1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những Hình ảnh xưa về Đất Nước, Con Người, Văn Hoá Việt Nam (Updated ngày 19/6/2014)

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ruavang, 16/11/2002.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Xe Lửa (từ Krongpha –> DaLat) Một Con Đường Sắt Huyền Thoại Ở Châu Á

    Posted on 23.07.2011 by admin
    Các bạn đã từng đến Đà Lạt, cũng đã từng đi chuyến xe lửa Đà Lạt – Trại Mát dài 8 cây số trên chuyến xe lửa với đầu kéo chạy bằng hơi nước được đốt bởi than đá ?
    [​IMG]
    Hãy hoài niệm với những hình ảnh cũ xưa từ lúc hình thành tuyến xe lửa Tháp Chàm – Đà Lạt khi xưa được xây dựng từ 1903 –> 1932 với chiều dài 84 Km trong đó hơn 43 km là đường rầy răng cưa Abt với độ dốc thường xuyên từ 12‰ đến hơn 100‰ nên phải dùng loại đường rầy trên & loại đầu kéo đặc chế có trang bị hệ thống bánh răng cưa Abt, Và đây là một trong hai tuyến đường sắt răng cưa độc đáo và độc nhất trên thế giới –“nay chỉ còn 1”.
    [​IMG]
    Đoàn xe lửa đang leo trên đường răng cưa ở đèo Bellevue (Ngoạn Mục Krongpha) 1955 [​IMG]
    Cũng với đầu kéo VHX 31-201 trên (H1&2) ở Furka 1993, trước kia ở Krong Pha
    [​IMG]
    1 chuyến xe lửa Tháp Chàm – Đà Lạt vào 6/6/1975 do các cựu nhân viên Hoả Xa Việt Nam vận hành,
    tái xử dụng tuyến đường trong mục tiêu xây dựng đất nước sau chiến tranh.

    [​IMG]
    Một đoạn dốc đường sắt có răng cưa ở giữa đường ray Tháp Chàm – Đà Lạt (Xưa và nay)
    [​IMG]
    Cầu Dran (Đơn Dương) trong những ngày chưa thi công
    [​IMG]
    Cầu Dran có đường rầy răng cưa (Đơn Dương) được «thi công» vào năm 2004
    [​IMG]
    Các đầu kéo đã tập kết chuẩn bị “vượt biên” tại ga Đà Lạt 1990 theo chiến dịch “Back To Switzerland”
    [​IMG]
    và đến 1993 tại Thụy Sỹ
    [​IMG]
    Xưa & Nay
    [​IMG]
    Gắn thêm bảng đồng có tên Việt Nam
    [​IMG]
    Ngày 18/12/1965, Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị cắt băng khánh thành đầu máy hơi nước Tự Lực mang tên “Nguyễn Văn Trỗi”
    [​IMG]
    [​IMG]
    Một đầu kéo hơi nước Tự Lực được trưng bầy tại Cơ Xưởng Gia Lâm…. sau ngày đất nước thống nhất, nó được dùng để kéo đoàn tàu đầu tiên xuất phát từ Hà Nội khai thông tuyến đường sắt huyết mạch vào Nam, khởi hành ngày 31/12/1976 – Sau này nó được Ga Sài Gòn trao một nhiệm vụ đặc biệt. Đó là tiếp tục tự giới thiệu với dân chúng và khách vãng lai trong cuộc trưng bày cố định, dài hạn trên sân ga. Được đặt lộ thiên sau cổng ra vào sân Ga Sài Gòn. (theo : Vietnamnet )
    Như vậy từ 1965 ta đã từng chế tạo đầu máy kéo xe lửa, nước VNDCCH đã bước vào Ngành Kỷ Nghệ Nặng,
    có nghiã “đến thời điểm đó” là Việt Nam thừa khả năng để tân trang các đầu máy hơi nước…


    Rất nhiều du khách ngoại quốc đến Đà Lạt sau này vẫn mua vé tàu du lịch từ ga Đà Lạt để đi tìm lại dấu vết tuyến đường sắt cũ. Rất tiếc là hai toa tàu du lịch cũ từ ga này chỉ có thể giúp họ tìm lại được 12km từ Đà Lạt về Trạm Hành (nay chỉ đến Trại Mát). Tuy thế, rất nhiều người ưa khám phá, thích tìm dấu xưa vẫn đi xe ô tô về vùng É Lâm Thượng cũ (xã Lâm Sơn, Ninh Sơn, Ninh Thuận ngày nay) và đi bộ vượt rừng tìm dấu đường sắt răng cưa.
    …Hiện có thông tin Bộ Giao thông Vận tải quyết định đầu tư tới 5.000 tỷ đồng để phục hồi tuyến đường này…hoàn tất vào 2015 !!
  2. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Dấu tích tuyến đường sắt độc nhất vô nhị ở Việt Nam

    Thứ Năm, 25/09/2008 16:17
    Cái nắng như nung như rang ở Ninh Thuận càng khắc nghiệt hơn trên những trảng rừng chỉ còn cây bụi lúp xúp của vùng núi Lâm Sơn. Bi đông nước của người dẫn đường đã đến giọt cuối cùng và chúng tôi gần như kiệt sức khi băng qua những rẫy bắp của người Rắc Lây. Anh Hoàng dẫn đường là dân sơn tràng bản địa nhưng cũng không khá hơn vì cảm giác chiếc gậy và con dao đi rừng đeo ở thắt lưng đã trở nên thừa thãi và quá nặng. Nhưng đồng nghiệp đi cùng vẫn quyết tâm: "Phải lên bằng được ga Kà Bơ!". Chúng tôi đã có tổng cộng 16 km đi bộ xuyên rừng giữa trời nắng như đổ lửa để tìm lại dấu tích của một tuyến đường sắt kỳ diệu và độc nhất vô nhị ở Việt Nam.
    Chuyện kể của ông Năm Kinh
    Ông Năm Kinh tên thật là Nguyễn Kinh năm nay đã 81 tuổi và mỗi lần nói chuyện cứ phải nghiêng mặt chìa tai cho người đối thoại. Cái kiểu nghe của ông có lẽ là dấu ấn để lại ở một người hơn 18 năm cầm đèn đi dọc đường tàu và luôn phải nghe tiếng động cơ tần số mạnh của đầu máy hơi nước leo núi. Vẻ nghễnh ngãng, già nua của ông như biến mất khi nghe chúng tôi ghé sát tai nhắc đến mấy từ "đường sắt răng cưa", "ga Krôngpha". Ông Năm có người gợi để sống lại ký ức của một thời trai trẻ lên xuống tuyến đường rừng kỳ vĩ nối Ninh Thuận, Lâm Đồng. Chúng tôi thì như "bắt được vàng" vì trên hành trình tìm lại dấu tích tuyến đường sắt độc đáo đã phải lần tìm không biết bao nhiêu đầu mối ở ga Tháp Chàm và nhà ga Đà Lạt đều không có được nguồn tư liệu nào đáng kể.

    [​IMG]
    Hầm đá số 1 trên tuyến đường sắt độc đáo.

    Nếu so với lịch sử người Pháp nghiên cứu tuyến đường này là năm 1898 thì ông Năm chỉ là thế hệ "hậu sinh" bởi ông chỉ là người gác ghi ở ga Krôngpha từ năm 1955 - 1973. Nhưng thật lạ, ông già lại rành rọt và như nằm lòng lịch sử cung đường độc đáo. Ông lão chỉ trầm tư thật lâu và khuyên chúng tôi đi tìm... khu mộ của những phu lục lộ chết ở hầm đá số 1. Có lẽ hồi ức của những người Việt Nam cao niên và đã từng một thời sống dưới ách đô hộ của ngoại bang như ông Năm đều có điểm chung ký ức đó vẫn là những mất mát, đau thương. Vùng đất É Lâm Thượng ma thiêng nước độc, nơi người Pháp khởi công xây dựng ga Krôngpha, không phải là một biệt lệ. Để làm nên tuyến đường sắt độc đáo này, hàng trăm nông dân người Việt đã bỏ mạng giữa rừng thiêng nước độc trong kiếp sống phu phen. Theo chỉ dẫn của ông Năm và người dẫn đường, sau hơn 1 giờ đi bộ leo núi chúng tôi đã đến khu mộ của những người phu làm đường nằm ngay trên hầm đá số 1 (tính theo thứ tự các hầm chui trên tuyến đường này). Vùng nghĩa địa giờ đây chỉ còn là bình địa với những gò đất lúp xúp không một dòng mộ chí. Vết tích của khu dân cư, nơi từng tồn tại sự sống đông đúc của những người thợ đào hầm chỉ còn lại là những khối đá kê cột nhà có hình thù được đục đẽo, chứng tỏ từng có sự can thiệp của con người. Những nông phu khoét núi làm đường và bỏ mạng giữa rừng có thể chưa một lần được nhìn thấy đoàn tàu lên núi và thậm chí chẳng bao giờ biết rằng ga cuối của cung đường này là thành phố du lịch Đà Lạt - đất Hoàng triều cương thổ mộng mơ, quyền quý nhưng những gì họ để lại cho hậu thế quả thật vô giá. Kỳ vĩ một tuyến đường
    Nguồn sử liệu ít ỏi còn lại ghi rằng: Bắt đầu từ năm 1898, theo lệnh của toàn quyền Đông Dương Paul Doumer, tuyến đường sắt Tháp Chàm - Đà Lạt được nghiên cứu triển khai. Năm 1908, bắt đầu thi công đoạn 38 km giữa Tháp Chàm và Xóm Gòn. Năm 1916 những toa xe lửa đầu tiên bắt đầu hoạt động mỗi tuần 2 chuyến. Năm 1917, tuyến đường được nối dài đến tận Sông Pha (Krôngpha - phiên theo tiếng Pháp) - dưới chân đèo Ngoạn Mục. Năm 1922, Công ty thầu khoán châu Á tiến hành xây dựng đường sắt nối Krôngpha tới Trạm Hành - Đà Lạt. Năm 1928, cung đường 14km khó khăn nhất giữa Krôngpha và đèo Eo Gió (Bellevue) được hoàn thành. Bốn năm sau, vào năm 1932, đoạn Dran - Đà Lạt được đưa vào sử dụng, tuyến đường chính thức đi vào hoạt động. Tổng kinh phí xây dựng là 200 triệu franc vào lúc bấy giờ.
    Trong toàn tuyến đường dài 84km nối Tháp Chàm - Đà Lạt thì đoạn Krôngpha - Eo Gió (huyện Đơn Dương, Lâm Đồng ngày nay) là cung đường hiểm trở nhất, độc nhất vô nhị ở Việt Nam và cũng là tuyến đường độc đáo thứ hai sau hàng trăm năm lịch sử đường sắt thế giới. Để qua được đèo dốc người ta phải thiết kế những bánh răng cưa lắp vào tàu và đường ray được chế tạo kiểu răng thay cho ray trơn. Tuyến đường vượt độ cao 1.500m trên mực nước biển với độ dốc thường xuyên 12%, vượt qua 5 hầm với tổng chiều dài đến 600m và nhiều cầu xe lửa khác. Đường sắt được vận hành bằng 11 đầu máy hơi nước hiệu Fuka của Thụy Sĩ. Hành khách bao giờ cũng đông với phần lớn là người Pháp và quan chức người Việt. Theo lời ông Năm Kinh thì mỗi lần tàu xuống dốc, người ta phải cho vận hành răng cưa về cả hai phía để vừa kéo đầu vừa níu đuôi tàu. Những lần trời mưa, nhân viên đường sắt phải mang cát nung nóng rải lên đường ray tạo thêm lực ma sát để tàu không lao xuống vực.
    Nằm ngay bên bờ vực của thác nước Xa Kai hùng vĩ, hầm đá số 1 dài hơn trăm mét, cao hơn 6m không hề có sự gia cố nào bằng bê tông cốt thép vẫn tồn tại vững chãi sau gần một thế kỷ là một điều kỳ lạ. Những vết đục đá thủ công còn nguyên trong căn hầm này vẫn là minh chứng cho sức mạnh và sự kiên trì vô biên của con người! Suốt từ số 1 lên đến ga Kà Bơ ở độ cao hơn 1.200m so với mực nước biển, hàng chục kè đá sừng sững cao cả chục mét, thẳng đứng đến chóng mặt vẫn không giúp hậu thế hiểu nổi tại sao những chuyến tàu răng cưa lên xuống Đà Lạt vẫn có thể an toàn?
    Nhưng tuyến đường ray độc nhất vô nhị đã biến mất, chiếc đầu máy Fuka lịch sử cũng đã bị bán cho người Thụy Sĩ mang về làm du lịch. Người ta đã phá tan nát tuyến đường như thế nào và trước thông tin Bộ Giao thông Vận tải quyết định đầu tư tới 5.000 tỷ đồng để phục hồi tuyến đường này, hiện trạng còn lại những gì?
    Bao giờ trở lại dấu xưa?
    Rất nhiều du khách ngoại quốc đến Đà Lạt sau này vẫn mua vé tàu du lịch từ ga Đà Lạt để đi tìm lại dấu vết tuyến đường sắt cũ. Rất tiếc là hai toa tàu du lịch cũ từ ga này chỉ có thể giúp họ tìm lại được 12km từ Đà Lạt về Trạm Hành. Tuy thế, rất nhiều người ưa khám phá, thích tìm dấu xưa vẫn đi xe ô tô về vùng É Lâm Thượng cũ (xã Lâm Sơn, Ninh Sơn, Ninh Thuận ngày nay) và đi bộ vượt rừng tìm dấu đường sắt răng cưa.
    Giống họ, chúng tôi mang theo cả sự háo hức để lên rừng nhưng niềm hứng khởi đã nhanh chóng chùng xuống theo từng bước chân lên núi. Còn cách ga Kà Bơ hơn 2km, hình thù tuyến đường còn lại là những vệt sỏi đường ray lộ rõ dần. Người dẫn đường giải thích: "Chỗ này ít bị xâm phạm hơn vì có Am Bà rất thiêng!". Sự tích Am Bà - hiện nằm lẩn khuất trong một hẻm núi đá vôi với rất nhiều cây rừng cổ thụ - cũng là câu chuyện gắn liền với cung đường đẹp nhưng hiểm trở vô cùng này. Chuyện kể rằng, khi tuyến đường vừa mới khánh thành, một lần tàu xuống núi vào cua ở khúc này đã bị đổ nhưng không một người Việt Nam nào trên tàu lâm nạn. Tin rằng có thần linh phù hộ nên những người thoát nạn đã lên núi lập am thờ. Chẳng biết thần linh ở đây có thật sự linh thiêng như thế hay không nhưng đi qua dấu tích tuyến đường như vắt ngang lưng chừng ở hẻm núi này và nhìn xuống bờ kè đá vôi cao hơn chục mét, dựng đứng chúng tôi chóng mặt và phải nằm xuống bờ kè mới dám chụp hình.
    Tiếc thay, ngoại trừ vùng rừng gần Am Bà còn có sự linh thiêng gìn giữ. Toàn bộ hành trình gần 14km vượt rừng chúng tôi gần như không gặp một bóng cây cổ thụ để dừng chân. Ga Kà Bơ, nơi sau ngày giải phóng đất nước 1975, nhân viên đường sắt theo tàu lên xuống còn nhặt được thịt thú rừng do hổ ăn dở bỏ lại vì tiếng động cơ tàu leo núi thì nay trống trơn, hoang vắng, chỉ còn lại cái nền xi măng giữa trùng vây cây bụi lúp xúp. Hành trình đi lên từ chân núi, chúng tôi đã bắt gặp cả chục điểm tập kết gỗ phiến do lâm tặc kéo từ rừng sâu ra chưa kịp chuyển xuống núi. Đường ray xưa trở thành đường kéo gỗ.
    Mang những hình ảnh về điểm tập kết gỗ, những mảng rừng cháy loang lổ phơi ra những trụ cầu đường ray cũ từ rừng về cho già Năm Kinh xem, ông trầm ngâm: "Ngày xưa đứng ở đèo Ngoạn Mục (trên quốc lộ 27 - PV), nhìn tàu lên núi chỉ thấy khói từ đầu máy mà không thấy tàu. Rừng già bao phủ, phải đi tàu bay mới thấy đường ray như sợi chỉ vắt qua rừng. Đẹp lắm!". Ông lão gác ghi già nua nén tiếng thở dài nuối tiếc khi đưa trả chúng tôi chiếc máy ảnh có những tấm hình rừng bị hủy diệt. Không chỉ rừng, sau năm 2000, khi tuyến đường sắt răng cưa bị tháo không còn một mẩu sắt, chiếc cầu tàu bắc qua sông Đa Nhim ở huyện Đơn Dương nhìn từ đèo Dran đẹp như một chiếc lược kiêu sa vắt trên sông cũng đã được địa phương này "sáng kiến" dỡ bỏ! Sau khi bị báo chí lên tiếng phản đối, huyện Đơn Dương đã chừa lại... hai cái trụ cầu “trơ gan cùng tuế nguyệt”, trở thành chứng tích của sự ẩu tả cho đến hôm nay. Nhà ga Phú Thuận (Eo Gió) đầu cầu sắt này hiện còn nguyên mái che nhưng đã được người dân tận dụng làm chuồng nuôi bò. Thời huy hoàng của một công trình nổi tiếng đã chấm hết hàng chục năm nay nhưng chút phế tích còn lại nếu không được cứu vãn, phục dựng rồi cũng sẽ biến mất chẳng bao lâu nữa!
    Bài và ảnh: Sơn Tùng
  3. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Cái chết của một cây cầu trăm tuổi
    [​IMG]
    Cầu Dran vừa bị cưa đổ xuống sông. Cầu Dran (huyện Đơn Dương, Lâm Đồng) đã nằm đổ gục dưới lòng sông Đa Nhim. Những công nhân ngành đường sắt đang hối hả cắt nó ra từng khúc, sắt chất đống. Trong vô số người dân trong vùng đứng từ xa nhìn, có người đã bật khóc.
    Anh Hà - 41 tuổi, người con của thị trấn Dran, một trong rất ít người có máy ảnh ở đây - cho hay chính anh cũng chỉ kịp chụp mỗi hai nhịp còn lại của cây cầu sau khi nhịp đầu tiên bị hạ xuống. Nhiều người dân khác, trong đó có một số cụ lão thành cách mạng từng gắn bó với xứ sở này, cũng đau đớn mà chạy vội tìm thuê người chụp ảnh để ghi lại chút gì của quá khứ...
    Sự bàng hoàng, ngơ ngác đã diễn ra ở thị trấn Dran (huyện Đơn Dương) suốt hai tuần qua. Hỏi chuyện cây cầu, người nào cũng lắc đầu ngao ngán. Nằm trên tuyến đường sắt xe lửa răng cưa dài 84 km từ Tháp Chàm (Ninh Thuận) đi Đà Lạt, cầu Dran được xem là dấu ấn đậm nhất còn sót lại về một con đường sắt huyền thoại ở châu Á: từ đồng bằng lên cao nguyên (độ cao 1.500-1.600 m).
    Trên thế giới chỉ có ba con đường sắt răng cưa như thế, nhưng hai đã nằm ở Jung - fraujoch và Montevers (Thụy Sĩ) và một ở VN. Con đường sắt răng cưa Tháp Chàm - Đà Lạt được lập dự án vào năm 1900, đến 1908 bắt đầu thi công, riêng đoạn có cây cầu Dran được xây dựng năm 1919 rồi hoàn thành vào 1925, nghĩa là nó gắn liền với lịch sử ban sơ hình thành Đà Lạt.
    Ông Hoàng Sĩ Sơn, Phó chủ tịch thường trực UBND tỉnh Lâm Đồng: “...Khi họ đến tháo dỡ cầu chúng tôi đã trở tay không kịp. Ngành đường sắt chưa hề gặp trực tiếp chúng tôi để trao đổi, bàn cụ thể, trong khi nó nằm trên địa bàn chúng tôi và liên quan đến lịch sử giao thông, lịch sử vùng đất cao nguyên. Đến lúc này tỉnh nhận được duy nhất một thông báo sơ sài của ngành đường sắt về việc thanh lý cầu...”. Thời chiến tranh tuyến đường sắt lên núi này vẫn hoạt động. “Ngay cả những năm đánh Mỹ ác liệt, đường sắt không thuộc quyền của chúng ta nhưng chúng tôi vẫn quyết tâm gìn giữ nó. 8 lần đánh phá đường vận chuyển đạn pháo... của địch từ Tháp Chàm lên Đà Lạt, chúng tôi chỉ nhắm vào những đầu máy. Ý thức sợ hư hỏng đường được quán triệt đến từng chiến sĩ!” - cụ Chế Đặng, nguyên bí thư huyện Đơn Dương thời chiến tranh, người được giao đi đánh phá tuyến đường này (nay đã 81 tuổi), kể lại.
    Từ khi ra đời con đường vẫn hoạt động bình thường, chỉ gián đoạn vài tháng trước khi chiến tranh kết thúc. Ngay sau 1975, con đường vẫn thông suốt từ Đà Lạt đến Tân Mỹ (chỉ còn chừng trên 10 km nữa là tới Phan Rang). Để nó hoạt động lại, lãnh đạo tỉnh Lâm Đồng lẫn công nhân toa xe, cầu đường, gác ghi... gắn bó với con đường sắt này suốt nhiều tháng trời cật lực lao động.
    Nhưng đến khi đường hồi sinh, chạy được 7 chuyến, ngành đường sắt lại quyết định tháo dỡ thanh ray, tà vẹt của con đường... để làm đường sắt thống nhất dưới đồng bằng. Tỉnh Lâm Đồng cố cứu đường sắt Tháp Chàm - Đà Lạt bằng cách tung lực lượng đi khai thác hàng chục nghìn mét khối gỗ, cưa xẻ ra hàng chục vạn khúc tà vẹt gỗ để đổi lại cho họ làm đường sắt dưới xuôi...
    Năm 1988-1989, Liên hiệp Đường sắt VN lại lấy nốt hai chiếc đầu máy hơi nước hiệu Fuka (do Thụy Sĩ sản xuất - vào đầu thế kỷ 19, xưa nhất, mà lúc đó chính ở Thụy Sĩ cũng không còn thấy) còn lại ở Đà Lạt để bán cho nhóm người Thụy Sĩ theo kiểu phế liệu! Giờ đây một số công nhân lại đang “rã” thịt cây cầu. Giá trị của cây cầu lịch sử giờ được đo bằng 360 triệu đồng.
    [​IMG]
    Cầu Dran từng xuất hiện trên báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật cách đây bốn năm. Ông già kháng chiến lừng lẫy của Khu 6 (trước kia bao gồm Ninh Thuận, Bình Thuận, Tuyên Đức, Đồng Nai Thượng) anh hùng - cụ Chế Đặng - không nén nỗi đau tức, ánh mắt rưng rưng khi nhận tin báo phá cầu, nói: “Phá hoại, không tôn trọng quá khứ, văn hóa... Sao không để nó đứng thế như một chứng nhân lịch sử về một thời đánh đuổi thực dân, mà dạy cho lũ trẻ rằng ngày xưa từng có một con đường sắt lên cao nguyên do cha anh đi làm nô lệ, cu ly xây dựng!”.
    Ông Phạm Khương (75 tuổi) - người thợ 50 năm gắn bó với con đường sắt răng cưa này, người cùng chiến đấu bảo vệ con đường trên từ trong chiến tranh lẫn sau này - đang ngủ, nhưng khi nghe cầu Dran bị phá bỏ liền bật dậy: “Vậy là mất luôn rồi!”. Ông Khương còn giữ cuốn sách về hai chiếc đầu máy hơi nước cổ hiệu Fuka mà cách đây 12 năm Liên hiệp Đường sắt VN (nay là Tổng công ty Đường sắt) mang bán cho Thụy Sĩ. Ông Khương bảo ngẫm mà hổ thẹn là sau khi về sửa chữa, xây nhà bảo tàng cho từng chiếc, họ lập tức xuất bản một cuốn sách dày nói về hai chiếc đầu máy này, rồi có gửi một cuốn tặng Liên hiệp Đường sắt VN.
    Theo kế hoạch đến ngày 1/7, cầu Dran sẽ bị xoá sổ hoàn toàn.
    (Theo Tuổi Trẻ)​
  4. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Lịch sử 65 năm phát triển của ngành GTVT Việt Nam

    17/07/2008 0:0 GMT+7

    Kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ký quyết định thành lập Bộ Giao thông công chính đến nay (28.8.1945), Ngành GTVT Việt Nam đã trải qua hơn 65 năm tồn tại và phát triển, gắn liền với sự nghiệp cách mạng của đất nước với nhiều thời kỳ sôi nổi, hào hùng.

