1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những Hình ảnh xưa về Đất Nước, Con Người, Văn Hoá Việt Nam (Updated ngày 19/6/2014)

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ruavang, 16/11/2002.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Collections Ho



    Media Groups:
    Image Search:
    Search


    [​IMG][​IMG]
  2. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Collections H



    Media Groups:
    Image Search:
    Search


    [​IMG][​IMG]
  3. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Collections Home



    Media Groups:
    Image Search:
    Search


    [​IMG][​IMG][​IMG]
  4. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
  5. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [​IMG]

    Reception in the House of an Annamite Mandarin in Tonkin, French Indo-China 1883
  6. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Nữ chiến sĩ cách mạng Nguyễn Thị Quang Thái


    (NHN) Mùa hè năm 1940, tại đường Cổ Ngư (nay là đường Thanh Niên), nhà giáo sử học kiêm nhà cách mạng cứu nước Võ Nguyên Giáp chia tay với vợ, tức nữ chiến sĩ Nguyễn Thị Quang Thái
    Mùa hè năm 1940, tại đường Cổ Ngư (nay là đường Thanh Niên), nhà giáo sử học kiêm nhà cách mạng cứu nước Võ Nguyên Giáp chia tay với vợ, tức nữ chiến sĩ Nguyễn Thị Quang Thái. Vợ ông bế trên tay đứa con nhỏ (tức Võ Hồng Anh, 1939-2009) lúc đó mới một tuổi.
    [​IMG]
    Quang Thái và con gái​
    Sau giờ phút chia tay, Võ Nguyên Giáp cùng Phạm Văn Đồng bí mật rời Hà Nội bằng xe lửa, vượt biên giới Việt-Trung, sang Trung Quốc gặp Hồ Chí Minh. Ở Việt Nam, ít lâu sau, Quang Thái bị bắt. Mật thám Pháp giam bà trong nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội). Một vài năm sau, người nữ chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi bị bệnh đường ruột nặng, qua đời. Các tư liệu viết về Nguyễn Thị Quang Thái đều cho rằng bà qua đời trong nhà tù Hỏa Lò.
    Bà Bội Lan (TP Huế), em gái của Nguyễn Thị Quang Thái kể lại về cái chết của nữ chiến sĩ cách mạng Nguyễn Thị Quang Thái:
    Khoảng mấy năm đầu thập niên 40 thế kỷ 20, tôi làm việc và hoạt động yêu nước tại Hà Nội. Một hôm, giáo sư Đặng Thai Mai (Viện trưởng Viện Văn học, Hà Nội, sau này) gặp tôi và cho biết: chị Quang Thái, vợ anh Võ Nguyên Giáp, vừa mới qua đời tại “nhà thương Làm Phúc” (tức bệnh viện Rô-banh, nay là bệnh viện Bạch Mai). Hồi đó, bệnh viện Bạch Mai ngày nay thường gọi là “nhà thương Làm Phúc”.
    [​IMG]
    Nguyễn Thị Quang Thái và Võ Nguyên Giáp
    Quang Thái, người vợ trẻ thân yêu của Võ Nguyên Giáp, người mẹ trẻ của Võ Hồng Anh (Hồng Anh lúc đó mới khoảng hai, ba tuổi), người nữ chiến sĩ cứu nước bị giam trong nhà tù Hỏa Lò, đã chết, chết trong “nhà thương Làm Phúc”, chết trong cô đơn, chết trong cuộc chiến đấu không ngang sức với giặc Pháp!
    Tôi cảm thấy quá bất ngờ và đau đớn.
    Giáo sư Mai nói tiếp: Võ Nguyên Giáp, giờ đây, vẫn là một nhân vật bí mật trên đường cứu nước. Cô hãy khẩn trương lo chôn cất Quang Thái.
    Mấy chúng tôi vào nhà xác. Quang Thái nằm đó, được bó trong một chiếc chiếu cũ. Mở chiếu, thấy thi hài chị gầy đét, xám ngắt, đôi mắt nhắm nghiền.
    Chúng tôi cúi đầu mặc niệm người nữ chiến sĩ, người nữ tử sĩ chết vì bệnh đường ruột. Chế độ thuốc men vô cùng hà khắc trong nhà tù thực dân và trong “nhà thương Làm Phúc” đối với một người tù chính trị như Quang Thái đã làm cho chị suy kiệt và phải từ giả cõi đời!
    Mọi việc chuẩn bị cho đám tang đều diễn ra nhanh chóng và cẩn thận. Quan tài gỗ mộc được khiêng lên xe bò. Chúng tôi cùng đẩy xe bò rời “nhà thương Làm Phúc”, tới một nghĩa trang nhỏ gần đấy (tôi không nhớ cụ thể ở chỗ nào).
    Tôi không biết, hoàn toàn không biết rằng lúc ấy, giai đoạn ấy Võ Nguyên Giáp đang ở Trung Quốc hoạt động bí mật dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Hồ Chí Minh. Giáo sư Đặng Thai Mai đã kịp đến vĩnh biệt Quang Thái trong nhà xác “nhà thương Làm Phúc” trước khi báo tin cho tôi.
    Cách mạng Tháng Tám 1945 bùng nổ, chúng tôi bất ngờ được biết: Võ Nguyên Giáp là một trong những nhân vật trọng yếu nhất của Ủy ban Giải phóng Dân tộc Trung ương do Hồ Chí Minh (tức Nguyễn Ái Quốc) làm chủ tịch.
    Sau này, gặp Võ Nguyên Giáp nhiều lần, tôi không muốn kể lại câu chuyện chôn cất Quang Thái như trên. Nó đau xót quá! Nó đau xót quá! Chắc chắn Võ Nguyên Giáp trước đây không biết chuyện chôn cất này và bây giờ, qua lời kể của tôi, mới biết.
    Bây giờ, dù rất yếu, nhưng tôi thấy cần phải kể lại đầy đủ câu chuyện trên cho anh, người nghiên cứu chuyên về Võ Nguyên Giáp.
    Kể để nhớ, để thương, để khâm phục và nhất là để thế hệ trẻ biết rằng: nền độc lập dân tộc hôm nay đã phải trả bằng tính mạng và xương máu của hàng triệu nam nữ chiến sĩ như Nguyễn Thị Quang Thái hôm qua.
    Bà Nguyễn Khoa Bội Lan quá yếu, không thể đứng lên được. Ngồi trên mép giường, bà giơ bàn tay khô gầy, nắm chặt tay tôi. Vừa nắm, người phụ nữ cựu thư ký tòa soạn (tức tổng biên tập) Tạp chí Ánh Sáng vừa nói, giọng run run và rời rạc: cho tôi gửi lời thăm anh Giáp, chị Hà và tất cả con cháu anh chị.


