1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những Hình ảnh xưa về Đất Nước, Con Người, Văn Hoá Việt Nam (Updated ngày 19/6/2014)

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ruavang, 16/11/2002.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [​IMG]

    Image non disponible



    [​IMG][​IMG]























    Taille de la photo :[​IMG][​IMG]

  2. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]
  3. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [​IMG]

    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]
  4. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [​IMG]
  5. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Kinh Tàu Hủ và con đường của thay đổi
    Sài Gòn vào đêm, nếu có dịp, bạn thử chạy qua Đại lộ Đông Tây (nay là Đại lộ Võ Văn Kiệt) để cảm nhận sự cựa mình thay đổi của một trong những thành phố đông dân hàng đầu thế giới. Ở đó, thay vào cảnh “trên bến dưới thuyền” ngày trước - khi sông còn tắm được - là một con đường lao đi vun vút, thiếu cây xanh và kinh nước vẫn còn đen ngòm. Nhưng tất cả điều đó lại là Sài Gòn của hôm nay.
    [​IMG]
    “Liên hoàn” đường
    Chỉ khoảng 22km chiều dài và khoảng 42m chiều rộng, Đại lộ Đông Tây không phải là con đường dài và rộng nhất TP.HCM, nhưng nó lại là câu chuyện xuyên thấu của nhiều quận (1, 2, 4, 5, 6, 8, Bình Tân, Bình Chánh), kết nối với vô số con đường và mười mấy cây cầu. Đó là con đường rõ nhất để chúng ta nhìn thấy sự giao thoa văn hóa (Việt, Hoa, Ấn, Khmer…), sự chung đụng giữa các tôn giáo, giữa giàu với nghèo, giữa bắt đầu và kết thúc…
    Con đường dài ven sông này thực chất khởi nguồn từ một con kinh hẹp, nước tù đọng, thuyền bè không qua lại được. Theo sử liệu, năm 1819, vua Gia Long hạ lệnh nạo vét và mở rộng, đặt tên là An Thông Hà, người dân thì gọi là Kinh Mới, thông lưu tấp nập nhất tại khu vực Chợ Lớn, nên cũng gọi là rạch Chợ Lớn. Sau khi thông lưu, kinh này nước lên nước xuống, xanh và sạch trong nhiều thập niên, riêng thế kỷ 19 thì được nạo vét thêm 2 lần (1887 và 1895), rồi mở rộng vào năm 1922.
    [​IMG]
    Trước đó nữa, cuối năm 1772, Nguyễn Cửu Đàm cho đào kinh Ruột Ngựa để thông lưu Sài Gòn và miền Tây Nam bộ, với chiều dài 2.129 tầm (5.000m), rộng 15 tầm (trên 30m) và sâu 9 thước (trên 4m)… An Thông Hà (thời Nguyễn), Arroyo Chinois (thời Pháp) cũng là kinh Tàu Hủ sau này, loanh quanh từ cầu Chữ Y tới kinh Ruột Ngựa và rạch Lò Gốm, khoảng 6km. Nay thì nó trải dài từ Đông sang Tây Sài Gòn, dọc theo những con kinh cũng đang tìm cách thay đổi diện mạo. Được - mất, mới - cũ… vốn là chuyện của thời gian.
    Theo học giả Trương Vĩnh Ký (viết năm 1885) và Huỳnh Tịnh Của (viết cuối thế kỷ 19) thì đoạn phố đi ngang qua rạch Chợ Lớn được gọi là Tàu Khậu, đó là cách người Triều Châu phát âm từ “thổ khố” (khu nhà gạch), sau trại âm thành Tàu Hủ. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, nhìn kinh nước đen và những “món phụ gia” trôi nổi trên ấy, rất hôi thối, mà người dân liên tưởng đến tương chao, tàu hủ cho có phần thi vị, nên gọi như vậy.
    Nói như thi sĩ Tản Đà: “Con đường vô hạn khách Đông Tây”, ngay từ đầu thế kỷ 18, kinh Tàu Hủ đã là nơi kết nối trên bến dưới thuyền của Gia Định và Chợ Lớn - vốn xa xôi, cách trở đi lại. Từ con kinh này, người ta chứng kiến biết bao nhiêu cuộc chung đụng của dân tứ xứ, Bắc Trung Nam và các nước, họ rời bỏ quê hương đến đây lập nghiệp, nên chấp nhận “luật sống mới”, phóng khoáng và dễ thở hơn.
    [​IMG]
    Ngay khi mới thành lập “đại lộ Tàu Hủ” ngày trước, nơi đây đã là con đường lúa gạo và gạch gốm, vì người Hoa “trùm” chuyện này. Nó không chỉ kết nối giữa Sài Gòn với miền Tây, miền Đông Nam bộ, mà còn là thương cảng hoặc là trạm trung chuyển với Singapore, Mã Lai, Hương Cảng, Ma Cao, Thượng Hải… và sau này là châu Âu. Lương thực miền Nam từ lâu đã nhờ kinh Tàu Hủ mà ra đi; người dân miền Nam từ lâu nhờ kinh Tàu Hủ mà nhận về bao điều mới mẻ, đổi thay.
    [​IMG]
    Sau 1955, kinh Tàu Hủ bắt đầu đi vào giai đoạn “vãn tuồng”, tàu bè mắc cạn, nhiều thương cảng lớn đã dời địa điểm ra xa hơn. Các thập nhiên 70, 80, 90 của thế kỷ trước, con kinh này gần như bị bức tử bởi dân nhập cư, bởi khu ổ chuột và sự “bỏ rơi” từ phía quản lý vĩ mô. Mãi tới một hai thập niên gần đây, trong thế bức bách vì giao thông, kinh Tàu Hủ mới bắt đầu hồi sinh và trở thành nơi liên hoàn của những con đường.
    Chẳng hoàn chỉnh
    Chưa bao giờ có được vẻ đẹp của một con đường hoàn chỉnh, chứ đừng nói đến đại lộ du lịch hay văn hóa, vì kinh Tàu Hủ ngày trước và Đại lộ Võ Văn Kiệt sau này không sinh ra cho sứ mệnh đó. Nó luôn sinh ra để vận tải và giảm tải.
    Quang cảnh trên bến dưới thuyền lúc nào cũng bị đồng nghĩa với cái gì đó tạm bợ, là chỗ giao thương, là nơi dễ thay đổi. Về môi sinh cũng thế, có lúc kinh Tàu Hủ trong xanh, có lúc đen ngòm, ô nhiễm, nay thì cố gắng khắc phục để tìm lại chút sạch sẽ giả vờ.
    Trong cái thăng trầm của một con kinh và cũng là đoạn đường cửa ngõ của Sài Gòn, hơn 200 năm qua, bao giờ nó cũng giữ lại được hồn phách cũ. Thế nhưng, từ khi “đại lộ” Tàu Hủ thay đổi chóng vánh, nó dài gấp 5-6 lần ngày xưa, làm thay đổi trực tiếp nơi sống của khoảng 6.800 hộ dân, 368 cơ quan và biến đổi khoảng 202 ha đất - nó đã lạc hồn phách.
    Kinh Tàu Hủ ngày nay không còn chuyện trên bến dưới thuyền, khi những thuyền lớn khó bề vào sâu nội địa, nên đầu Thủ Thiêm và Long An mọc ra những bến cảng vừa và nhỏ. Hình thức giao thương trên sông cũng đã thay đổi, kinh Tàu Hủ chỉ còn “nằm nghe” thời gian, với vài chiếc ghe nho nhỏ qua lại. Trong sự đổi thay đó, có biết bao hình ảnh đẹp (như các nhà kho Bình Tây), hoặc là địa điểm lịch sử… đã trở thành dĩ vãng, làm phôi pha bao nhiêu ký ức và câu chuyện. Nhưng rồi, trong tinh thần hòa đồng, tương dung của kẻ tứ xứ, người dân “vong thân, mất gốc” xứ này lúc nào cũng có thể nói “mặc kệ” để vui hơn, dễ sống hơn, và để thay đổi.
    Thật khó để liên tưởng về hình ảnh và cảm giác giữa một con đường bêtông trơ trụi ngày nay với con kinh tấp nập phố xá, thuyền bè qua lại ngày xưa. Cả tư duy và lối sống cũng thay đổi, ngày trước, sông nước là chính mạch, là hồn cốt, bây giờ, sông nước chỉ còn là phần minh họa.
    Và khi các chung cư mọc lên, đường sá sáng sủa hơn, thì hàng trăm ngàn người (dù không ở trọng diện giải tỏa) đã dọn nhà ọp ẹp ra xa hơn, có khi về Cần Giờ, Long An, Gò Công… miễn sao ở đó có bến sông. Nhiều người không quen cảnh khang trang, sáng sủa, bởi quê của họ là sông nước, là rày đây mai đó. Họ quen chân ướt chân ráo, chưa quen thang máy thang bộ; quen ăn đầu trước bỏ đầu sau, chưa quen ngăn nắp, nề nếp.
    Có người ví kinh Tàu Hủ hiện nay như khuôn mặt phấn son trên một cơ thể chưa kịp tắm rửa sạch sẽ. Cho nên sự thay đổi mới chỉ là chuyện của bề ngoài, còn bên trong, chắc phải ngày rộng tháng dài mới thực sự có được. Bởi khó để văn minh hay hiện đại chỉ sau một đêm; chỉ với các quy hoạch đơn thuần về giao thông và kiến trúc. Kinh Tàu Hủ đang chờ thời cơ để quy hoạch về tâm lý và thói quen sống.
    Tuy vậy, kinh Tàu Hủ bao đời nay vẫn chứng kiến sự đổi thay, đôi lúc đến chóng mặt, nó chấp nhận, chẳng hề than van, luyến tiếc, vì thế, nó đổi khác và làm nên lịch sử chính mình. Nó sống chết từ thay đổi, và hồi sinh từ đổi thay.
    Bài: Như Hà
    Ảnh: Trần Việt Đức - Ảnh tư liệu Sài Gòn xưa.
  6. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Nha Trang ngày xưaDec 2, '11 3:23 AM
    for everyone
    [FONT=times, times new roman, serif]Sông kia rày đã nên đồng[/FONT] ​
    [FONT=times, times new roman, serif]Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Đêm đêm tiếng ếch bên tai[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif](Thơ Tú Xương)[/FONT] ​
    [FONT=times, times new roman, serif]Vạn vật đổi thay theo ngày tháng, nhưng lịch sử vẫn khắc ghi lại muôn đời. Địa danh Kauthara (tức Khánh Hoà bây giờ) đã được nhắc đến từ năm 90 trước tây lịch do các nhà hàng hải Ấn Độ giao thương với Trung Hoa qua hải trình từ Bengal, ghé Óc Eo (thủ đô nước Phù Nam, nay là Hà Tiên, Châu Đốc), Kauthara và Sông Hồng để mua tiêu và gia vị khác. Tại các hải cảng ở Kauthara, như Chutt (Chụt) và Kamran (Cam Ranh), thương gia Ấn mua trầm hương, ngà voi, sừng tê giác và đồi mồi để bán vào Trung Quốc. Thị trấn Ya-Tră, người Việt sau này (kể từ 1653) phát âm thành Nha Trang, được lịch sử Chăm nhắc đến vào năm 653 khi nữ hoàng Jagadharma mất, dân Chăm lập đền thờ bà trên một ngọn đồi, bên cạnh một con sông, chính là tiền thân tháp Po Nagar – Tháp Bà - ở Cầu Xóm Bóng Nha Trang ngày nay.[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Lịch sử[/FONT] [FONT=times, times new roman, serif]Vào thế kỷ thứ 1 sau dương lịch, người bản xứ ở Nha Trang thuộc sắc tộc hải đảo Malayo-Polynesien, thuộc nước Phù Nam, theo văn hoá Ấn Độ, và đến khoảng thế kỷ thứ hai mới thuộc Chiêm Thành, tức Nam Chiêm (Panduranga) có lãnh thổ từ Khánh Hoà đến Bình Thuận.[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Kể từ thế kỷ thứ hai, dưới thời[/FONT][FONT=times, times new roman, serif] Lâm Ấp (Champa)[/FONT][FONT=times, times new roman, serif][FONT=times, times new roman, serif], [/FONT]hải cảng Chutt và Kamran là nơi thuyền buôn từ Ấn Độ tấp nập đến buôn bán, và truyền bá văn minh, văn hoá, tổ chức xã hội, kỹ thuật hàng hải, thương mại, nông nghiệp của Ấn Độ. Đạo Bà La Môn và Phật Giáo (Tiểu Thừa) thịnh hành ở Nam Chiêm. Như vậy, Phật Giáo đã có ở Nha Trang từ thế kỷ thứ 2, và từ Nha Trang Khánh Hoà, văn hoá Ấn Độ được truyền sang Bắc Chiêm (ý nói Việt nam), vốn bị ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa (nhà Hán).[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Vào thế kỷ thứ bảy, nhiều thuyền buôn từ Trung Đông như Iraq, Oman, rồi Java và Mã Lai cặp bến Nha Trang và Cam Ranh để buôn bán và truyền đạo Hồi Giáo. Các nhà hàng hải Âu Châu như Hoà Lan, Bồ Đào Nha cặp bến Nha Trang buôn bán vào thế kỷ 15.
    Như vậy, dưới thời Chiêm Thành, Nha Trang vừa là trung tâm tôn giáo (Tháp Bà), vừa là hải cảng phồn thịnh tấp nập thuyền buôn ngoại quốc, và cũng là căn cứ quân sự của Chiêm Thành. Nha Trang có một vị trí chiến lược quan trọng. Năm 774, quân Nam Dương (Indonesia) đổ bộ vào Nha Trang đốt Tháp Po Nagar và cướp đi nhiều báu vật. Từ hải cảng Nha Trang và Cam Ranh, vào những năm 803 và 808, Chiêm Thành mang thuyền chiến tấn công vào Châu Hoan và Châu Ái của Đại Việt, rồi đem thủy quân trừng phạt vương quốc Kelantan ở Java, và Patani ở Malaysia, rồi chiếm đất Đồng Nai Thượng của Khmer; năm 808 lại tấn công Châu Hoan, Châu Ái; năm 817, tấn công Kambujas (Kampuchia). Năm 1600, các hải cảng Nha Trang và Cam Ranh được Chiêm Thành trang bị đại pháo tối tân mua của Châu Âu để phòng thủ chống Việt Nam.[/FONT]