    LỊCH SỬ 65 NĂM PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH GIAO THÔNG VẬN TẢI VIỆT NAM

    Kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ký quyết định thành lập Bộ Giao thông công chính đến nay (28.8.1945), Ngành GTVT Việt Nam đã trải qua hơn 65 năm tồn tại và phát triển, gắn liền với sự nghiệp cách mạng của đất nước với nhiều thời kỳ sôi nổi, hào hùng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Giao thông là mạch máu của tổ chức. Giao thông tốt thì mọi việc dễ dàng. Giao thông xấu thì các việc đình trệ”. Câu nói giản dị của Bác không chỉ nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của GTVT trong sự nghịêp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mà còn là lời nhắc nhở nhiệm vụ đối với những người làm công tác GTVT trong quá khứ, hiện tại và tương lai sau này. Có thể nói lịch sử hình thành, phát triển và trưởng thành của mình, lớp lớp thế hệ cán bộ, công nhân, lao động Ngành GTVT Việt Nam đã luôn theo lời chỉ dạy của Bác Hồ, luôn nỗ lực phấn đấu, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.

    Giai đoạn 1945 - 1954: GTVT phục vụ kháng chiến chống thực dân Pháp
    30 năm đầu tiên của thế kỷ XX, để thực hiện chính sách khai thác triệt để thuộc địa, thực dân Pháp đã xây dựng một hệ thống giao thông từ Bắc vào Nam nhưng chủ yếu nhằm phục vụ công cuộc cai trị và bóc lột. Ngay sau khi cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 28.8.1945, Hồ Chủ Tịch đã chính thức ký quyết định thành lập Bộ Giao thông Công chính thuộc Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và giao cho nhân sĩ yêu nước Đào Trọng Kim làm Bộ trưởng. Cũng từ đây, hệ thống giao thông đã thực sự trở thành tài sản của người Việt Nam, phục vụ người dân nước Việt.

    [​IMG]
    Tuyến đường goòng bắc qua sông ở Bồng Sơn (Bình Định)
    để phục vụ kháng chiến chống Pháp

    Thời kỳ mới thành lập Bộ Giao thông Công chính đứng trước những khó khăn rất nặng nề với 6 nhiệm vụ rất căn bản: (1) Vận tải quân, lương phục vụ cho kháng chiến Nam Bộ và các chiến trường khi cuộc kháng chiến toàn quốc nổ ra (12.1946); (2) Phá hoại cầu đường ngăn chặn quân địch tiến quân đánh chiến các vùng tự do, các căn cứ kháng chiến với âm mưu đánh nhanh thắng nhanh; (3) Thiết lập các đường dây giao liên, giữ giao thông liên lạc thông suốt các miền Bắc - Trung - Nam phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ; (4) Sửa chữa, mở đường các vùng tự do, vùng kháng chiến và đi sâu vào các vùng hậu cứ của địch để phục vụ các chiến dịch đánh địch trên khắp các chiến trường đồng thời gia tăng phục vụ sản xuất; (5) Vận tải hàng hoá, hành khách, vận chuyển lương thực, quân đội tham gia các chiến dịch tấn công giai đoạn 1945 - 1954; (6) Làm nhiệm vụ quốc tế chi viện cho Lào, Campuchia v.v.

    [​IMG]
    Đoàn xe vận tải phục vụ chiến dịch Đông Xuân (1953 - 1954)

    Thành tựu nổi bật của Ngành giao thông công chính thời kỳ này là đã cùng toàn dân tham gia thực hiện các phong trào do Chính phủ phát động và chỉ đạo như “Tiêu thổ kháng chiến”: Phá đường, cầu, cống và các hệ thống giao thông khác để ngăn chặn địch vận chuyển lương thực, thực phẩm, súng đạn.. Hàng ngàn các đoạn, các cung đường bộ, hàng trăm cầu lớn đã bị phá huỷ và trở thành vật cản ngăn chặn sự xâm lược của địch. Một thành công lớn của ngành giao thông thời kỳ này là công tác mở đường phục vụ các chiến dịch tiến tới chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Tuy không được đầu tư nhiều về tài chính nhưng sức dân, sự đoàn kết và dũng cảm của toàn quân, toàn dân đã mở ra những kỳ tích của ngành giao thông

    Giai đoạn 1954 - 1964: GTVT xây dựng CNXH ở miền Bắc và chi viện cho miền Nam

    Trong thời kỳ này, do nhiệm vụ mới của đất nước là khôi phục phát triển kinh tế miền Bắc để chi viện cho chiến trường miền Nam, Chính phủ đã quyết định đổi tên Bộ Giao thông Công chính thành Bộ Giao thông và Bưu điện do ông Nguyễn Văn Trân làm Bộ trưởng. Cơ cấu, bộ máy tổ chức của Bộ cũng được nâng lên ngang tầm với nhiệm vụ, chức năng cụ thể được Chính phủ giao. Cơ cấu của Bộ bao gồm: Văn phòng Bộ, Tổng cục Đường sắt, Tổng cục Bưu điện, Nha Giao thông; Ngành vận tải Đường thuỷ; Sở Vận tải, Ty Công chính phi trường và Trường Cao đẳng giao thông công chính.

    [​IMG]
    Bộ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Hữu Mai
    cắt băng khánh thành cầu Việt Trì (1957)

    Nhiệm vụ lớn nhất của Ngành GTVT trong thời kỳ này là khôi phục lại hệ thống giao thông đã phá hỏng trong kháng chiến chống Pháp để phục vụ phát triển kinh tế miền Bắc và chi viện cho chiến trường miền Nam. Trong 10 năm (1954 - 1964) hệ thống đường sắt miền Bắc đã được xây dựng và khôi phục lại với những tuyến đường chính là Hà Nội - Lào Cai; Hà Nội - Hải Phòng, Hà Nội - Lạng Sơn. Những tuyến đường này đã có vai trò quan trọng phục vụ đi lại, khôi phục kinh tế miền Bắc trong nhều năm thời điểm đó và còn phát huy tác dụng đến bây giờ. Một tuyến đường sắt khác được xây dựng là Hà Nội - Thái Nguyên cũng hoàn thành trong giai đoạn này. Về giao thông đường bộ, đường thuỷ cũng được Nhà nước đầu tư xây dựng mới nhiều tuyến quốc lộ phía Bắc và một số cảng sông cũng hình thành, trong đó cảng Hải Phòng có vai trò lớn nhất trong vận chuyển hàng hoá phía Bắc và giao thương với nước ngoài. Nhiều cây cầu mới, con đường mới có tính huyết mạch cũng đã được mở mang xây dựng vừa bằng sức dân, vừa có sự đầu tư của Nhà nước. Ngành GTVT còn tham gia thi công các sân bay như: Nội Bài (trước đây gọi là Đa Phúc), Hoà Lạc (Hà Tây), Vinh (Nghệ An) và sân bay Kép (Bắc Giang). Nhìn chung, thời kỳ này Việt Nam đã hình thành một mạng lưới giao thông tuy không hiện đại nhưng bước đầu phục vụ tốt nhịêm vụ của thời kỳ cách mạng mới.

    [​IMG]
    Hồ Chủ Tịch đến thăm công trường khôi phục
    đường sắt Hà Nội - Mục Nam Quan và
    cầu Phủ Lạng Thương (Bắc Giang) (25/1/1955)

    Trong lĩnh vực vận tải, các ngành vận tải đường bộ, đường sông, đường sắt đều có nhiều bước phát triển vượt bậc so với trước năm 1954. Vận tải đường sắt trong 10 năm (1954 - 1964) đã đảm nhận trên 20% khối lượng vận chuyển toàn ngành, thực hiện sản lượng luân chuyển hàng hoá trên 50%. Vận tải đường bộ đã đảm nhiệm từ 30 - 40% khối lượng vận chuyển hàng hoá và hành khách cả nước với đội ngũ các xí nghiệp vận tải hành khách và hàng hoá quốc doanh. Công nghiệp GTVT được hình thành với một số chuyên ngành tuy còn hạn hẹp nhưng đã tự túc sản xuất được một số mặt hàng phục vụ ngành. Trong công nghiệp GTVT thời kỳ này, nổi bật nhất là Nhà máy toa xe lửa Gia Lâm đã đã hình thành được nhiều phân xưởng quan trọng làm tiền đề cho công nghiệp đóng tàu đường sắt sau này như phân xưởng sửa chữa đầu máy, đóng mới toa xe, rèn, đúc v.v.

    [​IMG]
    Ngày 18/12/1965, Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị cắt băng
    khánh thành đầu máy Tự Lực mang tên "Nguyễn Văn Trỗi"

    [​IMG]
    Đoàn tàu qua cầu Hàm Rồng trong ngày khánh thành 19/5/1964

    [​IMG]
    Nhân dân các dân tộc Mai Châu (Hòa Bình) làm
    đường mới phục vụ phát triển kinh tế - xã hội miền núi

    Giai đoạn 1964 - 1975: GTVT chống chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ và chi viện cho giải phóng miền Nam.

    Đây là thời kỳ đầu đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của Ngành GTVT kể từ khi thành lập. Hai đặc điểm nổi bật của Ngành thời kỳ này là GTVT phục vụ sự nghiệp củng cố và phát triển kinh tế miền Bắc và chi viện cho cuộc kháng chiến chống Mỹ ở chiến trường miền Nam. Cũng trong giai đoạn này, Ngành GTVT đã nhận được một sự đầu tư đáng kể của Nhà nước và viện trợ giúp đỡ của bạn bè quốc tế, đặc biệt là sự giúp đỡ của Liên Xô (cũ) và Trung Quốc.

    [​IMG]
    San lấp hồ bom bảo đảm giao thông thông suốt

    Những sự kiện nổi bật ghi dấu ấn của Ngành trong giai đoạn này là đường mòn Hồ Chí Minh lịch sử với phong trào “Tất cả vì miền Nam thân yêu” do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu, Ngành GTVT Việt Nam đã lập nên những kỳ tích huy hoàng, góp phần quan trọng vào chiến thắng của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ oanh liệt. Ngành GTVT đã đi đầu trong cuộc kháng chiến với tất cả những con đường có thể mở được, từ đường mòn Hồ Chí Minh trên bộ đến đường đường mòn Hồ Chí Minh trên biển. Những “con đường mòn” này về cơ bản vẫn dựa vào sức dân là chủ yếu song đã đóng vai trò quan trọng, nhất là trong việc vận chuyển lương thực, thực phẩm, vũ khí cho chiến trường miền Nam. Lịch sử sẽ còn nhắc lại những chiến công dũng cảm của cán bộ chiến sĩ, nhân viên Ngành GTVT với các sáng kiến đã đi vào huyền thoại trong cả vận tải đường bộ, đường thuỷ và hàng không.

    [​IMG]
    Đội thanh niên xung phong 759, đơn vị anh hùng
    sửa chữa đường bảo đảm giao thông ở Quảng Bình

    Với ngành đường sắt, trong giai đoạn 1964 - 1975 đã liên tục đảm bảo giao thông suốt trong điều kiện địch đánh phá dữ dội. Ngành đường sắt đã làm 3.915 mét cầu tạm, 82km đường và 274,5km dây thông tin và vận chuyển được 4,16 triệu tấn hàng hoá. Cán bộ, nhân viên và tự vệ ngành đường sắt đã bắn rơi hàng chục máy bay các loại và dò phá được hàng ngàn quả bom nổ chậm ở các chiến trường trọng điểm miền Nam. Với ngành vận tải ô tô đã hình thành 5 công ty vận tải hỗn hợp có tổng 1.271 xe phục vụ chủ yếu chiến trường miền Nam. Ngành vận tải đường biển với những con tàu “không số” trên đường mòn Hồ Chí Minh trên biển đã lập hàng trăm kỳ tích mà cho đến tận bây giờ vẫn chưa được nhiều người biết tới.

    [​IMG]
    Bộ trưởng Bộ GTVT Phan Trọng Tuệ thăm tàu
    Hồng Hà sau chuyến mở luồng Nhật Bản thắng lợi trở về

    [​IMG]
    Đoàn xe tải chờ hàng chi viện cho miền Nam đang vượt qua ngã ba
    Đồng Lộc, một trong những địa điểm bị đánh phá ác liệt nhất

    [​IMG]
    Một đoàn xe đang vượt ngầm chuyển xăng dầu vào Nam (1971)

    Những người đứng đầu Ngành GTVT giai đoạn này là Bộ trưởng Dương Bạch Liên và Bộ trưởng Phan Trọng Tuệ - các Bộ trưởng đã ghi dấu ấn đậm nét trong Ngành với các chiến công làm rạng rỡ truyền thống Ngành GTVT sau này.
    Giai đoạn 1975 - 1985: GTVT trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN
    Sự tàn phá của chiến tranh trong một giai đoạn dài đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống giao thông cả hai miền Nam, Bắc. Năm 1975 không còn một tuyến đường bộ nào ở miền Bắc đạt cấp kỹ thuật đồng bộ. Phương tiện vận tải của tất cả các ngành giao thông miền Bắc đều thiếu thốn và lạc hậu. Đường bộ có 861 xe, máy và thiết bị các loại, trong đó chỉ có hơn 50% là còn sử dụng được. Đường biển mới có khoảng 4 vạn tấn phương tiện các loại nhưng đều cũ kỹ và không phù hợp với luồng tuyến. Các ngành kinh tế công nghiệp GTVT đều suy yếu bởi thiếu nguồn tài chính đầu tư trong một giai đoạn dài ... Trước tình hình đó, Đại hội lần thứ 4 của Đảng (Tháng 12.1976) đã đề ra yêu cầu phải “tích cực mở mang GTVT và thông tin liên lạc vì thực tế không cân đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và không cân đối giữa các bộ phận trong nội bộ ngành....” Thực hiện chủ trương đó, Ngành GTVT đã chấn chỉnh và tổ chức lại bộ máy hoạt động và hình thành một bộ máy mới với các chức năng đầy đủ hơn, đáp ứng thực tế. Hàng loạt Sở GTCC ra đời trên toàn quốc và hàng trăm các doanh nghiệp quốc doanh của ngành đường sắt, đường bộ, hàng không, vận tải biển đã ra đời và giữ vững mô hình hoạt động đến năm 1986.

    [​IMG]
    Trên công trường xây dựng cầu Thăng Long (1984)

    [​IMG]
    Cục Công trình I tham gia khôi phục đường sắt Thống Nhất

    [​IMG]
    Toàn cảnh đèo Hải Vân sau khi đất nước thống nhất năm 1975

    Về hoạt động vận tải đường sắt: trong giai đoạn này đã khánh thành tuyến đường sắt Bắc - Nam với sự kiện ngày 13/12/1976 chuyến hàng từ TPHCM ra Hà Nội và chuyến tàu chở Apatít phục vụ nông nghiệp đã từ Hà Nội lên đường vào TPHCM. Vận tải đường sắt cũng đã khai thông tuy năng lực chuyên chở vẫn còn hạn chế. Trong giao thông đường bộ đã xây dựng mới hơn 2 vạn mét cầu, 520 cống, đặt mới 660km đường ray và 1.686 km dây thông tin. Các cảng quan trọng như cảng Hải Phòng, cảng Sài Gòn cũng được đầu tư nâng cấp thành 2 trung tâm giao nhận hàng hoá lớn nhất của cả nước cùng với hệ thống cảng sông, đội tàu được khôi phục và đầu tư mới tạo ra diện mạo khác hẳn thời kỳ chiến tranh chống Mỹ. Điều đặc biệt là hệ thống vận tải quốc doanh đã có bước phát triển mạnh với đội ngũ kỹ sư chế tạo, sửa chữa và lái xe được đào tạo trong những trường chuyên ngành Bộ GTVT

    [​IMG]
    Bộ Trưởng Bộ GTVT Phan Trọng Tuệ
    đi kiểm tra cầu đường sắt bắc qua sông Trà Khúc (1977)

    [​IMG]
    Tàu Thái Bình - con tàu đầu tiên của ngành vận tải biển mở luồng
    sang Cuba và thực hiện chạy vòng quanh trái đất (1982)

    [​IMG]
    Bộ trưởng Bộ GTVT Đồng Sĩ Nguyên và đại diện
    Chính phủ Phần Lan làm lễ bàn giao giai đoạn 1 - xây dựng
    Nhà máy sửa chứa tàu biển Phà Rừng (1984)

    Giai đoạn 1986 đến nay: GTVT góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển đất nước thời kỳ Đổi mới

    Ngay từ khi bắt đầu công cuộc ‘Đổi mới’, phát triển nền kinh tế đất nước theo kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng CSVN đã chủ trương phải ưu tiên đầu tư phát triển GTVT để GTVT đi trước một bước tạo tiền đề và thúc đẩy kinh tế phát triển. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) xác định: “GTVT là khâu quan trọng nhất của kết cấu hạ tầng’’ và “GTVT phải đi trước một bước để đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế quốc dân’’.

    [​IMG]
    Km0 - Quốc lộ 5 cửa ngõ giao thông phía Đông của Thủ đô Hà Nội

    Tiếp sau đó, Nghị quyết các Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991), lần thứ VIII (1996) đã xác định những mục tiêu lớn của Ngành GTVT. Đó là: “Khắc phục tình trạng xuống cấp của hệ thống giao thông hiện có; khôi phục, nâng cấp và mở rộng thêm một số tuyến giao thông trọng yếu, kết hợp giao thông với thuỷ lợi, tận dụng giao thông đường thuỷ; mở thêm đường đến các vùng sâu, vùng xa ; cải thiện giao thông ở các thành phố lớn. Cải tạo, nâng cấp một số cảng sông, cảng biển, sân bay; xây dựng dần cảng biển nước sâu’’.
    Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (2001), Nghị quyết Đại hội một lần nữa ghi rõ: “Kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và có bước đi trước. Hệ thống giao thông bảo đảm lưu thông an toàn, thông suốt quanh năm và hiện đại hoá một bước. Mạng lưới giao thông nông thôn được mở rộng và nâng cấp”; “Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ: thương mại, hàng không, hàng hải...”.

    [​IMG]
    Đường cao tốc Thăng Long - Nội Bài con đường đầu tiên do các kỹ sư
    Việt Nam thiết kế và thi công, được thông xe ngày 10/03/1994

    Thực hiện chủ trương và những mục tiêu mà Đảng đề ra, toàn Ngành GTVT đã có nhiều cố gắng, huy động và phát huy nhiều nguồn lực phục vụ công cuộc phát triển Ngành. Có thể chia ra 2 giai đoạn chính trong thời kỳ này :

    Từ 1986 đến 1995:

    Trong giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1995, do đất nước vẫn đang bị bao vây cấm vận, ngân sách Nhà nước hết sức khó khăn nên Ngành GTVT tập trung chủ yếu nguồn lực cho công tác duy tu bảo dưỡng để đảm bảo an toàn giao thông và triển khai xây dựng một số công trình thực sự cấp bách.

