. Làm sao có thể khác được. Bảo Đại và Hoàng hậu chỉ nói trước mặt nó bằng ngôn ngữ của Voltaire vì ngay cả các quan ở phía dưới kia tuy trưởng thành từ chữ nghĩa thánh hiền mà cũng bắt đầu bỏ rơi tiếng nói của tổ tiên.
    Tuy vậy ở cuối thành nội, có một cung điện dành cho gia đình Nhà vua. Có một đội ngũ gia sư dạy tiếng Việt cho các con vua. Còn có hai giáo sư nữa, một Thuỵ Sĩ, một Pháp dạy dần dần các môn học khác, thêm một vị cử nhân Hán học nữa dạy viết chữ nho mặc dù ngày nay không dùng nữa. Từ một thế kỷ nay nước Việt Nam đã chấp nhận mẫu tự la tinh.
    Việc chỉ định con trai mới lên ba làm thái tử nối nghiệp là một hành động chính trị biểu hiện một sự thận trọng(1). Bảo Đại được tuỳ ý hoãn lại việc chỉ định vào thời gian sau hoặc có thể chỉ định một người nào khác hay giống như vua cha trước đây đợi đến trước khi trút hơi thở cuối cùng mới đưa ra tên người kế nghiệp. Nhưng đáp ứng đòi hỏi của Hoàng hậu Nam Phương, Bảo Đại đã quyết định đi trước một bước chặn đứng cùng một lúc mọi tính toán và tranh giành ngôi thứ cung đình. Nhà vua tương lai sau này sẽ là con trai ông vì ông đã có cơ may sinh được con trai đầu lòng.
    Một quyết định đơn giản, bình thường hiện đại như ông muốn, vì ông luôn luôn mong muốn đổi mới một số nghi thức buồn tẻ của triều đình An Nam.
    Tất cả những nhân vật trang phục nhiều màu sắc, tụ tập trên cái sân lát gạch rộng lớn, chắp tay vái. Cánh cổng lớn dát vàng ở cửa Ngọ môn, lối vào chính của Đại nội hé mở. Bảy phát súng lệnh vang lên. Bảy phát, mỗi phát một vía, hợp với bảy vía của đứa bé trai, theo tín ngưỡng Việt Nam.
    Đứa bé có hai thanh niên đi kèm bên cạnh đã vượt qua cửa Ngọ môn, cửa lễ phước mà bình thường chỉ có Nhà vua đang tn vì mới có quyền đi qua. Thái tử Bảo Long có hai người lớn đi kèm đã đi qua chiếc cửa thiêng liêng này. Chỉ mới ba tuổi. Bằng việc qua cửa này, cả ba đã nhận tước hiệu hoàng tử, con đẻ vua hoặc hoàng thân anh em họ với vua.
    Mặc dù Bảo Đại được nhào nặn trong văn hoá phương Tây nhưng ông coi trọng buổi lễ tấn phong này sẽ đưa lại cho con trai ông, thái tử kế nghiệp thêm một vầng hào quang nữa. Còn hai người nữa? Một là Vĩnh Cẩn, anh em con chú con bác và là người bạn tâm giao của Bảo Đại và một người nữa cũng là anh em họ sau này sẽ là đại sứ Việt Nam tại Paris tên là Vĩnh Lộc.
    Nhà vua trị vì ngồi trên một chiếc ngai bằng gỗ thếp vàng trong gian đặt ngai vàng đợi đứa con vào ngồi bên cạnh. Dẫn đầu có bốn ông quan đại thần, tứ trụ triều đình, rất thân cận với Nhà vua, có trọng trách khuyên răn, can gián vua, giúp vua dẫn dắt thần dân.
    Trời oi bức. Chính Bảo Đại đã đích thân quyết định chọn tháng ba để tổ chức lễ tấn phong con trai ông. Sau đó đến lượt các ông thầy xem tướng số đã xác định rõ thêm nên chọn ngày nào là ngày tốt nhất trong tháng.
    Ở Huế bây giờ là cuối mùa mưa cũng không phải thời điểm tốt nhất nhưng chắc là Nhà vua đã nghĩ đến dự định cùng Hoàng hậu đi chơi Pháp vào mùa xuân tới và có lẽ ông muốn tiến hành tấn phong con trai ông trước khi lên đường. Dù sao cũng là mong muốn nếu không nói là lệnh của chính quyền bảo hộ để nếu xảy ra điều bất hạnh, nhà nước bảo hộ không lúng túng trong việc chọn người kế vị.
    Hoàng đế tương lai sẽ lấy tên hiệu là Bảo Long. Một quyết định do Gia Long đưa ra cách đây hơn một thế kỷ. Để tránh lộn xộn ông đã sáng tác một bài thơ gọi là "Đế hệ thi" xác định tên cho các triều tiếp theo(2) cho đến thế hệ thứ hai mươi. Duy chỉ có cái mới khá quan trọng là lễ tấn phong phải làm vào buổi sáng và do Toàn quyền Đông Dương chủ toạ. Xưa kia, có sứ giả của triều đình Trung Hoa đến dự. Nước An Nam đã thay đổi nước thần phục bây giờ là nước Pháp, do Toàn quyền Đông Dương là đại diện thường trực và thừa uỷ quyền để nắm quyền cai trị khác với triều đình Trung Hoa trước đây chỉ nặng về danh nghĩa, về biểu tượng. Năm mươi năm sau Hiệp ước bảo hộ đây là lần đầu tiên trong dịp tấn phong con trai Bảo Đại làm Hoàng Thái tử thì sự thừa nhận của Pháp mới đi vào nghi thức.
    Dân chúng Huế ở ngoài thành được biết có lễ tấn phong nhưng họ không được mời dự. Đây là một nghi lễ kín, nhiều màu sắc, trống chiêng ầm ĩ nhưng chỉ dành riêng cho triều đình. Ngoài ra dân chúng ít khi được thấy mặt vua và quần thần. Dù thế nào thì trong các lễ chuyển giao triều đại hay đăng quang, dân chúng đều không được dự. Riêng chỉ có tế Nam giao là cho phép dân chúng ngắm nhìn vua, gia đình vua và đoàn hộ giá.
    Toàn bộ triều đình đi cách thành nội vài cây số đến đàn tế, nơi đây mổ hơn hai chục con bò, cho đến khi Bảo Đại ban dụ bãi bỏ lệ này. Lễ Nam Giao là dịp để vua báo cáo công việc trị vì cho Trời, người thầy che chở vua. Một lễ hội uy nghi nhưng ba năm mới tổ chức một lần.