    Nhật Hoa Khanh
  7. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Vùng đất Thị Nghè xưa và nay

    02-10-2012 | 13:19 (Nguoiduatin.vn) - Vùng đất Thị Nghè nổi tiếng nay đang ngày càng "thay da đổi thịt". Những công trình, cảnh quan khang trang, sạch đẹp thuộc các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục được xây dựng nhiều hơn hòa cùng với sự phát triển chung của thành phố.

    Đất Thị Nghè cách trung tâm TP. Hồ Chí Minh chỉ một con rạch. Con rạch này theo cách gọi của người Cao Miên ngày xưa là Prêk Kompon Lư, còn theo cách gọi của người Việt gọi là rạch Nghi Giang, rạch Bình Trị hay một cái tên thân thuộc mà ta vẫn thường hay gọi rạch Thị Nghè.
    Địa danh Thị Nghè hay còn gọi là Bà Nghè, Mụ Nghè vốn là những danh xưng chỉ bà Nguyễn Thị Khánh, Trưởng nữ của quan Khâm sai Chánh thống Vân Trường Hầu Nguyễn Cửu Vân. Theo Trịnh Hoài Đức, bà Nguyễn Thị Khánh có chồng là thư ký mỗ nên người đương thời gọi là Bà Nghè mà không xưng tên. Sở dĩ bà có tên ấy là do lúc đầu bà khai chiếm đất ở rồi bắc cầu ngang qua để tiện việc đi lại nên gọi là cầu Bà Nghè, cũng gọi sông ấy là sông Bà Nghè. Ngày nay, địa danh Thị Nghè thường được hiểu là vùng hữu ngạn rạch Thị Nghè bao gồm các phường 17, 19, 21, 22 thuộc quận Bình Thạnh.
    Thị Nghè là một vùng đất cao được bao quanh bằng sông Sài Gòn và nhiều con rạch chằng chịt, nằm trên đường thiên lý Bắc Nam. Đoạn đường thiên lý từ cầu sơn nối lỵ sở Gia Định với các tỉnh phía Bắc được Điều khiển Nguyễn Hữu Doãn tiến hành năm 1748. Vùng Thị Nghè xưa là nơi có khu ruộng Tịch Điền, đàn Xã Tắc, miếu thờ Thần Nông, đàn Tiên Nông (những cơ sở này nằm trước nhà thương dưỡng lão, nay là Trung tâm dưỡng lão Thị Nghè), miếu Văn Thánh, miếu thờ Đức Khổng Tử, trường tỉnh học Gia Định.
    Trên địa bàn Thị Nghè cũng từng có một số cơ sở công nghiệp như: Hãng Chén (nay là Công ty sứ Thiên Thanh), nhà máy Dây thép Thị Nghè (nay là Công ty vật tư Bưu Điện), hãng Dầu Phú Mỹ, hãng Ô tô buýt (nay là trường Phú Mỹ), hãng Mỡ Guyonnet… Thị Nghè cũng là nơi xuất hiện một trong những nhà in đầu tiên của đất Sài Gòn: Nhà in kiêm nhà sách Joseph Nguyễn Văn Viết ra đời năm 1917…
    Bài Gia Định vịnh có miêu tả về con rạch này như sau: "Coi ngoài rạch Bà Nghè/Dòng trắng hây hây tờ quyến trải/Ngó lên giồng Ông Tố/Cây xanh mù mịt lá chàm rai...".
    Rạch Thị Nghè bắt nguồn từ Bàu Cát chảy qua kênh Nhiêu Lộc rồi hợp nguồn với sông Sài Gòn gần chỗ nhà máy đóng tàu Ba Son. Rạch Thị Nghè được tính từ cầu Nguyễn Văn Trỗi đến sông Sài Gòn dài khoảng 4,5 km, chảy uốn khúc bao quanh thành phố Sài Gòn lúc bấy giờ. Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hòa Đức cũng có miêu tả về con sông này: Sông Bình Trị tục gọi là sông Bà Nghè ở địa phận tổng Bình Trị về phía Bắc trấn, từ sông Tân Bình quanh sau trấn lỵ đến cầu Ngang, ngược dòng lên Tây độ bốn độ rưỡi đến cầu Cao Miên, chảy về Tây Bắc độ hai dặm đến chợ Bà Chiểu, chảy về phía Nam độ bố dặm đến Phú Nhuận, sáu dặm rưỡi đến cầu Huệ là cùng nguyên, nơi đây có những ao vũng tản mạn.
    Cầu Thị Nghè thuộc tổng Bình Trị Trung, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình dài 9 trượng (khoảng 15m) được xây dựng vào thế kỷ 18, đến năm 1836 (tức năm Minh Mạng thứ 17) thì sửa chữa lại. Tương truyền, Bà Nghè thương chồng ngày ngày phải đi đò vào thành Phiên An làm việc vất vả nên đã cùng dân chúng quyên góp dựng cầu cho chồng và nhân dân đi lại. Thế nhưng, việc dựng cầu là một ý đồ quan sự cũng như kinh tế của dòng họ Nguyễn Cửu Vân nằm nối liền con đường thiên lý với Sài Gòn. Cây cầu này được miêu tả trong bài Gia Định phú rằng: "Cầu Thị Nghè cùng nơi Chợ Quán/Chúa Giê Su đắc ý vểnh râu/Chùa Cẩm Đệm trải đến Cây Mai/Phật Bồ Tát phải nghèo ôm bụng…".
    Chợ Thị Nghè cũng do bà Nguyễn Thị Khánh xây dựng. Năm 1837, Sở Thuế Thị Nghè đã thu được số thuế cao nhất nhì Nam Kỳ thời bấy giờ với 13.000 quan. Chợ Thị Nghè nằm cạnh Giáo sứ Thị Nghè được xây dựng vào cuối thế kỷ 18, đồng thời cũng nằm đối diện với Thảo Cầm Viên được thành lập vào tháng 3/1864 và nhà tù Phú Mỹ nơi Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Thị Bảy từng bị giam giữ với cái án tử hình.
    Trong Cách mạng Tháng Tám, rạp hát Thị Nghè cũng là nơi diễn ra cuộc mít tinh tuyên bố thành lập Mặt trận *********. Các nghệ sĩ cải lương kỳ cựu như Năm Phỉ, Bảy Nam, Kim Cương đã từng đến đây trình diễn vào giữa thế kỷ 20. Trong ngày 30/04/1975, hai chiếc xe tăng của quân đội Sài Gòn bị bắn cháy giữa cầu Thị Nghè, hang ổ đề kháng cuối cùng của địch trên đường Quân Giải Phóng tiến vào Dinh Độc Lập.
    Trung Nguyên
  8. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Vì sao có tên gọi Thị Nghè ?