    [​IMG]
    Quốc lộ 5 Hà Hội - Hải Phòng

    Trong giai đoạn này, Bộ GTVT đổi tên thành Bộ GTVT và Bưu điện sau khi Tổng cục Bưu điện và Cục Hàng không dân dụng sáp nhập vào Bộ GTVT. Một số nhiệm vụ chính của Bộ GTVT và Bưu điện trong giai đoạn này là: (1) Về vận tải: Tập trung chỉ đạo các ngành vận tải kiên quyết thực hiện mục tiêu vận tải đối với các mặt hàng quan trọng trong nền kinh tế như than, phân bón, hàng xuất nhập khẩu; đồng thời phục vụ các nhu cầu đời sống xã hội như: lương thực, hàng tiêu dùng thiết yếu, hàng lên miền núi ... (2) Trong sản xuất công nghiệp tập trung nâng cao chất lượng sản phẩm, áp dụng tiến bộ kỹ thuật để nghiên cứu, thiết kế và sản xuất những mặt hàng mới như trạm trộn nhựa, lu bánh lốp, lu diezen và tập trung vào hai khâu lớn là sửa chữa tàu biển, phương tiện thiết bị công trình lắp ráp ô tô, sửa chữa đầu máy và đóng toa xe ... (3) Về xây dựng cơ bản: kiên quyết dành vốn và các điều kiện khác cho những công trình trọng điểm và các công trình có khả năng hoàn thành để đưa vào khai thác. Công tác duy tu, quản lý đường bộ, chất lượng công trình được coi trọng. (4) Về thông tin liên lạc: Hoàn thành một số tuyến vi ba từ Hà Nội đi các tỉnh và nhất là công tác thông tin phục vụ hoạt động của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các kỳ họp Quốc hội.

    [​IMG]
    Khánh thành cầu Phong Châu (Vĩnh Phú) ngày 28/7/1995

    Trong 10 năm đầu quá trình đổi mới, ngành đường bộ đã hoàn thành một số tuyến đường, cây cầu có tầm vóc lớn, góp phần phát triển kinh tế xã hội như: cầu Bến Thuỷ, Thái Bình, Yên Bái, Đò Quan, Việt Trì, Tràng Tiền, Phong Châu... ; các quốc lộ như QL1, QL5, QL80, QL24. Nhiều đô thị mới cũng đã mọc lên dọc theo các tuyến đường. Giao thông miền núi, giao thông nông thông trong giai đoạn này cũng bắt đầu khởi sắc. Nhờ sự đầu tư của Nhà nước kết hợp với ngân sách địa phương và sức dân, hàng ngàn con đường liên huyện, liên xã... đã được mở ở nhiều nơi từ Bắc - Trung - Nam, tạo ra mạng lưới giao thông trải rộng trên khắp đất nước

    [​IMG]
    Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Bộ trưởng Bộ GTVT Bùi Danh Lưu
    đến dự lễ thông xe cầu Việt Trì ngày 25/5/1995

    Đối với đường sắt, những kỳ tích đặc biệt về tần suất và thời gian chạy tàu cũng được lập nên trong giai đoạn này nhờ việc đầu tư nâng cấp, đóng mới phương tiện và cải thiện trình độ quản lý. Đặc biệt, ngành hàng không dân dụng từ năm 1990 đã có sự phát triển cực kỳ nhanh chóng. Từ chỗ chỉ có các máy bay thế hệ cũ của Liên Xô (trước đây) như TU, AN..., đội máy bay của Vietnam Airlines lần đầu tiên đã mạnh dạn thuê 10 chiếc máy bay Airbus A320 và mua các máy bay như ATR72, Fokker70 để đưa vào khai thác. Đây là những loại máy bay rất hiện đại lúc bấy giờ, làm thay đổi hẳn bộ mặt của hãng hàng không quốc gia Việt Nam. Cùng với việc đổi mới máy bay, các điểm đến của hàng không Việt Nam trong giai đoạn này cũng phát triển hết sức ấn tượng, cả trong nước và quốc tế. Thị trường hàng không Việt Nam trở nên sôi động và có tốc độ phát triển rất nhanh, có năm lên tới trên 40%.

    [​IMG]
    Cầu Mỹ Thuận - cây cầu dây văng lớn nhất Đông Nam Á

    Các lĩnh vực quan trọng khác của Ngành GTVT như vận tải biển quốc tế, nội địa cũng được đầu tư hàng ngàn tỷ đồng để mở rộng các cảng; đóng mới và sửa chữa các tàu vận tải lớn. Hệ thống các doanh nghiệp thuộc Bộ có vai trò rất quan trọng trong việc sản xuất công nghiệp GTVT với việc hàng năm tạo ra hàng ngàn tỷ đồng lợi nhuận, không chỉ đóng góp và ngân sách Nhà nước mà còn góp phần vào tái đầu tư, mở rộng hoạt động của ngành trong chế tạo, lắp ráp, xây dựng công nghiệp GTVT.

    [​IMG]
    Hầm đèo Ngang do Tổng công ty tư vấn thiết kế GTVT
    tư vấn khảo sát và giám sát xây dựng.

    Về mặt tổ chức, năm 1992, ngành Bưu điện và ngành Hàng không tách ra khỏi Bộ GTVT. Tuy nhiên, đến năm 2003, Cục Hàng không dân dụng trở lại trực thuộc Bộ GTVT. Theo Nghị định 34/2003/NĐ - CP ngày 04/4/2003 của Chính phủ thì hiện nay tổ chức Bộ GTVT gồm có các Vụ, Văn phòng Bộ, Thanh tra Bộ ; các Cục: Đường bộ, Đường sắt, Đường sông, Hàng hải, Hàng không, Đăng kiểm, Giám định và Quản lý chất lượng công trình giao thông. Ngoài ra là một số đơn vị sự nghiệp (Viện, trường, báo, tạp chí, Sở Y tế...) và các doanh nghiệp.

    [​IMG]
    Đường cao tốc Pháp Vân - Cầu Giẽ

    Từ năm 1996 trở lại đây, trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng giao thông, nhiều công trình giao thông đã được triển khai. Trong 10 năm (từ 1996 đến 2005) Ngành GTVT đã tiến hành cải tạo nâng cấp và làm mới hơn 16.000 km đường bộ; 1.400 km đường sắt; hơn 130.000 md cầu đường bộ; 11.000 m dài cầu đường sắt. Nâng cấp và xây dựng mới 5.400 m dài bến cảng; nạo vét 4,8 triệu m3 luồng lạch.
    Về đường bộ, Ngành GTVT đã hoàn thành cơ bản việc nâng cấp toàn tuyến trục dọc “xương sống” của đất nước là Quốc lộ 1 từ Lạng Sơn đến Cần Thơ, trong đó nổi lên 02 công trình qui mô và hiện đại là Hầm đường bộ đèo Hải Vân và cầu Mỹ Thuận. Cùng với trục dọc này, một trục dọc thứ hai cũng đã hình thành. Đó là đường Hồ Chí Minh đã hoàn tất giai đoạn 1 (Đoạn từ Hoà Lạc đến Ngọc Hồi). Đường Hồ Chí Minh sẽ nối kết hơn 100 tuyến đường ngang trong đó có các trục hành lang Đông - Tây, nối liền với QL 1A ở phía Đông, gắn với hệ thống cảng biển nước sâu dọc bờ biển miền Trung, hệ thống các sân bay trên cao nguyên... hình thành một mạng lưới giao thông hoàn chỉnh từ Bắc vào Nam và liên thông với các nước láng giềng.
    Ngoài 02 trục dọc trên, Ngành GTVT đã hoàn thành các tuyến quốc lộ chính yếu nối đến các cảng biển và cửa khẩu quốc tế như QL5, QL18, QL10, QL22, QL51, QL14B... Đồng thời, đã và đang nâng cấp các tuyến quốc lộ hướng tâm và vành đai phía Bắc, phía Nam; các tuyến quốc lộ ở Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long.
    Trên các tuyến đường mới, hàng loạt các cầu đã được xây dựng như: cầu Kiền, cầu Tô Châu, Tạ Khoa, Bến Lức, cầu Tuần và tuyến tránh thành phố Huế, cầu Tân An và tuyến tránh Tân An, cầu Yên Lệnh; cầu Tuyên Nhơn (tuyến N2); các cầu thuộc dự án cầu QL1: Đà Rằng, Diêu Trì, Tam Giang; Sông Vệ, Câu Lâu, Trà Khúc, Cây Bứa, Bồng Sơn và Bàn Thạch; cầu Sông Rộ (dự án Đường HCM về quê Bác); cầu Gò Chai (dự án Đường xuyên Á) cầu Hoà Mạc, cầu Kênh Tiêu, cầu Hà Nha, cầu Giát (QL38)... Đặc biệt, hiện nay công trình cầu Cần Thơ đã được khánh thành và đưa vào sử dụng, đánh dấu sự hoàn tất các cầu trên Quốc lộ 1 - huyết mạch giao thông của đất nước.

    [​IMG]
    Các thợ lái đầu máy "Đổi mới" thực hiện kỷ cương
    an toàn chạy tàu để phục vụ vận tải tết Quý Mùi 2003

    Bên cạnh các dự án sử dụng vốn NSNN và tài trợ quốc tế, trong giai đoạn vừa qua đã nổi lên một số dự án BOT lần đầu tiên đã được hoàn thành và đưa vào sử dụng như BOT Đèo Ngang; BOT An Sương - An Lạc. Đây là tín hiệu rất đáng mừng về khả năng huy động tối đa các nguồn lực trong xã hội cho sự phát triển kết cấu hạ tầng giao thông.
    Về đường sắt, Ngành GTVT đã từng bước nâng cấp các tuyến đường sắt hiện có, nâng cao an toàn và rút ngắn đáng kể thời gian chạy tàu. Các cầu và ga trên đường sắt Thống Nhất đã được cải tạo và nâng cấp. Về đường sông, đã hoàn thành nâng cấp 2 tuyến đường thuỷ phía Nam (TP HCM - Cà Mau, TP HCM - Kiên Lương); đồng thời từng bước nâng cấp các tuyến sông chính yếu khác.​
    Về hàng hải, Ngành GTVT trong giai đoạn vừa qua đã hoàn thành nâng cấp giai đoạn 1 các cảng biển tổng hợp quốc gia chủ yếu như: Cảng Cái Lân, Cảng Hải Phòng, Cảng Cửa Lò, Cảng Vũng áng, Cảng Tiên Sa, Cảng Quy Nhơn, Cảng Nha Trang, Cảng Sài Gòn, Cảng Cần Thơ và hoàn thành nâng cấp một số cảng địa phương cần thiết đáp ứng lượng hàng hoá thông qua.

    [​IMG]
    Tàu Tây Sơn

    Về hàng không, tất cả các cảng hàng không trên khắp cả nước đều được nâng cấp một bước, đáp ứng kịp thời nhu cầu đi lại bằng máy bay đang ngày càng gia tăng. Một số công trình quan trọng có thể kể ra như: Nhà ga T1và đường cất hạ cánh 1B Cảng hàng không quốc tế Nội Bài; đường cất hạ cánh 25L tại Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất; nhà ga, sân đỗ, đường hạ cất cánh sân bay Vinh, nhà ga sân bay Phú Quốc ; nhà ga hành khách Cảng hàng không Phù Cát (Bình Định), hoàn thành nâng cấp Cảng hàng không Vinh, đưa vào sử dụng Cảng hàng không Côn Sơn (Bà Rịa - Vũng Tàu); khánh thành nhà ga hành khách và đài kiểm soát không lưu Cảng hàng không Điện Biên Phủ; Cảng hàng không Chu Lai...
    Đối với hệ thống giao thông địa phương, đến nay hệ thống đường tỉnh đã được mở mang, nâng cấp một bước, tạo được sự kết nối tốt hơn với hệ thống quốc lộ. Giao thông nông thôn phát triển mạnh đã làm giảm số xã chưa có đường đến trung tâm từ 663 xã năm 1997 xuống còn 219 xã năm 2004. Tuy nhiên đến nay, do có sự chia tách xã và nhiều tuyến đường giao thông nông thôn do không được quản lý, bảo trì và thiên tai phá hoại bị hư hỏng, xuống cấp nên số lượng xã chưa có đường về trung tâm tăng lên gần 400 xã.

    [​IMG]
    Cảng Hàng không quốc tế Tây Sơn Nhất - 2004

    Trong lĩnh vực vận tải, các dịch vụ vận tải đã và đang đáp ứng kịp thời những yêu cầu hết sức đa dạng của thị trường. Chưa bao giờ người dân lại đi lại dễ dàng và thuận tiện như hiện nay nay với nhiều tuyến vận tải đường bộ đi khắp nơi, tới mọi “hang cùng, ngõ hẻm” với nhiều loại ô tô hiện đại, phục vụ nhiều tiện nghi như điều hoà, tivi... Tàu hoả Bắc - Nam ngày càng nhiều chuyến hơn. Hàng không Việt Nam ngày một có thêm nhiều máy bay đời mới, hiện đại như Boeing B767, B777, Airbus A321... đưa vào khai thác nhiều tuyến bay mới cả trong nước và quốc tế. Các đội tàu biển, tàu sông của Việt Nam cũng vươn tới nhiều điểm đến trên toàn thế giới.
    Theo số liệu thống kê thì trong vòng 10 năm qua, hoạt động vận tải bình quân tăng 8,6%/năm về tấn hàng hoá; 9,9% về T.Km; 8% về hành khách và 9,6% về HK.Km cao hơn chỉ tiêu Đại hội IX đặt ra là 9 - 10% T.Km và 5 - 6% HK.Km. Tốc độ tăng trưởng nói trên có thể nói là khá cao so với chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế chung 7,5% mà Đảng và Chính phủ đề ra. Điều này cũng có nghĩa là Ngành GTVT đã và đang đóng góp rất tích cực vào tốc độ tăng trưởng của kinh tế đất nước; giúp nền kinh tế đạt được mục tiêu tăng trưởng đã đặt ra.

    [​IMG]
    Khánh thành cầu Cần Thơ - 2010

    Chất lượng các dịch vụ vận tải cũng ngày càng được nâng cao với nhiều hình thức đa dạng, phong phú. Vận tải container có bước phát triển mạnh; vận tải đa phương thức đang từng bước được hình thành. Vận tải hành khách công cộng tại các thành phố, đặc biệt là Hà Nội và TP HCM phát triển mạnh, được xã hội chấp nhận, góp phần quan trọng làm giảm ùn tắc giao thông đô thị.​
    Ngoài việc phát triển kết cấu hạ tầng giao thông và nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải, Ngành GTVT còn có những bước tiến rất nhanh trong lĩnh vực công nghiệp cơ khí, đặc biệt là ngành đóng tàu, sản xuất ô tô. Nhiều sản phẩm của các đơn vị công nghiệp trong Ngành GTVT đã nhận được sự tín nhiệm của khách hàng cả trong nước và quốc tế. Thời gian qua, một số sản phẩm xe buýt của VINAMOTOR, tàu thuỷ của VINASHIN đã xuất khẩu được ra nước ngoài, đánh dấu một bước phát triển quan trọng và có ý nghĩa của ngành công nghiệp cơ khí GTVT.
    Về công tác an toàn giao thông, trong những năm gần đây, Ngành GTVT đã thực thi một cách mạnh mẽ, quyết liệt và đồng bộ nhiều chính sách nhằm góp phần cùng toàn xã hội thực hiện mục tiêu “3 giảm” về TNGT mà Quốc hội và Chính phủ đề ra. Đó là giảm về số vụ tai nạn, giảm số người chết và giảm số người bị thương. Để làm được điều này, Ngành GTVT đã tập trung cải thiện kết cấu hạ tầng giao thông, xoá bỏ các “điểm đen” về TNGT; kiểm soát chặt chẽ phương tiện, từng bước loại bỏ các phương tiện cũ nát; tăng cường chất lượng công tác đào tạo, sát hạch và cấp phép người lái… Theo số liệu thống kê thì liên tục trong 3 năm qua, số vụ TNGT, số người chết và số người bị thương tính trên 10.000 phương tiện đều giảm. Đây là kết quả rất đáng mừng, thể hiện sự nỗ lực không chỉ của Ngành GTVT mà còn của các địa phương và toàn bộ hệ thống chính trị.
    Về công tác quản lý Nhà nước của Bộ GTVT, từ năm 2001 trở lại đây, công tác xây dựng thể chế, văn bản qui phạm pháp luật trong lĩnh vực GTVT đã có bước chuyển biến quan trọng. Hàng loạt bộ luật và văn bản quy phạm pháp luật đã được ra đời. Năm 2001 Quốc hội ban hành Luật Giao thông đường bộ. Năm 2004 là Luật Giao thông đường thuỷ nội địa. Năm 2005, Quốc hội đã thông qua thêm 02 luật nữa là Luật Đường sắt và Bộ luật Hàng hải (sửa đổi). Cuối năm 2005, Quốc hội đã xem xét và thông qua Luật Hàng không dân dụng (sửa đổi). Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử, Ngành GTVT đã có đủ 05 bộ luật điều chỉnh 05 lĩnh vực giao thông của Ngành: đường bộ, đường sông, đường sắt, hàng hải và hàng không.
  5. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133

    NHỮNG BỨC HỌA CỦA CÁC SỨ THẦN VIỆT NAMOct 1, '10 6:07 PM
    for everyone[​IMG]

    Nguyễn Xuân Diện


    Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện lưu trữ 79 cuốn Thơ văn của các sứ thần Việt Nam và Trung Quốc (1 cuốn).

    Đó là các tác phẩm thơ văn được viết bằng chữ Hán trong các chuyến đi sứ của sứ thần Việt Nam sang Trung Hoa trên đoạn đường đi từ Mục Nam Quan đến Yên Kinh.

    Nội dung ghi lại chặng đường đi sứ, về đất nước, con người, phong tục tập quán và cảnh quan của Trung Quốc, trong đó có những bài thơ miêu tả nỗi niềm xa quê của các sứ thần Việt Nam.

    Đáng chú ý là rất nhiều cuốn trong đó có các bức bản đồ, họa đồ, nhiều cuốn có bản đồ họa đồ màu, do các sứ thần Việt Nam tự tay vẽ nên.

    MỘT SỐ BỨC HỌA CỦA CÁC SỨ THẦN VIỆT NAM

    [​IMG]
    Hươu nai trong sách Yên Đài yến ngữ của Bùi Quỹ (triều Nguyễn)

    [​IMG]
    Thành quách tỉnh Hồ Bắc (TQ) trong tập thơ Yên Đài Yến Ngữ của Bùi Quỹ (triều Nguyễn)

    [​IMG]
    Đầm Cửu Châu, trong tập thơ Yên Đài Yến Ngữ của Bùi Quỹ (triều Nguyễn)

    [​IMG]
    Bản đồ thành Thiên Tân. Trong cuốn Như Thanh nhật trình của Phạm Thận Duật và Nguyễn Thuật (triều Nguyễn)

    [​IMG]
    Này hươu nai nhởn nhơ bên suối
    Này bác tiều phu dưới núi mấy chàng.


    Những bản đồ màu. Hình trong sách Như Thanh đồ của Bùi Quỹ và Phan Văn Trữ (triều Nguyễn)

    [​IMG]
    Này sông, này núi. Này quách, này thành. Hình trong sách Yên Thiều nhật trình của Nguyễn Huy Oánh (triều Lê)

    [​IMG]
    Thành quách Trung Hoa được các sứ thần VN ghi chép rất tỷ mỉ.
    Hình trong sách Yên Thiều nhật trình của Nguyễn Huy Oánh (triều Lê).

    Nguyễn Xuân Diện
    Chư vị, nếu sao chép toàn phần hoặc từng phần bài viết này, xin đề nghị ghi rõ nguồn và dẫn link đến bài viết. Xin đa tạ!
  6. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    http://nguyenxuandien.multiply.com/journal?&page_start=160

    VỀ VĂN BẢN THƠ XƯỚNG HỌA GIỮA
    NGUYỄN CÔNG HÃNG (VIỆT NAM) VỚI DU TẬP NHẤT, LÝ THẾ CẨN (HÀN QUỐC) TRONG CHUYẾN ĐI SỨ TRUNG QUỐC NĂM 1718

    Lý Xuân Chung
    Lời dẫn của Nguyễn Xuân Diện: Năm 1718, sứ thần Việt Nam là Nguyễn Công Hãng, Trưởng đoàn ngoại giao (Chánh sứ) Việt Nam đi sứ Yên Kinh (TQ). Tại Yên Kinh, đoàn ngoại giao Việt Nam và Triều Tiên (do Du Tập Nhất làm Trưởng đoàn) đã được nước chủ nhà bố trí ăn nghỉ tại Khách sạn Ngọc Hà (lúc đó gọi là Ngọc Hà quán). Hai đoàn ngoại giao VN và Triều Tiên đã ở cùng với nhau hơn 01 tháng tại Ngọc Hà quán và đã xướng họa thơ văn với nhau. Bài viết dưới đây của TS. Lý Xuân Chung (Viện KHXH Việt Nam) sẽ cho chúng ta biết về cuộc xướng họa của sứ thần Việt Nam và Triều Tiên trong thời gian này. Xin cảm ơn TS Lý Xuân Chung!