    [FONT=times, times new roman, serif][FONT=times, times new roman, serif]Nha Trang[/FONT][/FONT][FONT=times, times new roman, serif] thuộc về Việt Nam từ năm 1653. Chúa Nguyễn đưa di dân từ Quảng Nam Bình Định đến Khánh Hoà, và di dân Việt sống xen kẻ với người Chăm từng cụm như da beo. Xung đột Việt Chăm thường xảy ra ở vùng đất này, phần đông do tranh chấp ruộng đất, phần thua thiệt về người Chăm. Năm 1712, chúa Nguyễn Phúc Chu phải thoả thuận 5 điều khoản để bảo vệ quyền lợi và đối xử công bằng với người Chăm. Vào thế kỷ 18, nhiều nhà truyền giáo Âu Châu tường trình còn thấy nhiều làng người Chăm ở gần Nha Trang. Ngày nay không còn thấy làng người Chăm nào nữa.[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Hiện nay, trong Vịnh Vân Phong, có một đảo nhỏ tên Hòn Điệp (hay Hòn Bịp), cách bờ trên 10 km, trên đó có một sắc dân sống cô lập trong vài chục căn nhà, không giao tiếp với thế giới bên ngoài, người Việt ở Vạn Ninh gọi họ là “Dân Đàng Hạ” hay “Người Hạ”. Dân đảo có nước da ngâm đen, tai tái, có đôi mắt trắng xác, ít nói; không khiêng gánh như người Việt mà đội trên đầu. Vào đầu thập niên 30, quan huyện Vạn Ninh gọi tất cả dân đảo này vào ghi danh lập sổ Bộ Đinh, nhưng khi hỏi tên họ, thì chỉ có tên mà không có họ. Cuối cùng, quan huyện bảo: “Thôi thì đàn ông lấy họ Đinh, còn đàn bà lấy họ Trần vậy”. Xét qua phong tục, tập quán và hình dáng con người, có lẽ đây là những người Chăm còn tồn tại ở Khánh Hoà cho tới ngày nay.[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Vào thời Chúa Nguyễn và Tây Sơn, Nha Trang là một hậu cần cung cấp lương thảo với kho lương thực Phước Sơn và xưởng đóng tàu chiến tại chân núi Trại Thủy (còn gọi Khố Sơn) ở Phương Sài ngày nay. Bến sông Phương Sài ngày xưa gọi là “Trường Cá”. [/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Thành Diên Khánh[/FONT]
    [​IMG]
    [FONT=times, times new roman, serif]Vào thời Nguyễn được gọi “Nha Trang Thành” (theo Phương Đình Dư Địa Chí của Nguyễn Siêu đời Tự Đức), là nơi tranh chấp đẫm máu nhiều lần giữa chúa Nguyễn và Tây Sơn. Diên Khánh lọt vào Tây Sơn năm 1776. Tháng 5 năm Quý Sửu (1793), chúa Nguyễn Phúc Ánh cùng với Nguyễn Văn Trương và Võ Tánh đem thủy quân vào cửa bể Nha Trang, đánh phủ Diên Khánh. Một trận đánh khốc liệt giữa quân Nguyễn Ánh và Tây Sơn tại Phương Sài tháng 5 năm 1793: “Thủy binh vào cửa Nha Trang, đánh lên Diên Khánh. Quân Tây Sơn chận lại tại bến sông Trường Cá. Hai bên kịch chiến. Người chết, thuyền chìm đầy cả khúc sông”. Nguyễn Ánh chiến thắng, tiến lên chiếm Diên Khánh (tháng 5-1793), sau đó tiến chiếm phủ Bình Khang (Ninh Hoà), Phú Yên, rồi tiến đánh Qui Nhơn. Vua Cảnh Thịnh (Nguyễn Quang Toản, Tây Sơn), sai Ngô Văn Sở đem 17.000 bộ binh và 80 con voi đi đường bộ, và Đặng Văn Chân đem hơn 30 chiếc thuyền đi đường bể, cùng tiến vào cứu Qui Nhơn. Nguyễn Vương liệu thế chống không nổi, rút quân về Diên Khánh rồi về Gia Định, để Nguyễn Văn Thành ở lại giữ Diên Khánh. Tháng 11 năm 1793, chúa Nguyễn Ánh sai [/FONT][FONT=times, times new roman, serif]hoàng tử Cảnh, giám mục Bá Đa Lộc[/FONT][FONT=times, times new roman, serif], Phạm Văn Nhân và Tống Phúc Khê đến Diên Khánh tăng cường phòng giữ. Tháng ba năm Giáp Dần (1794) vua Tây Sơn sai Trần Quang Diệu vào vây thành Diên Khánh. Nguyễn Ánh bèn đem đại binh đến đánh giải vây, Trần Quang Diệu rút quân về. Nguyễn Vương thấy thế Tây Sơn còn mạnh và lại đến mùa gió bắc, nên về lại Gia Định, để Võ Tánh giữ thành Diên Khánh. Tháng giêng năm Ất Mão (1795) Trần Quang Diệu lại đem thủy quân vào đánh Diên Khánh. Một trận chiến khốc liệt khác cũng xảy ra tại Trường Cá (Phương Sài). Khi thủy binh của Trần Quang Diệu vào Sông Cái thì bị quân Võ Tánh chận đánh tại Trường Cá, hai bên tổn thất nặng nề “xác chết và ván thuyền hư chận đứng cả nước sông”. Do bị thiệt hại nặng về nhân mạng, Võ Tánh rút quân chạy vào thành Diên Khánh cố thủ. Trần Quang Diệu vây chặt thành. Hay tin, tháng 2-1795 Nguyễn Phúc Ánh liền đem thủy binh ra cứu nhưng không lên nổi Diên Khánh nên đành phải đóng quân chận nơi cửa sông Nha Trang và các nơi núi non hiểm yếu. Quang Diệu đánh mãi không được cuối cùng phải lui về Phú Xuân, và Nguyễn Vương cũng rút quân về Gia Định. Kể từ nay cho đến ngày thống nhất đất nước (1802), Diên Khánh trở thành tiền đồn của chúa Nguyễn, lần lượt do Nguyễn Văn Thành, Đặng Trần Thường, Võ Tánh cai quản, và sau này là nơi xuất phát tấn công Tây Sơn ở phía bắc. Khu đất phía ngoài Cửa Nam Thành Diên Khánh có tên Mả Xá, là nơi hàng ngàn chiến sĩ của hai bên được chôn vùi tập thể, một thời có tiếng là ma oan hiện về khuấy phá. [/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Sông Cái Nha Trang[/FONT]

    [FONT=times, times new roman, serif][​IMG][/FONT]​
    [FONT=times, times new roman, serif]Sông Cái Nha Trang phát xuất từ ba nguồn thuộc dãy Trường Sơn. Sông này tên Chăm là Ya-Tră (nghĩa là sông Lau vì hai bên bờ toàn lau sậy, người Việt phát âm thành Nha Trang). Ở thế kỷ 17, sông này chảy ra biển theo ba nhánh, một nhánh có tên là Ngư Trường từ Cầu Dứa chảy ra Cửa Bé Cù Huân, như ghi trong Đại Nam Nhất Thống Chí. Hai nhánh kia chảy ra Cửa Lớn Cù Huân (sau này thành Xương Huân). Sông Ngư Trường sau này đã bị bồi đấp và biến mất, chỉ còn vài đoạn nhỏ. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí: "Cửa Bé Cù Huân ở cách huyện Vĩnh Xương 29 dặm về phía đông nam, cửa lạch rộng 190 trượng, thủy triều lên sâu 6 thước, thủy triều xuống sâu 4 thước. Ngoài cửa có hòn Lam Nguyên, hòn Tằm, hòn Ba La, hòn Lớn, hòn Môn, các đảo nầy bao quanh, tàu thuyền tụ tập. Gió bắc thì tàu đổ phía nam núi, gió tây thì đổ phía bắc núi, đều được an ổn. Gần đó có thôn Trường Tây". Vì vậy, trước 1940, dân vùng Diên Khánh gọi Nha Trang là Cửa, và Cửa Bé là địa danh Trường Đông, phía nam Cầu Đá. Sông Cái đến địa phận Nha Trang thì chia hai nhánh, nhánh cầu Hà Ra và nhánh cầu Xóm Bóng bên Tháp Bà. Ngày xưa nhánh sông bên Tháp Bà "nước giữa dòng bên trong bên đục" bên nước trong xanh uống ngọt, bên kia màu đục uống vô mặn chát nước muối. [/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Tổ chức hành chánh[/FONT]