    Văn võ bá quan lần lượt đến vái lạy trước Bảo Long. Lễ tấn phong kết thúc, mọi người lũ lượt ra về. Các quan đình thần sắc phục hào nhoáng lui về tư dinh, còn quan chức bình thường về nhà. Riêng bà Hoàng Thái hậu quay về với bàn mạt chược, bà Hoàng hậu về với lũ con nhỏ, còn Bảo Đại với các chương trình đi săn đã dự kiến. Cả hai người đều đi hết khoảng cách ngăn nơi cử hành buổi lễ với điện Kiến Trung. Một toà nhà nặng nề nhưng bên trong trái với truyền thống, họ sống theo kiểu phương Tây. Tối nay vua và Hoàng hậu mời khách ăn tối. Sau đó tại một căn phòng rộng bên ngoài hoàng thành, tổ chức tiệc nhảy có tám trăm khách đến dự để chúc mừng thành công của sự kiện quan trọng này.
    Cậu bé trai hiểu rằng từ nay mình phải thay đổi thói quen. Phải bước nhanh hơn một chút, lên chiếc kiệu có hai thị vệ khiêng. Từ nay cậu được hưởng một số quyền dành riêng cho vua: có nhà, đúng hơn là phủ riêng. Đó là một toà nhà ở bên ngoài hoàng thành, trên bờ kênh. Đây còn là biểu tượng. Trong mười hay năm mươi năm nữa khi số phận và Trời định, vua tại vị về chầu trời thì từ phủ này đình thần sẽ long trọng rước cậu vào Đại nội lên ngôi vua nắm quyền bính.
    Chỗ ở mới đó đơn thuần chỉ là hình thức. Bảo Long vẫn không rời khỏi chỗ ở hiện nay trong Tử Cấm thành, nơi anh lớn lên cùng với Vua cha và Hoàng hậu.
    Toà phủ dành riêng của Thái tử chỉ dùng làm nơi tiếp nhận phẩm vật hoặc nữa là nơi tổ chức ngày sinh mà từ nay cả nước sẽ ăn mừng. Ở đó Thái tử tiếp những đại diện của chính quyền bảo hộ và vài người trong số một vạn anh em họ đến chúc mừng. Một cung điện nữa là nhà học dành riêng cho Thái tử nhưng xây cao trên tường thành.
    Cuộc sống hàng ngày của cậu bé hoàng tử kế vị đã bộc lộ buồn tẻ đơn điệu. Phẩm tước của cậu buộc phải sống cô đơn. Người bạn thân nhất là người hầu phòng, thị đồng của cậu chỉ hơn cậu vài tuổi.
    Tuy nhiên cũng có lúc để đỡ buồn, coi như một trò giải trí, cậu ăn mặc quần áo ngày hội đến vấn an bà Hoàng Thái hậu Từ Cung. Bà già này sống trong cung dành riêng cho mình gọi là cung Diên Thọ. Bà ham mê cờ bạc nhất là mạt chược như nhiều bà mệnh phụ khác. Bà mời các cận thần, bạn bè và cả một số quan thượng thư cơ mật. Bà có ý kiến việc này việc nọ trong triều và cả công việc của nhà nước. Mua quan bán tước nhiều khi diễn ra quanh bàn mạt chược. Bà có khuôn mặt xương xương, cặp mắt sắc sảo, tuổi cao mà vẫn tỏ ra ngang ngạnh, nệ cổ trung thành với tục lệ truyền thống. Có lẽ bà xuất thân tẩng lớp bình dân nghèo và việc hôn nhân với Khải Định - vua cha của Bảo Đại - là một sự tình cờ, một bông hoa của số phận. Cung của Thái tử Bảo Long cách cung Diên Thọ của Hoàng Thái hậu vài trăm mét. Mỗi lần đến, Bảo Long ngồi cáng, sáu thị vệ theo hầu và phải mặc nam phục áo dài thêu, quần lụa, khăn đóng. Mỗi lần đến thăm bà nội, mỗi đứa cháu đều mang phẩm vật biếu bà, thường là lụa và đồ sơn mài.
    Hoàng Thái hậu ngồi đợi các cháu trong căn phòng lớn vừa làm chỗ chơi bài vừa ngủ. Bà ngồi trên một chiếc ghế bành rộng. Các cháu đến không được ôm hôn mà phải chắp tay lạy bà theo kiểu Việt Nam. Sau đó là bà già "hít" trán mỗi cháu. Đó là kiểu hôn ở An Nam.
    Cuộc trò chuyện bắt đầu giữa bà Hoàng Thái hậu và con dâu vì Hoàng hậu Nam Phương bao giờ cũng đi với các con mỗi khi đến vấn an bà. Các con đều không dự buổi trò chuyện hoặc chỉ ngồi một lát rồi lỉnh đi chỗ khác, vì chúng không quen với cách nói dài dòng của người lớn trong cung cấm và chúng không hiểu tiếng Việt. Bà Nam Phương vừa giảng giải vừa dịch sang tiếng Pháp. Trong sinh hoạt gia đình, trừ khi nói chuyện với Hoàng thái hậu, vợ chồng con cái đều nói với nhau bằng tiếng Pháp. Hơn thế nữa về mặt phép tắc trong nội cung, không bao giờ Vua, Hoàng hậu và các con trao đổi trò chuyện với người hầu.
    Bảo Long lớn lên cùng với các em trong khung cảnh gia đình không nói tiếng mẹ đẻ trong một thời gian dài. Các cuộc đi thăm bà Hoàng Thái hậu chủ yếu là hành vi qui ước Bọn trẻ rất chán chỉ mong chóng đến giờ về. Trong khi chờ đợi người lớn nói chuyện, chúng tha hồ ăn hoa quả và hàng núi kẹo bánh được chuẩn bị sẵn cho chúng. Không có chuyện được nô đùa. Không được làm gì nếu không được người lớn cho phép và chỉ dẫn.
    Sau này khi Hoàng Thái hậu thấy rằng chúng đã biết răm rắp nghe lời người lớn bà mới cho chúng được tản mát chạy chơi khắp chơn trong cung. Chúng tung tăng vui vẻ như xem hội. Ngôi nhà lớn mở rộng cửa các phòng đầy bụi bậm cho lũ trẻ. Chúng như lạc lõng trong các ngóc ngách xó xỉnh, giữa đống hòm, rương đựng đồ trang sức, các bình phong, các đồ gỗ cũ kỹ.
    Cuộc đi thăm này như một cái dấu ngoặc đơn coi như làm bổn phận đối với truyền thống do bà Hoàng Thái hậu đại diện. Mặc dù có một thời thanh xuân xáo động bà vẫn hiện thân cho nước An Nam vẻ vang và bền bỉ. Nhưng ảnh hưởng của bà biến mất từ lúc qua được các cánh cửa cung Diên Thọ mở rộng.