    Nguyễn Công Hãng (1680 - 1732) tự Thái Thanh, hiệu Tĩnh Am, người làng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn (nay thuộc Tiên Sơn, Bắc Ninh). Năm 1700, ông thi đỗ Tiến sĩ, làm quan tới các chức Hữu Thị lang, Tả Thị lang Bộ Binh rồi Thượng thư, Tham tụng trong phủ chúa. Ông được chúa Trịnh Cương tin dùng, ban chức trọng yếu, giữ chức Tể tướng suốt 13 năm. Trịnh Giang sau khi lên ngôi chúa còn tin dùng ông một thời gian, sau nghe lời gièm, giáng xuống làm Thừa chính xứ Tuyên Quang rồi bức tử vào năm 1732.

    Trong thời gian giữ trọng trách trong phủ Chúa, năm 1718, ông được cử đi sứ Trung Quốc.

    Về thơ văn, các sách như Tìm hiểu kho sách Hán Nôm của Trần Văn Giáp; Từ điển văn học của Lại Nguyên Ân chủ biên; Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam của Đinh Xuân Lâm - Trương Hữu Quýnh chủ biên; Thơ đi sứ của Phạm Thiều - Đào Phương Bình chủ biên... đều thống nhất ghi rằng, ông có Tinh sà thi tập một quyển, làm trong chuyến đi sứ Trung Quốc.

    Lần tìm trong Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu - cũng như Thư mục ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, chúng tôi không tìm thấy cuốn sách có đầu đề như vậy. Có điều là, chúng tôi tìm thấy một cuốn có ghi chép thơ văn của Nguyễn Công Hãng được làm trong chuyến đi sứ Trung Quốc năm 1718, tức năm Vĩnh Thịnh thứ 14. Đó là cuốn Bắc sứ thi tập, ký hiệu VHv.2166, bản viết tay, chữ tốt, dễ đọc, 72 trang, khổ 26 x15cm, gồm 2 tập thơ đi sứ của Đào Công Chính và Nguyễn Công Hãng. Thơ văn của Nguyễn Công Hãng duy nhất có cuốn này, tuy mới có thêm bản chụp mang ký hiệu VHc.304 thì cũng là photocopy từ bản này, trong đó, từ tờ 31b đến tờ 34a có phần thơ xướng họa giữa Nguyễn Công Hãng với Du Tập Nhất và Lý Thế Cẩn, tổng cộng 12 bài, gồm 4 bài xướng của Nguyễn Công Hãng, 4 bài họa của Du Tập Nhất và 4 bài hoạ của Lý Thế Cẩn.

    Theo Bắc sứ thi tập, trong chuyến đi sứ năm Vĩnh Thịnh thứ 14 (1718), Nguyễn Công Hãng khi đó đang giữ chức Binh bộ Hữu thị lang được cử làm Chánh sứ, dẫn đầu đoàn sứ bộ nước ta sang Trung Quốc. Trong thời gian ở Bắc Kinh, đoàn sứ bộ nước ta đã gặp đoàn sứ bộ Triều Tiên do Chánh sứ Du Tập Nhất, hiệu là Thủ Huyền cư sĩ, giữ chức Hình bộ Thượng thư cùng với Phó sứ Lý Thế Cẩn, hiệu là Tĩnh Hiên cư sĩ, giữ chức Phán quan dẫn đầu. Nguyễn Công Hãng là người gửi bài thơ xướng và Du Tập Nhất, Lý Thế Cẩn làm thơ họa lại.

    Khi tới Hàn Quốc, chúng tôi đã mất công tìm kiếm nhưng chưa tìm thấy thi tập của Du Tập Nhất, chỉ tìm thấy tập thơ văn của Lý Thế Cẩn, nhan đề Tĩnh Hiên tập, có phần thơ văn xướng họa với Nguyễn Công Hãng.

    Theo Tĩnh Hiên tập, tr.352, 353, tư liệu ở Thư viện Quốc gia Trung ương, Seoul, Hàn Quốc cho biết, hai đoàn sứ thần khi tới Bắc Kinh thì được bố trí ở chung tại quán nghỉ Ngọc Hà hơn 40 ngày, đôi bên thường xuyên qua lại thăm hỏi lẫn nhau và trao đổi thơ văn. Có điều là, Tĩnh Hiên tập chỉ ghi chép 8 bài thơ xướng hoạ giữa Nguyễn Công Hãng với Lý Thế Cẩn, Nguyễn Công Hãng làm bài xướng (4 bài), Lý Thế Cẩn họa lại (4 bài).