    25/09/2012 // .54 views Nhiêu Lộc – Thị Nghè là một trong ba tuyến sông tự nhiên cổ nhất (cùng với sông Sài Gòn và sông Bến Nghé), ăn sâu vào lòng thành phố với nhiều chi lưu và đi qua các quận: 1, 3, 10, Bình Thạnh, Phú Nhuận, Tân Bình. Toàn tuyến kênh chính có chiều dài 9.470m. Mạng lưới kênh rạch chằng chịt đã đóng vai trò quan trọng trong việc tưới tiêu và giao thông vận tải.
    Rạch Thị Nghè bắt nguồn từ Bàu Cát (quận Tân Bình nay), chảy qua kênh Nhiêu Lộc, rồi đổ ra sông Sài Gòn chỗ nhà máy đóng tàu Ba Son. Khúc ngọn này mang tên Nhiêu Lộc, xưa gọi là Hậu Giang, nơi Nguyễn Ánh thường chọn làm nơi đóng binh trước khi đánh Sài Gòn. Con rạch chính từ cầu Nguyễn Văn Trỗi đến sông Sài Gòn dài 4,5km, tuy ngắn nhưng quan trọng, có giá trị như một hào hố thiên nhiên, bao quanh thành phố Sài Gòn lúc bấy giờ.
    Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí đã miêu tả về con sông này: “Sông Bình Trị tục gọi sông Bà Nghè ở địa phận tổng Bình Trị về phía bắc trấn, từ sông Tân Bình quanh sau trấn lỵ đến cầu Ngang, ngược dòng lên tây độ 4 dặm rưỡi đến cầu Cao Miên (cầu Bông), chảy về tây bắc độ 2 dặm đến chợ Chiểu (chợ Bà Chiểu nay), chảy về phía nam độ 4 dặm đến Phú Nhuận, 6 dặm rưỡi đến cầu Huệ là cùng nguyên, nơi đây có những ao vũng tản mạn”.
    [​IMG]
    Người Pháp gọi đây là rạch Avalanche, tên chiếc pháo hạm đầu tiên vào thám sát rạch Thị Nghè vào một ngày trước khi mở màn trận đánh thành Gia Định vào năm 1859, vì thành Phụng nằm sát bờ sông Thị Nghè.Bà Nghè, Mụ Nghè, Thị Nghè là những danh xưng thân mật và kính trọng gọi bà Nguyễn Thị Khánh, con gái đầu của quan Khâm sai Chánh thống Vân Trường Hầu Nguyễn Cửu Vân. Trương Vĩnh Ký trong sách Souvenirs historique sur Saigon et ses environs (1885) lại ghi là Nguyễn Thị Canh vì phiên âm Latinh từ chữ Khánh. Trịnh Hoài Đức cũng ghi chép về nhân vật này: “Có chồng là thư ký mỗ, nên người đương thời gọi là Bà Nghè mà không xưng tên. Sở dĩ có tên ấy là do khi đầu bà khai hoang đất ở, bắc cầu ngang qua để tiện việc đi lại, nên dân gọi là cầu Bà Nghè, cũng gọi sông ấy là sông Bà Nghè (Gia Định thành thông chí).
    Đại Nam quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của thì chú: “Trên cầu qua làng Phú Mỹ, ở gần thành cũ Gia Định, lấy trước một bà làm nên cây cầu ấy mà đặt”.
    Thái Văn Kiểm cũng gọi là “rạch Thị Nghè” hay “rạch Bà Nghè” (Đất Việt trời Nam).
    Huỳnh Minh trong Gia Định xưa và nay chép: “Dân chúng địa phương gọi là Bà Nghè theo chức tước của chồng bà là một vị quan văn trong Phiên trấn”.
    Theo Lê Trung Hoa, vào đầu thế kỷ XIX về trước, địa danh này được gọi là Bà Nghè (Gia Định thành thông chí; Gia Định phú, bài 1). Từ giữa thế kỷ XIX về sau, địa danh này đổi thành Thị Nghè (Gia Định phú, bài 2; Đại Nam quấc âm tự vị), nhưng chưa rõ lý do đổi tên. Năm 1714, Nguyễn Cửu Vân chinh phục Chân Lạp. Năm đó ông khoảng 30 tuổi và cô Khánh khoảng 10 tuổi. Đến khoảng năm 1725, cô Khánh lập gia đình và bắt đầu khẩn hoang, xây cầu. Theo ông, có thể đoán định địa danh này ra đời trong khoảng thời gian 1725-1750 (Địa danh ở thành phố Hồ Chí Minh). Riêng Vương Hồng Sển cho rằng: “… gọi cầu và sông Bà Nghè, hưng các quan không chịu xưng hô như vậy và đổi lại là “cầu và sông hay rạch Thị Nghè” (Sài Gòn năm xưa). Kiến giải này là hợp lý, vì nó biểu thị sự kính trọng của người dân đối với một phụ nữ có công.