    ***


    Ngoài những buổi đến chầu bà Hoàng Thái hậu, Thái tử Bảo Long lúc nào cũng mặc âu phục trái với ý của bà nội cổ điển hơn. Trong đời sống xã hội hoặc cuộc sống thượng lưu cũng thế. Trái ngược với Bảo Đại trước đây phải sống xa lánh xã hội bên ngoài đến năm lên bảy, các con ông bây giờ không phải sống cách biệt trong Tử cấm thành. Chúng đi ra ngoài các bức tường thành để tham dự các lễ nghi do người Pháp tổ chức.

    Trong ngày kỷ niệm ngày sinh lần thứ bảy, Bảo Long còn được nhận lời chúc mừng của nhà nước bảo hộ. Coi như quà tặng nhân kỷ niệm ngày sinh, nước Pháp tố chức buổi biểu diễn vở L Oiseau Bleu (Con chim xanh) của Maeterlinck. Tất cả gia đình Nhà vua, nhân dịp này rời khỏi Tử cấm thành đến khu phố Tây, nơi có nhiều biệt thự xây dựng theo kiến trúc thuộc địa, ở trung tâm thành phố Huế. Buổi công diễn đầu tiên tổ chức trong cung An Định, xưa kia là cung điện mùa hè của vua cha Khải Định. Tại đây Nhà vua quá cố đã bố trí một phòng trình diễn sân khấu. Buổi diễn đầu tiên thành công. Người xem đều hài lòng. Buổi diễn thứ hai tổ chức ở tu viện dòng Cứu thế cũng gần khu người Âu.
    Bảo Long một mình đến đó, mở đầu các chuyến đi chính thức ra ngoài hoàng thành. Xe ôtô mang cờ vàng thêu hình con rồng đỗ xịch trước cửa tu viện. Cậu ta mặc chiếc áo gấm kiểu cổ màu da cam sẫm, đầu chít khăn vàng đàng hoàng bước xuống đầu tiên. Tờ tuần báo Indochine (Đông Dương) thốt lên: "Thật hiếm khi thấy một vị hoàng tử mới 7 tuổi mà ra vẻ trang nghiêm chững chạc đến thế!"(3). Đó là một nhân vật được mọi người biết đến, được tâng bốc, được tôn trọng tiếp đó là đi dự lễ khai giảng năm học ở các trường học, thăm các tàu ngầm. Mặc dù đã ở cương vị chính thức, cậu bé lúc thì điềm tĩnh, lúc thì cáu kỉnh đôi khi còn bị doạ đánh roi mây. Vài đòn roi đánh vào mông đít, một hình phạt cổ điển ở nước An Nam và vua cha ngày xưa thường xuyên chịu trận. Hơn là cái phát vào đít, đánh đòn roi mây bao giờ cũng để lại những vết hằn. Dấu ấn vào cơ thể và tâm hồn. Thay vì dùng trừng phạt bằng roi vọt, Nam Phương bắt con đến ở một mình trong một căn nhà gần tường thành suốt bảy ngày không cho về nhà như đi đày.
    Hoàng hậu Nam Phương làm mọi thứ để dạy dỗ con cái trong sự tôn trọng các giá trị nhân văn lớn: đòi hỏi khắt khe về trí tuệ, ý thức trọng danh dự, lòng dũng cảm, tính nghiêm ngặt. Bây giờ Bảo Long tâm sự: "Thật là buồn chán và ít trò chơi? Bà cư xử với con trai như một người mẹ yêu con và gần gũi, ôm ấp chiều chuộng nhưng không tỏ ra tôn trọng đặc biệt và không xa lánh".
    Thêm một cái mới nữa. Hoàng tử Bảo Long chơi thể thao. Việc này được coi như cuộc cách mạng trong Đại nội. Ngày trước các hoàng tử kế nghiệp giải trí bằng suy ngẫm về tư tưởng Khổng Tử hoặc về ý nghĩ cuộc sống bằng cách ngắm nhìn hồ Tĩnh Tâm trong vườn ngự uyển. Theo lề thói họ phải nén mình không biết động lòng là gì và "bất động" nghĩa là không được hành động phản ứng ngoài khuôn phép, đó là những dấu hiệu của quyền uy. Về vấn đề này có một câu chuyện làm cho họ run sợ. Một hôm đình thần quyết định phế vua mà không đổ máu. Đầu năm, theo truyền thống, vua ngồi bất động trên ngai vàng phải đón nhận những lời tung hô vạn tuế. Đáng lẽ sau khi nghiêng mình cúi lạy, các quan phải rút lui, đằng này họ lại quay xuống đứng sau người mới đến và lặp lại lời tung hô không dứt. Chừng nào tung hô chưa hết, vua vẫn phải ngồi im không động đậy để khỏi mất đi tính cách thánh sống. Đã hiểu mưu mô hiểm độc của đình thần, Nhà vua vẫn ngồi thản nhiên. Nhà vua kiệt sức dần, mặt tái nhợt rồi nhưng vẫn đứng vững, chỉ sau ba ngày vua băng hà. Cuộc mưu phản thành công. Quả là vua tự chết mà không phải để ai xử và cũng không mất một giọt máu.
    Chính Bảo Đại đã đích thân kể lại nhiều lần câu chuyện kinh khủng này cho các con nghe. Thế hệ vua chúa mới hoặc thế hệ các Nhà vua tương lai cơ động hơn. Họ còn ra ngoài trời tập luyện. Thái tử Bảo Long rất thích cưỡi ngựa. Mỗi ngày hai tay víu chặt vào hai tay nắm của yên ngựa, cậu bé xoay người cho ngựa phi nước đại. Ông thầy dạy ngựa động viên khuyến khích. Chính Bảo Đại cũng hoan hô khen ngợi.
    Bảo Long thích đơn độc. Trong thể thao, cậu ta không thích các môn chơi huy động nhiều người. Đồ chơi của cậu ta cũng hiện đại, phần lớn nhập cảng từ Pháp.
    Những bức ảnh về thời đó còn lại đến nay bao giờ cũng cho biết Bảo Long lúc nào cũng nghiêm nghị, trịnh trọng dứt khoát, ăn mặc chải chuốt. Không thấy lúc nào mỉm cười hay bĩu môi, phụng phịu như trẻ con. Cậu ta tuổi nhỏ nhưng đã có dáng trang nghiêm, giữ gìn như người lớn. Có vẻ hơi buồn.
    Cuộc sống của Bảo Đại ít nghi thức hơn so với những năm mới cầm quyền, nhưng vẫn xa cách mọi người. Tầm vóc của ông, cương vị của ông khiến ông phải giữ một khoảng cách nhất định với các con.
    Ngày nay Bảo Long nói về cha mình: "Đó là một nhân vật huyền thoại, đa tài: một thiện xạ, một phi công có tài. Luôn luôn có cái gì khác thường ở ông. Ông thường đưa tôi đi trên thuyền đua của ông. Ông có một đội thuyền nhỏ trên sông Hương và nhất là tôi không thể không có ấn tượng về ông trong các lễ nghi chính thức. Thực tế là hàng ngày ông thắp hương thờ cúng tổ tiên. Các vẻ hào nhoáng của triều đình của các bề tôi, các cỗ kiệu, mũ miện nạm đá quý, khăn đóng và áo dài, tất cả đều gây ấn tượng cho cậu con trai của ông".
    Bảo Đại được hưởng "đất phong" như một công quốc. Đó là hoàng triều cương thổ trên cao nguyên Buôn Ma Thuột. Tại đây người Pháp tổ chức cuộc săn lớn và hoàn hảo cho ông, có đoàn săn thường trực, có người chỉ huy cuộc săn. Một vài lần ông đưa con trai lên, cho con biết qua các cảm xúc mạnh và qua đó càng có thêm uy tín.
    Ông luôn luôn vẫn được người đời kính phục, khiến người ta thông cảm tha thứ hết, biện minh hết hành động của ông.
    Người ta còn kính phục ông mãi, dù trải qua nhiều cuộc chiến tranh, dù phải đi biệt xứ và những thay đổi đột ngột trong cuộc sống...

    Chú thích:

    (1) Việc chỉ định không phải là tránh được hết mọi sự lo lắng. Như vua Tự Đửc khi chết do không có con trai nên đã chỉ định người con trưởng trong ba người con nuôi và giao việc trị vì cho hai quan phụ chính. Hai ông này đã truất luôn vua mới lập và bỏ đói trong ngục tối rồi lập em của vua đã quá cố nhưng thấy đã quá lớn (23 tuổi) khó bề thao túng nên hai quan phụ chính lại phế truất luôn để đưa người em lên ngôi... Nhưng cuối cùng ông này cũng bị người Pháp bắt phải thoái vị.

    (1) Cũng theo cách này Bảo Đại có tên là Vĩnh Thuỵ, Bảo Đại có nghĩa là bảo tồn cái vĩ đại được chọn trong dịp lễ đăng quang.

    (2) Báo Indochine (Đông Dương), ngày 18 tháng 3 năm 1943.
  5. HSD2010

    HSD2010 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/04/2012
    Bài viết:
    1.734
    Đã được thích:
    4
    [​IMG]Sông Tam Bạc - Hải Phòng, 1916[​IMG] Vịnh Hạ Long, 1915[​IMG]Một quan huyện đang đọc chiếu chỉ nhà vua, 1916[​IMG][​IMG][​IMG] Nà Chạm là một làng nhỏ trên vùng cao, thuộc huyện Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái (cách Nghĩa Lộ 16 km về phía Đông, nay thuộc huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái).[​IMG][​IMG]Ông lý trưởng bên bình thuốc lào[​IMG] Một kệ bán đồ chơi bằng thiếc vào dịp Tết nhi đồng, 1915[​IMG][​IMG]Quan Thống sứ Bắc kỳ và gia đình, 1915[​IMG] Hai ông "tiên nâu" hút thuốc phiện[​IMG] Một quan huyện và các quan chức khác họp mặt tại phủ huyện, 1915[​IMG]Hòn Gai (nơi có mỏ than), 1915[​IMG]Những người bán gạo, 1914-1915[​IMG]Chợ Bắc Lệ (địa điểm ngày nay thuộc xã Tân Thành, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn)[​IMG]Mỏ than Hòn Gai 1918-21[​IMG]Cô gái Bắc kỳ nhuộm răng đen, 1915[​IMG]Một bà đồng bóng, 1915[​IMG][​IMG][​IMG]
    Ảnh màu hiếm về Miền Bắc Việt Nam năm 1915 qua mắt người nước ngoài
  6. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Femme de Saigon
    [​IMG]





    [​IMG]

    4512934569 48105921b2 VIETNAM - COCHINCHINE - SAIGON - FEMME DE SAIGON O
  7. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [​IMG]
  8. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    ----------------------------- Tự động gộp bài viết ---------------------------