    [FONT=times, times new roman, serif][FONT=times, times new roman, serif]Thời vua Minh Mạng (1820-1837), tỉnh Khánh Hoà có Ty Bố Chánh và Ty Án Sát, đặt dưới quyền của viên quan Tuần Vũ Thuận Khánh (kiêm nhiệm cai quản từ Khánh Hoà đến Bình Thuận). Tuỳ theo tình hình chính trị, chức vị đầu tỉnh khi mang tên Tổng Đốc, khi Tuần Vũ quan phòng, sau này thành Tỉnh Trưởng. Hậu bổ Khánh Hoà năm 1842 là ông Trần Thiện Chánh (mà ca nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, Nhật Trường, là hậu duệ).[/FONT][/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif][FONT=times, times new roman, serif]Quân Pháp đặt chân đến Nha Trang lần đầu là năm 1862. Vị Án Sát Diên Khánh năm 1867-1870 ở Diên Khánh là Nguyễn Thông. Năm Ất Dậu 1885, chiếu theo hiệp ước Patenôtre, quân Pháp chính thức đến Nha Trang, với viên Công Sứ Pháp đầu tiên là Lenormand, bắt đầu áp đặt chánh sách cai trị Khánh Hoà. Viên Tuần Vũ Việt Nam của triều đình Huế ở Thành Diên Khánh vào khoảng năm 1886 là Ông Trương Gia Hội. Các ông Nguyễn Thông và Trương Gia Hội đều là những vị quan tài giỏi, liêm khiết, có tâm huyết, của triều đình Huế ở Thuận Khánh (Khánh Hoà Bình Thuận), có công phát triển nông nghiệp, lập dinh điền, và là người có công khám phá vùng Di Linh Lâm Đồng mười năm trước khi Bác sĩ Yersin khám phá cao nguyên Lang Biang và Đà Lạt.[/FONT][/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif][FONT=times, times new roman, serif]Dưới thời vua Đồng Khánh, các tỉnh Bình Định, Phú yên, Khánh Hoà và Bình Thuận được gọi là các tỉnh Tả Trực Kỳ, vào năm 1886 cai quản bốn tỉnh này bởi vị Khâm Sai là Phan Liêm, con thứ ba của Phan Thanh Giảng, và Phó Khâm Sai là Phạm Phú Lâm (con quan tả tham tri lại bộ Phạm Phú Thứ trong phái bộ sang Pháp chuộc 3 tỉnh miền đông Nam Kỳ).[/FONT][/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif][FONT=times, times new roman, serif]Theo hiệp ước Patenôtre (06/06/1884) thì triều đình Huế - chính phủ Nam Triều - trên danh nghĩa cai quản một lãnh thổ nhỏ hẹp từ Khánh Hoà đến Đèo Ngang, trong thực tế mọi chuyện ở địa phương đều do Pháp định đoạt. Vào năm 1890, Ông Phan Liêm được Pháp và triều đình Huế cho làm Tổng Đốc Thuận Khánh.[/FONT][/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif][FONT=times, times new roman, serif]Một trong những tổng đốc khét tiếng tàn ác ở vùng Bình Thuận Khánh Hoà cho tới Bình Định, khoảng năm 1887, là Trần Bá Lộc. Ông theo Pháp, giúp Pháp đắc lực trong việc dẹp tan và giết hại không biết bao nhiêu chiến sĩ Văn Thân từ Bình Thuận đến Bình Định theo vua Hàm Nghi và chống Pháp. Chỉ trong một năm (từ 6-1886 đến 6-1887) cùng với thiếu-tá De Lorme và viên Công-sứ Aymonier, Trần Bá Lộc dẹp tan lực lượng Văn Thân từ Bình Thuận đến Bình Định. Theo “Sài Gòn Năm Xưa” của Vương Hồng Sển thì cả năm trời quân Pháp không dẹp được quân Văn Thân ở hai tỉnh này (Bình Thuận và Khánh Hoà), khi bắt được địch quân thì người Pháp chỉ nhốt vào khám. Ngược lại, khi làm Tổng Đốc Thuận Khánh, chỉ trong vòng ba tháng thì Trần Bá Lộc dẹp tan Văn Thân: khi bắt được địch quân thì chặt đầu tức khắc, “chém người như chém chuối, chém không chừa một con đỏ”. Còn đối với địch binh không chịu qui hàng, thì ông “sai bắt cha mẹ vợ con người đó đóng gông cầm tù, ra hạn trong bao lâu đó nếu không qui hàng thì cha mẹ và vợ sẽ bêu đầu, trẻ con thì bỏ vào lòng cối giả gạo, sai lính dùng chày lớn quết như quết nem”. Vì vậy, Cầu Sông Cạn ở Diên Khánh là nơi bao chiến sĩ anh hùng bị xử trảm. Trong cuộc thám hiểm Đà Lạt năm 1893, Bác sĩ Yersin bị phục kích bắn bị thương ở rừng núi Phan Rang. Nhóm phục kích là tù chánh trị vượt ngục ở Phan Thiết do một người tên Thục cầm đầu. Một tuần sau, quân Pháp bắt được 40 trong số 56 người vượt ngục, trong số đó có viên chỉ huy Thục, giải về Diên Khánh xử trảm. Trong bức thư gởi mẹ ở Pháp, Bác sĩ Yersin ca ngợi kẻ tử tù này là “rất can đảm và trầm tĩnh khác thường” trước nhát gươm kết liểu cuộc đời. Trần Bá Lộc xú danh muôn thuở. Trong bài thơ “Viếng mộ Trần Bá Lộc” tại Cái Bè (Mỹ Tho) của nhà giáo Trần Văn Hương (nguyên Thủ Tướng, Tổng Thống VNCH) năm 1919 có hai câu:[/FONT] [/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]“Mặt bia rờ rỡ lời khen thế,
    Nét mực ràng ràng giọt máu dân...”
    [/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Địa danh cầu Sông Cạn cũng là nơi xử trảm nhà ái quốc cách mạng phong trào Duy tân Tiến sĩ Trần Quí Cáp (1870-1908) ngày 15 tháng 5 năm Mậu Thân (15/6/1908). Ông đang làm giáo thọ ở Ninh Hoà. Quan tỉnh Khánh Hoà lúc bấy giờ là Án sát Nguyễn Văn Mại và Bố chánh Phạm Ngọc Quát cùng với viên khâm sứ Pháp ở Trung Kỳ là Lévecque đã ra lệnh xử chém ông. Theo những hồ sơ lưu trữ tại Centre des archives Outre Mer (CAOM) (Trung tâm Văn Khố hải ngoại) ở Aix-en-Provence (Pháp), một quan chức Pháp tại phủ Ninh Hòa đến tận nhà bắt Trần Quí Cáp ngày 16/4/1908, theo lệnh của khâm sứ Pháp Lévecque tại Huế và của triều đình VN. Sau hai tháng không xét xử, ông bị chém ngang lưng ngày 15/6/1908 tại cầu Sông Cạn (Ngã ba Thành), vì người Pháp sợ Trần Quí Cáp sẽ lãnh đạo dân chúng Khánh Hòa nổi lên gây xáo trộn, sau khi những cuộc biểu tình chống sưu cao thuế nặng bùng nổ ở Quảng Nam, rồi lan dần xuống Quảng Ngãi, Bình Định. Về phía VN, người tham dự từ đầu đến cuối trong vụ án này, và cũng là kẻ đóng vai trò chính trong việc thúc đẩy nhanh chóng bản án tử hình Trần Quí Cáp là quan bố chánh, phó đầu tỉnh Khánh Hòa, Phạm Ngọc Quát. Ngoài ra, một người khác nghi có dính líu trực tiếp trong vụ xử tử Trần Quí Cáp là Án Sát Khánh Hoà Nguyễn Văn Mại, mặc dầu sau này ông ta chối tội. Tư cách của Án Sát Nguyễn Văn Mại được truyền trụng khi làm Bố Chánh ở Quảng Nam như sau “Thường ngày sau khi trống đánh ba hồi, quan ngồi chễm chệ giữa công đường, xã dân đến hầu mỗi người bưng một mâm lễ, đặt dưới đất ngoài sân cho quan ngó thấy rồi sắp hàng lạy. Đối với dân thì quan hầm hét: nào giang nọc đánh, nào hăm chặt đầu, gông cổ v.v... Đã thế nhưng điều đáng buồn là khi nghe có Tây nào đến thì ôi thôi! Áo không kịp gài, giày không kịp mang, chỉ biết đứng nghe, tên thông ngôn nói chi thì dạ nấy” (Theo Trần Huỳnh Sách, học trò của Trần Quí Cáp). Xúc động với cái chết của Trần Quí Cáp, cụ Huỳnh Thúc Kháng có bài thơ chữ Hán khóc bạn: “…Bồng đảo xuân phong huyền viễn mộng, Nha Trang thu khảo khấp anh hồn…” dịch “Bồng đảo gió thu đưa giấc mộng, Nha Trang cây cỏ khóc hồn thiêng”. Cụ Phan Bội Châu trong "Văn tế Thai Xuyên Trần Quí Cáp” có viết: "Nhớ khi ông ra tới trường chém, dao đã kề cổ, còn thung dung xin với quan giám trảm, cho đặt án đốt hương, áo mão nghiêm trang, bái tạ quốc dân ngũ bái, rồi khẳng khái tựu hình, sắc mặt in như khi nhóm trò giảng sách!". Còn cụ Phan Châu Trinh, từ trong nhà tù Côn đảo, cũng có bài thơ khóc Trần Quí Cáp:[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Anh biết cho chăng hởi Dã Hàng!
    Thình lình sóng dậy cửa Nha Trang
    Lời nguyền trời đất còn ghi tạc
    Giọt máu non sông đã chảy tràn
    Tinh vệ nghìn năm hờn khó dứt
    Đỗ quyên muôn kiếp oán chưa tan

    [/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Viên Công Sứ (tức Tỉnh Trưởng) năm 1930 và 1933, lần lượt là Ông Bréda và Ông Destenay. Viên Tuần Vũ Việt Nam cùng thời là Ung Trinh (hay Trinh Ung). Vị Tỉnh Trưởng người Việt đầu tiên ở Nha Trang là ông Hoàng Phúc Hải.[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Tỉnh lỵ Khánh Hoà đặt trong nội thành Diên Khánh – nên được gọi Thành – cho đến 1945. Năm 1901, Ninh Thuận tách khỏi Khánh Hoà, và từ đó đến 1945 tỉnh Khánh Hoà gồm hai phủ và bốn huyện, phủ Diên Khánh có hai huyện là Vỉnh Xương (Nha Trang) và Phước Điền, và phủ Ninh Hoà có hai huyện là Quảng Phước và Tân Định. Vào đầu thế kỷ 20, ngoài hai địa hạt hành chánh biệt lập là tỉnh Khánh Hoà và thị xã Nha Trang, còn có hai cơ quan hành chánh đặc biệt gọi là Đại Lý (Délégation), như Délégation de Ba Ngòi và Délégation de Suối Dầu do một viên chức người Việt điều khiển gọi là Bang Tá.[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Về mặt hành chánh, Nha Trang, trước năm 1945, gồm nhiều đơn vị gọi là Phường, đặt theo thứ tự là Phường Đệ Nhất, Phường Đệ Nhị (1er quartier, 2er quartier). Vùng ngoại ô Nha Trang gồm có Phường Sài (thường gọi Phương Sài), Phường Củi, Trường Đông (Cửa Bé), Trường Tây (Cầu Đá). Nghị định ngày 30/6/1924 của viên Toàn Quyền Đông Dương thiết lập thị trấn Nha Trang với bốn làng là Xương Huân, Phương Câu, Vạn Thạnh và Phương Sài. Nghị định ngày 15/3/1944, thị trấn Nha Trang được nâng thành thị xã với năm phường là Xương Huân, Phương Câu, Vạn Thạnh, Phương Sài và Phước Hải. Phước Hải trước 1944 gồm có Xóm Giá (chuyên làm giá) và Xóm Dương, nhà cửa thưa thớt, toàn là đồng cát, gò mả và cây ma dương. Năm 1945, tỉnh lỵ được dời từ Diên Khánh tới Nha Trang. Thời Việt Nam Cộng Hoà, tỉnh Khánh Hoà gồm các quận Vạn Ninh, Ninh Hoà, Vĩnh Xương, Diên Khánh và Cam Lâm, với tỉnh lỵ Nha Trang. Ngày 27 tháng 01 năm 1958, bãi bỏ qui chế thị xã, chia Nha Trang thành hai xã, là Nha Trang Đông và Nha Trang Tây, đều thuộc quận Vĩnh Xương.[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Cửa Bé[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Theo Gabrielle Vassal, một phụ nữ Anh có chồng Pháp là bác sĩ thú y làm tại Viện Pasteur, đã sống ba năm ở Nha Trang từ năm 1904, thì Nha Trang là một làng đánh cá nghèo nàn với khoảng 3 ngàn dân, đa số sống nghề đánh cá, nhà tranh, một ít là nhà ngói, có một khách sạn nhỏ của người Tàu, con nít còn ở truồng chơi ngoài đường. Đa số dân chúng bị bịnh mắt bét, mắt hột. Theo Vassal, so với vùng phụ cận Sài Gòn thời đó, thì Nha Trang quá nghèo nàn. Cửa Bé là cảng tàu tây phương cập bến, ở đó người Pháp có xây một hải đăng hướng dẫn tàu bè. Cửa Bé cũng rất nghèo nàn, cứ mỗi 15 ngày có một chuyến tàu bằng hơi nước chạy đường Sài Gòn Hải Phòng ghé cập bến Cửa Bé.[/FONT]
    [​IMG]
    [FONT=times, times new roman, serif]Đường từ Cửa Bé đến Nha Trang là đường mòn nhỏ hẹp đầy ổ gà, với bụi cát và bùn lầy, với chiếc xe cọc cạch với con ngựa nhỏ thó. Đoạn quốc lộ qua Nha Trang cũng tương tự như vậy. Cũng khoảng thời điểm này, Nha Trang có khoảng từ 20 đến 30 người Âu Châu, đa số là Pháp, gồm nhân viên hành chánh (đa số là thuế vụ) và quân sự Pháp, kỹ sư Lục Lộ (Công Chánh), Hoả Xa (bắt đầu xây dựng) và các nhà truyền giáo. Đứng đầu là vị Công Sứ (Résident Maire) Pháp. Về mặt kiến thiêt, Nha Trang lúc đó (1904) đã có Avenue de la Plage (Đại lộ Duy Tân) chạy dọc biển, dọc đó đã có Viện Pasteur (xây năm 1895), dinh Công Sứ (khu Tỉnh Trưởng), dinh Quan Năm (tức Bác sĩ Yersin, xây 1895) ở Xóm Cồn, vài nhà người Pháp, một khách sạn (có lẽ khách sạn La Frégate) dành cho người Âu Châu và Bưu Điện. Nhà của người Pháp xây bằng gạch tường quét vôi trắng, mái ngói nâu, nhà có 3 gian, mặt trước là hàng hiên, phía trước là một vườn hoa rộng. Mặt sau là một nhà cách biệt gồm nhà bếp, phòng dành cho gia nhân người Việt khoảng 4-5 người. Chợ Nha trang vừa được xây (chưa phải Chợ Đầm), nền xi măng, mái ngói, còn nhỏ hẹp, chợ nhóm ngày hai buổi, sáng và chiều, trái cây, rau cải, cá mắm bán la liệt chung quanh chợ. Vào mùa khô thì chợ đầy bụi bậm, vào mùa mưa thì ngập nước phải lội có khi tới đầu gối.[/FONT]
    [​IMG]
    [FONT=times, times new roman, serif]Grand Hotel đường Duy Tân, một trong những công trình đầu tiên ở Nha trang trước 1973 sử dụng làm Bộ Tham mưu liên quân Quân đoàn II. Sau 1975 là Nhà khách T78[/FONT]

    [FONT=times, times new roman, serif]C[/FONT][FONT=times, times new roman, serif]hợ Đầm Nha Trang[/FONT]