    Đối chiếu từng câu từng chữ ở 8 bài có trong hai văn bản, thấy có đôi chỗ xuất nhập, chúng tôi chọn 8 bài trong Tĩnh Hiên tập để phân theo thứ tự (sau đây gọi là bản A, còn bản Bắc sứ thi tập gọi là bản B) để xem xét.
    Bài thứ nhất: có 3 chỗ xuất nhập ở câu 1, 4 và 5:
    Câu 1, bản A chép: 故 園 歸 夢 不 言 賒 - Cố viên quy mộng bất ngôn xa.
    Bản B chép: 故 園 於 夢 不 憚 賒 - Cố viên ư mộng bất đạn xa. Xét về nghĩa: ngôn nói, đạnsợ, ngại.
    Bất ngôn xa có nghĩa không nói là xa; Bất đạn xa có nghĩa là không ngại xa, không sợ xa. Xét về niêm luật thì ở chữ thứ 6 này phải là vần bằng, chữ đạn vần trắc ở đây là thất niêm nên bất ngôn xa hợp lý hơn bất đạn xa. Chữ quy và chữ ư ở hai câu cũng cần xem xét. Về nghĩa, câu của bản A có thể hiểu là: mộng về quê cũ chẳng nói là xa. Nếu thay chữ ư vào chữ quy thì có thể hiểu là: Quê cũ ở trong mộng không nói là xa, xem ra câu thơ thuận lý hợp tình. Như vậy, câu này sẽ là: Cố viên ư mộng bất ngôn xa.
    Câu 4, bản A chép: 驛 梅 新 放幾 枝 花 "Dịch mai tân phóng kỷ chi hoa". Bản B bỏ trống hai chữ 新 放tân phóng. Bởi thế, hai chữ tân phóng của bản A đã hoàn thiện cho câu thơ của bản B. Nghĩa cả câu là:
    Cây mai ở trạm nghỉ mới nở mấy nhành hoa.
    Câu 5, bản A chép: 玉 樓 寒 盡 猶 瞻 極 - Ngọc lâu hàn tận do chiêm cực.
    Bản B chép: 玉 樓 寒 盡 惟 吟 日 - Ngọc lâu hàn tận duy ngâm nhật".
    Xét về niêm luật thì cả hai câu đều đúng. Xét về ý nghĩa thì khác nhau: Ngọc lâu hàn tận do chiêm cực".
    Nghĩa là: Ở lầu ngọc, lạnh đã hết, có thể phóng hết tầm mắt.
    "Ngọc lâu hàn tận duy ngâm nhật"
    Nghĩa là: Ở lầu ngọc, lạnh đã hết, chỉ là ngày ngâm vịnh.
    Đây là bài thơ Lý Thế Cẩn họa thơ Nguyễn Công Hãng, bởi thế, về mặt văn bản, ba chữ do chiêm cực của bản A có lẽ hợp hơn. Hơn nữa, xét đối với câu dưới: 銀渚 春 生 未 返槎 - "Ngân chử xuân sinh vị phản sà". Nghĩa là: Ở Ngân đảo, xuân đã đến, (mà) chưa thể quay bè sứ trở về.
    Ta thấy, câu chữ của bản A có lẽ đẹp hơn, hay hơn, hợp hơn với nỗi niềm của người đi sứ nhớ quê hương.
    Bài thứ ba: có ba chỗ xuất nhập ở câu 4, 5 và 7.
    Câu 4 và 5, bản A chép:
    書中慕子三冬足
    旅次嗟予兩 鬢 花
    "Thư trung mộ tử tam đông túc,
    Lữ thứ ta dư lưỡng mấn hoa".
    Nghĩa là:
    Trong thư được biết và hâm mộ ông ở đây đã ba mùa đông,
    Than cho tôi là kẻ lữ thứ đôi bên tóc mai đã đốm hoa.
    Bản B chép:
    觀 光 慕 子 雙 眸 闊
    作 客 嗟 予 兩 鬢 花
    "Quan quang mộ tử song mâu khoát,
    Tác khách ta dư lưỡng mấn hoa".
    Nghĩa là:
    Xem (tướng mạo) sáng sủa, hâm mộ ông có đôi mắt rộng,
    Than cho tôi là kẻ làm khách đôi bên tóc mai đã đốm hoa.
    Hai chữ lữ thứtác khách ở câu 5 không khác nhau lắm về ý nghĩa. Nhưng, ở câu 4, bản B dùng cả một câu khen tướng mạo sứ thần nước bạn, hâm mộ đôi mắt (to) rộng thì thấy có vẻ không ổn. Trong các bài thơ gửi tặng Nguyễn Công Hãng, Lý Thế Cẩn không giấu nổi nỗi buồn chưa hoàn thành việc đi sứ, phải ở lại lâu ngày ở quán khách, lẻ loi buồn rầu. Ở bài thứ 6, Lý Thế Cẩn viết rõ:
    孤館
    無 限 羈 愁 萬 斛 餘
    Thiểu nhiên cô quán đẳng thiền cư,
    Vô hạn ky sầu vạn hộc dư.
    Nghĩa là:
    Buồn rầu lẻ loi ở quán trạm, tựa như sống trong cảnh thiền,
    Nỗi buồn vô hạn, uống rượu nhiều.(1)
    Hoặc như:
    故 園 於 夢 不 言 賒
    客 館 經 年 便 作 家
    "Cố viên ư mộng bất ngôn xa,
    Khách quán kinh niên tiện tác gia".
    Nghĩa là: Quê cũ ở trong mộng, không nói là xa,
    Ở quán khách trải bao năm bèn coi như nhà mình.
    Như vậy, câu chữ ở bản A có lẽ hợp lý hơn.
    Câu thứ 7, bản A chép: 歸 來 相 憶 形 聲 夢 -Quy lai tương ức hình thanh mộng". Nghĩa là: Trở về, cùng nhớ hình bóng, tiếng nói ở trong mộng.
    Bản B chép: 歸 來 相 憶 形 客 夢 - Quy lai tương ức hình khách mộng". Nghĩa là: Trở về, cùng nhớ hình bóng khách ở trong mộng.
    Về ý nghĩa, sứ thần hai nước Việt - Hàn trong lịch sử luôn có tình cảm tốt đẹp với nhau, coi nhau như bạn thân lâu ngày gặp lại. Điều này đặc biệt phản ánh rõ nét trong nội dung thơ xướng hoja của hai ông. Bởi thế, chữ khách ở đây không hợp ý nghĩa, hơn nữa, lại phạm luật bằng trắc, chữ thứ 6 này phải là thanh bằng mới hợp cách.
    Như vậy, câu chữ bản A hợp lý hơn.
    Sau khi xem xét tổng thể văn bản của hai bên, sơ bộ, chúng tôi có nhận xét sau:
    1. Văn bản Bắc sứ thi tập của Nguyễn Công Hãng ở Việt Nam có nhiều hơn Tĩnh Hiên tập của Lý Thế Cẩn (Hàn Quốc) 4 bài thơ.
    2. Trong 4 bài thơ của Lý Thế Cẩn trong Tĩnh Hiên thi tập thì có 2 bài trùng với 2 bài của Du Tập Nhất trong Bắc sứ thi tập. Như vậy, nếu coi bản Bắc sứ thi tập đầy đủ hơn thì bản Tĩnh Hiên thi tập thiếu mất hai bài của Lý Thế Cẩn, thừa ra 2 bài của Du Tập Nhất.
    3. Hai văn bản đều thống nhất chép rằng, Nguyễn Công Hãng gửi bài xướng và sứ thần Hàn Quốc Lý Thế Cẩn họa vần.
    4. Trong 8 bài ở cả hai văn bản, chỉ có bài thứ nhất và bài thứ ba đều có ba chỗ xuất nhập như đã nêu ở trên.
    Dưới đây là phần phiên âm, dịch nghĩa 8 bài thơ trong Tĩnh Hiên tập của Lý Thế Cẩn (Hàn Quốc):
    Ở quán Ngọc Hà đáp lại thơ khất họa của Chánh sứ An Nam (Ngọc Hà quán thù An Nam quốc Chánh sứ khất họa vận).
    Bài 1: Lý Thế Cẩn họa thơ Nguyễn Công Hãng.
    Phiên âm:
    Cố viên quy mộng bất ngôn xa,
    Khách quán kinh niên tiện tác gia.
    Thôn tửu thặng thành liên nhật tuý,
    Dịch mai tân phóng kỷ chi hoa.
    Ngọc lâu hàn tận do chiêm cực,
    Ngân chử xuân sinh vị phản sà.
    Đồng thị lữ nhân quân cánh viễn,
    Nhất ban sầu tứ tưởng ưng gia.
    Dịch nghĩa:
    Mộng về quê cũ chẳng kêu xa,
    Ở quán khách trải bao năm bèn coi như nhà mình.
    Rượu trong thôn vẫn có, thành ra cứ say hết ngày này qua tháng khác,
    Cây mai ở trạm nghỉ mới nở mấy nhành hoa.
    Ở lầu ngọc đã hết lạnh, có thể phóng hết tầm mắt,
    Ở Ngân đảo, mùa xuân đã đến mà chưa thể quay thuyền trở về.
    Cùng là khách đi xa, nhưng ông ở xa hơn,
    Nỗi buồn như nhau nhưng nỗi niềm nhớ quê hương của ông
    hẳn càng sâu nặng hơn.
    Bài thứ hai:
    Phiên âm:
    Các tự Đông Nam hải nhất tâu,
    Ngộ ngôn vô lộ chỉ hồi đầu.
    Y quan định tập văn minh chế,
    Điền phú ưng tòng thượng hạ trù.
    Cánh bả thiên chương khâm điển nhã,
    Tức tri phong khí tuyệt khoa phù.
    Kinh bang đại pháp duy Chu Khổng,
    Tu hướng di biên tự tự tu.
    Dịch nghĩa:
    Tôi và ông từ góc biển Đông và Nam tới,
    Gặp nhau, nói không hiểu chỉ ngoái đầu.
    Mũ áo nhất định phải phỏng theo chế độ văn minh,
    Thuế ruộng nên định theo bờ trên bờ dưới.
    Càng nên rèn rũa khâm định văn chương cho thêm điển nhã,
    Tức là biết khoa trương phong khí đến mức tuyệt vời.
    Phép lớn kinh bang duy chỉ theo Chu Công, Khổng Tử,
    Nên theo Ngài tu sửa từng chữ từng chữ trong di cảo.
    Nguyễn Công Hãng gửi Lý Thế Cẩn theo vần như trước
    Bài 1.
    Phiên âm:
    Hải quốc Đông Nam vạn lý xa,
    Ngọc kinh hỷ ngộ quán thiên gia.
    Thư trung mộ tử tam đông túc,
    Lữ thứ ta dư lưỡng mấn hoa.
    Tưởng thị đồng niên từ giả án,
    Cộng tuỳ bát nguyệt phiếm tiên sà.
    Quy lai tương ức hình thanh mộng,
    Dĩ nghĩ vu kim cánh bội gia.
    Dịch nghĩa:
    Tôi ở bờ biển Nam, ông ở biển Đông
    cách xa nhau hơn vạn dặm,
    Vui mừng được gặp nhau ở Yên Kinh, quán Ngọc Hà và cùng vào chầu thiên vương.
    Trong thư được biết và hâm mộ ông ở đây đã ba mùa đông,
    Than cho tôi là kẻ lữ thứ đôi bên tóc mai đã đốm hoa.
    Ngỡ là cùng một năm từ biệt án thư màu đỏ sẫm,
    Vào tháng tám, cùng nhau cưỡi bè tiên đi về.(2)
    Trở về cùng nhớ hình bóng, tiếng nói ở trong mộng,
    Nghĩ đến hôm nay càng nhớ nhau hơn.
    Bài 2.
    Văn đạo Đông Hàn trạch hải tâu,
    Cửu Đô sơn hạ Hán giang đầu.
    Văn chương cơ trục cao thiên cổ,
    Nghĩa lý uyên nguyên tục cửu trù.
    Hàng tửu khử hàn xuân sắc noãn,
    Ma y liễm thể tuyết hoa phù.
    Tức kim ba thiếp Đông minh cửu,
    Cộng dĩ niên niên chức cống tu.
    Dịch nghĩa:
    Nghe nói nhà ông ở Đông Hàn, bên góc bể,
    Ở đầu nguồn sông Hàn(3), dưới chân núi Cửu Đô.
    Nếp văn chương có từ ngàn xưa,
    Nghĩa lý nguồn sâu kế tục Cửu trù(43).
    Uống rượu Hàng Châu xua cái lạnh đi sắc xuân ấm tới,
    Thu mình trong tấm áo gai theo hoa tuyết bay.
    Cũng tức là nay theo làn sóng về biển Đông quốc
    Tôi cùng ông trải mấy năm hoàn thành chức trách đi triều cống.
    Lý Thế Cẩn lại gửi bài thơ họa lại thơ của Chánh sứ An Nam Nguyễn Công Hãng
    Bài 1.
    Phiên âm:
    Thủ bả quỳnh cư ngoạn tái tam,
    Từ đàn thanh giá trọng song Nam.
    Tòng tri vạn quốc đồng văn quỹ,
    Cánh hỷ viêm phương dưỡng đạo tàm.
    Kinh nghĩa tự lai đa uẩn dữ,
    Công phu tu thả cực nghiên đàm.
    Hoàn tương vô ngữ thù khuyến ý,
    Duyệt nhược tình song đối trần đàm.
    Dịch nghĩa:
    Tay cầm ngọc đẹp thưởng ngoạn ngắm nghía hồi lâu(5),
    Ông đã nổi tiếng trên văn đàn được cả hai nước tôn trọng.
    Từ lâu đã biết các nước đồng văn đồng quỹ(6)
    Càng vui hơn khi biết vùng xứ nóng trồng lúa nuôi tằm.
    Kinh nghĩa từ trước tới nay đã trao tặng cho nhau nhiều,
    Càng phải bỏ công phu nghiên cứu thật sâu xa.
    Ngày ông về, chẳng biết nói gì, làm thơ đáp lại tỏ ý khuyến khích,
    Vui mừng như cùng ngồi bên song cửa đầy nắng bàn chuyện thế gian.
    Bài 2.
    Phiên âm:
    Thiểu nhiên cô quán đẳng thiền cư,
    Vô hạn ky sầu vạn hộc dư.
    Đắc thử quỳnh chương song thủ quán,
    Thắng ư phỉ kỷ thập niên thư.
    Khách trung tuế luật hồi nguyên hiến,
    Mộng lý hương tình thuyết Mạnh chư.
    Văn đạo tiên sà quy nhật cận,
    Xuất phàn phi điểu hứng hà như.
    Dịch nghĩa:
    Buồn rầu lẻ loi ở quán trạm tựa như sống trong cảnh thiền,
    Nỗi buồn nơi đất khách vô bờ bến, uống rượu nhiều.
    Nhận được bài thơ như ngọc này, vội rửa sạch hai tay,
    Hơn hẳn (thơ) của đồng liêu mấy chục năm đọc sách.
    Trong số khách (đến đây), ông đã xong việc tuế cống và được trở về với quê hương văn hiến,
    Trong mộng trào dâng tình cảm quê hương và nói chuyện kinh sách thánh hiền.
    Nghe nói công việc đi sứ đã xong, sắp đến ngày sứ bộ trở về,
    Ra khỏi miền đất này, không biết cánh chim vui thú bay về đâu.
    Nguyên vận của Nguyễn Công Hãng
    Bài 1.
    Phiên âm:
    Thương hải dương trần kỷ độ tam,
    Viêm bang tự tích trạch giao Nam.
    Lục kinh dĩ ngoại vô tha đạo,
    Nhất tuế chi trung thục bát tàm.
    Vạn hộ ngư diêm thường cấp túc,
    Tứ thời hoa thảo cộng phu đàm.
    Quy lai tuyên thất như tiền tịch,
    Tự dữ quan phong trợ nhất đàm.
    Dịch nghĩa:
    Trải bao phen vật đổi sao dời,
    Vùng đất xứ nóng từ xưa đã ở phương Nam.
    Ngoài lục kinh ra(7), chẳng theo đạo nào khác,
    Một năm thu hoạch tám lứa tằm.
    Nhân dân theo nghề đánh cá làm muối thường no đủ,
    Bốn mùa hoa cỏ tốt tươi.
    Khi về nhớ cảnh đền đài,
    Giống như trong bữa tiệc hôm trước nói chuyện về phong cảnh tham quan.
    Bài 2.
    Phiên âm:
    Địa các Đông Nam hải tế cư,
    Kế trình vạn lý hữu linh dư.
    Uy nghi cộng bỉnh Cơ gia lễ,
    Học vấn đồng tôn Khổng thị thư.
    Hảo bả văn chương thông khẳng khái,
    Hưu luân ôn bão độ cư chư.
    Sứ thiều vân phản trùng tương ức,
    Tại tử an tri bất ngã như?
    Dịch nghĩa:
    Tôi ở bờ biển Nam, ông ở bờ biển Đông,
    Đường đi tính ra tới hơn vạn dặm trường.
    Nghi lễ cùng theo lễ nhà Chu,
    Học vấn cùng theo sách thầy Khổng Tử.
    Khéo dùng văn chương khẳng định điều ấy,
    Không phải bàn luận chuyện no ấm qua ngày.
    Sứ thiều trở về nhớ đến chuyện ở đây,
    Biết đâu ông lại chẳng giống như tôi?
    Chú thích:
    (1) Hộc: dụng cụ đo dung tích thời xưa; Vạn hộc dư: hơn vạn hộc, ý chỉ uống rượu nhiều.
    (2) Tiên sà: bè tiên, chỉ công việc đi sứ. Đây ý nói vào tháng tám, công việc đi sứ hoàn tất thì cùng chia tay nhau trở về.
    (3) Sông Hàn: theo chữ Hán là Hán giang nhưng đọc theo âm Hàn là Han-Kang, nghĩa là sông lớn, sông cái. Các học giả Hàn Quốc chấp thuận theo cách dịch là sông Hàn chứ không có nghĩa là sông Hán, chỉ Trung Quốc.
    (4) Cửu trù: tức Hồng phạm cửu trù (chín phép cai trị thiên hạ). Tục truyền sau khi nhà Chu diệt xong nhà Thương đã phong vương cho Cơ Tử ở đất cổ Triều Tiên. Cơ Tử là người nắm được Hồng phạm cửu trù và truyền cho Chu Vũ Vương. Ở đây ý nói theo lễ nghi nhà Chu.
    (5) Ở đây, Lý Thế Cẩn ví bài thơ xướng họa của Nguyễn Công Hãng gửi cho như những viên ngọc đẹp.
    (6) Đồng văn đồng quỹ: tức "xa đồng quỹ, thư đồng văn", xe lăn cùng một khổ trục bánh, sách viết cùng một lối chữ, ý nói hai nước cùng theo một đạo học - đạo Nho.
    (9) Lục kinh: 6 bộ sách kinh điển của Nho gia gồm Kinh Thi, Thư, Lễ, Dịch, Nhạc Xuân Thu, nay kinh Nhạc không còn, chỉ còn lại Ngũ kinh. Đây có ý chỉ đạo Nho.
    Tài liệu tham khảo
    1.Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. KHXH, H. 1993.
    2.Đại cương lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo dục. 2004.
    3.Từ điển văn học Việt Nam (Từ nguồn gốc đến hết TK XIX), Lại Nguyên Ân biên soạn với sự cộng tác của Bùi Văn Trọng Cường, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.
    4.Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Đinh Xuân Lâm - Trương Hữu Quýnh chủ biên, Nxb. Giáo dục, 2005.
    5.Thơ đi sứ. Phạm Thiều - Đào Phương Bình chủ biên, Nxb. KHXH, H. 1993.
    6.Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm. tập I, II; Tác phẩm được giải thưởng Hồ Chí Minh, Nxb. KHXH, H. 2003.
    7.Trần Văn Giáp: Lược truyện các tác gia Việt Nam, Nxb. KHXH, H. 1971.
    8.Nguyễn Công Hãng: Bắc sứ thi tập; VHv.2166; VHc.2160.
    9.Tĩnh Hiên tập, tư liệu thư viện quốc gia Seoul Hàn Quốc./.
  7. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    LỄ HỘI CUNG ĐÌNH HUẾ VÀ VẤN ĐỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
    GIÁ TRỊ ĐỂ PHỤC VỤ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN
    VĂN HÓA VÀ DU LỊCH Ở THỪA THIÊN HUẾ
    Trần Đức Anh Sơn
    Do hoàn cảnh lịch sử, Huế được vương triều Nguyễn chọn làm kinh đô của Việt Nam trong suốt 143 năm (1802 - 1945). Cùng với việc xây dựng bộ máy cai trị theo chế độ phong kiến trung ương tập quyền ở Huế, các vua triều Nguyễn, đứng đầu là vua Gia Long (1802 - 1820), đã thiết lập một chế độ lễ nghi phong phú, bài bản, chặt chẽ và tổ chức thực thi trong suốt thời gian tồn tại của vương triều này. Những lễ nghi này, thường được gọi là lễ hội cung đình triều Nguyễn hay lễ hội cung đình Huế, là một phần của văn hóa cung đình Huế, một trong hai thành tố hợp thành nền văn hóa Huế, và là thành tố quan trọng nhất tạo nên bản sắc văn hóa Huế, làm cho văn hóa Huế khác biệt so với văn hóa của các địa phương khác ở Việt Nam.
    Bài viết này tập trung nghiên cứu về lễ hội cung đình Huế dưới thời Nguyễn, đồng thời, đánh giá những hiệu quả và tác động của việc bảo tồn và phát huy giá trị để phục vụ người dân và phát triển du lịch ở Thừa Thiên Huế.
    1. TỔNG QUAN VỀ LỄ HỘI CUNG ĐÌNH HUẾ
    1.1. Lễ hội và lễ hội cung đình
    1.1.1. Lễ hội
    Lễ hội là khái niệm được sử dụng rất phổ biến ở Việt Nam hiện nay, nhưng cũng là một khái niệm mơ hồ, gây tranh cãi, cả trong lĩnh vực học thuật lẫn trong lĩnh vực quản lý văn hóa.
    Theo Phan Thuận An trong bài viết Lễ hội cung đình triều Nguyễn nhìn từ góc độ văn hoá và du lịch ngày nay in trên tạp chí Sông Hương, thì: “Về mặt thuật ngữ, lễ hội là một từ tương đối mới, chỉ được sử dụng một cách phổ biến trong mấy chục năm nay, đặc biệt là để chỉ các lễ hội dân gian. Còn những sinh hoạt lễ nghi tập thể của các vua quan ngày xưa ở chốn cung đình thì chỉ thấy các sử gia triều Nguyễn ghi là triều hội (hội họp của triều đình)”.1
    Hiện nay, lễ hội đang được quan niệm theo hai khuynh hướng khác nhau: khuynh hướng xem xét theo cấu trúckhuynh hướng xem xét theo tổng thể.
    - Khuynh hướng xem xét theo cấu trúc thường chia lễ hội thành hai phần: phần lễ và phần hội. Đại diện cho khuynh hướng này là Bùi Thiết, tác giả sách Từ điển hội lễ Việt Nam. Theo Bùi Thiết: “Lễ: các hoạt động đã đạt đến trình độ lễ nghi. Hội: các hoạt động lễ nghi đã phát triển đến mức cao hơn, có các hoạt động văn hóa truyền thống. Khi phần hội phong phú hơn thì gọi là hội lễ. Cũng có khi phần lễ lấn át thì gọi là lễ hội”.2 Bùi Thiết cũng đề xuất khái niệm hội lễ thay cho lễ hội. Theo đó: “Hội lễ là cách gọi cô đọng nhằm để chỉ toàn bộ các hoạt động tinh thần, phản ánh những tập tục, vật hiến tế, lễ nghi dâng cúng, những hội hè đình đám của cộng đồng làng xã nhất định”.3 Tuy đề xuất như thế nhưng ông này cũng thừa nhận: “cũng khó phân chia tách bạch ra hội lễ hay lễ hội”.4 Phan Thuận An cũng cho rằng: “Chúng ta cũng có thể thấy người xưa đã chia nội dung của loại hình sinh hoạt văn hóa đang bàn (lễ hội) ra làm hai phần khá rõ ràng, là phần lễ phần hội”.5 Một số tác giả khác ở Việt Nam khi viết về lễ hội cũng có khuynh hướng tác bạch giữa phần lễ và phần hội như Bùi Thiết.6
    - Khuynh hướng xem xét theo tổng thể thì cho rằng không nên tách phần lễ khỏi phần hội, vì lễ hội là một quá trình nảy sinh và tích hợp các hiện tượng văn hóa phát sinh trong một khoảng thời gian nhất định, trong đó nghi lễ luôn là gốc rễ của lễ hội, còn phần hội chỉ là hiện tượng phái sinh trên cái gốc của nghi lễ và tồn tại song hành cùng nghi lễ. Đại diện cho khuynh hướng này là Ngô Đức Thịnh, tác giả bài viết Mấy nhận thức về lễ hội cổ truyền in trên tạp chí Văn hóa Nghệ thuật. Theo Ngô Đức Thịnh: “Tính tổng thể của lễ hội không phải là thực thể “chia đôi” như người ta đã quan niệm, mà nó nảy sinh và tích hợp các hiện tượng văn hóa phát sinh để tạo nên một tổng thể lễ hội… Cho nên trong lễ hội, phần lễ là phần gốc rễ, chủ đạo, phần hội là phần phát sinh, tích hợp. Trong thực tế có một số ít nghi lễ không hay chưa có phần hội (tức phần sinh hoạt văn hóa) kèm theo (như một số nghi lễ liên quan tới sản xuất nông nghiệp ở các tộc người thiểu số ở vùng núi hay một số nghi lễ trong phạm vi gia đình ở người Việt); chứ không có một loại hội nào mà không có nghi lễ giữ vai trò gốc rễ. Điều đó cũng cắt nghĩa là nếu cần phải đặt tên cho loại sinh hoạt cộng đồng này thì nên gọi đó là lễ hội, chứ không phải là hội lễ.7
    [​IMG]
    Kỳ đài Huế trong ngày Tế giao. Lễ Tế giao năm 1935
    Trong khi đó, Lê Văn Thuyên, tác giả bài viết Lễ hội ở Huế dưới thời Nguyễn thì cho rằng: “Lễ hội là một khái niệm có tính ước lệ của cộng đồng, còn bản chất của nó lại gắn liền với nhu cầu sinh hoạt văn hóa của con người, gồm có nhu cầu về tâm linh và nhu cầu về vui chơi, hưởng thụ. Trong các nhu cầu về tâm linh, lễ nghi là hình thức quan trọng hơn cả”.8
    Chúng tôi quan niệm rằng: “Lễ hội là một dạng hoạt động văn hóa do con người sáng tạo ra nhằm thỏa mãn các nhu cầu về tâm linh, tín ngưỡng, vui chơi, giải trí, được hình thành qua một quá trình lâu dài do tác động của văn hóa và lịch sử”.
    Tán thành quan điểm của Chu Quang Trứ khi ông xem lễ hội là “hiện tượng lịch sử, luôn phát triển theo thời gian và có tính thời đại”9, chúng tôi cho rằng “Lễ hội luôn phát triển theo thời gian và có tính thời đại, vì thế, lễ hội không có tính bất biến mà biến đổi tùy thuộc các điều kiện khách quan (thời gian và không gian tổ chức lễ hội) và các điều kiện chủ quan (chủ thể tổ chức lễ hội, ý thức hệ chủ đạo của thời đại, cơ sở vật chất, nhân lực và nguồn tài chính)”.
    [​IMG]
    Binh mã chuẩn bị đi Tế giao. Lễ Tế giao năm 1935
    Trên thực tế, khái niệm lễ hội ở Việt Nam hiện nay được sử dụng rất linh hoạt, tùy theo từng trường hợp. Chẳng hạn: lễ hội được hiểu như chữ event (sự kiện) trong tiếng Anh (lễ hội bắn pháo hoa Đà Nẵng, lễ hội hoa anh đào Nhật Bản ở Hà Nội), lễ hội được hiểu như chữ festival (liên hoan) trong tiếng Anh (như: lễ hội trái cây Nam Bộ, lễ hội hoa Đà Lạt); lễ hội được hiểu như một chương trình nghệ thuật (lễ hội áo dài trong các kỳ Festival Huế) hay lễ hội được hiểu như chữ road show (cuộc biểu diễn đường phố) trong tiếng Anh (lễ hội rước tổ nghề thêu ở Huế, lễ hội rước bức tranh thêu lớn nhất Việt Nam dạo quanh các đô thị của Việt Nam do Công ty thêu XQ tổ chức trong năm 2010)…10
    Từ khái niệm lễ hội có tính bao trùm, một số nhà nghiên cứu đã đưa ra những khái niệm có tính phân loại về lễ hội như: lễ hội truyền thống, lễ hội cổ truyền, lễ hội dân gian, lễ hội cung đình, lễ hội tôn giáo, lễ hội đương đại, lễ hội du lịch, lễ hội lịch sử và cách mạng…11
    1.1.2. Lễ hội cung đình
    Lễ hội cung đình là những lễ hội do các vương triều phong kiến khai sinh và tổ chức thực hiện nhằm biểu hiện quyền lực, tư tưởng và nhận thức về thế giới quan và vũ trụ quan của giai cấp thống trị; đáp ứng các nhu cầu về tâm linh, tín ngưỡng, vui chơi, giải trí của giai cấp thống trị và các tầng lớp trên trong xã hội phong kiến.
    Chủ thể của lễ hội cung đình là nhà nước phong kiến, thông qua các đại diện là vua chúa, quan lại (tùy từng trường hợp cụ thể), nhưng đối tượng tham gia lễ hội cung đình thì không chỉ có giai cấp thống trị mà còn có sự tham gia của nhiều tầng lớp nhân dân trong xã hội. Khi nhà nước phong kiến không còn tồn tại thì lễ hội cung đình cũng biến mất do không còn chủ thể tổ chức.
    [​IMG]
    Ngự đạo đi qua Ngọ Môn. Lễ Tế giao năm 1935
    Ở Việt Nam, chế độ XHCN đã thay thế cho chế độ quân chủ. Nhà nước phong kiến không còn nên lễ hội cung đình không còn được tổ chức. Vì thế, lễ hội cung đình ở Việt Nam hiện nay không còn duy trì trên thực tế mà chỉ được phản ánh trong các nguồn sử liệu, các công trình nghiên cứu hay được lưu giữ trong ký ức của một bộ phận dân chúng từng có mối quan hệ với triều Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam.
    Cũng vì lý do này, mà Cục Văn hóa Thông tin Cơ sở (thuộc Bộ Văn hóa Thông tin) khi tiến hành thống kê các di sản lễ hội ở Việt Nam đã đưa ra con số: đến năm 2003, Việt Nam có 8902 lễ hội các loại, trong đó gồm: 25 lễ hội du nhập từ nước ngoài, 7005 lễ hội dân gian, 1399 lễ hội tôn giáo, 409 lễ hội lịch sử cách mạng, 64 lễ hội khác12, không có số liệu nào về lễ hội cung đình. Nhiều công trình nghiên cứu về lễ hội ở Việt Nam đã bỏ qua các lễ hội cung đình do họ không biết (hoặc không quan tâm) đến sự tồn tại của các lễ hội này trong lịch sử Việt Nam.13
    [​IMG]
    Ngự đạo đi qua cửa Thượng Tứ. Lễ Tế giao năm 1935
    1.2. Lễ hội cung đình Huế
    1.2.1. Khái niệm lễ hội cung đình Huế
    Cũng như khái niệm lễ hội, khái niệm lễ hội cung đình Huế cũng là một khái niệm mang tính ước lệ. Theo đó, lễ hội cung đình Huế là những lễ hội do triều Nguyễn khai sinh và tổ chức thực hiện trong thời gian triều đại này cầm quyền ở Huế, vì người ta đã đồng nhất cung đình Huế với cung đình triều Nguyễn, do Huế là kinh đô của nhà Nguyễn.14 Vì thế, khái niệm lễ hội cung đình Huế được đề cập trong bài viết này nhằm chỉ những lễ hội do triều Nguyễnđã tổ chức thực hiện ở Huế trước đây và nay đang được một số cơ quan, tổ chức ở Huế phục hồi và tái hiện trong các sự kiện văn hóa - du lịch vì nhiều mục đích khác nhau.
    1.2.2. Loại hình lễ hội cung đình Huế
    Triều Nguyễn chia lễ hội cung đình thành hai loại: các lễ tiết và các lễ tế tự. Đây là hai loại hình quan trọng nhất của lễ hội cung đình mà triều Nguyễn đã tổ chức và thực hiện trong suốt thời gian triều đại này trị vì ở Huế.
    - Các lễ tiết:15 Các dịp triều hội hàng tháng gồm: Đại triều (vua ngự điện Thái Hòa để nhận chầu) và Thường triều (vua ngự điện Cần Chánh để nhận chầu); 3 cuộc lễ lớn hàng năm nhân các đại tiết: Nguyên đán (Tết âm lịch), Đoan dương (Tết Đoan ngọ), Vạn thọ (sinh nhật nhà vua); các lễ mừng nhân các dịp: Hưng quốc khánh niệm (quốc khánh của triều Nguyễn), Thánh thọ (sinh nhật hoàng thái hậu), Tiên thọ (sinh nhật hoàng thái phi); Thiên thu (sinh nhật hoàng hậu), Thiên xuân (sinh nhật hoàng thái tử).16
    [​IMG]
    Ngự đạo đi ra ngoại thành. Lễ Tế giao năm 1935
    Triều Nguyễn cũng xếp vào mục lễ tiết các lễ sau: lễ đăng quang (lễ lên ngôi của nhà vua), lễ tấn tôn (lễ sách phong hoàng thái hậu, hoàng thái phi), lễ mừng nhà vua ngự cung mới, lễ mừng hoàng thái hậu ngự cung mới17, lễ sách phong18
    Ngoài ra, vào các tiết: lập xuân, đông chí, thượng nguyên (15 tháng 1), trung nguyên (15 tháng 7), hạ nguyên (15 tháng 10), thất tịch (7 tháng 7), trùng dương (9 tháng 9)… triều đình cũng tổ chức triều hội hay tế lễ tại các miếu. Những lễ hội này cũng được xếp vào mục lễ tiết.
    - Lễ tế tự: Là các lễ tế tại các đàn, miếu do triều đình lập ra, thờ tự và tổ chức tế lễ hàng năm. Triều Nguyễn quy định các lễ tế tự theo ba bậc:
    + Đại tự: Gồm các lễ tế tại: đàn Nam Giao; các miếu trong Hoàng Thành gồm: Triệu miếu, Thái miếu, Hưng miếu, Thế miếu, điện Phụng Tiên; điện Hiếu Tư; điện Long An; miếu Triệu Tường và miếu Trừng Quốc công; các lăng tẩm của các vị chúa Nguyễn và các vua triều Nguyễn; đàn Xã Tắc.19
    + Trung tự: Gồm các lễ tế tại: miếu Lịch đại đế vương; miếu Lê Thánh Tông; Văn miếu; đàn Tiên Nông.20
    [​IMG]
    Vua ngồi trong kiệu. Lễ Tế giao năm 1935
    + Quần tự: Gồm các lễ tế tại: đền Khải thánh21; Võ miếu; miếu Quan Công; miếu Quốc vương Chiêm Thành; miếu Quốc vương Chân Lạp; miếu Khai quốc công thần; miếu Trung hưng công thần; miếu Trung tiết công thần; miếu Đô Thành hoàng; miếu Hội đồng; miếu Thai Dương phu nhân; miếu Nam hải Long vương; miếu Hậu thổ; miếu Mộc thương, miếu Hỏa pháo thần; miếu Tiên y; miếu Vũ sư; miếu Phong bá; miếu Thiên phi; miếu Hỏa thần; miếu Sơn thần; miếu Tiên nương; miếu thờ thần hồ; miếu thờ thần các đảo; đàn Ân tự; đàn Âm hồn; đàn Sơn xuyên; miếu thờ Thổ kỳ; từ đường thờ các thân huân, hoàng thân; từ đường thờ gia tiên các phi tần có công lao, đức hạnh lớn với triều đình, hoàng gia…