    Cách ngày nay trên 2.500 năm, người Việt cổ đã sử dụng phổ biến hình thức xử lý xác người mới qua đời là thổ táng (đưa người chết vào quan tài gỗ và chôn trong đất). Tiêu biểu cho táng thức này là chiếc quan tài hình thuyền được tìm thấy ở khu mộ cổ Việt Khê (Hải Phòng) vào năm 1961. Chiếc quan tài này được làm từ thân cây khoét rỗng, trong quan tài ngoài dấu vết xương cốt còn có hơn 100 hiện vật tùy táng bằng đồng. Có lẽ quan niệm của người xưa cho rằng con thuyền quan tài sẽ chở người quá cố sang “thế giới bên kia”, còn cái chết chỉ là giấc ngủ dài mà trong đó họ có thể sử dụng những vật dụng chôn theo. Thổ táng như vậy đã trở thành táng thức truyền thống của người Việt Nam và tồn tại cho đến nay với các loại vật liệu xây dựng khác nhau theo từng thời kỳ, mà hợp chất vữa ô dước là loại vật liệu được sử dụng phổ biến từ thế kỷ XV.
    Phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, TP.HCM đã tiến hành chỉnh trang phố thị cho phù hợp với điều kiện mới và số lượng dân số ngày càng tăng, vì vậy các khu nghĩa trang và một số ngôi mộ riêng lẻ cần phải được di dời cho hợp vệ sinh và mỹ quan đô thị. Xóm Cải là một trong những trường hợp ấy.
    Vào những ngày cuối tháng giêng năm 1994, khi giải tỏa mặt bằng xóm Cải phường 8, quận 5, TP.HCM rộng gần 5 ha nằm trong khu vực các đường Hùng Vương, Ngô Quyền, Phước Hưng và Nguyễn Trãi để xây dựng khu chung cư mới, trong quá trình xử lý các ngôi mộ cổ, các nhà khảo cổ đã phát hiện một ngôi mộ hợp chất song táng có lại một quan tài trong quách gỗ còn nguyên vẹn xác một người phụ nữ khoảng 60 tuổi cao 1,52m bó nhiều lớp vải nằm trong dung dịch màu nâu đỏ dung tích khoảng 0,87m3.
    Ngôi mộ chôn xác ướp nói trên quy mô khá lớn: có cổng, có vòng thành bao quanh, có sân thờ và gò mộ kiểu một căn nhà, toàn bộ đều được xây bằng hỗn hợp vật liệu như vôi sống, mật đường mía, nước nhớt dây tơ hồng, một ít than hoạt tính, cát… tạo thành hợp chất khá rắn chắc:
    - Vòng thành mộ hình chữ nhật có kích thước dài 10m, ngang 6m, cao 1,2m, dày 0,8m.
    - Một cổng tam quan trang trí mặt tròn, có búp sen trên đầu cột. Cổng cao 1,4m, rộng 1m, dày 0,8m được xây dựng có mái vòm cong lót giả ngói ống trang trí hình rồng.
    - Sân thờ là khoảng đất rộng 6m ngang 4m giữa có bệ thờ chân quỳ dài 1,2m, rộng 0,8m, cao 0,6m.
    - Gò mộ là một khối hợp chất lớn dài 3,6m, rộng 3m, cao 3,2m bao gồm 2 phần: phần trước có bia mộ nằm chìm trong khối hợp chất và phần sau có trang trí hoa văn như cổng, mỗi bên hông đều vẽ một mặt tròn lớn. Chữ trên bia bị mòn còn đọc được 3 chữ Hán: 己 巳 年 “Kỷ Tị niên ?”. Khi phá gò mộ thành bình địa mới thấy 2 huyệt mộ:
    * Huyệt mộ nam dài 2,3m, rộng 0,8m, sâu 1,56m, từ miệng huyệt xuống đáy được xây lớp hợp chất, có một lớp cát mỏng phủ lên quách gỗ… Quách và quan tài còn nguyên lớp sơn màu đen, bên trong quan tài còn lại ít xương và một số hiện vật như: 7 chiếc nhẫn vàng có mặt đá, quạt giấy, lược, ống và cây ngoáy trầu bằng đồng, hộp bạc có dây xích hình cầu dẹt chạm dây lá, nút áo mạ vàng, bút lông… Điều này cho thấy người nam là một văn nhân.
    * Huyệt mộ nữ có kích thước nhỏ hơn một chút. Quách và quan tài nguyên vẹn. Mở quách rồi mở tấm ván thiên, trong quan tài được sắp xếp như sau:
    + Trên cùng là 2 chiếc chiếu cói trải rộng che phủ diện tích mặt áo quan.
    + Kế đến là một lớp giấy bản, từng tờ cuộn dày 10cm trải đều diện tích mặt quan tài.
    + Tiếp theo là một tấm lá triệu (lá phướn?) bằng lụa viết nhiều chữ Hán song chữ đã bị dung dịch thấm nhòe chỉ đọc được 4 chữ: 皇 家 恭 殮 “…hoàng gia cung liệm…”
    + Thứ đến là một lớp vải bó tròn thắt 9 nút cũng trải đều trên diện tích mặt áo quan. Có lẽ con số 9 ở đây tượng trưng cho người nữ theo câu: “nam thất nữ cửu” như phần dưới đây chúng ta lại gặp.
    + Phần chính yếu là một bọc dài lớn cuốn bằng lụa và gấm, có 9 dây vải thắt 9 nút. Kiểm tra gói bọc xác bà thấy hai bàn chân đi hài bằng vải bố thêu kim tuyến và một đôi hài khác để bên: mở bọc ra, các nhà khảo cổ thấy trọn vẹn xác bà tóc còn đen nhưng nhãn cầu và sụn mũi đã bị hủy hoại, da còn mềm có màu tái xám. Bà mặc khoảng hàng chục lớp vừa áo vừa quần may theo kiểu thụng bằng lụa và gấm, áo rộng cài khuy chéo, khuy bằng mã não và kim loại mạ vàng. Bà đeo trên cổ 1 xâu chuỗi hạt bồ đề, 1 túi nhỏ bằng gấm bên trong có phong bì đựng 3 tờ giấy viết chữ Hán: 1 tờ Lòng phái quy y, 1 tờ chép Bài chú vãng sanh tịnh độ và 1 tờ ghi tên 5 vị Phật. Mỗi tay bà đeo 1 vòng bằng vàng.
    + Dưới bọc xác bà là một lớp nhựa thông dày khoảng 10cm.
    + Dưới cùng là một tấm gỗ đục 7 lỗ tròn theo hình Thất tinh cách ván địa vài cm tạo ra áo quan kiểu hai đáy.
    Toàn bộ đều bị thấm dung dịch ướp.
    Khi đem xác đi để thẩm định, khớp cổ và các chi của xác bà còn mềm, nhưng chẳng bao lâu sau xác cứng lại và màu da đen dần, hiện nay xác đã teo khô và có màu đen.
    Kết quả thẩm định y khoa cho biết: các cơ bắp đã teo đét, phủ tạng đã bị hủy hoại chỉ còn lại các mô liên kết.
    Theo nghiên cứu bước đầu, căn cứ vào tờ lòng phái quy y và những chữ Hán còn lại đã giới thiệu trên có thể tạm xác định:
    Đây là một phụ nữ người Kinh (Việt) thuộc tầng lớp trên tên là Trần Thị Hiệu, pháp danh là Minh Trường. Qua các dấu ấn đóng trên tờ lòng phái quy y có thể thấy các đời tổ thứ 31 đến 37 của dòng đạo Bổn Nguyên, tông Lâm Tế. Vị sư truyền giới cho bà là thiền sư Chánh Niệm, húy Tiên Liễu thuộc đời thứ 37. Có thể bà thuộc Hoàng gia triều Nguyễn, là dâu hoặc là bên ngoại của các chúa hoặc vua Nguyễn, năm mất của bà là năm Kỷ Tỵ?. Các nhà khoa học cho rằng đó là năm 1869 [40, tr.7] hoặc năm 1809 (Võ Xuân Trang) [73, tr.4].
    Qua phát hiện khảo cổ về ngôi mộ hợp chất có thể thấy đây là xác được ướp nhằm kéo dài thời gian để tổ chức ma chay. Điều này chỉ có ở tầng lớp trên hay những gia tộc giàu có Việt Nam mới có khả năng thực hiện. Việc xác bà còn tồn tại tới nay là một trường hợp hãn hữu cần có sự nghiên cứu liên ngành để có thể hiểu rõ hơn, giúp ích cho các ngành khoa học liên quan. Xác bà và những di vật tìm thấy trong ngôi mộ hợp chất này đã trở thành một phần di sản vật chất và tinh thần quý giá của TP.HCM, góp phần làm nên bộ mặt Sài Gòn xưa vào giai đoạn mà người Việt đã trở thành chủ thể chính thức của vùng đất Nam bộ ruột thịt.