    Bà Khánh là phu nhân của một viên Thư lại trong thành Gia Định ông này hàng ngày phải đi đò ngang qua con rạch chạy bọcvòng thành để vào phủ sở. Con rạch này xưa vốn rộng, đò ngang qua lại cách trở.Thế nên bà Khánhđã cho người làm một cây cầu tạm để chồng có thể yên lành đi làm và người dân vùng xã Thạnh MỹTây xưa cũng tiện việc đưa thổ sản ra chợ Bến Thành để bán . Lúc đầu, chỉ là cầu tạm bằng vật liệucây gỗ thường (và vị trí cũng không phải ở chỗ hiện giờ).
    Năm 1868, khi người Pháp thành lập VườnThảo Mộc Sài Gòn thì khu vực ngày nay hay gọi tên “Sở Thú” nằm hai bên con rạch này. Họ đã cho lập một cây cầu khác ở vị trí ngày nay theo lối “cầu sắt Eiffel”, mặt cầu lót bằng tà-vẹt (hình nhỏ). Cây cầu cũ được họ làm lại thành cầu bê tông - được lưu giữ mãi đến đầu thế kỷ 21 mới bị phá bỏ để mở đường Nguyễn Hữu Cảnh. Về sau, do nhu cầu thành lập một khu dân cư ở khu vực chợ Thị Nghè và trại gia binh của quân đội, Sở Thú bị thu hẹp diện tích,chỉ còn một bên bờ rạch như ngày nay. Năm 1955, một hội chợ diễn ra ở bờ rạch phía chợ, một cầu phao được bắc ngang rạch để chia bớt lượng khách lên cầu cũ. Do người quá đông, cầu phao bị sập và số người chết do uống nhiều nước đã lên đến con số “trăm” … Đến đầu thập niên 1960, do nhu cầu phát triển giao thông chính quyền Sài Gòn đã cho xây lại cầu này bằng bê-tông (ở vị trí cầu sắt) như ngày nay.
    Ảnh: Cầu Thị Nghè xưa
    DulichVietnam360°! Theo LHVV
  9. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Tổng Giáo phận Sài Gòn
    Nhà thờ Giáo xứ Thị Nghè

    [​IMG]
    Nhà thờ Giáo xứ Thị Nghè
    Giáo hạt Gia Định​

    Địa chỉ : 22B Xô Viết Nghệ Tĩnh, P.19 Quận Bình Thạnh ​
    Chánh xứ : Linh mục Phêrô Nguyễn Công Danh
    Phụ tá : Linh mục Phêrô Giuse Maria Hà Thiên Trúc
    Phụ tá : Linh mục Giuse Phạm Sỹ Tùng ​
    Tel
    083-899-2965

    E-mail


    Năm thành lập​
    1790

    Lễ Bổn Mạng​
    Lễ kính Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội (8/12)

    Số giáo dân​
    5000 (1200 gia đình)
    Giờ lễ
    Chúa nhật : 5:00 - 6:30 - 8:00 - 15:00 - 16:30 - 18:00