    [FONT=times, times new roman, serif]Được xây cất đầu thập niên 1930, nền cao trên 1m để tránh ngập lụt, dài và rộng thoáng hơn trước, dọc theo đường phố và bờ hổ có xây nhiều kiosk. Chợ này bị cháy hoàn toàn năm 1966, và được xây cất lại trên khu đất kế cạnh, vốn là một cái đầm được lấp. Đó là Chợ Đầm ngày nay. Con đường từ Lầu Quan Năm (Yersin) sát bờ sông, chạy dọc bờ tường Khu Công Sứ, có tên “Rue de l’Observatoire”, sau 1950 đổi thành đường “Thiên Văn” rồi “Nguyễn Bỉnh Khiêm”. Cũng theo bút ký của Gabrielle Vassal, thì năm 1904, Nha Trang có 3 đầm nước, đứng ở Tháp Bà nhìn thấy rõ 3 đầm này. Hai đầm ở hai bên quốc lộ 1, nhỏ và cạn, sau này dần dần bị lấp, canh tác rau muống (địa danh Rập Rau Muống), còn ít dấu vết đầm lầy khoảng 1950, và hoàn toàn không còn dấu vết vì xây dựng nhà cửa như hiện nay. Đầm lớn nhất là vị trí Chợ Đầm Nha Trang ngày nay, có một đoạn có bờ lát đá. Chung quanh Đầm là “Quai du Marché” – đường Bến Chợ. Trứơc 1950, Đầm rất sầm uất với ghe buôn bán tấp nập. Ở phía bắc Đầm có bến bán tre, lồ ô, nên có Xóm Lồ Ô (ở góc đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, Bến Chợ). Sau 1966, Đầm này bị lấp để xây cất chợ Nha Trang ngày nay.[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Y tế[/FONT]

    [FONT=times, times new roman, serif]Bệnh viện Nha Trang[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Nhà thương thí - được thiết lập khoảng 1890 do Bác sĩ Yersin đề xướng. Năm 1896, dịch hạch xuất hiện ở Nha Trang, nạn nhân chết đầu tiên lại là Bác sĩ Thú y Pesas, viên trợ lý của Bác sĩ Yersin tại Viện Pasteur Nha Trang phụ trách sản xuất huyết thanh tại Suối Dầu. Tháng 6 năm 1899, dịch hạch tái phát ở Xóm Cồn, rồi đến tháng 12 năm đó lan rộng đến hai làng khác ở Nha Trang. Để diệt trùng, nhà cửa đâu đâu cũng đều được xịt nước vôi trắng xoá. Sau đó, chính quyền phải cho đốt sạch nhà cửa (để tiêu diệt chuột), di tản dân chúng đến vùng khác và tiêm ngừa huyết thanh toàn thể dân chúng Nha Trang mới ngăn chận được dịch hạch. Cũng trong thời kỳ này, dân vùng quê Diên Khánh mắc bịnh và chết vì sốt rét rất nhiều. [/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Công trình phát triển Nha Trang phải nói là nhờ Bác sĩ Yersin. Bác sĩ Yersin đến Việt Nam ngày 18 tháng 10 năm 1890, đặt chân đến Nha Trang ngày 29 tháng 7 năm 1891, và qua đời ngày 01 thảng 3 năm 1943, chôn trên một ngọn đồi nhỏ trong vườn cao su Suối Dầu. [/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Viện Pasteur[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif][​IMG][/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif] [FONT=times, times new roman, serif]Viện Pasteur với kiến trúc nguyên thủy sau khi xây dựng năm 1895[/FONT]

    [/FONT] [FONT=times, times new roman, serif]Đựợc xây năm 1895 do Bác sĩ Alexandre Yersin chủ xướng. [/FONT][FONT=times, times new roman, serif]Với 5000 đồng bạc do toàn quyền Đông Dương Chevassieux trợ cấp, Yersin lập một phòng thí nghiệm đơn sơ tại bờ bể Nha Trang, và cất tại Suối Dầu một trại nuôi trâu bò, lừa ngựa, cùng thỏ chuột, dùng cho việc thí nghiệm. Năm 1896, ông được chánh phủ biệt phái một viên thú y nhà binh là Pesas đến săn sóc thú vật. Năm 1896, thống chế Lyantey (lúc bấy giờ là thiếu tá) đến thị sát Nha Trang và thăm viếng Viện Pasteur. Cũng năm này, Yersin chọn cái lô-cốt hai tầng bỏ hoang gần xóm Cồn tại cửa Sông Cái để xây nhà ông–Dinh Ông Năm. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, nơi đây vốn là một đồn biên phòng rất lâu đời. Dinh Ông Năm mỗi bề khoảng 7m50, có 3 tầng. Mỗi tầng có hành lang rộng bao bọc, có thể đi dọc hành lang để quan sát. Ông bố trí tầng trệt là phòng ăn, tầng một là phòng làm việc và tầng hai là phòng ngủ. Về sau, nóc nhà làm thêm một vòng tròn để dựng kính thiên văn. Ông cho làm hai cái bồ to, có đường kính một mét, trên sơn màu đen. Khi có bão, hai cái bồ được kéo lên hai cây cột bằng phi lao trên núi Sinh Trung để báo hiệu.[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif][​IMG][/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif] [FONT=times, times new roman, serif]Khu nhà Yersin, dân chúng quen gọi là lầu ông Năm hiện nay được tu sửa làm Nhà khách 378, tòa lầu hình tròn phía sau đã bị phá bỏ.[/FONT]

    [/FONT] [FONT=times, times new roman, serif]Năm 1897, Bác sĩ Yersin cho nhập nội giống cao su vào trồng thí nghiêm ở Suối Dầu, và sau đó với sự cộng tác của kỹ sư canh nông Vernet, hơn 100 ha cao su được trồng vào năm 1909. Năm 1915, Bác sĩ Yersin cho trồng thí nghiệm cây kí ninh ở Hòn Bà để cung cấp thuốc trị sốt rét trong thời đệ nhất thế chiến. Bác sĩ Yersin cũng mở hai trại nuôi bò, một ở đảo Hòn Tre và một ở Suối Dầu. Về sau, bỏ đảo Hòn Tre, và bò ở Hòn Tre trở thành bò rừng.[/FONT][FONT=times, times new roman, serif] [/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Trường học[/FONT]

    [FONT=times, times new roman, serif]Năm 1902, khi Ông Beau lên làm Toàn Quyền Đông Dương thay thế Toàn Quyền Paul Doumer, Ông bãi bỏ Nho Học thay vào bằng chữ Pháp, lập Y Tế Cục, lập nhà thương, bưu điện, sở công chánh. Vì vậy, Nha Trang có một trường tiểu học kiểu mẫu dạy chữ quốc ngữ khánh thành năm 1906, đó là Trường Nam Tiểu Học Nha Trang. Toàn tỉnh Khánh Hoà vào năm 1906 có 24 truờng tổng. [FONT=times, times new roman, serif]Ông Nguyễn Văn Hai đến nhậm chưc Án Sát tháng 11 năm 1905, là người có công xây dựng các trường học ở Khánh Hoà. Về tình trạng văn học và giáo dục ở Khánh Hoà đầu thế kỷ 20, Án Sát Nguyễn Văn Hai viết nhận xét năm 1911 "[FONT=times, times new roman, serif]Dân cư hai tỉnh Thuận Khánh phần đông làm nghề nông, không chuộng văn học, sở xưng cư trú trong tỉnh phần nhiều là Nghệ Tỉnh ngụ cư. Ngưới làm việc phần nhiều học trò người Quảng Nam, Quảng Ngãi. Còn người bản tỉnh, ngoài những người làm ruộng và chăn nuôi, toàn là những người ăn chơi. Lúc ấy, khuyến thị lập trường được 24 trường, mỗi trường tốn 2-3 ngàn đồng, trong trường, bàn ghế, vật dụng, màn trướng, khí mảnh đều đầy đủ. Ai nấy phấn khởi. Tại Bình Thuận, có Tú Tài Nguyễn Hiệp Chi hội họp các bạn lập liên thành thơ quán, uỷ người đến ta xin ta câu đối:[/FONT][/FONT][/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif] Dư ngã tẩy trừ ô nảo cựu - [/FONT][FONT=times, times new roman, serif]Vị quân diễn thuyết vũ đài tân [/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif][/FONT][FONT=times, times new roman, serif]Tại Bình Thuận lập thơ xã, tại Khánh Hoà lập học trường. Cho nên một độ nhân sỉ Nghệ An, Nam Nghĩa từ Bắc vào Nam rất đông. Phàm người cựu học mà kiêm thông quốc văn, đến đó được một nghề giáo sư không đến nổi thất nghiệp. Lúc đó trú kinh Khâm Sứ Khánh Hoà thăm, thấy các trường chỉnh tề rất khen, liên tư về Cơ Mật thông tư cho các tỉnh biết. [/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Tại Khánh Hoà lập trường như vậy nhưng học trò vào học thí là một thời đại khác. Đáng cười. Nguyên nghĩ trẻ con được 8 tuổi đến số 30 trẻ thì thiết lập một trường Tổng. Lúc đó đi hiểu thị chỉ đến các nhà phú hào để kê số trẻ có thể đi học, mà con nhà nghèo không kê vào số ấy. Đến ngày mở trường thì phần nhiều con nhà nghèo đến học, con nhà khá thì ít. Trẻ con trước kia phần đông kê khai không vào học. Các giáo sư kê tên bẩm lên. Khi nghiêm sức lại thì một số con nhà giàu thuê con nhà nghèo mạo tên đến học thế. Giá thuê mỗi tháng 3 đồng hoặc 5 đồng. Ấy là cũng một câu chuyện buồn cười lúc đầu mới lập trường. Nhưng sau lại, nhà giàu thấy con nhà nghèo đi học chưa được năm ba tháng đã biết đọc sách, đọc bài, viết thơ, v.v., mới thấy học quốc ngữ có ích, khi đó mới cho con em đi học" (Tư liệu của Trần Văn Tư, Đặc San Võ Tánh/Nữ Trung Học Nha Trang 31 Năm Nha Trang Viễn Xứ Nam Cali 2006, trang 270-271).[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Năm 1928, thầy Cung Giũ Nguyên đến dạy học ở đây với chức trợ giáo (instituteur stagiaire). Muốn được làm thầy giáo, phải có bằng Thành Chung và phải đậu thêm Bằng Khả Năng Sư Phạm (Brevet d’Aptitude peùdagogique). Bằng này cần thiết để vào ngạch, nếu trong hai năm không đỗ thì bị sa thải. Thầy giáo trong thời này mặc áo dài đen, đầu đội khăn đóng, chân mang dày hạ bóng nhoáng. Ngay cả các thanh tra người Pháp cũng khăn đóng, áo dài Việt nam.[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]College de Nha Trang, tiền thân của Trung Học Nha Trang, sau này là Võ Tánh, thiết lập năm 1947 với một lớp duy nhất 1ère année (tức Đệ Thất) khoảng 30 học sinh, mượn phòng học của Trường Nam, dạy theo chuơng trình Pháp Việt. Thầy Trương Văn Như làm hiệu trưởng đầu tiên (từ 1947 đến 1951). Về sau, Thầy Như mở trường tư thục tức trường Kim Yến. Thầy Võ Thành Điểm làm giáo sư hội hoạ từ 1947. Từ 1949, chọn được khu đất rộng, với sự giúp đỡ đặc biệt của Ông Tỉnh Trưởng đương thời Trần Thúc Linh trích từ ngân sách tỉnh, trường được xây cất và niên khoá 1952-1953, trường dời về vị trí ngày nay và mang tên Võ Tánh, gồm 8 phòng học (4 ở tầng trệt, 4 trên lầu) và dạy chương trình Việt.[/FONT]
    [​IMG]
    [FONT=times, times new roman, serif]Trường Trung học Võ Tánh trước 1975[/FONT]​
    [FONT=times, times new roman, serif]Nha Trang có mộtnguyệt san đầu tiên, năm 1930, “Les Cahiers de la Jeunesse” viết bằng tiếng Pháp do thầy Cung Giũ Nguyên[/FONT][FONT=times, times new roman, serif] và Ông Raoul Sereone (nhân viên Hải Học Viện Nha Trang) chủ trương. [/FONT][FONT=times, times new roman, serif]Sân tennis trước Trường Nam cũng đã có vào năm 1903, dành cho người Pháp. [/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Hải Học Viện Nha Trang được thành lập tại Cầu Đá năm 1921. Giám đốc đầu tiên là Armand Krempf. Công tác xây cất với đầy đủ trang bị khoa học và khánh thành ngày 01/01/1930. Hải Học Viện Nha Trang đã nổi tiếng quốc tế vì những nghiên cứu hải dương học kể từ năm này. Tháng Hai năm 1933, vua Bảo Đại và Nam Phương Hoàng hậu[/FONT][FONT=times, times new roman, serif] đến thăm viếng. Ngày 01/01/1952, Hải Học Viện được trao cho chính phủ Việt Nam Cộng Hoà, vị giám đốc người Việt đầu tiên là Ông Ngô Bá Thành. Giáo Sư Phạm Hoàng Hộ và Giáo sư Nguyễn Hải có một thời làm việc ở đây. Thầy Nguyễn Hải cũng dạy Võ Tánh khoảng 1956.
    [/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Dân số [/FONT]