    Ngoài ra, triều Nguyễn còn tổ chức một số lễ nghi và hội hè khác như: lễ kỳ đạo (lễ tế cờ); lễ đảo vũ (lễ cầu mưa); lễ ban sóc (lễ ban lịch năm mới tổ chức vào ngày mồng 1 tháng 12 âm lịch); lễ phất thức (lễ lau chùi và niêm phong các kim bảo ngọc tỉ để nghỉ Tết, tổ chức vào hạ tuần tháng 12 âm lịch); lễ tiến xuân ở kinh đô và ở các tỉnh (tổ chức vào ngày lập xuân); lễ tịch điền (lễ vua ra cày ruộng để khuyến khích dân chúng chăm lo nghề nông, tổ chức vào tháng 5 âm lịch); lễ Tứ tuần đại khánh (mừng sinh nhật lần thứ 40 của nhà vua), lễ Ngũ tuần đại khánh (mừng sinh nhật lần thứ 50 của nhà vua); cuộc du xuân của nhà vua (cùng hoàng gia và đình thần) vào dịp đầu xuân; ngày Hổ quyền (tổ chức cho voi ngựa đấu nhau để vua và đình thần thưởng lãm)…
    Triều Nguyễn rất quan tâm tổ chức và thực hiện các nghi lễ, tế tự. Sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (phần Chính biên) đã dành 68 quyển trong tổng số 263 quyển để bàn về các quy thức, điển chế tổ chức thực hiện nghi lễ, tế tự. Điều này cho thấy tế, lễ là hoạt động quan trọng trong chính sự của triều Nguyễn, đồng thời cho thấy sự phong phú của các loại lễ hội cung đình Huế.
    [​IMG]
    Đàn tế trời tại Viên đàn. Lễ Tế giao năm 1935
    1.3. Tổng quan về lễ hội cung đình Huế
    1.3.1. Số lượng, địa điểm và thời gian tổ chức lễ hội cung đình Huế
    Dựa vào thông tin trong các bộ sách: Khâm định Đại Nam hội điển sự (do Nội các triều Nguyễn biên soạn)22, Đại Nam nhất thống chí (do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn)23Những đại lễ và vũ khúc của vua chúa Việt Nam (của Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề)24, chúng tôi đã thống kê được hơn 100 lễ hội cung đình khác nhau do triều Nguyễn tổ chức và thực hiện trong thời gian triều đại này cai trị đất nước.
    [​IMG]
    Ban thờ trong đàn tế tại Phương đàn. Lễ Tế giao năm 1935
    1.3.2. Quá trình hình thành lễ hội cung đình Huế
    Hơn 100 lễ hội cung đình mà chúng tôi thống kê trên đây không phải đều do triều Nguyễn đặt ra. Đó là kết quả của một quá trình kế thừa, tiếp thu, bổ túc và điều chỉnh trải dài suốt lịch sử tồn tại của vương triều. Theo chúng tôi, lễ hội cung đình triều Nguyễn được hình thành từ quá trình sau:
    *Kế thừa lễ hội của các triều đại trước đây
    Các triều đại phong kiến Việt Nam kể từ thời tự chủ đầu thế kỷ X, dù ít dù nhiều cũng chịu ảnh hưởng Trung Hoa trong việc tổ chức triều chính, pháp luật, lễ nghi, văn hóa, giáo dục, khoa cử... Trong lĩnh vực lễ nghi, có nhiều lễ hội có gốc gác Trung Hoa nhưng đã được du nhập vào nước ta và được các triều Đinh - Lê (968 - 1009), Lý (1010 - 1225), Trần (1225 - 1400), Hồ (1400 - 1407), hậu Lê (1427 - 1788), Tây Sơn (1788 - 1802) tổ chức thường xuyên, trở thành những lễ hội truyền thống của nhà nước phong kiến Việt Nam. Chẳng hạn: lễ tế Giao du nhập vào nước ta từ đời Lý Anh Tông (1138 - 1175), được duy trì dưới các triều: Hồ, hậu Lê và Tây Sơn (1788 - 1802)25; lễ cày ruộng tịch điền (và tế đàn Xã tắc hay đàn Tiên nông) có từ năm 987 triều tiền Lê26, được tổ chức thường xuyên vào thời Lý - Trần - hậu Lê; lễ tế Văn Miếu có từ năm 1070 đời vua Lý Thánh Tông27, tiếp tục được thực hiện dưới các triều Trần và hậu Lê; các lễ: kỳ đạo đăng quang, tấn tôn, sách phong, truyền lô, tiến xuân ngưu… đều được các triều Trần - Hồ - hậu Lê tổ chức. Những lễ hội này đã được nhà Nguyễn kế thừa, tiếp thu và có những bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với tính chất và hoàn cảnh đường thời.
    [​IMG]
    Ngự đạo hồi cung, về trước Ngọ Môn. Lễ Tế giao năm 1935
    *Tiếp thu từ lễ hội cung đình Trung Hoa
    Triều Nguyễn chọn khuôn mẫu Trung Hoa làm mô hình để cai trị đất nước. Vì thế, nhiều nghi lễ, điển chương của triều đình Trung Hoa cũng được triều Nguyễn tham khảo, tiếp thu và thực hiện vì nhiều mục đích khác nhau. Chẳng hạn: các lễ triều hội nhân các dịp: mừng thọ vua (lễ Vạn thọ), mừng thọ hoàng thái hậu (lễ Từ cung thánh thọ), mừng thọ hoàng hậu (lễ Thiên thu), mừng thọ hoàng thái tử (lễ Thiên xuân), mừng thọ vua (lễ Vạn thọ), mừng vua hay hoàng thái hậu ngự cung điện mới, Tứ tuần đại khánh, Ngũ tuần đại khánh, Bát tuần thánh thọ…; các lễ tế như: tế đền Khải Thánh, tế đền Quan Công, tế Võ miếu (nơi thờ rất nhiều danh tướng, công hầu Trung Hoa); các cuộc du xuân của vua, hoàng gia và đình thần.
    *Cung đình hóa và điển chế hóa những lễ nghi truyền thống của dân tộc
    Nhiều lễ nghi truyền thống của dân tộc Việt Nam đã được triều Nguyễn cung đình hóa bằng các nghi lễ long trọng, điển lệ chặt chẽ và tổ chức bài bản hơn nhằm thể hiện địa vị cao quý của dòng họ Nguyễn hay quyền uy tối thượng của nhà vua. Chẳng hạn, các lễ tế, hưởng tại các miếu thờ tổ tiên, các bậc tiền bối và các vị đế hậu triều Nguyễn như Triệu miếu, Thái miếu, Hưng miếu, Thế miếu, điện Phụng Tiên, điện Hiếu Tư, điện Long An… thực chất là việc cung đình hóa và điển chế hóa tục thờ phụng và cúng bái tổ tiên mà người dân Việt Nam đã thực hiện từ bao đời nay. Thông qua lễ tế, hưởng ở các miếu này, triều Nguyễn đã nâng việc thờ cúng tổ tiên của mình thành biểu tượng quyền uy của chế độ và dòng họ. Chính thuộc tính cung đình của các lễ hội này đã góp phần tạo nên bản sắc cho lễ hội xứ Huế, là yếu tố làm cho lễ hội ở Huế nói riêng và văn hóa Huế nói chung khác biệt với lễ hội và văn hóa của những địa phương khác.
    [​IMG]
    Ngự đạo hồi cung, đang qua cầu Trung Đạo. Lễ Tế giao năm 1935
    *Xuất phát từ nhu cầu của đời sống; từ nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng của nhiều bộ phận dân cư trong xã hội
    Rất nhiều lễ hội cung đình Huế do triều đình tổ chức thực hiện xuất phát từ yêu cầu của đời sống xã hội như: lễ đảo vũ (lễ cầu mưa và cầu tạnh để cho mùa màng được phong đăng hòa cốc), lễ truyền lô (tôn vinh những người đỗ đạt để khuyến khích tinh thần hiếu học trong xã hội); hay xuất phát từ đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam như các lễ tế tại các miếu thờ: lịch đại đế vương, vua Lê Thánh Tông, quốc vương Chiêm Thành, quốc vương Chân Lạp, khai quốc công thần, trung hưng công thần, trung tiết công thần…; hay xuất phát từ tâm lý cảm thông, chia sẻ với những hoàn cảnh éo le, thương tâm của tha nhân như: lễ tế mộ hoang, lễ tế đàn Âm hồn, lễ cúng cô hồn…
    Sự hình thành của các lễ hội cung đình Huế là một quá trình, gắn liền với lịch sử tồn tại và phát triển của vương triều Nguyễn. Phần lớn các lễ hội cung đình triều Nguyễn đều được thiết lập dưới triều Gia Long (1802 - 1820) và triều Minh Mạng (1820 - 1841) trên cơ sở tiếp thu, duy trì các lễ hội đã có từ các triều đại trước và đặt thêm các lễ hội mới vì các nhu cầu lịch sử, xã hội, văn hóa, tín ngưỡng… của triều đại mới. Các triều vua kế vị không chỉ tiếp nối duy trì thực thi mà luôn bổ túc, điều chỉnh và kiện toàn các lễ hội này. Đó là các hoạt động trùng tu, tu bổ đền, miếu, đàn, tự (là nơi thờ tự và hành lễ); di dời, thay đổi vị trí đền, miếu, đàn, tự so với vị trí ban đầu đến những nơi cao ráo, phong quang hơn; điển chế hóa thời điểm, thời gian và quy mô tổ chức lễ hội cũng như các nghi thức tiến hành và lễ vật dâng cúng trong lễ hội… Thậm chí, sự điều chỉnh, bổ túc và kiện toàn này diễn ra nhiều lần ngay trong một triều vua, nhiều nhất là dưới triều Minh Mạng.
    [​IMG]
    Xa giá rước vua rời điện Thái Hòa sau lễ Tế giao. Lễ Tế giao năm 1935
    1.3.3. Các đặc trưng
    Lễ hội cung đình Huế là sự tiếp thu, vận dụng và phát triển đa dạng các lễ hội cung đình của các triều đại trước ở Việt Nam và lễ hội cung đình Trung Hoa trong một bối cảnh mới, triều đại mới, với những mục đích vừa có nét tương đồng, vừa có nét khác biệt so với trước. Vì thế, ngoài những đặc trưng chung của lễ hội cung đình như: quy mô, hoành tráng, có tính điển chế cao, thì lễ hội cung đình Huế còn có các đặc trưng sau đây:
    *Phản ánh một nhu cầu tâm linh vừa có tính chất tín ngưỡng thần quyền, vừa tôn vinh vương quyền của vương triều Nguyễn
    Vua chúa triều Nguyễn cũng là con người nên họ cũng có những nhu cầu tâm linh như những người bình thường khác. Lễ hội cung đình chính là sợi dây kết nối giữa thế giới trần tục với thế giới thần linh, là phương thức để các bậc vua chúa gửi đến thần linh những nguyện vọng, khẩn cầu (của họ và của những thần dân mà họ đại diện) vì một mục đích nào đó; hay gửi đến tổ tiên và những người đã khuất lòng tiếc thương, sự hiếu nghĩa, sự tri ân và chia sẻ. Đây là một nhu cầu có thực, thể hiện tín ngưỡng thần quyền, tin vào quyền năng của các vị thần linh, vào những người “khuất mặt, khuất mày” ở thế giới bên kia. Tuy nhiên, do nhà vua là “thiên tử” (con trời), đứng trên các bậc thần linh, nên nhà vua vừa tin tưởng vào quyền năng của thần linh, lại vừa tự cho mình quyền được sai bảo các vị thần. Các vị thần được nhà vua tổ chức tế lễ hàng năm cũng chính là những vị được vua sắc phong (thượng đẳng thần, trung đẳng thần…), nên vua cũng có quyền sai khiến, thậm chí trừng phạt các vị thần vì những “lỗi lầm” của họ.28 Vì vậy lễ hội cung đình còn thể hiện ý nghĩa tôn vinh vương quyền.
    [​IMG]
    Ban nhạc trong lễ Tế giao. Lễ Tế giao năm 1935
    *Phản ánh sự tôn vinh triều đại và dòng họ của vương triều Nguyễn
    Trong hệ thống tế lễ của triều Nguyễn có rất nhiều lễ hội, chủ yếu là các lễ tự, hưởng, được tổ chức tại các miếu thờ các vị tổ tiên, liệt vương, liệt đế, hậu phi… của triều Nguyễn. Đây là một hình thức tôn vinh uy quyền của vương triều và đề cao dòng họ của nhà vua. Léopold Cadière nhận xét rằng: “Các vua Nguyễn được thờ cúng trong Thế miếu dưới danh nghĩa của các cựu nguyên thủ quốc gia, và người thực thi nghĩa vụ này là vị hoàng đế đương nhiệm đóng vai trò thủ lãnh hiện thời của vương quốc”.29 Điều này khẳng định uy quyền của vương triều luôn luôn tồn tại và được kế thừa liên tục và chính thống. Nhiều người tin rằng “việc thờ cúng góp phần củng cố tình đoàn kết trong dòng họ và mang lại sức mạnh tinh thần của triều đại”30 hay “Việc thờ cúng tổ tiên theo nghi lễ của các bậc vua chúa còn mang lại uy thế của dòng họ nhà vua, đề cao uy quyền của vương triều”.31 Vì điều này nên những nghi lễ thờ cúng tổ tiên của vương triều Nguyễn trở nên phức tạp và được điển chế hóa ở mức cao nhất so với các triều đại trước đó.32
    * Diễn ra quanh năm, linh hoạt về thời gian, phong phú về hình thức tổ chức và diễn ra ở nhiều địa điểm khác nhau
    Lễ hội cung đình Huế diễn ra quanh năm, tập trung vào một số tiết lớn như Lập xuân, Nguyên đán, Thượng nguyên, Đoan dương, Trung nguyên, Hạ nguyên, Đông chí, nhưng tập trung nhiều nhất vẫn là mùa xuân và mùa thu (xuân thu nhị kỳ) mà đỉnh điểm là vào tháng 2 và tháng 8 âm lịch. Thời gian tổ chức lễ hội linh hoạt, có lễ hội chỉ diễn ra trong 1 ngày, một số lễ hội kéo dài đến 3 ngày, thậm chí 7 ngày (như các lễ tế đàn). Hình thức lễ hội và nghi thức lễ hội rất phong phú. Tất cả các lễ hội cung đình Huế đều có phần âm nhạc đi kèm. Một số lễ hội quan trọng còn có cả các tiết mục ca và múa”.33 Các lễ hội cung đình này được tổ chức ở nhiều nơi tại kinh đô Huế xưa, một số lễ hội còn có sự phối hợp tổ chức giữa kinh đô với các địa phương khác trong nước.
    *Ảnh hưởng mạnh mẽ đến lễ hội dân gian ở Huế
    Như đã đề cập ở phần trên, nhiều lễ hội cung đình Huế có gốc gác từ dân gian nhưng đã được triều Nguyễn cung đình hóa và điển chế hóa thành lễ hội cung đình, chẳng hạn như các lễ tế, hưởng ở các miếu, điện thờ vua chúa nhà Nguyễn trong Đại Nội (bắt nguồn từ việc kỵ giỗ tổ tiên của dân gian), lễ yết bái ở các lăng tẩm vua chúa triều Nguyễn (bắt nguồn từ lễ tảo mộ của dân gian)… Tuy nhiên, khi những lễ nghi dân gian được cung đình hóa, đến lượt, lại ảnh hưởng trở lại đối với các lễ hội trong dân gian, nhất là trong phần lễ, thể hiện ở trình tự hành lễ, lễ vật dâng cúng và ngôn từ của các bài văn khấn, kể cả trang phục của những người hành lễ và dự lễ. “Ảnh hưởng của nghi lễ cung đình thật rõ nét trong nghi lễ dân gian ở Huế. Sự tổ chức cúng bái, cung cách thể hiện, nghi thức một cách trang trọng, đúng phép cho ta thấy nghi lễ dân gian vùng Huế không chỉ do truyền thống mà còn chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn và tác động của nghi thức xuất phát từ cung đình”.34
    *Nặng phần lễ, nhẹ phần hội
    Khi xem xét lễ hội cung đình Huế theo cấu trúc, gồm phần lễphần hội, chúng tôi thấy rằng phần lễ được coi trọng hơn phần hội. Triều Nguyễn coi trọng việc thực hành lễ nghi hơn là tổ chức hội hè, vui chơi, giải trí trong các lễ hội. Đây cũng là nét khác biệt giữa lễ hội cung đình với lễ hội dân gian. Lễ hội cung đình do vua thiết lập và đình thần tổ chức thực hiện. Cả người khai sinh lễ hội, lẫn người hành lễ đều là những người học thức, chịu ảnh hưởng sâu đậm của tư tưởng Nho giáo. Nho giáo quan niệm “Lễ vốn là trật tự của trời đất ” (Lễ giả, thiên địa chi tự dã - Kinh Lễ). Vua là người thay trời để điều hành cái trật tự ấy cho nên phải lấy lễ làm gốc. Ngoài ra, mục đích của các lễ hội cung đình là để tôn vinh thần quyền và vương quyền, tôn vinh những giá trị tinh thần cao đẹp theo nhãn quan của giai cấp thống trị. Vì thế, họ quan tâm đến tính chất nghiêm trang, sự uy nghi, tính điển chế của lễ nghi hơn là quan tâm đến những sinh hoạt hội hè đi kèm lễ hội. Mặc khác, với địa vị cao quý của mình, giai cấp thống trị không cho phép mình tham dự những sinh hoạt hội hè có tính trần tục như trong các lễ hội dân gian, nên cho dù một số lễ hội cung đình Huế có tổ chức phần hội kèm theo thì phần hội này cũng thiên về hình thức hơn là một hoạt động nhằm thỏa mãn vui chơi giải trí thực sự như trong các lễ hội dân gian.
    * Giàu tính nhân văn
    Đây là một trong những giá trị văn hóa đáng trân trọng của lễ hội cung đình Huế. Triều Nguyễn tổ chức lễ hội không chỉ vì mục đích suy tôn vương quyền, đề cao dòng họ và thỏa mãn nhu cầu tâm linh của các bậc đế vương. Nhiều lễ hội do triều Nguyễn tổ chức như tế Nam giao, tế Xã tắc, lễ cày ruộng tịch điền… là để cầu cho quốc thái dân an, phong điều vũ thuận, mùa màng tốt tươi… Những lễ hội này được tổ chức hàng năm mà người chủ lễ chính là nhà vua. Điều này thể hiện rằng các vua triều Nguyễn coi việc cầu mong mưa thuận gió hòa, đất nước thái bình, người dân an lạc là việc trách nhiệm của họ. Ngoài ra, vua cũng cử các vị đại thần khâm mạng thay mặt vua tiến hành các lễ đảo vũ (mỗi khi có hạn hán hay mưa dầm), lễ tế miếu Phong bá, lễ tế miếu Vũ sư… để cầu khấn và tạ ơn các vị thần mưa, thần gió. Tính nhân văn trong các lễ hội cung đình Huế còn được thể hiện trong việc triều đình lập miếu thờ và tổ chức tế tự các vị đế vương của các triều đại trước (miếu Lịch đại đế vương, miếu Lê Thánh Tông)… thể hiện sự trọng thị và biết ơn đối với các triều đại trước. Sự trọng thị này không chỉ đối với các vị vua chúa Việt Nam mà còn đối với các vị quốc vương Chiêm Thành và Chân Lạp thông qua việc lập đền miếu và duy trì tế lễ các vị này. Triều Nguyễn lập Văn miếu và Võ miếu để tôn vinh văn trị, võ công; lập các miếu thờ công thần và tổ chức tế lễ ở các nơi này để tôn vinh những người có công với đất nước, với triều đại. Không những thế, các lễ tế mộ hoang, lễ tế đàn Âm hồn… mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc thể hiện sự đồng cảm, cảm thông, thương xót đối với đồng loại bất hạnh. Trong khi đó, các lễ triều hội như Nguyên đán, Đoan dương lại thể hiện sự tiếp nối những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc; lễ Truyền lô thể hiện việc tôn vinh người tài và tuyển chọn người tài ra giúp nước… Tất cả những nét tích cực ấy là phần cốt lõi tạo nên những giá trị nhân văn trong lễ hội cung đình thời Nguyễn. Loại trừ những phần hạn chế do thời đại và hệ tư tưởng phong kiến, lễ hội cung đình Huế chứa đựng những giá trị văn hóa tích cực và giàu tính nhân văn.
  8. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    2. BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ LỄ HỘI CUNG ĐÌNH HUẾ PHỤC VỤ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN VĂN HÓA VÀ DU LỊCH Ở THỪA THIÊN HUẾ
    Do hoàn cảnh lịch sử và những biến đổi của xã hội, sau khi triều Nguyễn cáo chung, hầu hết các lễ hội cung đình không còn được tổ chức do chủ thể lễ hội không còn tồn tại. Tuy nhiên, một số hình thức tế lễ như lễ tế, hưởng tại các miếu thờ trong Đại Nội Huế, lễ yết bái lăng tẩm các vua chúa nhà Nguyễn nhân tiết Thanh minh hay vào các dịp giỗ kỵ nhà vua vẫn được con cháu họ Nguyễn, dưới sự điều hành của Hội đồng trị sự Nguyễn Phước tộc, vẫn được duy trì, nhưng trong phạm vi dòng họ, chứ không phải là những quốc lễ như trước.
    [​IMG]
    Ngự đạo xuất cung đi tế Nam Giao (Phục dựng trong Festival Huế 2006)
    Đặc biệt, sau nhiều năm gián đoạn, vào năm 1972, với mục đích nguyện cầu cho hòa bình, bà Từ Cung, mẹ vua Bảo Đại đã đứng ra tổ chức một cuộc lễ tế tương đối quy mô tại đàn Nam giao của triều Nguyễn, với sự chứng kiến của đại diện chính quyền đương thời ở Huế. Đây là lễ Tế giao đầu tiên được tổ chức sau khi triều Nguyễn kết thúc, và người đứng ra tổ chức lễ tế này là một bà (cựu) hoàng thái hậu của triều Nguyễn.
    Sau khi đất nước thống nhất vào năm 1975, chế độ mới tuyên bố “đi theo con đường xã hội chủ nghĩa”, những lễ hội cung đình của triều Nguyễn trước đây bị coi là tàn dư của chế độ phong kiến nên bị loại bỏ. Thậm chí, chế độ mới luôn tìm cách xóa sạch mọi “dấu vết” liên quan đến sự tồn tại của các lễ hội này.35
    Tuy nhiên, từ đầu thập niên 1990, khi Huế bắt đầu được du khách trong và ngoài nước quan tâm, đặc biệt, sau khi quần thể di tích triều Nguyễn ở Huế được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới vào năm 1993, chính quyền tỉnh Thừa Thiên Huế đã có những thay đổi trong cách “đối xử” với các di sản văn hóa do vương triều Nguyễn để lại, kể cả di sản vật thể lẫn di sản phi vật thể.
    [​IMG]
    Vua thì giả... (Lễ Tế giao, phục dựng trong Festival Huế 2010)
    Ngoài việc đầu tư tiền của và trí lực cho công cuộc bảo tồn quần thể di tích kiến trúc triều Nguyễn, chính quyền cũng cho phép người dân tổ chức một số lễ hội truyền thống của địa phương, trong đó có những lễ hội có gốc gác gắn với văn hóa cung đình Huế như lễ hội điện Hòn Chén. Đặc biệt, vào ngày 23.6.1989, được sự đồng ý của chính quyền, Hội đồng trị sự Nguyễn Phước tộc và con cháu dòng họ Nguyễn đã cử hành lễ Cung nghinh an vị và kỵ Triệu tổ Tĩnh hoàng đế Nguyễn Kim ở Triệu miếu. Cuộc lễ có sự tham dự của đại diện chính quyền cấp tỉnh và cấp thành phố, đại diện của Giáo hội Phật giáo Việt Nam của tỉnh, các vị nhân sĩ, trí thức và hơn 2000 con cháu của dòng họ Nguyễn từ khắp nơi về dự.36 Sau sự kiện này, Hội đồng trị sự Nguyễn Phước tộc chủ trương phục hồi dần dần một số lễ tế tại các miếu thờ các vua chúa triều Nguyễn ở trong Đại Nội. Hiện nay, hàng năm Hội đồng trị sự Nguyễn Phước tộc đều tổ chức bốn cuộc lễ chính tại các miếu này: lễ kỵ Triệu tổ Tĩnh hoàng đế Nguyễn Kim (ngày 20.5 âm lịch); lễ kỵ Thái tổ Gia dũ hoàng đế Nguyễn Hoàng và hiệp kỵ các vị chúa Nguyễn (ngày 3.6 âm lịch); lễ kỵ Hưng tổ Hiếu khương hoàng đế Nguyễn Phúc Luân, thân phụ vua Gia Long (ngày 10.9 âm lịch) và lễ kỵ vua Gia Long và hiệp kỵ các vua Nguyễn (ngày 19.12 âm lịch). Có thể nói rằng, lễ tế tự tại các miếu thờ vua chúa nhà Nguyễn, từ hình thức “quốc lễ” do nhà nước phong kiến chủ trì, trong bối cảnh mới đã được phục hồi, tái hiện dưới hình thức nghi lễ của dòng tộc. Điều thú vị là những cuộc tế lễ này được tổ chức ở ngay những nơi mà nhà nước phong kiến trước đây đã thực hiện quốc lễ, với những nghi thức như lễ hội cung đình nhưng giản lược và kiệm ước hơn.
    Ở một phía khác, trong các kỳ Festival Huế được tổ chức từ năm 2000 đến nay, nhiều lễ hội cung đình đã được chính quyền cho phép và đầu tư tiền của để phục hồi, tái hiện như: lễ tế đàn Nam giao, lễ tế đàn Xã tắc, lễ Truyền lô, lễ Vinh quy bái tổ, cuộc thi Tiến sĩ võ…, nhằm làm phong phú thêm các hoạt động của Festival và giới thiệu những nét độc đáo của văn hóa Huế để thu hút du khách.
    2.1. Việc phục hồi, tái hiện lễ hội cung đình Huế trong thời gian qua
    2.1.1. Mục đích phục hồi, tái hiện
    Kể từ khi Đảng và nhà nước có những thay đổi về chủ trương, chính sách đối với lĩnh vực văn hóa, đặc biệt là từ khi Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) ban hành Quy chế mở hội truyền thống (ngày 4.10.1989), thiết lập cơ sở pháp lý cho việc phục hồi những lễ hội văn hóa truyền thống của dân tộc, chính quyền tỉnh Thừa Thiên Huế cũng đã có những động thái đồng tình, ủng hộ việc phục hồi những lễ hội dân gian và lễ hội cung đình ở Huế. Theo đó, một số lễ hội cung đình thời Nguyễn cũng có cơ may được tổ chức trở lại. Việc phục hồi, tái hiện những lễ hội này được thực hiện ở cả hai phía, người dân và chính quyền, với những mục đích khác nhau:
    [​IMG]
    Quan cũng giả... (Lễ Tế giao, phục dựng trong Festival Huế 2010)
    2.1.1.1.Về phía người dân
    Do nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng nên người dân tự đứng ra tổ chức (với sự chấp thuận của chính quyền và các cơ quan chức năng) một số lễ hội mà trước đây nhà nước phong kiến thường đứng ra tổ chức như: lễ tế miếu Âm hồn (nhân sự kiện Thất thủ kinh đô) vào ngày 23 tháng 5 âm lịch; lễ hội điện Hòn Chén (vốn là một lễ hội dân gian nhưng đã được cung đình hóa từ triều vua Đồng Khánh) vào tháng 3 và tháng 7 âm lịch.
    Ngoài ra, do nhu cầu thờ phụng và bày tỏ lòng hiếu nghĩa với tổ tiên, Hội đồng trị sự Nguyễn Phước tộc và con cháu họ Nguyễn thường xuyên tổ chức các lễ tế, hưởng tại các miếu thờ các vua chúa nhà Nguyễn ở bên trong Đại Nội hay tổ chức các lễ yết bái, tảo mộ tại lăng tẩm các vị vua chúa nhà Nguyễn trong các dịp Thanh minh, giỗ chạp. Những lễ hội này được tổ chức hoàn toàn vi nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng của người dân, diễn ra trong phạm vi nhỏ, với các nghi lễ được giản lược, lễ vật khiêm tốn và thời gian hành lễ được rút ngắn so với trước. Kinh phí tổ chức các lễ hội này đều do người dân hoặc con cháu trong dòng họ Nguyễn đóng góp.
    2.1.1.2.Về phía chính quyền
    Bắt đầu từ Festival Huế 2004, chính quyền tỉnh Thừa Thiên Huế đã đầu tư kinh phí và mời người dàn dựng37 một phần trong lễ tế Nam giao thời Nguyễn, gọi là Ngự đạo hồi cung. Tiếp theo lễ tế Nam Giao, một số lễ hội cung đình khác tiếp tục được chính quyền địa phương đầu tư phục hồi, tái hiện như: lễ tế Xã tắc, lễ Truyền lô, lễ Vinh quy bái tổ, lễ Quang Trung lên ngôi hoàng đế, lễ hội Thao diễn thủy binh thời chúa Nguyễn, lễ hội Hành trình mở cõi, hội Du xuân của nhà vua, hoàng gia và đình thần triều Nguyễn được tái hiện trong chương trình Huyền thoại sông Hương…
    Mục đích của việc phục hồi, tái hiện này là nhằm để: phục vụ các kỳ Festival Huế; phục vụ các dịp kỷ niệm những danh nhân, sự kiện lịch sử; phục vụ phát triển du lịch phục vụ các nhu cầu tín ngưỡng, tâm linh của một bộ phận xã hội.38
    [​IMG]
    Vũ công cũng giả nốt... (Lễ Tế giao, phục dựng trong Festival Huế 2010)
    2.1.2. Những lễ hội cung đình đã được phục hồi, tái hiện trong thời gian qua
    Ngoài Nhã nhạc triều Nguyễn và các điệu múa cung đình đã được đưa vào biểu diễn trong nhiều lễ hội truyền thống và lễ hội hiện đại ở Huế, nhất là trong các dịp Festival Huế, từ năm 2004, một số lễ hội, không chỉ là lễ hội cung đình triều Nguyễn mà lễ hội của các thời đại trước như thời chúa Nguyễn và thời Tây Sơn, cũng đã tỉnh Thừa Thiên Huế cho phép phục hồi, tái hiện.
    2.1.2.1.Những lễ hội được phục hồi
    - Lễ tế Nam giao: Được phục hồi trong các kỳ: Festival Huế 2004 (trích đoạn Ngự đạo hồi cung); Festival Huế 2006 (phục hồi cả ba phần: Ngự đạo xuất cung, lễ tế tại đàn, Ngự đạo hồi cung, nhưng ưu tiên phần hội hơn phần lễ)39; Festival Huế 2008 (cả phần lễ và phần hội đều được chú trọng như nhau) và Festival Huế 2010 (chỉ thực hiện phần lễ rước nhà vua từ Trai Cung lên đàn và phần tế tại đàn Nam Giao).
    - Lễ tế Xã tắc: Được phục hồi trong Festival Huế 2008 và vào đêm 8.4.2010, mở đầu cho mùa Festival Huế 2010.
    - Lễ Truyền lô: Được phục hồi trong Festival Huế 2006.
    - Lễ Vinh quy bái tổ: Được phục hồi trong Festival Huế 2006.
    - Lễ Hoàng hôn: Được phục hồi trong chương trình Đêm Hoàng cung được tổ chức tại Đại Nội trong các kỳ Festival Huế 2006, 2008, 2010 và tổ chức định kỳ hàng tháng trong các năm 2007 và 2009.
    2.1.2.2.Những lễ hội được tái hiện
    - Thi tiến sĩ võ: Được tái hiện trong Festival Huế 2008.
    - Lễ Quang Trung lên ngôi hoàng đế: Được tái hiện trong Festival Huế 2008 và trong dịp khánh thành Khu tượng đài anh hùng dân tộc Quang Trung tại núi Bân (Huế) vào ngày 9.1.2010.
    - Hội Du xuân của nhà vua, hoàng gia và đình thần triều Nguyễn: Được tái hiện trong chương trình Huyền thoại sông Hương trong các kỳ Festival Huế 2008 và 2010.
    - Lễ hội Thao diễn thủy binh thời chúa Nguyễn: Được tái hiện trong chương trình Festival Huế 2010.
    - Lễ hội Hành trình mở cõi: Được tái hiện trong Festival Huế 2010.
    [​IMG]