    Ngày thường : 5:00 - 17:30
    Các nhà thờ lân cận :
    - Tin tức sinh hoạt ​

    [​IMG]
    Lược sử Giáo xứ Thị Nghè
    LƯỢC SỬ HỌ ĐẠO THỊ NGHÈ
    Theo sử chép: “ngôi nhà thờ được xây cất đầu tiên bằng cây ván thô sơ nằm trên cuộc đất rộng lớn trên 3000 thước vuông, xung quanh toàn là ruộng, sình đầy nước đọng quanh năm”.
    Không ai biết rõ ngày khởi sự thành lập họ đạo, nhưng theo bài tường trình đăng trên Nam Kỳ địa phận năm 1917: “lúc Đức Cha Vêrô qua đời tại Qui Nhơn năm 1799 thì bổn đạo Họ Thị Nghè cũng luân phiên đến đọc kinh cầu nguyện cho Đức Cha”.
    Sự hiện diện của họ đạo Thị Nghè còn được khẳng định qua một dữ liệu khác: “Saigon cuối thế kỷ 18 đã trở thành một trung tâm văn hóa. Đồng thời với văn thơ Nôm được thông dụng tại Saigon và gần Saigon, có những trung tâm phổ biến chữ quốc ngữ trong chừng mức nhất định, đó là các họ đạo lớn và các chủng viện ở Lái Thiêu, Tân Triều, Búng, Thị Nghè, Chợ Quán”.
    Thị Nghè không chỉ là một giáo xứ, mà sớm trở thành trung tâm của một trong 12 giáo hạt của giáo phận Tây Đàng Trong và là mãnh đất thuận lợi để mở chủng viện. Năm 1850. Đức Cha Ngãi (Lefèbvre) đã lập nhà trường tạm tại Họ Thị Nghè. Trong số các linh mục lui tới họ đạo trong thời gian này, có Thánh Phaolo Lê Văn Lộc để lại dấu ấn đậm nét khi làm giám đốc chủng viện Thị Nghè. Sử liệu ghi nhận trong khoảng một năm cha đã dẫn về đoàn chiên giáo hội hơn 200 tân tòng. Khi tình hình căng thẳng, Đức Cha ra lệnh giải tán chủng viện, “cha Lộc vẫn cố nán lại Saigon để gần gũi, hướng dẫn các chủng sinh của mình … Dù khó khăn, cha vẫn cố tiếp tế cho các chủng sinh bị lưu lạc … Một phụ nữ ngoại giáo thấy cha liền báo cáo với quan quân…”.
    Thánh Phêrô Đoàn Công Quý, sau khi thụ phong linh mục, năm 1858 đã thi hành mục vụ tại các giáo xứ Lái Thiêu, Gia Định, Kiến Hòa, An Giang. Địa danh Gia Định được nói đến trong tiểu sử Thánh Quí chỉ một địa bàn rộng lớn, bao gồm cả khu vực Thị Nghè.
    Thánh Andre Nguyễn Kim Thông cũng đã đi qua Thị Nghè. Ông là một trùm họ tại Gò Thị (Bình Định), có công che dấu Giám Mục Cuenot Thể và hi sinh nhiều tiền của để lo việc thờ phụng. Lúc bị bắt năm 65 tuổi và bị lưu đày vào miền Nam: “Ông được gặp Giám Mục Lefèbvre tại Thị Nghè”. “Kể từ khi nhận nhiệm sở, Giám Mục Lefèbvre không có chỗ ở nhất định, lúc thì ở Lái Thiêu, lúc thì ở Thị Nghè …”. “Giáo dân Thị Nghè hết lòng che dấu cho hàng giáo phẩm, giáo sĩ tránh khỏi sự bắt bớ của vua quan và đây cũng là nơi lưu lại dấu chân nhiều đấng thánh tử đạo”.
    Ngoài ra, lịch sử giáo hội Việt Nam cũng ghi nhận: “Dưới triều cấm cách nghiệt ngã của Minh Mạng, Thị Nghè cũng là địa bàn thuận lợi của các cơ sở từ thiện xã hội”. Ngay từ buổi đầu của họ đạo, mặc dù gặp nhiều khó khăn thử thách, giáo xứ đã trở thành một giáo điểm truyền giáo vững chắc, đã có những yếu tố cần của một họ đạo – một chuẩn giáo xứ - được hình thành và tồn tại gần như với quá trình xây dựng Phiên trấn (Saigon) từ thế kỷ XVIII. Sau thời cấm đạo, từ năm 1859, Thị Nghè tiếp tục được Giám Mục Lefèbvre chọn làm nơi tái lập chủng viện để đào tạo linh mục. Trong hoàn cảnh mới, cơ cấu nhà đạo tại Thị Nghè có những thuận lợi cơ bản để phát triển.
    Ngay từ năm 1854, Giám Mục Lefèbvre đã giao cho linh mục Antôn Triêm coi sóc họ đạo Thị Nghè. Năm 1860, cha Triêm tiếp tục nhiệm vụ trong hoàn cảnh mới. Theo bản tường trình về Địa sở Thị Nghè và theo cha Delpech thì cha Triêm ở Thị Nghè từ năm 1854 đến 1860. Kế tiếp là linh mục thừa sai Puginier được Đức Cha giao cho coi sóc các họ đạo Thị Nghè, Cầu Bông, Gò Vấp và An Nhơn, trước khi trở ra địa phận Tây Đàng Ngoài. Sau đó, thừa sai Colombert làm mục vụ trong một thời gian. Năm 1867, thừa sai Gentillon được cử làm cha sở. Tiếp theo là các thừa sai Pineau, Gauthier tạm coi Họ Thị Nghè. Năm 1869, thừa sai Martin là cha sở. Năm 1873, cha Delpech về “chánh sở Thị Nghè”. Tuy vậy, Sổ rửa tội và Sổ hôn phối của họ đạo mãi đến năm 1875 mới được ghi chép. Theo bút tích lịch sử trên thì Họ Thị Nghè nếu chưa được chính thức thành lập bằng văn bản của giáo quyền sở tại, thì cũng đã chính thức hoạt động từ năm 1875 với sổ sách quy điển của Giáo Hội.