    [FONT=times, times new roman, serif][FONT=times, times new roman, serif]Nha Trang vào năm 1905 khoảng 3,000 dân, tăng lên 40,000 dân năm 1943, 172,000 năm 1979, 213,500 năm 1989, và 340,000 năm 1998. Dân số Nha Trang tăng nhanh sau 1945 do mất an ninh vùng thôn quê, sau 1954 dân di cư từ Miền Bắc vào sinh sống sống tập trung nhiều ở Xóm Mới Phước Hải, đến giai đoạn 1964-1972, chiến tranh lan rộng khắp nơi, miền thôn quê mất an ninh nên một phần lớn dân chúng từ Phú Yên, Bình Định kéo vào Nha trang lập nên thành phố sầm uất.[/FONT][/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif][FONT=times, times new roman, serif]Diện tích thành phố chính của Nha Trang năm 1998 là 7,255 ha, nếu kể phụ cận là 238,000 ha.[/FONT][/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Theo bút tích của các nhà truyền giáo, Nha Trang vào đầu thập niên 1930s còn nhiều nơi hoang vắng, không người ở, đêm đêm cọp từ Đồng Bò lai vãng dọc biển trên đường Avenue de la Plage khoảng gần Chụt. Khoảng đất từ Nhà Thờ Núi tới biển còn hoang vu, chưa có dân cư, toàn là cát trắng, mồ mả, và cây dương cho đến khi Pháp xây dựng Nhà thờ Núi và Ga Nha trang mới có dân cư tập trung sinh sống đến nay vẫn còn tên Xóm Dương. Trong thành phố, dân sống thưa thớt, nghề chính là đánh cá, nghề nông, một số ít là công chức. Phố xá, chỉ tập trung trên một phố chính, vẫn là ngôi chợ cũ nhỏ (chưa có Chợ Đầm). Trên Avenue De La Plage chỉ có một số biệt thự người Pháp như đã có từ 1903.[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Tôn giáo[/FONT]

    [FONT=times, times new roman, serif]Theo bia đá đình Võ Cạnh thì đạo Bà La Môn và Phật giáo tiểu thừa[FONT=times, times new roman, serif] [/FONT]từ Ấn Độ du nhập vào Nha Trang từ thế kỷ thứ hai, và từ nơi đây truyền bá đến Bắc Chiêm. Di tích Phật giáo nay không còn, nhưng di tích Bà La Môn Ấn Độ Giáo là di sản văn hoá Chăm tồn tại và được dân Việt bảo tồn. Theo lịch sử Chăm ghi năm 653 dân Chăm lập đền thờ vinh danh nữ hoàng Jagadharma đã đưa đất nước Chăm thanh bình thịnh trị. Đền thờ bằng gỗ được xây trên một ngọn đồi, bên cạnh một con sông có tên Ya-Tră. Đó chính là tiền thân của Tháp Bà ngày nay. Vào thế kỷ thứ 7, Hồi giáo được các thuyền buôn Á Rập du nhập vào Nam Chiêm qua các cảng Nha Trang và Cam Ranh, nhưng không thịnh hành, mãi tới thế kỷ thứ 10 mới thành công nhờ các nhà truyền đạo Hồi giáo ở Java. Tuy nhiên, đạo này chỉ thịnh hành với người Chăm ở vùng Phan Rang trở vào mà thôi.[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Phật giáo Đại Thừa và lễ cúng Ông Bà được di dân Việt du nhập vào Khánh hoà kể từ năm 1653. Người Việt đến đâu đều thành lập làng xã, ở đó dân Việt xây cất Đình, Chùa, Miếu và Am. Đình là nơi thờ phượng các vị tiền hiền khai phá thành làng xã, hay các vị có công, các anh hùng, hay công thần do Triều đình chỉ định thờ cúng. Đình làng cũng là nơi chính quyền làng xã làm việc, nơi hội họp của dân chúng, nơi đình đám, lễ lạc, hội hè, hát bội, bài chèo v.v. được tổ chức. Đình xây với mái ngói âm dương, tường gạch, nền cao, ở vị trí trung tâm của làng xã, trên mảnh đất cao ráo nhất trong làng. Nha Trang có những đình mếu xưa cổ là đình Xương Huân, Phương Câu, Phương Sài, Đình Ông (thờ cá Ông). Chùa là nơi thờ Phật, có vị sư trụ trì, có cổng tam quan, thường xây cất ở nơi tôn nghiêm, trên đồi cao, có nhiều cây cổ thụ. Miếu để thờ các oan hồn, tử sĩ, mỗi năm chỉ làm lễ bái một lần. Am là nơi tu thiền của một vài cá nhân, thường là nơi vắng vẻ.[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Ở Ngọc Hội, có chùa Kim Sơn là cổ kính nhất, có lẽ xây dựng từ 1708. Năm Canh Thân (1740), Chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) sắc cho đổi tên là Chùa Qui Tôn, lại ban cho biển ngạch. Ngoài ra, chùa An Dưỡng ở Thái Thông do Ngài Thiệt Phú xây dựng có lẽ cũng từ năm 1708.[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Một miếu nổi tiếng và cổ xưa nhất Nha Trang còn tới ngày nay là một miếu thờ thần linh xây dựng năm 1795 trên ngọn đồi Sinh Trung. Ngay sau khi lên ngôi năm 1802 vua Gia Long truyền lệnh xây dựng lại quy mô miếu này - Miếu Tinh Trung- để thờ các anh hùng, công thần, tử sĩ có công với Nhà Nguyễn. Địa danh Sinh Trung bắt nguồn từ Tinh Trung. Năm 1852, vua Tự Đức cho trùng tu lại và đặt tên Trung Nghĩa Miếu. Đức Từ Cung Thái Hậu (Mẹ vua Bảo Đại) thường đến cúng lễ hàng năm. Năm 1950, ngài hiến miếu này cho Phật Giáo, và kể từ nay trở thành Chùa Kỳ Viên. Dân Nha Trang còn gọi là Chùa Núi. Vị hoà thượng đầu tiên toạ trì là Hoà Thượng Thích Thiện Minh.[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Chùa Hải Đức được Thiền Sư Sư Viễn Giác xây năm 1883, trong thành phố Nha Trang. Đầu tiên chỉ là một ngôi chùa nhỏ, có tên Duyên Sanh Tự. Đến 1891, xây chùa lớn trang nghiêm hơn mang tên Hải Đức Tự. Năm 1943, Đại sư Bích Không dời chùa lên đồi Trại thủy, chùa hoàn tất năm 1945. Cũng trên đồi Trại thủy, còn hai chùa nữa là Chùa Long Sơn và Chùa Bửu Phong (hay Linh Sơn). Nổi tiếng là tượng Phật cao 9 m xây dựng năm 1963, cao 14 m kể cả bệ hoa sen. Đường lên đến tượng Phật gồm 152 bậc tam cấp.[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Các nhà truyền đạo Thiên Chúa Giáo người Pháp đến Nha Trang từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Năm 1653 cha Dòng Tên là Phêrô Marques và năm 1655 một cha Giám Tỉnh Dòng Tên khác là Phanxicô Rivas đến giảng đạo tại trấn Khánh Hoà. Năm 1664, Hội Truyền Giáo Hải Ngoại (Société des missions étrangères) gởi Cha Chevreul đến truyền đạo ở các tỉnh Miền Trung, nhưng gặp nhiều khó khăn trong việc truyền đạo. Năm 1672, Cha Lambert de la Motte trên đường đi họp Công đồng Ðàng Trong cùng với hai cha Miền Nam tiên khởi là cha Giuse Trang và Luca Bền đến Chợ Mới giảng đạo. Thiên chúa giáo phát triển mạnh ở Khánh Hoà kể từ năm 1793, khi giám mục Bá Đa Lộc (Pierre Pigneau de Béhaine) được chúa Nguyễn Ánh sai đến tăng cường phòng thủ thành Diên Khánh cùng với hoàng tử Cảnh, Phạm Văn Nhân và Tống Phúc Khê. Bá Đa Lộc bấy giờ là đại công thần của chúa Nguyễn Ánh. Nhờ vậy, các làng đạo Thiên chúa giáo thành hình đầu tiên ở Khánh Hoà là xóm đạo Hà Dừa (kế thành Diên Khánh), Bình Cang (giữa Thành và Nha Trang) và Ngọc Hội (Chợ Mới). Từ các địa phận này, Thiên Chúa Giáo được phát triển đến Nha Trang và các địa phương khác ở Khánh Hoà. Vào những năm 1858-1862, phong trào “Sát Tả” chống phá Thiên Chúa Giáo dưới thời Tự Đức, các làng này bị tổn thất khá nhiều nhân mạng, một số dân theo đạo bị đem xử trảm tại Cầu Sông Cạn. Tổng số con chiên của toàn tỉnh Khánh Hoà năm 1887 là 1210 người. [/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Nhà thờ Núi, năm 1929, Nha Trang chưa có nhà thờ, có khoảng 300 con chiên, đa số làm nghề đánh cá, nông dân, một số ít là công chức. Tuy nằm trong thị xã, nhưng Nha Trang lại là họ nhánh thuộc giáo xứ Chợ Mới. Ngày Chúa Nhật, cha sở Chợ Mới lên Nha Trang làm lễ tại một ngôi nhà trên Avenue De La Plage, hiện nay là trụ sở Tòa Giám Mục. Nha Trang lúc bấy giờ trên phương diện kiến thiết cũng chưa có gì đáng kể ngoài khu chợ với vài dãy phố buôn bán và một số biệt thự của Pháp cất dọc theo bãi biển. Nha Trang vào năm này chưa có Chợ Ðầm và Nhà Thờ Núi.[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Ngay sau khi được cử làm họ đạo Nha Trang, linh mục Vallet (Louis-Agrève-Célestin, 1869-1945, tạ thế tại bịnh viện Nha trang) chọn một ngọn đồi ở tây nam Nha Trang tức Núi Một để xây cất nhà thờ. [/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif][​IMG]Bắt đầu khởi công vào tháng 2 năm 1929, mất gần 3 năm để làm đường lên núi và chuẩn bị xây cất, năm 1932 mới thật sự xây cất, mãi tới Phục Sinh 1933 mới hoàn tất, nhà thờ Núi được Ðức Giám Mục Grangeon (Ðức Cha Mẫu) làm phép. Hơn một năm sau, nhà thờ Núi có thêm hai chuông lớn và đồng hồ còn lại cho đến ngày nay. Về sau Núi Một bị xẻ làm đôi mở con đường Phước Hải (nay là Nguyễn Trãi).[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Giao thông[/FONT]