  9. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [​IMG]


    Boat of Cochinchina - Vietnam - Sanvito 1856-59


  10. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Nhiếp ảnh ở Việt Nam từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20


    Vietsciences-Nguyễn Đức Hiệp 12/04/2012

    Phần 1 Phần 2 - 1 Phần 2 - 2 Phần 2 - 3 Phần 3 Phần 4

    Vài nét về các nhà nhiếp ảnh từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 ở Việt Nam và Saigon - Chợ Lớn (Phần 1)


    Quand je prends des photos, ce n’est pas moi
    qui photographie, c’est quelque chose en moi qui appuie
    sur le déclencheur sans que je décide vraiment...”
    Pierre Verger (1902-1996)
    Từ khi bức ảnh đầu tiên được chụp ở Pháp vào năm 1826 bởi nhà phát minh Joseph Nicéphore Niépce, thì cho đến nay kỹ thuật nhiếp ảnh đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển lý thú. Và qua những cố gắng và sự đam mê của nhiều nhà nhiếp ảnh từ giai đoạn đầu cho đến ngày nay, chúng ta đã được để lại nhiều di sản không những có giá trị về lịch sử kỹ thuật mà còn có giá trị to lớn về văn hóa và xã hội.
    Mục đích của bài biên khảo này là tìm hiểu về lịch sử nhiếp ảnh tại Việt Nam bắt đầu từ khi kỹ thuật nhiếp ảnh ra đời và phổ thông vào giữa thế kỷ 19 ở Âu châu (đặc biệt là Pháp), sau đó lan đến Đông Dương do những nhà nhiếp ảnh tiên phong người Pháp đến Nam Kỳ (Cochinchine), Trung Kỳ (Annam) và Bắc Kỳ (Tonkin) làm việc hay lập nghiệp, cho đến các thập niên đầu thế kỷ 20 khi các nhiếp ảnh gia người Việt bắt đầu xuất hiện.
    Họ là những nhà nhiếp ảnh Pháp, Thụy Sĩ, Bỉ - Hòa Lan, Hoa, Việt, Algérie mà đa số là chuyên nghiệp, hoàn toàn sống vào nghề mới mẻ này và đa số cũng có văn phòng chụp ảnh và rửa ảnh ở Saigon. Có thể kể đến ông Émile Gsell với các bức ảnh nổi tiếng ở Cam Bốt, Nam Kỳ, Bắc Kỳ vào các năm trong thập niên 1860, 1870 trong chuyến thám hiểm Angkor, sông MeKong, và những ngày đầu của Pháp khi họ đến ở Nam Kỳ, Bắc Kỳ. Ông Pun Lun (繽 綸, Tân Luân) người Hoa từ Hồng Kông có văn phòng nhiếp ảnh ở Saigon với các bức ảnh Saigon cực kỳ hiếm có trong thập niên 1860, 1870 và 1880; ông Aurélien Pestel với các hình ở Saigon vào cuối thế kỷ 19, và ông Khánh Ký (Nguyễn Đình Khánh) với các ảnh chụp trong các thập niên 1920, 1930 của các nhà cách mạng Việt Nam như Phan Châu Trinh, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Ái Quốc, hoặc cho tổng thống Pháp Raymond Poincaré (1913), toàn quyền Pierre Pasquier và các phóng sự ảnh đăng trên báo L'Illustration (1933) (1).
    Ta cũng không quên nhắc đến nhà nhiếp ảnh Thụy Sĩ nổi tiếng Martin Hürlimann đã có ghé Việt Nam năm 1926 và đã chụp tại đây các bức ảnh đầy nghệ thuật về đền tháp, tượng, cảnh trí Champa ở miền Trung, và Hà Nội ở miền Bắc Việt Nam.
    Những hình ảnh họ chụp từ giữa thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20 là những tư liệu vô cùng quý giá cho nhiều đề tài nghiên cứu lịch sử và xã hội học ở Việt Nam. Hiện nay chúng ta chưa khai thác hết được các hình ảnh đã có hay vẫn còn nằm ở các kho chứa dữ liệu hay trong những bộ sưu tập tư nhân.
    Như một ngạn ngữ người Anh thường nói: một tấm hình có giá trị bằng cả ngàn chữ (A picture is worth a thousand words), các hình ảnh sinh hoạt đời sống xã hội thường ngày và những cảnh quan, nhà cửa, kiến trúc... trong thời quá khứ do đó là cơ sở mà tự nó có thể chứa rất nhiều thông tin cho các công trình nghiên cứu khoa học xã hội.
    Đi đôi với lịch sử nhiếp ảnh là lịch sử phim ảnh. Cuốn phim được quay đầu tiên ở Việt Nam có tên là “Le Village de Namo – Panorama pris d’une chaise à porteurs” do hai anh em Lumière (Auguste và Louis) thực hiện vào năm 1896 ở một làng gọi là Namo (Nam Ô) gần Đà Nẳng, ngay sau khi hai anh em người Pháp này sáng chế ra máy quay phim vào năm 1895. Hai anh em trước đó đã phụ giúp cha mình trong nghề nhiếp ảnh, và từ đó tìm ra được cách dùng cuộn phim chạy liên tục trong camera. Sau sự kiện lịch sử sáng chế máy quay phim (1895) của mình, Ausguste và Louis Lumière đã cho người đi đến nhiều nơi trên thế giới để quay các phim ảnh, mang lại những kỳ thú quan xa lạ ở những xứ sở ngoại quốc (kể cả các xứ thuộc địa) đến các diễn giả ở Pháp (1). Bài biên khảo này không có mục đích đi sâu vào lịch sử phim ảnh mà mục tiêu chủ yếu là nhiếp ảnh và vì thế sẽ đề cập đến lịch sử phim ảnh ở Việt Nam trong một bài nghiên cứu sau.

    Vài nét về lịch sử kỹ thuật nhiếp ảnh và nhiếp ảnh ở Việt Nam

    Kỹ thuật nhiếp ảnh từ thế kỷ 19 đến cuối thế kỷ 20 có thể được tóm tắt như sau:

    Kỹ thuật Daguerreotype:

    Năm 1837, Louis Daguerre tìm ra phương pháp nhận hình ảnh trên bảng đồng đã được phủ trước đó trên mặt một lớp “phim” với hóa chất silver iodine (AgI2, bạc iodine) hay silver chloride (AgCl2, bạc choride). Ảnh “chụp” sau đó được tráng bằng hơi thủy ngân (Hg) trên mặt phim, qua đó hơi thủy ngân tụ lại trên hình, ở nơi có phô ra ánh sáng và phản ứng với hợp chất đẩy bạc ra bám vào nền đồng. Cường độ phản ứng tùy thuộc vào độ ánh sáng đã đến trên mặt phim. Phần còn lại hóa chất được rửa đi bằng hóa chất sodium thiosulphate.
    Năm 1839, chính phủ Pháp công bố phương pháp chụp ảnh Daguerre như một món quà cho nhân loại. Các hình trên bảng đồng được bảo vệ bằng một tấm kiếng phủ trên mặt hình đặt trong khung gỗ hay kim loại chung quanh. Vì có chất bạc trên mặt hình nên mặt ảnh giống như gương phản chiếu khi nhìn xoay nghiêng theo nhiều góc độ. Các ảnh dùng phương pháp daguerreotype rất bền, nếu khung kính bảo vệ trên mặt bảng đồng không bị hư hại qua thời gian.
    Trong giai đoạn sau đó, máy ảnh không những đã ghi lại những hình ảnh quen thuộc, các sự kiện xảy ra ở Pháp, mà máy ảnh còn làm ngạc nhiên nhiều người ở Paris, gây nhiều ấn tượng và khơi dậy sự tò mò của quần chúng, khi các hình ảnh được mang về từ những miền đất xa xôi, những đất nước với phong tục văn hóa kỳ lạ đối với họ, do những nhiếp ảnh gia dùng máy ảnh kỹ thuật daguerreotype đã dày công sức mang theo trên đường du hành (2).
    [​IMG]
    Hình 1: Trang quảng cáo máy Dubroni, khoảng năm 1866 (trích từ Le Monde Illustré N° 462 - 17/02/1866) (8), cho thấy lúc này nhiều người du hành đã đi đến nhiều nơi trên thế giới như Trung Đông để chụp ảnh.