    Trước năm 1854, họ đạo Thị Nghè được các Đức Cha, các linh mục thừa sai, các cha sở, các cha Việt Nam từ họ đạo Chợ Quán đến chăm sóc và làm mục vụ. Từ năm 1854, các cha sở của giáo xứ đóng góp nhiều công sức xây dựng và phát triển họ đạo với lòng nhiệt tình truyền giáo. Các ngài đã hy sinh bản thân, gánh chịu bệnh tật, vượt qua những khó khăn nội bộ trong việc điều hành họ đạo, khôn ngoan giải quyết những vấn đề trong giao tiếp với bên ngoài để phát triển họ đạo một cách toàn diện.
    Tính từ năm 1854 đến nay, đã có 12 linh mục từng phụ trách họ đạo Thị Nghè (chưa kể cha Abonnel (1887):
    TT CHA SỞ NĂM THÁNH –HỌ & TÊN
    1. 1854 ANTÔN TRIÊM
    2. 1867 GENTILLON
    3. 1869 MARTIN
    4. 1873 REMIGIUS DELPECH
    5. 1876 PETRUS JOSEPH GRESET
    6. 1879 FOUGEROUSE
    4b 1885 REMIGIUS DELPECH
    7. 1912 ALEXANDRE LIOGER
    8. 1936 PHAOLÔ ĐÀO TRÍ TỊNH
    9. 1956 PHANXICÔ XAVIER LÊ VĨNH KHƯƠNG
    10. 1966 PHANXICÔ XAVIER PHAN VĂN THĂM
    11. 1974 DOMINICÔ VÕ VĂN TÂN
    12. 1991 PHÊRÔ NGUYỄN CÔNG DANH
    - Ngoài ra, trong thập niên 1860, một số năm họ đạo không có linh mục phụ trách, nhưng có các thừa sai đến làm mục vụ:
    • Cha Paul Puginier (Phước) 186?-186?
    • Cha Colombert (Mỹ) 186?-1867
    • Cha Pirreau 1867-1869
    • Cha Gauthier 1867-1869
    Các linh mục xuất thân từ Họ Thị Nghè
    TT TÊN THÁNH–HỌ&TÊN NĂM SINH VÀ NĂM THỤ PHONG
    1. PHÊRÔ NGUYỄN THỐNG LÝ 1847 1880
    2. GABRIEL NGUYỄN THANH LONG 1870 1890
    3. PHAOLÔ NGUYỄN VĂN MINH 1880 1916
    4. ANDRE NGUYỄN THUẬN TRỊ 1887 1917
    5. PHAOLÔ LÊ HIỂN QUANG 1894 1922
    6. PHAOLÔ LÊ VĂN MƯỜI 1897 1926
    7. PHAOLÔ NGUYỄN VĂN MƯỜI 1897 1926
    8. ANTÔN LÊ QUANG THẠNH 1915 1941
    9. LÊO NGUYỄN VĂN HIỀN 1920 1945
    10. ĐGM ANDRE NGUYỄN VĂN NAM 1922 1952-GM1975
    11. SIMON HÒA
    12. PHAOLÔ VÕ VĂN CHÁNH 1924 1951
    13. TÔMA CHÂU VĂN ĐẰNG 1928 1957
    14. TÔMA NGUYỄN VĂN VẼ 1932 1961
    15. GB NGUYỄN VĂN DƯ 1937 1962
    16. PHÊRÔ NGUYỄN CẤP 1944 1973
    17. QUANG
    18. KÍNH
    19. GB LÊ ĐĂNG NIÊM 1937 1966
    20. PHÊRÔ NGUYỄN VĂN HẦU 1941 1972
    21. PHANXICÔ XAVIER LÊ VĂN NHẠC 1943 1974
    22. GIUSE NGUYỄN TRỌNG SƠN 1959 1992
    23. GIUSE NGUYỄN TRỌNG VIỄN 1955 1994
    24. CLEMENTE LÊ MINH TRUNG 1961 1998
    25. PHANXICÔ XAVIER NGUYỄN VĂN THANH 1971 2003
    26. PHAOLO PHAN ĐÌNH DŨNG (ĐỨC) 2000
    27. DOMINICO TRẦN TẤN ĐẠT (MỸ) 2000
    28. GIOAN TRẦN VĂN (MỸ) 2000
    29. GIUSE TRẦN HƯNG QUỐC (MỸ) D.Ngôi Lời 2000
    Các nữ tu xuất thân từ Họ Thị Nghè
    TT THÁNH –HỌ&TÊN DÒNG
    1. PHIL. DE ST PAUL MARIE NGUYỄN T SÁNG ST PAUL
    2. PAUL MARIE NGUYỄN THỊ THỨ ST PAUL
    3. MARIE LEOCADIE NGUYỄN T THƯỜNG ST PAUL
    4. MARIE EUSEBE NGUYỄN THỊ CHO CHÚA QUAN PHÒNG
    5. TERESA NGUYỄN THỊ ĐỒNG PHANXICAINE
    6. MARIE AUGUSTE NGUYỄN TUYẾT TRANG CHÚA QUAN PHÒNG
    7. ĐỊNH CHÚA QUAN PHÒNG
    8. HIẾU CÁT MINH
    9. LOUISA TRẦN THỊ HỒNG NỮ TỬ BÁC ÁI VINH SƠN
    10. MADALENA ĐỖ THỊ CÔNG PHANXICAINE
    11. JEAN MARIE NGUYỄN THỊ THỂ VINCENT DE PAUL
    12. AGNES DƯƠNG THỊ SA PHÁP
    13. BERNADETTA NGUYỄN THỊ HUỲNH MAI MẾN THÁNH GIÁ LONG AN
    14. MARIE NGUYỄN THỊ THU VÂN ĐỨC MẸ NGƯỜI NGHÈO
    15. MARIE NGUYỄN THỊ NGỌC DUNG ĐỨC MẸ NGƯỜI NGHÈO
    16. ANNA TẠ THỊ MẠNH ĐỨC MẸ NGƯỜI NGHÈO
    17. MARIA TRẦN THỊ THỦY ĐỨC MẸ NGƯỜI NGHÈO
    18. TERESA ĐẶNG THANH DIỆU ĐỨC MẸ NGƯỜI NGHÈO
    19. MARIA TRẦN THỊ HỒNG SÁNG MẾN THÁNH GIÁ THỦ THIÊM
    20. VERONICA NGUYỄN THỊ KIM THU TU HỘI BÁC ÁI
    21. MARIA VÕ DIỄM TRINH SALESIENNE
    22. TERESA NGUYỄN PHƯƠNG THÙY SALESIENNE
    23 TERESA LÊ THỊ DUYÊN ST PAUL
    Nguồn : titocovn.com
    ..............​
    Giáo xứ Thị Nghè
    Maria Vũ Loan ​
    Có lẽ khi đọc lược sử các giáo xứ thuộc Giáo phận Sàigòn thì thú vị nhất là quá trình hình thành và phát triển của Giáo xứ Thị Nghè, vì có nhiều chi tiết gắn với lịch sử vùng đất Sàigòn, song tiếc rằng chỉ có thể nói đến những điểm chính. Và hiện nay các nét riêng trong sinh hoạt tôn giáo của giáo xứ này cũng có nhiều điểm đáng chú ý.