    [FONT=times, times new roman, serif]Đối diện với Tháp Bà bên kia Quốc Lộ 1, trên một ngọn đồi tuyệt đẹp là nhà Tập Dòng Sư Huynh La San, Tu viện Phanxicô, Tiểu Chủng Viện Hoa Mai (thành lập năm 1954), nhà Nữ Tu Kín (khánh thành tháng 9 năm 1961). Cha Maurice Bertin thuộc dòng Phanxicô đến Nha Trang bắt đầu công việc xây dựng Tu Viên PhanXicô cùng với các cha Hugolin Lemestre, André Durand và Léonard Ramon, vào khoảng tháng 6 năm 1938 và gần hai năm sau, tháng 7 năm 1940, tu viện Phanxicô hoàn tất.[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Quốc lộ xuyên Việt bắc nam đi qua Nha Trang đã có từ thời Chiêm Thành, nhưng núi rừng ma thiêng nước độc, lắm đèo cao, nhiều sông rộng, đường bộ chỉ dùng khi chinh chiến. Giao thông chính vẫn là đường biển, từ các cảng Chutt, Cửa Bé và Cam Ranh thuyền bè tấp nập ra bắc vào nam. Sau khi thống nhất đất nước (1802), vua Gia Long cho trùng tu lại quốc lộ Bắc Nam (Route Mandarine – Đường Cái Quan) từ năm 1803, và thành lập các bưu trạm liên lạc bằng ngựa. Đường bằng đất, có nơi rải đá, mùa hè thì bụi bậm, mùa mưa thì lầy lội. Đến thời Pháp (sau 1885), để đặt nền cai trị lâu dài và khai thác tài nguyên, chính quyền Pháp ưu tiên trong việc thành lập dinh trại binh lính địa phương (lính Khố Xanh, Khố Đỏ) ở các yếu điểm quân sự, đặc biệt bảo vệ khu Công Sứ Pháp, thành lập cơ sở Lục Lộ để làm đuờng mới, nới rộng và tráng nhựa. Sở Lục Lộ Nha Trang được thiết lập đầu thế kỷ 20, dưới thời ông Toàn quyền Beau (1902), do các kỹ sư Pháp quản lý, công nhân là Việt Nam. Năm 1936, một hoàng tử Lào, đậu kỹ sư Công Chánh ở Paris, về Nha Trang làm ở sở Lục Lộ, cưới một cô gái Nha Trang làm vợ. Vị hoàng tử này chính là Tiao Souphanouvong, có một thời (1946-1949) cùng vua anh cai trị nước Lào.[/FONT]
    [​IMG]
    [FONT=times, times new roman, serif]Khách sạn trước Ga Nha trang, nơi hoàng tử Souphanouvong lư trú và lấy cô vợ người Nha trang[/FONT]​
    [FONT=times, times new roman, serif]Con đường chạy dọc biển từ Xóm Cồn tới Chutt mang tên “Avenue de la Plage”sau này là đường Duy Tân. Trên đường biển, từ những năm đầu 1900’s, cứ mỗi hai tuần là có một chuyến tàu chạy Sài Gòn – Hải Phòng cặp bến Cửa Bé. Cửa Bé bấy giờ vừa có một hải đăng để hướng dẫn tàu. Tàu phải đậu ngoài khơi, hành khách là các công chức Pháp, lính Pháp, các kỹ sư lục lộ, v.v. phải chuyển qua ghe nhỏ để vào cửa sông Cửa Bé, ở nơi này có sẵn người bản địa để cõng từ ghe vào bờ, và khiêng hành lý lên những xe kéo. Con đường chạy từ Cửa Bé đến Nha Trang vào năm 1904 được mô tả là đầy ổ gà và bụi bậm vào mùa khô, sình lầy vào mùa mưa.[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Nha Trang có hai chiếc xe hơi đầu tiên vào năm 1901 là của Bác sĩ Yersin: đó là chiếc Serpollet năm mã lực, chiếc xe Clément, và một thuyền máy mua từ Pháp, trong khi công sứ tại Nha Trang chưa có xe. Hai năm sau (1903), ông bán chiếc Serpollet năm mã lực này cho ông công sứ Nha Trang, rồi sang Paris tậu chiếc xe Serpollet sáu mã lực. Tháng Giêng năm 1905, Yersin bán chiếc Serpollet sáu mã lực, để tậu chiếc Serpollet mười một mã lực. Năm 1910, ông định mua một chiếc máy bay, nhưng vì cả Việt Nam chưa có phi trường, nên bỏ ý định đó. Air France mở chuyến bay dân sự đầu tiên Sài Gòn-Paris năm 1932, phải mất cả tuần lễ mới tới nơi. Bác sĩ Yersin đáp chuyến bay đầu tiên này để về Pháp.
    [/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif][​IMG][/FONT]​
    Đường xe lửa xuyên Việt bắt đầu thiết kế xây dựng ở Việt Nam năm 1904, đoạn Phan Rang - Nha Trang hoàn tất năm 1912 với các ga Suối Dầu, Cây Cầy, Phú Vinh, Nha Trang, Ngọc Hội, v.v.
    [FONT=times, times new roman, serif]Nhà nghỉ mát của vua Bảo Đại [/FONT][FONT=times, times new roman, serif]xây cất năm 1923 trên một ngọn đồi ở Cầu Đá. Grand Hotels trên Avenue de la Plage hoàn thành vào cuối thập niên 1920s.
    Những rạp cinê đầu tiên của Nha Trang bắt đầu có vào cuối thập niên 1930s. Trên đường Độc Lập có rạp Abraham, năm 1953 ông Tôn Thất Đệ mua lại đổi tên thành rạp Tân Tân. Kế gần đó là rạp Tân Tiến, chủ là một người Ấn Độ. Rạp hát bội Thạnh Xương trên đường Sinh trung do ông Cò Xương thành lập khoảng 1940s để đáp ứng nhu cầu xem hát bội của dân Nha Trang sau đổi tên là rạp Tân Thanh chuyên chiếu phim Ấn Độ, ở ngã năm đối diện Nhà thương Nha Trang có rạp Tân Quang chuyên diễn cải lương và chiếu phim, gần đó là rạp Minh Châu. Mãi sau 1970 có thêm 2 rạp mới là rạp Nha Trang đường Hoàng Văn Thụ của ông chủ Nhatrang Hotel và rạp Hưng Đạo đường Huỳnh Thúc Kháng.
    [/FONT]
    [​IMG]
    [FONT=times, times new roman, serif]Nha Trang nổi tiếng với phong cảnh đẹp tuyệt vời. Con dân gốc Nha Trang, trong nước cũng như ngoài nước, đều hãnh diện về quê hương của mình. Nha Trang còn nổi tiếng quốc tế. Hơn một trăm năm trước, vào buổi sáng đẹp trời ngày 6 tháng 5 năm 1891, một thanh niên Pháp gốc Thuỵ sĩ, 28 tuổi, làm y sĩ trên một tàu hàng hải đã sững sờ trước phong cảnh hùng vĩ và thơ mộng của Vịnh Nha Trang. Dưới ánh nắng mặt trời nhiệt đới, màu xanh của những dãy núi chập chùng trên đất liền, với các hòn đảo nhấp nhô trên sóng biển xanh, với bãi cát trắng phau thấp thoáng xa xa. Chàng trai vội viết vào nhật ký "Rời Sài Gòn mất 28 tiếng đồng hồ mới đến Nha Trang tàu phải neo cách bờ một dặm, và chỉ đậu lại một giờ, vì thế không lên bờ được. Thật đáng tiếc vì vùng nầy có nhiều núi non và phong cảnh rất ngoạn mục”. Hai tháng rưỡi sau, ngày 29/07/1891, khi chuyến tàu trở lại vùng này, chàng xin phép lên bờ với chiếc thuyền độc mộc. Phong cảnh quá hữu tình, với bờ biển, cửa sông, các đảo ngoài khơi màu sắc rực rỡ của một vùng quê nhiệt đới, với khí hậu ôn hoà, đã chinh phục chàng trai. Chàng quyết định bỏ làm y sĩ trên tàu, và chọn Nha Trang làm quê hương thứ ba. [​IMG]Chàng làm việc trên 50 năm tại thành phố biển này, và trước khi từ trần, ngày 01 tháng 3 năm 1943, đã trăn trối với người cộng sự thâm niên, Ông Bùi Quang Chiêu của Viện Pasteur Nha Trang “hãy giữ tôi ở lại với Nha Trang, đừng cho ai đem tôi đi. Tôi muốn được yên nghỉ ở Suối Dầu”. Chàng thanh niên đó là Bác sĩ Alexandre Yersin, người đầu tiên đã mô tả vẻ đẹp của Vịnh Nha Trang, và ông đã hiến dâng cả cuộc đời ở quê hương này, nhờ đó thành phố Nha Trang mới có được nổi tiếng ngày hôm nay.[/FONT]
    Nguồn: Vietsciences - Trần Đăng Hồng



    1 comment




    [​IMG]Vòng tay học trò - Nguyễn Thị HoàngDec 2, '11 2:38 AM
    for everyone
    [​IMG]
    Bà Nữ Văn Sĩ NGUYỄN THỊ HOÀNG:​

    [FONT=times, times new roman, serif]Vừa nhận được tấm hình mới nhất của nữ văn sĩ do một người bạn từ Saigon gửi qua khiến tôi nảy ra ý định viết về những người đàn bà nổi danh một thời. Viết về người khác không phải là một việc khó, nhưng viết mà lột trần một vài bí ẩn của họ thì có vẻ tàn nhẫn quá chăng? Vì thế khi viết về họ, tôi cố gắng viết phớt qua những sự kiện trung thực, một vài nếp sinh hoạt nổi bật, hoặc qua lời người trong cuộc kể lại, hoặc từ những bài viết khả tín. Tấm hình tôi vừa nhận được là tấm hình bà Nguyễn thị Hoàng chụp mấy năm gần đây. Lâu rồi không gặp, giờ nhìn lại thấy cung cách bà vẫn như ngày xưa, là thứ dáng dấp trưởng giả cấp tiến của Paris ít người bắt chước cho giống. Bà Nguyễn thị Hoàng tuy không đẹp, nhưng khi xuất hiện bao giờ cũng tạo cho mình một nét riêng với lối chụp hình huyền ảo, huyễn hoặc. Trong hình bà Hoàng đội chiếc nón rộng vành màu đen che khuất một góc mũi gãy trên khuôn mặt nhỏ nhắn với đôi mắt tô mí thật đậm nhưng cố tình khép hờ để che giấu nét già nua mỏi mệt cùng với nụ cười mõng tinh quái trong chiếc áo len mềm màu lá úa ôm sát thân hình gầy dẹp nhưng mềm mại. Trái với bà Linh Bảo và bà Nguyễn thị Vinh được miệng lưỡi kẻ ái mộ văn chương dệt biết bao huyền thoại đẹp mê hồn từ lúc tác phẩm đầu tiên trình làng thì bà Nguyễn thị Hoàng gặp biết bao điều tai tiếng. Trước khi những trang Vòng Tay Học Trò dậy sóng trên Bách Khoa vào khoảng năm 1960 – 62 thì trước đó bà Nguyễn thị Hoàng được nhiều người biết tới trong một scandale sôi nổi tại thành phố Nha Trang. Những năm theo học tại trường Võ Tánh bà Nguyễn thị Hoàng dan díu và có thai với ông Cung Giũ Nguyên, thầy dạy Pháp Văn, hơn bà gần ba mươi tuổi. Theo anh K. một người hàng xóm với bà Nguyễn thị Hoàng trên đường Hùng Vương thành phố Nha Trang kể lại vụ án đầy tai tiếng này được dàn xếp êm thấm ngoài sự giao hảo của những người lớn liên hệ chức quyền giữa những người như ông Chánh án Nguyễn Hữu Thứ cựu giáo sư Khải Định (Quốc Học, Huế) với ông Nguyễn Văn Hoằng thân sinh của bà Hoàng đang là Trưởng Ty Học Chánh cùng với ông Cung Giũ Nguyên đang giữ chức Hiệu Trưởng Trung học bán công Lê Qúy Đôn kiêm giáo sư dạy Pháp Văn trường Võ Tánh tại tỉnh Nha Trang mà còn vì câu thú nhận can đảm của bà Nguyễn thị Hoàng: “Ông Cung Giũ Nguyên không có lỗi trong vụ này. Lỗi là do tôi dụ dỗ ông ta khi theo học thêm lớp Pháp Văn tại nhà, vì tôi muốn có một đứa con thông minh xuất chúng như ông ấy!”. Đứa con gái với ông Cung Giũ Nguyên sinh ra được bà Nguyễn thị Hoàng đặt tên Cung Giũ Nguyên Hoàng và giao cho bà vợ chính thức của ông Nguyên nuôi dưỡng vì bà Nguyên không thể có con. Trong những ngày tang lễ của ông Cung Giũ Nguyên vào tháng 11 năm 2008 người ta thấy cô con gái Cung Giũ Nguyên Hoàng phục tang ôm bát nhang đi trước linh vị của ông. Theo như ông Hồ Trường An trong cuốn Giai Thoại Hồng, bà Nguyễn thị Hoàng sau đó lên Đà Lạt để dạy học, bà lại dan díu với một anh học trò tên Mai Tiến Thành. Khi cả hai cùng về Saigon, cuộc tình lại tiếp tục. Bà Nguyễn thị Hoàng lại có thai, sinh một gái nữa đặt tên là Mai Quỳnh Chi, giao cho mẹ của Thành nuôi. Đứa con này, không bao giờ bà Hoàng đặt chân tới thăm (GTH trang 272) . Đây chính là mối tình bà Hoàng đã dựng nên cuốn Vòng Tay Học Trò. Mặc dù anh học trò Mai Tiến Thành là nhân vật có thật đã được gặp ông Hồ Trường An và một số nhà văn. Được ông An đưa đến thăm bà Nguyễn thị Hoàng lúc bà Hoàng đang sống với ông Bửu Sum, nhưng mới đây, trong một bài phỏng vấn trong nước, bà Nguyễn thị Hoàng tâm sự: “…Truyện mình viết thường là truyện tình bế tắc và đi xuống. Trong đó những vai nữ bao giờ cũng khát khao đi tìm một đời sống thật của mình, nghĩa là tìm kiếm chính mình. Những nhân vật nữ lang thang bất định, và xa rời với phận sự gia đình. Chất liệu lấy từ những năm bất ổn lênh đênh trong cuộc đời đã qua của mình, đôi khi được ráp nối với những câu chuyện thời sự, cộng với một phần tưởng tượng, phóng tác, vẽ vời...rồi ráp thành chuyện. Không biết bên đàn ông thì sao, chứ cánh đàn bà thường mắc phải cái này là có những nét của nhân vật hoặc chính, hoặc phụ, thế nào cũng hắt bóng cá tính thói quen, đường nét và vóc dáng của tác giả. Riêng về Vòng Tay Học Trò, nếu bảo đó là thực thì cũng không hẳn là thực mà bảo là không thực thì...cũng chẳng phải là thế. Dư luận trộn lẫn tiểu thuyết của mình với đời sống thật. Cũng vì thế mà có những tiếng ác ý lao xao về đời sống của mình. Cho nên chỉ có cách là... phải thản nhiên. (ngưng trích). Có lẽ trong số những nữ văn sĩ nỗi tiếng ngày xưa, cuộc đời và tình cảm của bà Nguyễn thị Hoàng truân chuyên nhất bởi bà không thoả mãn những khát khao. Bởi lối sống lúc nào cũng nghi vệ màu mè mặc dù thực tế vào năm 1970 bà phải bỏ Saigon về sống trong ngôi nhà nhỏ tại miền quê Long Xuyên mà bà đặt tên thật thơ mộng “Trại Đá Mềm” để trốn nợ! Hãy nghe bà than thở: “..Từ năm 1966 đến 1969, mình viết liên tục theo những "đơn đặt hàng". Trong thời gian này mình viết rất nhanh, có khi viết hai, ba truyện cùng một lúc... rồi thì lại buồn chán, mệt mỏi, kiệt sức và mất hoàn toàn tinh thần làm việc vì trong suốt những năm dài liên tục mình chỉ sống với bổn phận làm vợ, làm mẹ và gánh vác kinh tế gia đình. Cái nguồn sống riêng phải nín lại, bị khô héo đi. Sau một chuyền đi xa vào năm 1970 mình lấy lại được hứng khởi và phần không nhỏ cũng vì năm đứa con, một đòi hỏi lớn về kinh tế gia đình nên phải tiếp tục viết... Do đó mà chưa có quyển nào coi như được viết từ tim óc của mình. Những cuốn đã xuất bản: Về Trong Sương Mù, Một Ngày Rồi Thôi, Vực Nước Mắt, Cho Ðến Khi Chiều Xuống, Tuần Trăng Mật Màu Xanh, Cuộc Tình Trong Ngục Thất vv...” (ngưng trích). Cũng theo ông Hồ Trường An. Bà Nguyễn thị Hoàng mặc dù viết như gió táp mưa sa, không thèm đọc lại những gì mình đã viết; ngoài bút của chị như cuồng lưu, như ngựa phi đường xa, lướt phom phom, không có gì ngăn cản nổi. Vậy mà bà Nguyễn thị Hoàng vẫn có thì giờ chăm sóc năm đứa con, dọn dẹp nhà cửa, đảm đang việc bếp núc. Ông Nguyễn Phúc Bửu Sum, chồng bà Hoàng(có họ hàng cô cậu với Họa sĩ Nghiêu Đề) hết vụ trốn lính tới vụ đào ngũ, rồi bị bắt, rồi đào ngũ, không làm ăn gì được. Chúng ta thử đọc quyển “Chuyện Tình Trong Ngục Thất” sẽ rõ một đoạn đời cũ của bà Hoàng. Bà giúp chồng đào ngũ khi ông Bửu Sum bị đưa đi tác chiến ngoài Quảng Ngãi. Đây là cuốn sách được nhiều văn hữu ưa thích nhất, không phải vì họ có óc phản chiến, mà vì nó diễn tả trung thực tâm tình và cảm nghĩ của tác giả nhất, chân thành và sống thực nhất, và có ít có tính chất tiểu thuyết hơn các cuốn khác, trừ “Vòng Tay Học Trò”. ( GTH trang 278 & 279 ). Sau năm 1975 trong màn tự phê tự kiểm trong khoá Bồi Dưỡng Chính Trị, bà Nguyễn thị Hoàng nói trơn như mỡ, như rau muống lặt. Đại khái: “ Bọn văn nghệ miền Nam chúng tôi bị tên đầu sỏ đế quốc và chế độ hư hỏng thối nát đầu độc. Chúng tôi là kẻ bịnh hoạn, viết những tác phẩm bịnh hoạn. Xin “cách mạng” giúp đỡ chúng tôi, dìu dắt những kẻ bịnh hoạn, tật nguyền là chúng tôi trên con đường sáng tác… Rồi bà hướng về chúng tôi, những kẻ cầm bút phe bại trận, giọng van vỉ thật ai oán: - Xin các anh cùng tôi cùng tôi, trước giờ phút sống chết này nói lên một lời gì đi. Phe bại trận im lặng, mặt mày lạnh tanh. Còn phe thắng tức phe cán bộ văn hoá tổ chức khoá học tập, trong đó có nhà văn nằm vùng Vũ Hạnh thì mặt mày lầm lì, nặng nề như cái cối đá. Sự kêu ca van nài đã đẩy bà Nguyễn thị Hoàng vượt qua khỏi cái lằn mức liêm sỉ cuối cùng. Thế là Vũ Hạnh cùng Sáu Lăng xúm lại hạch sách, sỉ vả bà, nêu hết cái tính chất đồi trụy tinh thần trong tác phẩm “ Vòng Tay Học Trò”, bốc trần những tư tưởng ngoại lai trong các tác phẩm khác của chị. (GTH trang 280) Từ đó một phần do chế độ kiểm duyệt nên không thấy bà viết gì. Mặc dù dư luận về sự trục trặc tan vỡ giữa bà với ông Bửu Sum. Vấn đề thêm nhiều mối tình lê thê của bà với người này người nọ vẫn được nhiều người râm ran bàn tán, chứng tỏ với tuổi “thất thập” số phận bà vẫn chưa chịu yên lành.[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]thụyvi[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif](Hầm Nắng, 29/11/2011)[/FONT]
  7. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133