    Ký giả Hippolyte Gaucheraud đã viết một đoạn như sau trên một tờ báo, một ngày trước khi ông Daguerre trình bày khám phá của mình trước Hàn Lâm Viện Khoa Học của Pháp ngày 7 tháng 1 1839 về tương lai của nhiếp ảnh daguerreotype (11): "Những người du hành, không lâu nữa các bạn sẽ có được, với một giá tiền chỉ vài trăm francs, một máy ảnh do ông Daguerre sáng chế, và với máy này các hình ảnh sẽ được mang trở lại Pháp, về các công trình, các tượng, các kỳ quan tuyệt đẹp, hay những cảnh đẹp nhất thế giới. Các bạn sẽ nhận thấy các viết chì và các cọ của các bạn không thể tạo ra hình nào bằng được các hình ảnh do máy dùng kỹ thuật daguerreotype mang lại.”
    Tiên đoán của ông Gaucheraud quả thật đúng. Chưa đầy một năm sau thì những người du hành đã đi đến các tinh thành trong nước Pháp và đến những xứ sở nước ngoài xa xôi, mang theo các máy do Daguerre sáng chế. Mặc dầu có khó khăn về sự cồng kềnh và trong vấn đề tiếp liệu các mảnh đồng để chụp ảnh, cũng như sự hiểu biết và sự thích hợp của kỹ thuật Daguerre ở những nơi đầy ánh sáng như vùng Địa Trung Hải, khí hậu rất nóng trong sa mạc ở Ai Cập hay thiếu thốn hoá chất ở những cảng xa như tại Viễn Đông; nhưng những hình ảnh trên mảnh đồng mà họ mang được về Pháp là những hình ảnh quí hiếm cho phép ta thấy được một khoảnh khắc đời sống, hay sự kiện xảy ra ở nhiều vùng trên thế giới vào giữa thế kỷ 19.
    Hình ảnh đầu tiên rất hiếm chụp ở Việt Nam và Đông Dương là thuộc phương pháp Daguerre (gọi là daguerreotype). Nhiếp ảnh gia Pháp Alphonse Jules Itier đi theo phái đoàn Théodore de Lagrenée trên đường qua Trung Quốc để chụp hình ghi lại sự kiện ký hiệp ước giữa Pháp và Trung quốc vào năm 1844, đã có ghé Đà Nẵng, để lại một bức ảnh chụp đồn lính Việt Nam.

    Kỹ thuật Ambrotype

    Đây là phương pháp dùng hóa chất “collodion” phủ trên trên nền kính thủy tinh. Phương pháp này được sáng chế ở Anh, nó lần lần thay thế phương pháp daguerreotype vì giản tiện hơn, độ nhạy và thời gian ghi ảnh (exposure) cũng nhanh hơn. Ở Pháp phương pháp này gọi là “Collodion Positif”. Phương pháp ambrotype phát triển mạnh trong thời gian 1855 đến 1865. Phương pháp Daguerreotype không còn thông dụng vào khoảng thập niên 1860s.
    [​IMG]
    Hình 2: Máy ảnh Ambrotype
    hiệu Darlot, khoảng 1885, modèle: Chambre de voyage(8)

    Ở nhiều nơi như Pháp, phương pháp “ambrotype” vẫn còn được dùng cho đến thập niên 1880, gần cuối thế kỷ 19 trước khi được hoàn toàn thay thế bởi kỹ thuật “tintype” trên sắt và kỹ thuật mới trên phim và giấy.
    Năm 1851, Frederick Scott Archer tìm ra phương pháp làm ảnh qua quá trình “bảng ướt” (wet plate process), đôi khi gọi là quá trình “collodion” (collodion process) dựa theo tên hóa chất được dùng trên nền (bảng) kính. Hóa chất là bromide, iodine hay chloride (halogen gas) được hòa tan vào collodion (dung dịch pyroxylin trong cồn hay ester). Dung dịch này sau đó được chế lên mặt kính, sau khi dung dịch đông lại nhưng vẫn còn ướt thì người ta nhúng kính vào một dung dịch khác gọi là silver nitrate. Iodine và vì thế bromide trên mặt kính sẽ phản ứng với silver nitrate. Kết quả là hợp chất chất silver iodide (iốt bạc) hay silver bromide (bromit bạc) sẽ được hình thành trên kính.
    Khi phản ứng hoàn tất, kính được lấy ra khỏi dung dịch silver nitrate và được đặt vào camera để chụp trong khi vẫn còn ướt. Khi tia ánh sáng chiếu lên mặt kính chứa silver iodide thì kim loại bạc (silver) sẽ trầm tích làm tối lại và tùy theo cường độ ánh sáng, độ tối (lượng bạc) sẽ khác nhau. Vì mặt kính sẽ mất đi độ nhạy nếu chất đông chứa silver iodide khô đi nên cần phải dùng ngay càng sớm càng tốt. Sau khi chụp ảnh xong trên mặt kính, mặt kính còn ướt chứa ảnh được rửa bằng dung dịch có chứa sắt sulphate (FeSO4), acetic acidcồn. Vì thế người chụp ảnh phải mang theo hóa chất dung dịch để sửa soạn trước khi và sau khi chụp.

    Kỹ thuật Calotype (hay Talbotype)

    Khoảng cùng thời gian với kỹ thuật daguerreotypeambrotype là kỹ thuật chụp và rửa ảnh trên giấy gọi là “calotype” do ông William Fox Talbot sáng chế. Quá trình calotype, mặc dầu hình ảnh không rõ qua độ phân giải thấp so với daguerreotype nhưng nó có một lợi điểm đặc biệt quan trọng: từ một ảnh âm giấy duy nhất, hàng chục hay trăm ảnh giống nhau được rửa ra. Vì trên giấy nên dễ đuợc các nghệ sĩ liên kết chung vào với nghệ thuật họa hình, dễ gắn vào các album, đóng khung như tranh hay mang vào trong sách in. Vì thế vào đầu thập niên 1850, kỹ thuật chụp ảnh calotype trên giấy bắt đầu thay thế kỹ thuật daguerreotype. Mặc dầu ở Mỹ daguerreotype còn hiện diện lâu hơn nhưng ở Pháp nó hầu như biến mất vào đầu năm 1860. Kỹ thuật calotype dùng ảnh âm giấy (paper-negative) rất phổ biến và được dùng nhiều nhất là cho những người đi du hành hay du lịch.
    Phương pháp ambrotype dùng kính cho hình ảnh rõ hơn phương pháp calotype trên giấy. Cả hai đều dùng ảnh âm (negative) rồi từ ảnh âm mới rửa ra hay nhân ra thành nhiều ảnh. Có thể xem ambrotype là kết hợp đặc tính tốt nhất của daguerreotype là rõ, có độ phân giải cao và của calotype là dễ nhân bản ra nhiều ảnh từ ảnh âm, và phóng đại được hình.
    Trong thập niên 1850, có hai trường phái, một ủng hộ ambrotype và một ủng hộ calotype và cả hai đều phổ thông trong thời gian này trong khi daguerreotype biến mất dần vào khoảng thập niên 1860. Ambrotype dùng kính rất phổ thông trong các hình chụp chân dung vì ảnh rất rõ, đủ nhanh trong khi calotype dùng giấy âm được dùng nhiều bởi các nghệ sĩ hay những người đi du hành hay du lịch vì sự tiện lợi của nó. Nói chung ambrotype được dùng trội hơn so với calotype trong thập niên 1860.
    Sự phổ thông của nhiếp ảnh đã được hỗ trợ và thúc đẩy thêm bởi sự thành lập của hội nhiếp ảnh đầu tiên trên thế giới vào năm 1851 ở Paris. Đó là hội “Société Héliographique” (sau này gọi là “Société Francaise de Photographie”, SFP, và vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay). Hội này tổ chức các buổi triển lãm ảnh, kỹ thuật nhiếp ảnh, hội thảo, các sách và tạp chí về nhiếp ảnh được xuất bản (như tạp chí Lumière). Hội viên không những từ khắp nước Pháp mà còn có từ các nước châu Âu khác.