    Một lược sử độc đáo
    Thị Nghè là một vùng đất cao được bao quanh bằng sông Sàigòn. Sông Thị Nghè bắt nguồn từ Bàu Cát, qua kênh Nhiêu Lộc rồi đổ ra Sông Sàigòn. Giữa con sông và vùng Cầu Sơn là mảnh đất sớm có dân cư và đường xá. Ngày xưa, đây là vùng vành đai bảo vệ khu trung tâm Sàigòn nên người dân ở đây là chứng nhân nhiều biến cố lịch sử và cũng là những người làm nên lịch sử trên mảnh đất này.
    Gọi là Thị Nghè vì đây là danh xưng thân mật và quý trọng để gọi bà Nguyễn Thị Khánh, là con gái đầu của quan khâm sai Nguyễn Cửu Vân, có chồng là thư ký nên gọi là “bà Nghè”. Bà có công khẩn hoang, xây cầu nên dân gian gọi là cầu Bà Nghè, giữa thế kỷ XIX đổi thành Thị Nghè. Cây cầu đầu tiên do bà Nghè làm dài 9 trượng, xe ngựa có thể qua lại được. Chợ Thị Nghè khá lớn, trên bến dưới thuyền, có vai trò quan trọng trong sự phát triển địa phương trong thời gian dài khi hình thành điểm tụ cư.
    Ngoài ra trên vùng đất này còn có một số cơ sở kinh tế, chính trị, văn hóa như miếu Văn Thánh, tịch điền(đất công) và đàn Xã tắc, Sở Bông, nhà làng Thạnh Mỹ Tây, đình Phú An, phủ Thiên Hoa, nhà dưỡng lão, hồ nước, nhà tù Phú Mỹ…
    Dân cư ở đây đa số là người Kinh, một ít là người Hoa, Khơmer, Chăm theo Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo, thờ cúng tổ tiên và đất Thị Nghè cũng là nơi văn hóa được đề cao.
    Bối cảnh truyền giáo
    Giáo xứ hình thành từ những ngày đầu thành lập Địa phận Đàng Trong vì Thị Nghè là vùng đất có những đặc điểm thuận lợi về tự nhiên, chính trị, kinh tế, thích hợp cho lưu dân đến buôn bán, định cư lâu dài và sớm trở thành một điểm truyền giáo.
    Năm 1790, vua Gia Long cất cho Đức cha Bá Đa Lộc một nơi ở yên tĩnh, gần rạch Thị Nghè, gọi là dinh Tân Xá và trở thành Tòa Giám mục từ năm 1790 đến 1830. Có thể nói, Thị Nghè là một điểm tụ cư gần trung tâm phát triển đạo Công giáo, ở cùng trên một địa bàn với Tòa Giám mục nên ánh sáng Tin Mừng đã chiếu soi trên mảnh đất “ven nội” này rất lâu đời. Những lưu dân theo đạo Công giáo là hạt nhân xây dựng cộng đoàn, cất nhà thờ, nhà nguyện, quy tụ nhau đọc kinh. Vì thế, có ý kiến cho rằng, Họ đạo Thị Nghè chính là một trong nhưng chiếc nôi đầu tiên của Giáo phận Tây Đàng Trong.
    Năm 1799, ngôi nhà thờ đầu tiên được xây cất bằng cây ván thô sơ trên khu đất ba ngàn thước vuông, xung quanh toàn là ruộng, sình lầy nước đọng, nhà thưa người ít, giáo dân chừng vài chục người. Dưới triều đại vua Gia Long. Họ đạo Thị Nghè được phát triển nhưng đây cũng được coi là nơi tạm trú, lai vãng của cha cố và bổn đạo trong cơn bách hại ngặt nghèo đời vua Minh Mạng, Thiệu Trị vì giáo dân hết lòng che giấu hàng giáo phẩm, giáo xứ tránh khỏi sự bắt bớ của vua quan và Thị Nghè cũng là nơi lưu dấu chân của nhiều đấng Thánh Tử đạo.
    Sự kiện thực dân Pháp đánh chiếm Thành Phụng năm 1859 là nỗi đau lớn của dân tộc. Sau hòa ước năm 1862, vua Tự Đức hạ chỉ ân xá cho tín đồ Thiên Chúa giáo. Giáo dân Thị Nghè vừa đau vì mất nước, vừa mừng vì thoát khỏi cơn cấm đạo quẫn bách. Thị Nghè là nơi đức giám mục chọn làm địa điểm tái lập chủng viện để đào tạo linh mục. Nhà trường La Tinh (chủng viện) ban đầu được dựng trong một nơi đất thấp, hay bị ngập sình, lại là nơi cọp hay lai vãng và ở gần đồn binh cưu.
    Như vậy, từ thế kỷ XVIII, họ đạo Thị Nghè đã là một giáo điểm có những yếu tố cần của một giáo xứ được hình thành và tồn tại gần như đồng thời với quá trình xây dựng Phiên trấn (Sàigòn).
    Còn về cơ sở vật chất của nhà thờ, sau nhiều lần thay đổi, vị trí nhà thờ của giáo xứ đã hình thành (1890) và sau đó được tôn tạo, khánh thành (1953) với hình dạng như hiện nay.
    Như thế, qua nhiều biến cố thuận lợi và khó khăn, phải chăng việc gieo vãi Tin Mừng của đạo Công giáo, được thuận tiện hay gặp muôn vàn khó khăn, luôn nằm trong sự nhận định và tình cảm riêng của những người có trách nhiệm trên lãnh thổ qua từng thời kỳ lịch sự?
    Một giáo xứ sống động trong sinh hoạt tôn giáo