    ... chỉ chúng dân là thật (Lễ Tế giao, phục dựng trong Festival Huế 2010)
    2.1.3. Nhận xét, đánh giá về việc phục hồi, tái hiện lễ hội cung đình Huế trong thời gian qua
    Lễ hội cung đình là một bộ phận hợp thành văn hóa Huế, tạo nên giá trị đặc trưng và bản sắc cho văn hóa Huế. Vì thế, việc phục hồi và tái hiện lễ hội cung đình Huế để phục vụ nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng của người dân và thu hút khách du lịch đến với Huế trong thời gian qua đã đáp ứng sự mong đợi của đông đảo quần chúng nhân dân Thừa Thiên Huế và du khách đến thăm Huế.
    Những lễ hội được phục hồi và tái hiện một cách công phu và hoành tráng này này đã gây tiếng vang lớn trong dư luận, góp phần vào thành công của các kỳ Festival Huế, biến Festival trở thành một thương hiệu riêng của Huế, góp phần quảng bá cho du lịch và văn hóa Huế.
    Tuy nhiên, vì nhiều lý do, việc phục dựng và tái hiện các lễ hội cung đình Huế đã không được như kỳ vọng, khiến dư luận xôn xao. Trên các phương tiện truyền thông đã xuất hiện nhiều bài viết với những đánh giá tiêu cực về cách thức phục hồi và tái hiện một số lễ hội cung đình trong các kỳ Festival Huế vừa qua.40
    Theo chúng tôi, những bất cập không đáng có trong việc phục hồi, tái hiện các lễ hội cung đình ở Huế trong thời gian qua là do các nguyên nhân sau:
    * Nội dung và hình thức tổ chức của lễ hội đã bị làm sai lệch vì các lý do chính trị hay thương mại, thậm chí vì để đáp ứng yêu cầu của truyền hình.
    - Lễ tế Nam giao phục hồi trong dịp Festival Huế 2006, tuân theo chỉ đạo của Ban Tuyên giáo trung ương, ban tổ chức ưu tiên phần hội hơn phần lễ. Nhưng đến lễ tế Nam giao trong Festival Huế 2008 thì lại phục hồi đầy đủ cả phần lễ và phần hội. Và đến lễ tế Nam giao trong Festival Huế 2010 thì chỉ tập trung vào phần lễ bỏ qua phần hội.
    - Sẵn sàng cắt bỏ những nội dung quan trọng của lễ hội vì một lý do nào đó. Chẳng hạn lễ tế Nam giao trong Festival Huế 2010 chỉ thực hiện phần “sơ hiến tế” và “á hiến tế”, lượt bỏ phần “chung hiến tế”.
    - Sẵn sàng thay đổi không gian và hình thức tổ chức lễ hội vì lý do thương mại hay thay đổi thời gian tổ chức lễ hội chỉ vì lý do truyền hình trực tiếp như trong lễ tế Xã tắc vào tháng 4.2010 (chuyển buổi lễ từ ban ngày vào ban đêm).
    * Đặt quá nhiều mục tiêu cho việc phục hồi một lễ hội nên không đáp ứng được mục tiêu nào.
    - Trong khi ban tổ chức Festival Huế khẳng định việc phục hồi lễ tế Nam giao là nhằm làm phong phú hoạt động của Festival và để tạo ra một sản phẩm du lịch đặc thù của Huế nhằm thu hút du khách thì một bài báo lại đăng ý kiến của ông Phùng Phu, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, Phó ban tổ chức Festival Huế 2010 rằng: “Đây là lễ tế Giao thật sự chứ không đơn thuần là một lễ hội trong Festival Huế. Vì thế, khi tiến hành lễ, toàn bộ lực lượng tham gia phải mặc lễ phục (áo dài, khăn đóng), kể cả hơn 500 phóng viên tại Festival Huế lần này. Xung quanh khu vực đàn tế, diễn viên đóng vai quân lính, ngự lâm quân đứng rất nghiêm trang; phụ nữ không được lên đàn tế. Khi nào lễ kết thúc, dân chúng mới được vào thắp hương”.
    - Trong khi ông Phan Thanh Hải, Phó giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, tác giả kịch bản và đạo diễn các lễ tế Xã tắc và Nam giao nhấn mạnh việc phục dựng các lễ tế này chủ yếu là tạo ra một sản phẩm phục vụ du lịch và khẳng định mục tiêu du lịch được đặt lên hàng đầu và buộc các mục tiêu khác phải phục tùng nó, thì ban tổ chức cuộc lễ này lại huy động 100 vị bô lão lại từ các làng trên toàn tỉnh được mời về, đại diện cho trăm họ, nên mới sinh ra cảnh “vua thì giả mà dân chúng thì thật” như báo chí đã nêu.
    * Chủ thể của lễ hội không nhất quán, thậm chí ngay trong cùng một cuộc lễ
    Trong lễ tế Nam giao năm 2008, ngoài ông vua giả mặc hoàng bào đứng ra chủ tế, còn có những ông “vua giả” là các quan chức đầu tỉnh, cũng mặc áo vàng “xon xen” leo lên đàn tế để khấn vái. Trong khi đó, nhiều phóng viên báo chí muốn lên đàn tế để tác nghiệp thì ban tổ chức không cho lên với lý do chỉ có vua mới được lên đàn tế.41
    * Nhiều nghi thức truyền thống bị loại bỏ hoặc được thay thế bằng những biến tướng
    Do sự thay đổi thể chế chính trị, nên nhiều nghi thức truyền thống trong các lễ hội cung đình không còn phù hợp với bối cảnh xã hội hiện nay. Vì thế, những người phục hồi lễ hội đã thay thế bằng những biến tướng mới, nhưng do không am hiểu lịch sử và văn hóa nên một số nghi thức mới trở nên phản cảm, gây hiệu quả không tốt.
    * Nhiều loại trang phục, đạo cụ truyền thống sử dụng trong lễ hội bị thay thế bởi trang phục, phương tiện, thiết bị hiện đại, không đúng với nguyên gốc.
    * Thái độ của người tham gia lễ hội không còn thành kính, nhiệt tâm như trước. Họ không còn đóng vai trò là chủ thể trong lễ hội, là đối tượng sáng tạo nên di sản văn hóa mà trở thành khách thể, là những người thưởng thức, sử dụng di sản văn hóa.
    Những vấn nạn trên đã khiến cho hình ảnh của một số lễ hội cung đình Huế được phục hồi và tái hiện trong thời gian qua trở nên “méo mó” trong tâm thức của người dân và “lệch lạc” trong mắt của du khách; một số lễ hội đã bị mất đi hình thái nguyên thủy, dẫn đến việc đánh mất tính xác thực, mà lẽ ra, phải được bảo toàn.
    2.2. Một số đề xuất cho lễ hội cung đình Huế trong bối cảnh hiện nay
    2.2.1. Lễ hội cung đình Huế với người dân và với du khách
    Để khắc phục những hạn chế trong việc phục hồi, tái hiện lễ hội cung đình Huế như trong thời gian vừa qua, đồng thời, góp phần bảo vệ và phát huy giá trị của lễ hội cung đình Huế, phục vụ đời sống văn hóa tinh thần của người dân và phát triển du lịch ở Huế, theo chúng tôi, trước tiên phải đánh giá đúng vai trò của lễ hội cung đình Huế trong đời sống của người dân và đối với du khách.
    2.2.1.1. Đối với người dân
    Người dân Huế là chủ thể của di sản văn hóa Huế. Họ là người đã góp phần sáng tạo, thực hiện, gìn giữ và trao truyền nhiều giá trị văn hóa, trong đó có lễ hội cung đình Huế. Mặc dù hiện nay chế độ phong kiến không còn nữa, lễ hội cung đình không còn được tổ chức như trước nhưng những lễ hội này vẫn còn lưu lại trong sử sách và trong tâm thức nhiều bộ phận dân chúng ở Huế. Việc tổ chức, tái hiện các lễ hội này cũng phần nào thỏa mãn nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng của một bộ phận dân chúng ở Huế.
    Lễ hội cung đình Huế là nét riêng độc đáo, thể hiện bản sắc văn hóa Huế. Đó là một dạng di sản văn hóa phi vật thể độc đáo của xứ Huế và mọi người đều có trách nhiệm gìn giữ và phát huy giá trị của lễ hội này.
    Lễ hội cung đình Huế là những nghi thức thiêng liêng cần được tôn trọng, giữ gìn tính nguyên gốc. Việc phục hồi các lễ hội này trên cơ sở kế thừa truyền thống và phù hợp với bối cảnh mới cần phải đảm bảo những giá trị xác thực và tính nguyên gốc của nó. Theo nhiều nhà nghiên cứu, ảnh hưởng của lễ hội cung đình Huế đối với sinh hoạt lễ hội ở nhiều vùng trên cả nước là rất rõ nét, chẳng hạn đối với một số lễ hội cổ truyền ở miền Bắc. Ngô Đức Thịnh nhận xét: “Tế là nghi thức tưởng niệm, tôn vinh thần linh với ngôn ngữ, ăn mặc và điệu bộ mô phỏng phong cách cung đình Huế thế kỷ XVIII - XIX. Đã có lúc người ta bàn tới việc có nên duy trì nghi thức tế mang đậm tính cung đình phong kiến này nữa không. Nếu xóa bỏ nó thì thay bằng gì để nó có thể biểu hiện được sự tôn vinh của cộng đồng đối với thần linh và ước vọng được thần linh che chở, phù hộ độ trì”.42Đây là một nhận xét đáng lưu ý trong vấn đề đánh giá vai trò của lễ hội cung đình Huế đối với đời sống đương đại.
    2.2.1.2. Đối với du khách
    Du khách đến thăm Huế, ngoài việc đi thăm viếng các di tích lịch sử - văn hóa, họ còn có nhu cầu tham quan, chiêm bái, tìm hiểu các lễ hội ở Huế, trong đó có lễ hội cung đình, bởi họ muốn khám phá những cái hay, cái độc đáo của văn hóa Huế. Cần lưu ý rằng, chỉ có Huế mới có thể tổ chức, phục hồi các lễ hội cung đình vì đây là di sản văn hóa chỉ có ở Huế. Và cũng lưu ý thêm rằng thuộc tính cung đình đã trở thành một thương hiệu độc quyền của văn hóa và du lịch Huế: cơm cung đình Huế, trà cung đình Huế, chè cung đình Huế, ca nhạc cung đình Huế, thuyền cung đình Huế, vườn cung đình Huế, đời sống cung đình Huế...
    Từ nhu cầu của du khách, cần thiết phải coi lễ hội cung đình Huế là một sản phẩm du lịch độc đáo, vừa để đáp ứng nhu cầu của du khách, vừa phục vụ phát triển du lịch ở Huế.
    2.2. Một số đề xuất cho lễ hội cung đình Huế trong bối cảnh hiện nay
    Chúng tôi ủng hộ quan điểm phục hồi các lễ hội cung đình Huế trong bối cảnh đương đại để phục vụ cho các nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng của người dân và phục vụ phát triển du lịch. Tuy nhiên, mỗi khi tiến hành phục hồi, tái hiện lễ hội, cần phân biệt rõ việc làm đó phục vụ cho cộng đồng hay cho việc phát triển du lịch.
    - Nếu phục hồi lễ hội vì nhu cầu tâm linh hay vì ý nghĩa nhân văn sâu sắc của lễ hội thì cần phải tuân thủ về nghi thức, thời gian, địa điểm hành lễ, phải tôn trọng tính xác thực của lễ hội để tránh cung cấp cho người dân những cách nhìn lệch lạc về lễ hội. Đó phải là một lễ hội thật sự và người dân đóng vai trò chủ thể, chính quyền chỉ đóng vai trò ủng hộ, hỗ trợ, tất nhiên, không cần phải đóng giả vua quan. Người chủ lễ có thể là các quan chức cấp cao ở địa phương, hay một vị nhân sĩ cao niên, đức độ, vận trang phục truyền thống (áo dài, khăn đóng) đứng ra tế lễ.
    - Nếu phục vụ cho việc phát triển du lịch thì chấp nhận hình thức sân khấu hóa và thương mại hóa. Lễ hội đó phải được quảng diễn, có bán vé thu tiền để công chúng và du khách được vào xem. Lúc đó, có thể mời diễn viên sắm vai vua quan, quần thần, binh tướng… ăn vận và hành lễ giống như trong lễ hội ngày xưa, nhưng phải ‘để’ cho công chúng biết rằng đây là lễ hội phục hồi theo truyền thống, chứ không phải là một lễ hội cung đình Huế chính thống.
    - Tôn trọng tính nguyên gốc của lễ hội, từ địa điểm, không gian, thời gian tổ chức đến hình thức diễn xướng, trang phục, đạo cụ, nội dung văn tế mỗi khi phục hồi, tái hiện lễ hội để phục vụ đời sống văn hóa, tín ngưỡng của người dân hay để phục vụ phát triển du lịch.
    - Xác định rõ chủ thể của lễ hội để có những giải pháp giữ nguyên trạng hay thay thế trong từng lễ hội cụ thể mỗi khi tiến hành phục dựng và tái hiện lễ hội.
    - Xác định giá trị gốc, tiêu chí nhận dạng và các biểu hiện đặc trưng của các lễ hội để tránh tình trạng làm sai lệch và biến dạng lễ hội mỗi khi khai thác và sử dụng.
    - Tiến hành nhận dạng, phân loại và kiểm kê di sản lễ hội ở Huế, cả lễ hội dân gian và lễ hội cung đình để có kế hoạch bảo tồn, khai thác và phát huy giá trị cho phù hợp.
    - Tư liệu hóa di sản lễ hội cung đình Huế bằng các hình thức chụp ảnh, quay phim, ghi âm, ghi chép... nhằm giúp cho việc bảo tồn lễ hội, đồng thời phục vụ cho việc nghiên cứu, tìm hiểu và phát huy giá trị của lễ hội.
    - Duy trì sự tồn tại của lễ hội trong lòng cộng đồng, trong môi trường nguyên thủy mà di sản đã nảy sinh và tồn tại; luôn tạo điều kiện cho cộng đồng bảo vệ, tổ chức khai thác và phát huy các mặt tích cực của lễ hội.
    - Khi đủ điều kiện thì cần đăng ký các lễ hội cung đình Huế như là những di sản VHPVT tiêu biểu của Huế với các tổ chức quốc gia và quốc tế để nhận được sự công nhận và bảo vệ tốt nhất đối với các lễ hội cung đình Huế.
    Với bài viết này, chúng tôi hy vọng cung cấp một góc nhìn tổng quát về di sản lễ hội cung đình Huế trong lịch sử; đưa ra những nhận xét, đánh giá về việc phục hồi tái hiện một số lễ hội cung đình Huế trong thời gian vừa qua, đồng thời đề xuất những ý kiến hữu ích trong việc bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội cung đình Huế phục vụ cho chiến lược phát triển văn hóa và ở tỉnh Thừa Thiên Huế trong thời gian tới.
    T.Đ.A.S.
    Chú thích
    1 Phan Thuận An, “Lễ hội cung đình triều Nguyễn nhìn từ góc độ văn hoá và du lịch ngày nay”, Sông Hương, Số 167, Tháng 1, 2003, tr. 46.
    2 Bùi Thiết, Từ điển hội lễ Việt Nam, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1993, tr. 5
    3 Bùi Thiết, Sách đã dẫn, tr. 5.
    4 Bùi Thiết, Sách đã dẫn, tr.5-6.
    5 Phan Thuận An, “Bài đã dẫn”, tr. 47.
    6 Chẳng hạn:
    - Trần Hồng Liên Võ Văn Hoàng trong bài “Lễ hội Quán Thế Âm ở Đà Nẵng trong không gian lễ hội Phật giáo Việt Nam”, Thông tin khoa học Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng, Tháng 10.2009;
    - Không Lực Chu Thiên trong bài “Hàng vạn người tham dự lễ hội Quán Thế Âm tại Huế”, http://hoalinhthoai.com.
    7 Ngô Đức Thịnh, “Mấy nhận thức về lễ hội cổ truyền”, Văn hóa Nghệ thuật, Số 11.1999. Dẫn theo: Lê Văn Thuyên, “Lễ hội ở Huế dưới thời Nguyễn”, Tuyển tập những bài nghiên cứu về triều Nguyễn, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển (Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường Thừa Thiên Huế) và Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế phối hợp xuất bản, Huế, 2002. tr. 425.
    8 Lê Văn Thuyên, “Lễ hội ở Huế dưới thời Nguyễn”, Sách đã dẫn. tr. 426.
    9 Chu Quang Trứ, “Lễ hội và tâm linh người Việt”, Văn hóa Nghệ thuật, Số 1.1997. Dẫn theo: Lê Văn Thuyên, “Lễ hội ở Huế dưới thời Nguyễn”, Sách đã dẫn, tr. 425.
    10 Từ một góc nhìn khác, Phan Thuận An cho rằng người Tây phương đã dùng một số thuật ngữ như: cérémonie (ceremony), fête, festival… để chỉ lễ hội, nhưng nội hàm của các thuật ngữ này có đôi chút khác biệt. Cụ thể:
    - Ceremony: có ý nghĩa thiên về lễ nghi, lễ thức, lễ bái, cúng bái.
    - Fête: lễ lạt, đình đám nói chung.
    - Festival: thiên về hội hè, liên hoan có rất nhiều người thuộc nhiều thành phần tham dự, chẳng hạn như “jazz festival” (liên hoan nhạc jazz). Dẫn theo: Phan Thuận An, “Bài đã dẫn”, tr. 47.
    11 Xem thêm:
    - Trần Đình Hằng, “Sức hấp dẫn của du lịch Huế nhìn từ lễ hội truyền thống”, Tham luận tại hội thảo khoa học Sản phẩm văn hóa và phát triển du lịch bền vững, Huế, Tháng 6.2006.
    - Ngô Đức Thịnh, “Mấy nhận thức về lễ hội cổ truyền”, Văn hóa Nghệ thuật, Số 11.1999.
    - Trần Đức Anh Sơn, Bảo toàn tính xác thực của di sản văn hóa phi vật thể trong hoạt động du lịch và tổ chức lễ hội”, Huế Xưa và Nay, Số 96 (Tháng 11- 12), 2009.
    - Dương Văn Sáu, “Lễ hội du lịch và sự phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam”, Tham luận tại hội thảo khoa học Sản phẩm văn hóa và phát triển du lịch bền vững, Huế, Tháng 6.2006.
    - Lê Hồng Lý, “Những hoạt động lễ hội tín ngưỡng của người Việt trong sự đổi mới kinh tế hiện nay”, Giá trị và tính đa dạng của Folklore châu Á trong quá trình hội nhập, Nxb. Thế giới, 2006.
    12 Dẫn theo: Lê Hồng Lý, “Những hoạt động lễ hội tín ngưỡng của người Việt trong sự đổi mới kinh tế hiện nay”, Sách đã dẫn, tr. 196.
    13 Cuốn sách Từ điển hội lễ Việt Nam của Bùi Thiết (Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1993) thống kê cả nước có 403 lễ hội; cuốn Lịch lễ hội của Lê Trung Vũ và Nguyễn Hồng Dương (Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1997) thống kê cả nước có 385 lễ hội. Nhưng cả 2 cuốn sách này không có dòng nào đề cập đến những lễ hội cung đình đã từng tồn tại trong lịch sử Việt Nam. Công trình nghiên cứu nghiêm túc và bài bản về lễ hội cung đình Việt Nam có lẽ là cuốn Những đại lễ và vũ khúc của vua chúa Việt Nam của Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề (Nxb Văn học, Hà Nội, 1992). Cuốn sách này đã khảo cứu và giới thiệu 36 đại lễ từng được tổ chức dưới các triều Lý - Trần - Lê - Tây Sơn - Nguyễn và 11 vũ khúc cung đình, chủ yếu là vũ khúc cung đình thời Nguyễn.
    14 Quan điểm đồng nhất cung đình Huế với cung đình triều Nguyễn, do Huế là kinh đô của nhà Nguyễn là rất phổ biến hiện nay. Thực ra, Huế không chỉ là kinh đô của triều Nguyễn mà còn là kinh đô của triều Tây Sơn, trải hai đời vua Quang Trung và Cảnh Thịnh trong 14 năm (1888 - 1801). Và trước đó, Huế là thủ phủ của xứ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn trong khoảng thời gian từ năm 1636 - 1774. Nếu coi Đàng Trong là một vương quốc phong kiến như cách nhìn nhận của các sử gia phương Tây thì Huế cũng chính là kinh đô của vương quốc này. Không chỉ đồng nhất cung đình Huế với cung đình triều Nguyễn, nhiều người còn coi văn hóa Huế chính là văn hóa triều Nguyễn. Xem: Hoàng Văn Minh, “Văn hoá Huế, đâu chỉ mỗi triều Nguyễn”, Lao động, Số ra ngày thứ Tư (1.12.2010). Quan niệm này, theo chúng tôi, là rất phiến diện.
    15 Chữ tiết () có 13 nét nghĩa. Chữ tiết ở đây là chữ dùng trong sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ do Nội các triều Nguyễn biên soạn, hàm chứa các nét nghĩa sau: “Thời tiết, một năm chia ra làm 24 tiết, như: xuân phân, lập xuân”, “ngày thọ của vua”“ngày Tết”.
    16 Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Bản dịch của Viện Sử học, Tập 6, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1993, tr. 13-66.
    17 Sau khi xây xong một cung điện mới, như: điện Thái Hòa (năm 1804), cung Khánh Ninh (năm 1825), cung Bảo Định (1845), cung Trường Thọ dành cho hoàng thái hậu (1804)… triều đình tổ chức lễ mừng nhà vua (hay hoàng thái hậu) ngự cung điện mới tức là lễ khánh thành cung điện và đón nhà vua (hay hoàng thái hậu) đến nhận cung điện mới để ở hay để làm việc.
    18 Nội các triều Nguyễn, Sách đã dẫn, tr. 67-83. Lễ sách phong thời Nguyễn bao gồm các lễ: sách lập hoàng hậu, sách lập hoàng thái tử, sách phong cung giai, sách phong hoàng tử, hoàng thân, sách phong công chúa.
    19 Nội các triều Nguyễn, Sách đã dẫn, tr. 338.
    20 Nội các triều Nguyễn, Sách đã dẫn, tr. 339.
    21 Dưới triều Gia Long, lễ tế tại các miếu: Phong bá, Vũ sư, Nam hải long vương và đền Khải Thánh được xếp vào bậc trung tự (Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ,tr. 15) nhưng sang triều Tự Đức, lễ tế tại 4 đền miếu này được xếp vào bậc quần tự.
    22 Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Bản dịch của Viện Sử học, 15 tập, Nxb Thuận Hóa, 1993.
    23 Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, Phạm Trọng Điềm dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, 5 tập, Nxb Thuận Hóa, 1992.
    24 Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề, Những đại lễ và vũ khúc của vua chúa Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội, 1992.
    25 Triều Trần không tổ chức lễ tế Giao. Dẫn theo: Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề, Sách đã dẫn, tr. 15.
    26 Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề, Sách đã dẫn, tr. 87.
    27 Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề, Sách đã dẫn, tr. 105.
    28 Vua Minh Mạng đã từng “trừng phạt” nữ thần Kỳ thạch phu nhân, được thờ ở xã Thanh Phước, huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiên vì đã không đáp ứng yêu cầu cầu mưa trong lễ đảo vũ do triều đình tổ chức.
    29 Dẫn theo: Đỗ Trinh Huệ, Văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam dưới nhãn quan học giả Cadière, Nxb Thuận Hóa, 2006, tr. 221.
    30 SarDesai, D.R, Southeast Asia, Past & Present, O.S. Printing House, Bangkok 1997, p. 42. Dẫn theo: Huỳnh Thị Anh Vân, “Vấn đề bản sắc qua nghi lễ tế miếu: một cách tiếp cận nhân học”, Di sản văn hóa Huế, Nghiên cứu và Bảo tồn, Trung tâm BTDT Cố đô Huế xuất bản, Huế, 2007, tr. 234.
    31 Lương Kim Thoa, “Các vua triều Nguyễn đối với tín ngưỡng truyền thống ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX”, trong Nghiên cứu và giảng dạy lịch sử thời Nguyễn ở Đại học, Cao đẳng sư phạm và phổ thông (Kỷ yếu hội thảo Khoa học quốc gia), Bộ Giáo dục và Đào tạo - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2002, tr. 116.
    32 Huỳnh Thị Anh Vân, “Vấn đề bản sắc qua nghi lễ tế miếu: một cách tiếp cận nhân học”, Sách đã dẫn, tr. 234.
    33 Phan Thuận An, “Bài đã dẫn”, tr. 47.
    34 Tôn Thất Bình, “Một số đặc điểm của lễ hội dân gian hiện nay ở Thừa Thiên Huế”, Văn hóa Nghệ thuật, Số 3 (117), 1994.
    35 Sau ngày đất nước thống nhất (1975), Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định một trong những nhiệm vụ tổng quát của cách mạng Việt Nam thời kỳ này là “chặn đứng và loại trừ các biểu hiện tiêu cực” (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb Sự thật, 1986, tr. 51). Vì thế, các hình thức cúng bái, lễ nghi, từ cung đình đến dân gian, đều bị coi là hoạt động mê tín dị đoan tiêu cực, nên bị cấm đoán, tẩy chay, đền miếu bị đập phá hoặc bỏ hoang.
    36 Huỳnh Thị Anh Vân, “Vấn đề bản sắc qua nghi lễ tế miếu: một cách tiếp cận nhân học”, Sách đã dẫn, tr. 240.
    37 Tên gọi chính thức do Ban tổ chức Festival Huế công bố và được báo chí sử dụng rộng rãi là phục hồi lễ tế Nam Giao. Thậm chí, ông Phùng Phu, Phó ban tổ chức Festival Huế 2010 còn tuyên bố: Đây là lễ tế Giao thật sự chứ không đơn thuần là một lễ hội trong Festival Huế (http://vietnamnet.vn/vanhoa/201006/F...u-that-915282). Tuy nhiên, theo chúng tôi, đây chỉ là sự dàn dựng một phần lễ tế Nam Giao của các đạo diễn sân khấu, chứ không phải phục hồi nguyên trạng lễ tế Nam giao của triều Nguyễn.
    38 Mục đích thứ 4 này là một mục đích có thật, nhất là trong các dịp phục hồi lễ tế Nam Giao và tế Xã tắc, nhiều quan chức cấp cao của tỉnh Thừa Thiên Huế đều “đăng đàn” cầu khấn rất thành tâm. Song vì vấn đề ý thức hệ, người ta thường không thừa nhận mục đích này vì sợ mang tiếng mê tín dị đoan, một điều cấm kỵ đối với ý thức hệ cộng sản.
    39 “Ưu tiên phần hội hơn phần lễ” là ý kiến chỉ đạo của Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam trong một văn bản ban hành vào cuối tháng 5/2006 do Phó ban Đào Duy Quát ký.
    40 Sau khi xem lễ tế Nam giao phục hồi trong Festival Huế 2006, tại Hội thảo khoa học Sản phẩm văn hóa và phát triển du lịch bền vững (do Phân viện Văn hóa Nghệ thuật thành phố Huế tổ chức vào ngày 24.6. 2006), nhà nghiên cứu Hồ Tấn Phan đã phát biểu, đại ý: Nếu những gì diễn ra trong lễ tế (phục hồi) này là đúng sự thật, thì lịch sử thế giới cần phải viết lại, vì sớ tế trời của ông vua thời Nguyễn mà lại xướng danh Cộng hòa XHCN Việt Nam. Như vậy chế độ XHCN đã có ở Việt Nam trước khi Cách mạng Tháng Mười diễn ra ở Nga vào năm 1917”.
    Báo Tuổi trẻ (Số ra ngày Thứ Ba, 4.5.2010) đăng bài “Vua giả mà dân chúng thì thật!” của Minh Tự, phản ánh những bất cập của lễ hội tế Xã tắc (được phục dựng vào tháng 4.2010). Bài báo viết: Đi đầu đoàn ngự đạo là chiếc xe chở một dàn đèn pha sáng choang cùng với camera truyền hình trực tiếp. Vua do diễn viên đoàn hát sắm vai, nhưng 100 vị bô lão lại là bô lão thật (từ các làng trên toàn tỉnh được mời về, đại diện cho trăm họ. Vua cử hành nghi lễ rất trang nghiêm nhưng là cái “trang nghiêm” của diễn xuất, còn các vị bô lão thì quỳ lạy vua và thần linh với một niềm thành kính rất chân thật”. Bài báo cũng dẫn lời một số nhà nghiên cứu ở Huế cho rằng: “Thật không ra thật, mà giả cũng chẳng ra giả!” (Ý kiến của ông Hồ Tấn Phan), “Lập lờ giữa các mục đích nên cái nào cũng chẳng ra cái nào” (Ý kiến của ông Trần Đức Anh Sơn).
    Báo điện tử VietNamNet (ngày 8.6.2010) đăng bài “Festival Huế: Lịch sử được phục hiện như đồ…giả!” của Hà Văn Thịnh, phản ánh nhiều bất cập của lễ hội Thao diễn thủy binh thời chúa Nguyễn (được tái hiện trong Festival Huế 2010). Bài báo kết luận: “Hàng vạn du khách muốn nhìn thấy Huế của ngày xưa nó ra làm sao chứ không phải là cái ngày xưa ấy được ngày nay chế biến theo khuôn mẫu game online! Nếu lịch sử chỉ là “đồ giả” thì chỉ nên gọi đó là vở kịch hóa trang chứ không thể liều lĩnh gọi là “tái hiện” lịch sử. Đó là nguyên tắc. Vi phạm sự trung thực của lịch sử tức là chúng ta đã làm giả lịch sử đến hai lần”.
    Báo Sài Gòn tiếp thị số ra ngày 13.6.2010, đăng bài “Kết thúc lễ hội, những băn khoăn” còn lại của Hồ Hương Giang phản biện ý kiến của ông Phùng Phu (Phó ban Tổ chức Festival Huế) phát biểu với báo chí trong cuộc họp báo trước lễ bế mạc Festival Huế 2010 về “tính chân xác của các lễ hội cung đình” được phục hồi trong các kỳ Festival Huế. Bài báo cho rằng: “Tính chân xác ấy, lần nào diễn ra cũng như trêu đùa bỡn cợt. Ở lễ tế Nam Giao, Ban tổ chức đã huy động tới 160 bô lão đến từ các làng văn hóa tiêu biểu trong tỉnh để tham gia lễ hội. Thế nhưng, linh hồn của lễ hội, nhân vật chính của lễ tế... lại là ông vua giả (do diễn viên đóng). Vậy là tính chân xác chỉ có trên lớp áo của người diễn viên. Đáng nói là khi tái hiện lại lễ rước nhà vua lên đàn tế và hồi cung, các bô lão “thật” đều phải quỳ mọp đầu trên sân để đón ông vua “giả” đi qua”.
    Ngoài ra, còn rất nhiều ý kiến phản hồi về vấn đề này, nhưng do khuôn khổ của bài viết, chúng tôi không thể liệt kê hết ở đây.
    41 Phản ánh của phóng viên Bùi Ngọc Long đăng trên báo Thanh niên sau khi tham gia đưa tin về lễ tế Nam Giao trong Festival Huế 2008.
    42 Ngô Đức Thịnh, “Mấy nhận thức về lễ hội cổ truyền”, Văn hóa Nghệ thuật, Số 11.1999. Dẫn theo: Lê Văn Thuyên, “Lễ hội ở Huế dưới thời Nguyễn”, Tuyển tập những bài nghiên cứu về triều Nguyễn, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển (Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường Thừa Thiên Huế) và Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế phối hợp xuất bản, Huế, 2002. tr. 431.