    Một vài thí du các ảnh chụp theo kỹ thuật ambrotype calotype

    Sau các ảnh chụp ban đầu rất hiếm, dùng kỹ thuật daguerreotype, những bức ảnh chụp ở Việt Nam dùng phương pháp ambrotype (trên kính) và calotype (trên giấy). Bức ảnh chân dung đầu tiên của người Việt Nam là ảnh của ông Phan Thanh Giản chụp ở Paris, dùng phương pháp ambrotype (collodion) trên kính, khi ông dẫn đầu sứ bộ sang Pháp năm 1863 để hy vọng chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam bộ.
    Trong bản tường trình của chuyến đi này, “Tây Hành Nhật Ký”, Phó sứ Phạm Phú Thứ đã viết như sau về kinh nghiệm của phái đoàn tiếp xúc lần đầu với máy ánh:
    ...Còn phương pháp chụp ảnh thì trước hết lấy nước thuốc xoa vào miếng kính rồi đặt vào ống; người đứng phía trước nhìn thằng vào miệng ống; hình người sẽ do ánh sáng mặt trời in vào miếng kính, tơ tóc không sai mảy may. Người Tây rất thích chụp hình. Phàm mới quen biết nhau, họ đều muốn được bức ảnh của nhau để tỏ ý nhớ nhau mãi mãi. Người sang kẻ hèn cũng đều một một ý thức như nhau. Vì thế, rồi từ hôm ấy trở đi, các quan chức luôn luôn đem thợ đến quán, yêu cầu Thần đẳng để cho họ chụp mấy tấm để tặng thần đẳng và bạn hữu… “ (7)

    [​IMG]

    Hình 3: Ảnh Phan Thanh Giản chụp ở Paris dùng kỹ thuật ambrotype
    Ta cũng có thể thấy các hình ảnh của nhà nhiếp ảnh Gsell chụp năm 1866 ở Saigon, miền Nam và Cam Bốt là thuộc kỹ thuật ambrotype hoặc calotype.

    [​IMG]

    Hình 4: Tu viện Sainte Enfance của các soeurs dòng thánh Phao Lô (St Paul de Chartres) là tu viện nữ tu đầu tiên ở Việt Nam Hai nữ tu đầu tiên đến Saigon năm 1860, và tòa nhà được xây dựng xong vào năm 1864 theo thiết kế của Nguyễn Trường Tộ. Hình trên của Émile Gsell chụp năm 1866 tức hai năm sau khi xây xong. Tòa nhà này sau đó vào cuối thế kỷ 19 được thay thế xây lại như còn lại hiện nay (tháp chuông không còn) – (Collection Gsell, 1866, ancien fonds du musée des colonies).
    Sau đây là một vài hình ảnh do thống đốc Charles le Myre de Viliers, vị thống đốc dân sự đầu tiên ở Nam Kỳ đã chỉ thị là các công trình xây dựng trong nhiệm kỳ của ông phải được chụp ảnh để làm tài liệu (4). Các ảnh này được tồn trữ ở kho tư liệu Bộ Ngoại giao Pháp, Quai d’Orsay, hơn 120 năm không ai để ý cho đến năm 2002 thì Tòa lãnh sự Pháp ở Saigon mới mang ra triển lãm. Hình ảnh rất chi tiết, máy ảnh thuộc loại lớn (4), ảnh có màu đỏ có thể là do chất hóa học phai màu hay cũng có thể là do nền bằng kính (ambrotype) có nền đỏ sau lưng.

    [​IMG]
    Hình 5: Kênh Charner chụp năm 1882, sau này (1887) được lấp thành đường Kinh lấp mà ngày nay gọi là đường Nguyễn Huệ. Bức hình này rất có thể do nhiếp ảnh gia Émile Gsell chụp.

    [​IMG]

    Hình 6: Bức hình này thực sự là do Émile Gsell chụp (thông tin theo một hình albumen rửa từ bảng âm như hình này được bán đấu giá năm 2007). Như vậy là ảnh phải được chụp trước năm 1879 (năm ông mất) chứ không phải là năm 1882 như được ghi trong triển lãm của Tổng Lãnh Sự Pháp ở Saigon.

    [​IMG]

    Hình 7: Nhà thờ Đức Bà, Notre Dame, năm 1882 (chưa có tháp chuông, tháp chuông chỉ được xây hai bên vào năm 1895). Hình này gần giống như bức hinh của nhà nhiếp ảnh Aurélien Pestel chụp.

    [​IMG]
    Hình 8: Trại lính bộ binh thuộc hải quân thuộc địa, năm 1882. Con đường phia trước hinh và tòa nhà ở giữa nay là đường Đinh Tiên Hoàng. Một phần của tòa nhà bên trái (nay là thuộc trường Đại học Dược khoa) và bên phải vẫn còn. Độ phân giải của ảnh rất cao, nếu “zoom” lớn sẽ thấy một người lính quân phục trắng ở giữa tầng trệt đang nhin về phia người chụp ảnh và dưới gốc cây bên trái là một người làm vườn đang tưới cây.

    Sáng chế rửa ảnh trên giấy tráng albumen


    Ở cuộc triển lãm kỹ nghệ các quốc gia (Great Exhibition of the Works of Industry of All Nations) được tổ chức ở London, Hyde Park năm 1851 trong lâu đài kính ("Crystal Palace"), có hai sự kiện đáng chú ý là sự ra đời của phương pháp ambrotype của Frederick Archer và sáng chế mới của Désiré Blanquart-Evrard rửa in ảnh nhanh chóng qua ánh sáng mặt trời trên giấy tráng albumen. Qua sáng chế giấy albumen thay kính với giá thành các ảnh rất rẻ, Blanquart-Evrard đã mở hãng in ảnh “Imprimerie Photographique” đầu tiên ở Pháp (Lille) năm 1851 và in nhiều album ảnh.
    Ảnh rửa trên giấy albumen nhanh chóng trở thành phổ thông được ưa chuộng. Từ một ảnh âm, nhiều ảnh được rửa và in ra trên giấy. Các ảnh trên giấy này cũng được dùng dễ dàng như minh họa trong các sách in vì chúng không cồng kềnh và không phản chiếu ánh sáng làm chóa như ảnh trên kính.
    Cho đến thập niên 1850, những nhà chụp ảnh chuyên nghiệp dùng kỹ thuật daguerreotype hay ambrotype với độ phân giải cao trong khi những người nghiệp dư dùng calotype với độ phân giải thấp. Sự ra đời của giấy in ảnh albumen đều được đón nhận hồ hởi bởi cả hai giới và đã thành công vượt bực. Khoảng cách kỹ thuật và giới hạn giữa các nhà chụp ảnh nghiệp dư và chuyên nghiệp đã được thâu ngắn lại.
    Ảnh âm dùng để rửa ra ảnh trên giấy albumen thường là thuộc loại calotypes (talbotype) trên giấy hay thuộc loại "colladion âm" (colladion-negative tức ambrotype) trên kính. "Bảng âm ướt colladion" (colladion wet-plate negative) dùng ngay sau khi người chụp ảnh vừa tráng xong chất hóa học lên mặt kính và gắn kính vào trong camera để sửa soạn chụp. Vì bảng "colladion âm" có độ phân giải cao nên chúng thay thế dần ảnh âm trên giấy.
    Ảnh trên giấy albumen được rửa từ bảng "colladion âm" đặt trên khung gỗ, bằng phản ứng hóa học khi đưa thẳng ra ánh sáng mặt trời. Nếu trong ngày có mây và ít ánh nắng, thì phải mất khoảng 1 đến 5 phút để bức ảnh được hoàn thành. Sau đó giấy albumen có ảnh vừa tạo, được tân trang thêm trong phòng sáng; thường thì các ảnh được viền khung chung quanh trước khi đưa cho khách hàng.
    Ta có thể nhận thấy các ảnh in dùng albumen lâu ngày thường bị ngả màu vàng nâu như đa số các “carte postales” chụp và rửa trên giấy albumen vào đầu thế kỷ 20.