    Nếu có ai hỏi thăm cha sở Thị Nghè về tình hình giáo xứ thì cha không trả lời ngay được mà phải tìm những con số hiện trên giấy tờ.
    Thực tế, những con số về nhân khẩu trong giáo xứ, tính từ đơn vị là giáo khu, thì ta biết được số giáo dân chuyển đến, chuyển đi, mới sinh, qua đời, hiện có rất rõ ràng với hơn 7.000 giáo dân. Đặc biệt, việc liệt kê thành phần xã hội làm cho người ta hiểu ngay dân cư trong giáo xứ thế nào: sản xuất kinh doanh, buôn bán, công nhân viên chức, nghề chuyên môn, nội trợ, gia đình khó khăn, thương binh liệt sĩ, người cao tuổi hay khuyết tật.
    Trong vai trò là vị chủ chăn, cha xứ nắm rõ những thành phần giáo dân có hoàn cảnh đặc biệt (gia đình rối, rối phức tạp, đã trở lại, ly thân…) hay vướng vào tệ nạn xã hội (ma túy, mại dâm, cờ bạc, rượu chè, AIDS) là một công việc của sự quan tâm. Nếu con số 4 người đã ly dị hay 14 người vướng vào ma túy tại các giáo khu làm cho chúng ta buồn, thì các sinh hoạt rất đặc biệt tại giáo xứ làm mọi người thấy phấn khởi hơn, có thể mường tượng ra hình ảnh một khu rừng, chỉ có 54 cây héo úa, sâu mọt làm ngã đổ thì hằng ngày dưới ánh nắng, nguồn nước, chất bổ của đất làm cho các cây được tươi tốt và nhiều mầm xanh đang nhú lên với nhiều hy vọng.
    Với 6 giáo khu, 12 đoàn thể (thuộc nhóm cầu nguyện và nhóm đoàn thể trẻ) 7 ca đoàn, 1 nhóm bác ái, 8 đơn vị Senior và Junior của Legio Mariae thì có thể thấy giáo dân đã tham gia các sinh hoạt của giáo xứ với một lực lượng rất hùng hậu. Đây là một lợi thế mà cha chánh xứ có thể phát triển các công việc về Phụng Vụ và xã hội như nhiều giáo xứ khác đang làm mà còn làm những việc không phải giáo xứ nào cũng có những thuận lợi để thực hiện như: dâng lễ chúc thọ cho 380 cụ trên 70 tuổi; tổ chức khấn dòng, giao lưu với tôn giáo bạn (Phật giáo, Tin Lành, Hồi giáo); đi thăm Trung tâm Trọng Điểm và anh em dân tộc tại Bình Phước; giúp Đại Chủng Viện 2 máy Photocopy; duy trì một số em lễ sinh đạo đức vào nhóm Nuôi Ơn Gọi; trợ giúp mai táng khi hữu sự; nấu ăn buổi sáng cho các em khuyết tật Hồng Hà; làm tuần cửu nhật cho những người đau ốm và hấp hối; nấu bánh chưng phát cho người nghèo và khuyết tật; phân công dọn vệ sinh các WC của giáo xứ.
    Ngoài những công việc khá đặc biệt đó, giáo xứ đang tiến hành công việc cần thiết để Nhà thờ Martinô thuộc giáo khu 5 bước lên hàng giáo xứ; thực hiện phương thức quản lý thư quán theo quy chế Tòa Giám mục và làm một đặc san Giáo xứ Thị Nghè Năm Thánh 2010 về chặng đường 5 năm 2005-2010.
    Cha xứ Phêrô Nguyễn Công Danh cho biết, từ cuối năm 1991 đến nay, giáo xứ là một cộng đoàn trên thuận dưới hòa, mối quan hệ giữa cha xứ và giáo dân rất tốt trong công việc. Hội đồng Mục vụ và đại diện các đoàn thể ngày càng thêm gắn bó vì cha sở cho học tập tài liệu một tuần một lần; hiện nay giáo xứ đang được học hỏi về Thông điệp Bác Ái của Đức Thánh cha.
    Ngoài việc mục vụ, cha sở còn tham gia việc xã hội qua một số các chức danh mà cha cho rằng mục đích là để giúp giới Công giáo đi vào hoạt động chung của thành phố. Dù làm gì, cha vẫn ưu tiên hàng đầu cho công việc mục vụ và coi đó là bổn phận phải chu toàn, còn về việc xã hội là công việc tự nguyện tham gia với tư cách công dân và chủ đích là triển khai và thực hiện Thư chung Hội đồng Giám mục Việt Nam 1980.
    Và cha cho rằng, huấn từ của Đức Thánh cha chính là những định hướng mà mỗi Giáo Hội địa phương phải quan tâm triển khai trong đời sống; và Đức Thánh cha đã nhắc lại định hướng Thư chung 1980: “Giáo Hội Chúa Kitô giữa dân của mình”.
    Lời kết
    Với khoảng thời gian hơn 200 năm, tài liệu về lược sử Họ đạo Thị Nghè có nhiều chi tiết, chỉ xin nêu lên vài nét tiêu biểu. Dù nhìn ở góc độ nào thì Họ đạo Thị Nghè mãi còn đó một nét son, chứng nhân cho Chúa Kitô qua dòng lịch sử. Và hiện nay, sức sống mạnh mẽ của giáo xứ vẫn như là một dòng chảy nối tiếp thời gian của quá khứ hào hùng đó.
    * Nguồn : Thánh Ca VietNam.net



    [​IMG]
    Hình ảnh nhà thờ Giáo xứ Thị Nghè
    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]
  10. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133

Chia sẻ trang này