    http://www.covathue.com/cac bai viet/Lehhoicungdinh.html


  9. MrKhuKhoam

    MrKhuKhoam Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    12/04/2011
    Bài viết:
    4.334
    Đã được thích:
    1.180
    1919
    [​IMG]

    Đồng Đăng
    [​IMG]
    [​IMG]

    Hà Nội
    [​IMG]
    [​IMG]
  10. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [​IMG]

    Nghĩa Tự Phước Kiến Dec 29, 2011 9:15 PMPublicPageviews 7 0



    .
    [​IMG]


    [​IMG]









    1/2,378




    Ở Sài Gòn, có lẽ ít ai biết rằng bệnh viện Nguyễn Trải (quận 5) hiện nay nguyên là được xây dựng từ một ngôi chùa người Hoa, thuộc bang Phước Kiến, cùng khu nghĩa địa bao quanh chùa từ hơn 300 năm trước. Vào ngày mùng 2 tháng bảy âm lịch vừa qua, đáo lệ cúng Tổ của Nghĩa Tự Phước Kiến, ban trị sự nhà chùa đã tổ chức lễ “Thu tế” các vị sáng lập cơ ngơi phước thiện này. Buổi lể rất trầm mặc và đơn sơ, và dù không phải là một đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp, các lão bá trong bang Phước Kiến đã hát tế và trình diễn nhac khí cổ truyền Trung quốc rất nghiêm cẩn và điệu nghệ

    http://available.com.vn/thongtin-2037-benh-vien-Nguyen-Trai--quan-5--Nguyen-Trai
    .
    Quan Âm Các - Guanyin pavillon


    Email của người nhận: Tin nhắn: Chào mocnhan thấy những điều thú vị từ bức ảnh Quan Âm Các - Guanyin pavillon : http://www.panoramio.com/photo/55513508 Trân trọng, Ảnh toàn thế giới có tại http://www.panoramio.com/ | Đóng Ảnh tiếp theo của thành viên Ảnh trước của thành viên
    [​IMG]
    bởi huynhnt
    Thích Bạn đã thích hình này (Hết thích)

    Ảnh này đã được họn cho Google Earth [?] - ID: 55513508

    Phúc Kiến Nghĩa Tự


    Email của người nhận: Tin nhắn: Chào mocnhan thấy những điều thú vị từ bức ảnh Phúc Kiến Nghĩa Tự : http://www.panoramio.com/photo/55513347 Trân trọng, Ảnh toàn thế giới có tại http://www.panoramio.com/ | Đóng Ảnh tiếp theo của thành viên Ảnh trước của thành viên
    [​IMG]
    bởi huynhnt

    Hồ bán nguyệt trước Phúc Kiến Nghĩa Tự

    Email của người nhận: Tin nhắn: Chào mocnhan thấy những điều thú vị từ bức ảnh Hồ bán nguyệt trước Phúc Kiến Nghĩa Tự: http://www.panoramio.com/photo/55514878 Trân trọng, Ảnh toàn thế giới có tại http://www.panoramio.com/ | Đóng Ảnh tiếp theo của thành viên Ảnh trước của thành viên
    [​IMG]
    bởi huynhnt
    Thích Bạn đã thích hình này (Hết thích)

    Ảnh này đã được họn cho Google Earth [?] - ID: 55514878

    Interior of Fujian guildhouse


    Email của người nhận: Tin nhắn: Chào mocnhan thấy những điều thú vị từ bức ảnh Interior of Fujian guildhouse: http://www.panoramio.com/photo/55514413 Trân trọng, Ảnh toàn thế giới có tại http://www.panoramio.com/ | Đóng Ảnh tiếp theo của thành viên Ảnh trước của thành viên
    [​IMG]
    bởi huynhnt

Chia sẻ trang này