    Kỹ thuật Tintype (hay ferrotype)

    Kỹ thuật “tintype” được sáng chế vào năm 1856 ở Mỹ bởi giáo sư hóa học Hamilton Smith. Phương pháp này không mới, chỉ là cải tiến trên phương pháp ambrotype: thay vì hình trên mặt kính thì đổi qua trên mặt kim loại sắt hay thiếc. Phương pháp này rất phổ thông ở Mỹ bắt đầu từ thời nội chiến Nam - Bắc cho đến cuối thế kỷ 19.
    Mặt trên tấm kim loại làm bằng sắt (Fe) được phủ bởi một chất hóa học màu đen (chúng thường được dùng trong sơn mài), chất hóa học này có xuất xứ từ Nhật nên được gọi là japan. Chất này làm mặt tấm sắt không bị rỉ sét và làm mặt kim loại trở thành nhẵn, dựa trên đó hình ảnh sẽ được in rửa ra

    Carte de Visite (CDV)

    Cuối thập niên 1850, Andre Disdéri đưa ra các ảnh dạng Carte de Visite (CDV) (3). Đây là một loại ảnh trên giấy có tính chất thương mại phổ thông. CDV dễ sản xuất hàng loạt và rẻ so với tintype và dùng albumen (chất trong lòng trắng của trứng gà) tráng trên giấy sau đó là lớp silver chroride. Mặc dầu không bền như ambrotype hay tintype nhưng độ phân giải cũng cao và giá lại rẻ cho người tiêu dùng và quan trọng là không cồng kềnh, dễ dùng vì vậy nên phổ thông trong mọi tầng lớp.
    CDV sản xuất dễ và rẻ so với tintype và phẩm chất cũng tốt nên vì thế đến với quần chúng tiêu thụ rộng rãi hơn, mặc dầu không bền như tintype vì hình trên giấy (thay vì trên sắt) và khi để lâu albumen ngả màu vàng nâu.

    Kỹ thuật nhiếp ảnh trên phim nhựa

    Năm 1884, ông George Eastman ở Mỹ sáng chế ra phương pháp chụp ảnh trên giấy và phim nhựa dùng chất hóa học nhờn khô. Năm 1888, máy chụp ảnh Kodak ra đời dùng cuộn phim, người chụp ảnh không cần phải mang theo các bảng (plate) và chất hóa học. Chỉ cần bấm để chụp ảnh, còn việc tráng, rửa là do công ty "Eastman Dry Plate Company" đảm nhiệm. Đến cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 thì nhiếp ảnh tân thời như ta biết hiện nay thực sự ra đời và đi đến quần chúng rộng rãi (trước khi có nhiếp ảnh số, digital photography, vào đầu thế kỷ 21).

    [​IMG]


    Hình 9: Máy ảnh hiệu Demaria-Lapierre, model: caleb. Ra đời khoảng năm 1914 (8)

    Nguyễn Đức Hiệp​



    Chú thích:


    (1) Phim này của anh em Lumière là do Gabriel Veyre quay ở một làng gần Đà Nẵng và sau đó được chiếu vào năm 1900 ở nhiều nơi trên nước Pháp và Âu châu trong những năm đầu tiên của lịch sử điện ảnh. Phim này có thể xem ở http://www.youtube.com/watch?v=9dk15FlvRj4. Phim thứ nhì của anh em Lumière ở Việt Nam là “Indochine: Enfants annamites ramassant des sépèques devant la Pagode des dames (1903)” (có thể xem ở http://www.youtube.com/watch?v=WH5NZo8Mm0M). Và thứ ba là “Déchargement du Four à Briques”. Bình luận và nghiên cứu chi tiết về các phim này, có thể xem bài viết của hai giáo sư Barbara Creed và Jeanette Hoorn (University of Melbourne) trong phần tham khảo (18)


    Tham khảo


    1. Marie-Hélène Degroise, Photographes en Outre-Mer (1840-1944), http://photographesenoutremer.blogspot.com/
    2. Daniel, Malcolm. "The Daguerreian Age in France: 1839–1855". In Heilbrunn Timeline of Art History. New York: The Metropolitan Museum of Art, 2000–. http://www.metmuseum.org/toah/hd/fdag/hd_fdag.htm (October 2004).
    3. Daniel, Malcolm. "The Rise of Paper Photography in 1850s France". In Heilbrunn Timeline of Art History. New York: The Metropolitan Museum of Art, 2000–. http://www.metmuseum.org/toah/hd/frph/hd_frph.htm (September 2008)
    4. Hình ảnh một số từ
      http://www.flickr.com/photos/13476480@N07/collections/
      http://belleindochine.free.fr/Saigon1882.htm
    5. Nguyễn Đình Đầu, Tìm lại cầu tàu nơi Bác Hồ rời cảng Sài Gòn, Báo Lao Động ngày 4/6/2011, http://laodong.com.vn/Tin-Tuc/Tim-lai-cau-tau-noi-Bac-Ho-roi-cang-Sai-Gon/45151
    6. Xavier Guillaume, La terre du Dragon, Tome 1, Publibook, Paris, 2004.
    7. Phạm Phú Thứ, Tây hành nhật ký, Tô Văn Nguyễn Đình Diệm và Văn Vĩnh, Nxb Văn Nghệ, Tp HCM, 2001.
    8. Hình ảnh các camera xưa và nay,
      http://www.collection-appareils.fr/general/html/listeD_imagettes.php?RadioGroup1=chrono&submit=Trier
    9. Voyage d'exploration en indochine: par les lieutenants Francis Garnier et Delaporte, Le Tour du Monde - Volume XXII -1870-2nd semestre - Pages 305-321,
      http://collin.francois.free.fr/Le_tour_du_monde/Frame7_textes/TdM_frame7.htm
    10. La Conquête du delta du Tong-King, Romanet du Caillaud, Le Tour du Monde, Volume XXXIV – 1877 – 2nd semestre,
      http://collin.francois.free.fr/Le_tour_du_monde/Frame7_textes/TdM_frame7.htm
    11. Malcolm Daniel, Daguerre (1787–1851) and the Invention of Photography, The Metropolitan Museum of Art, http://www.metmuseum.org/toah/hd/dagu/hd_dagu.htm
    12. Nguyễn Đức Hiệp, Võ An Ninh: Nhiếp ảnh và cuộc đời, 2009,
      http://www.vannghesongcuulong.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=10502http://www.vannghesongcuulong.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=10502
    13. Kho lưu trữ Bộ ngoại giao Pháp ,
      http://www.archivesnationales.culture.gouv.fr/anom/fr/11_anc.documents/0905_Pestel/Pestel.html
    14. http://www.liveauctioneers.com/item/4482940
    15. Victor Goloubew, V.-T. Holbé, Bulletin de l'Ecole française d'Extrême-Orient, Année 1927, Volume 27, Numéro 27, p. 525.
    16. Chronique, Cochinchine, Bulletin de l'Ecole française d'Extrême-Orient, Année 1933, Volume 33, Numéro 33, p.1110-1111.
    17. Vương Hồng Sển, Saigon năm xưa, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1991.
    18. Barbara Creed and Jeanette Hoorn, Memory and History: Early Film, Colonialism and the French Civilising Mission in Indochina, in “French History and Civilization”, Papers from the George Rudé Seminar Volume 4, 2011, E***ed by Briony Neilson and Robert Aldrich,
      http://www.h-france.net/rude/rudevoliv/CreedHoornVol4.pdf.
    19. John Keay, The Mekong Exploration Commission 1866-68: Anglo-French rivalry in South East Asia, Asian Affairs, vol. XXXVI, no. III, November 2005,
      http://end-of-empires-south-east-asia.wikispaces.com/file/view/THE+MEKONG+EXPLORATION+COMMISSION.pdf
    20. Làng nhiếp ảnh Lai Xá, http://langnghenhiepanhlaixa.com/
    21. J. Y. Claeys, Martin Hurlimann: Ceylan et l’Indochine, architecture, paysages, scènes populaires, Bulletin de l’École francaise d’Extrême-Orient, 1930, Vol\. 30, no. 30, pp. 180-181.
    22. Pierre Verger Foundation,
      http://www.pierreverger.org/fpv/index.php?option=com_wrapper&Itemid=176
    23. Doig Simmonds, Obituary: Pierre Verger, The Independent Sat. 2 March 1996,
      http://www.independent.co.uk/news/people/obituary-pierre-verger-1339851.html
    24. Peter Cohen, Pierre Fatumbi Verger as social scientist, Cahiers du Brésil Contemporain, 1999, n° 38/39, p. 127-151.





    Đã đăng trên Diễn Đàn

    © http://vietsciences.free.fr http://vietsciences.org Nguyễn Đức Hiệp

Chia sẻ trang này