    Nha Trang địa linh nhân kiệtNov 28, '11 9:05 PM
    for everyone
    [​IMG]
    [FONT=times, times new roman, serif]Thành phố Nha-Trang được bao quanh bởi những dòng nước nên khí hậu khá dễ chịu, tươi mát, mặc dù cái nắng khắc nghiệt của vùng nhiệt đới gần như quanh năm ngự trị trên thành phố này. Hai nhánh Nam và Bắc của con sông Nha-Trang, nhánh chảy vào Cửa Bé, nhánh chảy xuống Cửa Lớn, ôm choàng cuộc đất mà phía Đông là biển lớn Thái Bình Dương, nên gọi là Tứ Thủy Triều Quy. Rồi mượn bốn hòn núi ở ngay trong thành phố tượng hình thành bốn con thú tụ họp lại để giữ anh khí, nên gọi là Tứ Linh Thú Tụ. Những hòn núi này là :

    I. Hòn Trại Thủy: là một hòn độc sơn, nằm cận kề khu trung tâm thành phố Nhatrang về hướng Tây. Núi cao hơn 80 mét, dài hơn 500 mét, chạy dọc theo Quốc Lộ 1 ở phía Bắc khi con đường Cải Lộ Tuyến (nơi ngã Ba Thành chưa hoàn thành). Hình thù ngọn núi Trại Thủy giống một con Dơi, nằm xoè đôi cánh, đầu hướng về Tây-Nam.Cổ nhân gọi là "Ngọc Bức Hàm Hòan " (Dơi ngọc ngậm vòng) vì trưóc núi, tại đầu Dơi có một bầu nước hình tròn như vòng nguyệt nhưng ngày nay bị lấp mất, dân chúng cất nhà trên bầu nước này và không còn nhận ra hình dạng của nó nữa, bây giờ chính là khu Phương Sơn. Triền phía sau toàn đá hoa cương và dốc ngược: giáp Đình Phương Sài, chạy dài lên tận đường rầy xe lửa xóm Lò Vôi (Ngọc Hội). Triền phía trước hơi lài lài, cũng bằng đá hoa cương nhưng có lẫn đất điệp. Phía dưới có một khoảng đất rộng, dân đến chiếm xây nhà lập nghiệp, gọi là đất Bà Nhu, đối diện công trường Trịnh Minh Thế và nhà Ga Nha Trang, với những hàng me cổ thụ xanh tươi. Trên núi không có cây cổ thụ, không có bàn thạch nhưng do sự chiếm cứ của dân nên có trồng những cây ăn trái như mít, mận, xoài, chùm ruột, cốc.. và từ xa nhìn đến thấy cả một màu xanh đang trở mình đầy sinh động. Trên lưng núi cũng tạo thành một con đường mòn, chạy dài từ đầu tới đuôi của hòn núi. Nơi đây một Kim Thân Phật Tổ được xây cất, rất đồ sộ. Núi Trại Thủy thường gọi là Hòn Xưởng. Tên chính thức đã được trước bạ trong sách vở là Khố Sơn, tục danh Hòn Kho.[/FONT]

    [FONT=times, times new roman, serif]
    [​IMG]
    Đại Nam Nhất Thống Chí chép:
    "Khố Sơn ở phía Đông huyện Vĩnh Xương độ hai dặm. Phía Đông Nam có nền cũ kho Phước Sơn nên đặt như thế. Phía Bắc gần sông Ngư Trường. Năm Ất Mão đầu lúc Trung Hưng (1795) đại binh đánh phá tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu ở bảo Khố Sơn tức là chỗ này. Trên núi có đền Quan Công và miếu Ngũ Hành."

    Lỵ sở Vĩnh Xương trước kia đóng ở Phú Vinh, nên sách nói "Khố Sơn nằm ở phía Đông". Và kho Phước Sơn là kho chứa lương thực từ thời Chúa Nguyễn . Nhà Tây Sơn chiến thắng chúa Nguyễn, lập xưởng đóng thuyền bè tại Hòn Kho. Từ ấy núi mang tên Hòn Xưởng. Bây giờ còn con đường mang tên Thủy Xưởng chạy bên hông Bến xe phía Nam.

    Sau khi lấy lại được Diên Khánh, Nguyễn Phúc Ánh lập trại nơi Hòn Xưởng, gần bến Trường Cá (tức Phương Sài) để thuỷ binh đóng giữ mặt biển. Người địa phương bèn gọi là Hòn Trại Thủy. Sang thời Pháp thuộc, tên Trại Thủy được ghi trên các bản địa đồ và trên giấy tờ của Chính Phủ. Hòn Trại Thủy đứng giữa đất bằng, nhiều người tưởng là một hòn núi độc lập. Nhưng theo các nhà địa lý học thì núi thuộc hệ thống vùng núi Cao Nguyên. Và các nhà Phong Thủy, tục gọi là Thầy Địa, cho biết rằng đó là Trấn Thủy Khẩu của dãy núi phía Tây Diên Khánh. Long mạch phát từ Hòn Thị (ở Bình Khánh, Diên Khánh), chạy ngầm dưới đất đến gần cửa sông Cù thì đột khởi làm cột trụ giữ anh khí cho cuộc đất Diên Khánh, Vĩnh Xương. Và thành Diên Khánh lấy Hòn Thị ở phía Tây làm hữu bật, lấy Hòn Trại Thủy ở phía Đông làm tả bật. Vì vậy, về mặt phong thủy, hòn Trại Thủy là hòn núi quan trọng của tỉnh Khánh Hòa. Và trông thấy Hòn Trại Thủy có vẻ hiền lành, mấy ai ngờ rằng trước kia đã xảy ra nhiều cuộc quyết chiến đẫm máu ngay dưới chân núi. Đó là những trận đánh ác liệt giữa nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn năm Quí Sửu (1793) và năm Giáp Dần (1795) tại bến Trường Cá. Và năm Ất Dậu (1885) Nghĩa Quân Cần Vương đã dùng nơi đây làm căn cứ chống Pháp. Ngày nay, hòn Trại Thủy được trở thành một danh lam thắng cảnh nổi tiếng với năm ngôi Chùa đồ sộ với chứng tích lịch sử của thời kỳ hưng thịnh Phật Giáo Việt-Nam, như sau:

    Chùa Hải Đức :

    Xưa kia Chùa nằm phía trên chùa Hội Phước. Được xây đựng trên đỉnh núi, nhánh phía Tây, do ngài Viên Giác Thiền Sư, pháp danh Đạt Khương, tục danh Tô Văn Danh, quê quán làng Vạn Thạnh (Nhatrang), trụ trì từ năm Tự Đức (1847-1883). Ban đầu đặt tên là Duyên Sanh Tự. Đến năm Thành Thái thứ ba (1891), mới đổi tên là Hải Đức Tự. Hiện nay là một Đại Tòng Lâm, để tăng chúng khắp nước tụ họp về đây tu học, tham thiền nên chùa được xây dựng đầy đủ tiện nghi như một Phật Học Viện có Tăng phòng, tịnh thất.. Phía sau lưng chùa có xây một tiểu đình để treo một Đại Hồng Chung, cao 1,70 mét, đường kính 1,10 mét, nặng 1009 Kg. Tiếng chuông ngân rất xa,đã gây cảm hứng cho nhiều nhà thơ, nhà văn mộ đạo hay báo hiệu giờ giấc sớm chiều cho người dân sống quanh ngọn núi nhỏ này mà bài thơ sau đây cũng diễn tả một bức tranh Thiền sinh động:

    "Sương xuống hồi chuông lặng
    Dư âm tràn hư không
    Lửng lơ vàng gợn sóng
    Trăng hồ Thu mênh mông"

    Ngài Viên Giác Thiền Sư viên tịch, các môn đệ kế tiếp nhau trụ trì:

    - Chánh Niệm Đại Sư, húy Chơn Minh.
    - Nhân Thụy giáo thọ, húy Như Khánh.
    - Phước Huệ hòa thượng, húy Ngộ Tánh.

    Phước Huệ hòa thượng, tục danh là Nguyễn Hưng Long, người Quảng Trị, được Viên Giác thiền sư thọ ký lúc 16 tuổi (1890). Năm 20 tuổi, phải bái biệt bổn sư về quê hương lo báo hiếu cho thân phụ. Rồi vào Huế tu hành. Mãi đến 15 năm sau mới trở lại Nha Trang. Vào lúc này chùa Hải Đức bị hư dột vì lâu đời, Hòa thượng ra công sửa chữa và khôi phục được quang cảnh ngày xưa. Năm 1956, Hòa thượng cùng ban Hộ Tự chùa cúng dường chùa và bất động sản liên quan cho Phật Giáo Trung Phần để thành lập Phật Học Viện và ủy quyền Thượng Tọa Thích Trí Thủ làm Giám Viện, thay mặt toàn ban điều khiển mọi sinh hoạt của Viện. Viện lại có một quả hồng chung, chú tạo năm 1961, kích thước phỏng theo quả hồng chung chùa Thiên Mụ ở Huế. Cao 1,70 mét, đường kính 1,10 mét, nặng hơn 1000 kg. Chuông treo nơi Tiểu Đình phía sau chùa Hải Đức, nơi dốc lên Tịnh Thất. Rồi tuổi già sức yếu, việc đi lại khó khăn, năm Bảo Đại thứ 14 (1938), Hòa thượng bèn giao nhiệm vụ trụ trì chùa cho Bích Không Đại Sư. Bích Không Đại Sư, pháp danh Trừng Đàn, tục danh Hoàng Hữu Đàng, quê quán Quảng Trị. Xuất thân trong một gia đình khoa bảng. Đậu Tú Tài năm Mậu Ngọ(1918). Đắc pháp Đại Sư năm Ất Hợi (1935) trong giới đàn chùa Sắc tứ Tịnh Quang tỉnh Quảng Trị do Hòa Thượng Phước Huệ làm đàn đầu truyền giới. Nguyên Đại Sư là trụ trì chùa Giác Phong tỉnh Quảng Trị, nên cũng gọi là Giác Phong Đại Sư. Rồi trải bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu cực nhọc, Đại Sư mới trưng đất mới dỡ được non, nới rộng đất trên núi Trai Thuỷ và khởi công từ đầu năm Quí Mùi (1943) đến đầu năm Ất Dậu (1945) mới cáo thành ngôi chùa Hải Đức to lớn nhất, đẹp đẽ nhất. Nhưng chùa chưa kịp lạc thành thì gặp quốc biến năm Ất Dậu (1945), Đại Sư di cư về Huế, Quảng Trị, Nghệ An. Và năm 1954, ngài thị tịch tại Nam Đàn (Nghệ An). Ngày nay tại chùa vẫn còn bút tích của Đại Sư được khắc chạm trên vách, trên cột mà mưa nắng vẫn còn nguyên. Có thể nói một cách mạnh dạn rằng đó là những tuyệt phẩm của Thiền Môn Khánh-Hòa.

    Nơi hàng cột ở chánh điện, có ba câu đối liễn.
    [/FONT]

    [FONT=times, times new roman, serif]Câu chính giữa:
    Hải thuỷ trừng thanh vạn tượng tề hiện;
    Đức hương ôn nhã nhất thiết mông huân.

    Câu kế:
    Hạnh thảo tác thân mao đoan hiện sát;
    Vi phong thuyết pháp ngoạn thạch điểm đầu.

    Câu hai bên:
    Kim Sơn Long Sơn tại kỳ tả hữu
    Nha Hải Phước Hải bổn bất khứ lai.[/FONT]

    [FONT=times, times new roman, serif]Nơi vách mái hiên ngó ra sân, mỗi vách khắc bốn đại tự, mỗi bề rộng đến bốn tấc Tây.
    Bốn chữ vách tả (vách phía Đông):
    TRÚ BÌNH ĐẲNG HỘI
    Bốn chữ nơi vách hữu (vách phía Tây):
    TÁC NHƯ THỊ QUÁN
    Nơi lầu chuông ở phía Đông khắc 8 chữ:
    PHỔ ĐOẠN SANH TỬ, HƯỞNG BIẾN HÀ SA .

    Ý nghĩa thâm viễn. Phải thấm đạo lý của Đức Phật, mới thưởng thức nổi những cái hay cái đẹp dưới những nét thanh lão của ngọn bút tài ba đã đượm nhuần giáo lý Đại Thừa.

    Chùa Bửu Phong :
    Cũng ở trên đồi Trại Thủy, nơi đầu nhánh phía Nam, cạnh đường quốc lộ 1 (nay là một con lộ rộng thênh thang chạy từ Thành xuống thành phố), đứng tại nơi ngã ba vào xóm Xưởng nhìn lên không thấy Chùa vì bị những lùm cây che khuất. Chùa này do người Trung Hoa lập từ đời Hậu Lê. Trong chùa hiện còn một quả Đại Hồng Chung, có khắc tên chùa "Bửu Phong Tự" và năm chú tạo "Tuế Thứ Quí Dậu Niên Tứ Nguyệt Cát Nhật" tức là năm Cảnh Hưng thứ 14 (1753). Chùa thờ Quan Thánh tức Quan Vân Trường đời Tam Quốc.

    Lâu đời không có người phụng tự, chùa trở thành chùa làng (làng Phước Hải). Làng vẫn thờ ngài Quan Thánh nhưng gian bên thờ thêm Bà Chúa Ngọc Thiên Y A Na. Người địa phương thường gọi là Chùa Núi. Dưới triều Bảo Đại (1925-1945) khi phong trào chấn hưng Phật Giáo phát động trong nước, làng Phước Hải hưởng ứng, cải chùa thờ Thánh thành chùa thờ Phật. Sau khi chùa Linh Phong trên Xuân Phong bị cháy và dời xuống Xuân Lạc đổi tên là Liên Hoa, thì có người được tấm biển Linh Phong Cổ Tự đem cúng cho chùa Bửu Phong, chùa giữ làm kỷ niệm. Rồi chiến tranh bùng nổ, các chùa cũng lâm vào hòan cảnh khó khăn. Sau ngày đình chiến 1954, một nhà sư ở Huế vào trụ trì chùa, thấy tấm biển Linh Phong Cổ Tự nơi chùa, đinh ninh là tên chùa. Khi tu bổ lại chùa, bèn đắp trước hiên, khắc trước ngõ bốn chữ LINH PHONG CỔ TỰ. Từ ấy chùa Bửu Phong là Linh Phong. Nếu không có quả Đại Hồng Chung không ai biết đến chùa có tên là Bửu Phong. Chùa cất theo kiểu trùng thiềm. Cây gỗ tốt song vì đã quá lâu đời mái đã quằn, cột đã xiêu. Đường lên chùa dốc thẳng đứng, các bậc đá gập ghềnh lỏng chỏng, bị vỡ hay mất đi khá nhiều làm cho việc di chuyển lên xuống khó khăn, tạo cho cảnh trí thêm hoang vắng, khiến cho khách vãn cảnh cảm thấy e ngại. Hòn Trại Thủy hình giống con Dơi nằm xoè đôi cánh, đầu hướng về phía Tây Nam. Chùa Bửu Phong đứng trên đầu con Dơi phía hai bên tả hữu bị thân Dơi và hai cánh che khuất chân mây, song phía trước nào núi nào đồng, nào xóm làng, nào phố xá, dường xe lửa... sống động nhưng không ồn ào. Nếu Chùa Bửu Phong làm mặt bằng tốt để xây một ngọn Tháp nhiều tầng như ở Thái Lan, Cao Miên hay như ngọn Tháp Thiên Mụ thì phong cảnh hòn Trại Thủy nói riêng, phong cảnh thành phố Nhatrang nói chung, sẽ nổi tiếng và tăng phần mỹ quan cho thành phố du lịch này.

    Chùa Long Sơn :
    Chùa nằm dưói chân hòn Trại Thủy, mặt hướng về Nam-Đông. Chùa Long Sơn trước có tên là Đăng Long Tự, thường được gọi là Chùa Tỉnh Hội Khánh Hòa vì đây là nơi tọa trị của Tỉnh Hội Phật giáo, được xây dựng trên núi vào năm 1886 do Hòa thượng Thích Ngộ Chí (1856-1935) trụ trì, là người huyện Vĩnh Xương, tỉnh Khánh Hòa. Năm Canh Tý (1900), sau một trận bão lớn, chùa phải dời từ trên núi xuống vị trí hiện nay. Năm 1936, chùa được Hội Phật Học chọn làm trụ sở Phật Giáo Tỉnh. Năm 1940, chùa được trùng tu do công lao của toàn thể tín đồ trong tỉnh. Năm 1968, chùa phải sửa chữa lại. Năm 1971-1975, Thượng Tọa Thích Thiện Bình đứng ra lo trùng tu chùa, việc trùng tu mới này thực hiện được 60% theo họa đồ của Kiến Trúc Sư Võ Đình Hiệp. Chùa kiến trúc theo kiểu tân thời, có tánh chất Đông Phương nhưng ở vị trí tốt, được cất trên một trảng đất cao, rộng nhìn ra đường quốc lộ 1. Trước chùa có nhiều cây lớn và hàng dừa chạy dài từ Tây sang Đông che mát cho ngôi trường Trung Học Bồ Đề, đây chính cũng là sự thuận lơi cho du khách viếng thăm Chùa trong những ngày Đại Lễ như lễ Phật Đản, Vu Lan hay ngày Tết (Vía Đức Phật Di-Lặc) để nghe thuyết pháp, cầu nguyện. Tuy gần đường xe hơi xuống lên từ Thành đến thành phố, chùa vẫn giữ được vẻ thanh tịnh, trang nghiêm. Trong các danh lam thắng cảnh ở Khánh Hòa, chùa được nhiều du khách lui tới thăm viếng nhiều nhất. Muốn đi lên thăm Kim thân Phật Tổ, chúng ta cũng có thể dùng con đường sau lưng chùa đi lên rất là gần nhưng con đường bằng đá hoa cương quá hẹp nên vào những ngày lễ thì chỉ còn cách chen nhau, kẻ tránh người né làm cho cảnh trí ồn ào, náo nhiệt khiến cho mọi người cảm thấy bồn chồn, thích thú mất cái mỏi gối, đau chân, nam thanh nữ tú lòng thấy rộn rã như những cây xanh đang đâm chồi nẩy lộc vào những ngày Xuân lên viếng chùa. Ngày nay trước sân chùa có xây thêm một ngôi nhà bán các vật kỷ niệm và kinh sách Phậtvà đường đi lên Kim thân Phật tổ được bài trí thêm nhiều tượng Bồ tát, nổi bật là tượng Bồ tát Thích Quảng Đức. Từ khi thành lập đến nay, chùa do các nhà sư sau đây trụ trì: Hòa Thượng Thích Ngộ Chí (1886-1935), Thượng Tọa Thích Chánh Hóa (1936-1957), Thượng Tọa Thích Chí Tín ( 1957 về sau). Sau lưng trên đồi Trại Thủy, ở đỉnh đồi có kiến tạo một Kim Thân Phật Tổ với chiều cao từ mặt bằng lên 24 m, từ đế lên 21m , phần tượng cao 14 m, đài sen 7m, đường kính đài sen 10 m. Xung quanh đài là hình bảy vị Thánh tử đạo. Trước Phật đài có cặp rồng, chiều dài 7,20 m. Việc đúc tượng khởi công vào năm 1964, hoàn thành năm 1965 do Hòa Thượng Thích Đức Minh, lúc đó là Hội Trưởng Tỉnh Hội Phật Giáo Khánh Hòa và điêu khắc gia Kim Điền thực hiện. Gần đây nhất, chùa Long Sơn được xây dựng lại cổng Tam quan bề thế ngay bên mặt đường 23/10.

    Chùa Tỉnh Đức :
    Nằm tọa lạc ở triền núi phía Đông, hướng về đường Trần Quý Cáp và công trường Trịnh Minh Thế, đi lên chùa từ con đường nhỏ từ bên hông ngôi nhà bán vật liệu xây dựng đối điện với cây xăng Mã Vòng. Ngôi chùa này do các Sư cô thành lập để tu tập và dân địa phương thường gọi là Chùa Nữ. Chùa được xây cất theo lối tân thời không có gì đặc sắc.

    Lôi Am Tự :
    Tọa lạc ở phần cuối của hòn Trại Thủy, hướng về phía Đông,nằm phía trước bồn chứa nước thành phố và kim thân Phật Tổ. Chùa Lôi Am do Phật Hội Pháp Hoa Việt Nam xây dựng từng phần vào năm 1966. Hội Pháp Hoa được một vị Giáo Chủ đã chứng quả vị Tuyệt- Đối, hướng dẫn cho mọi người tu theo con đường Nhất Thừa của đạo Phật, được giải thoát trong kiếp hiện tại. Vào những năm đầu, hội Pháp Hoa xây một hội trường để Đạo Chúng có nơi sinh hoạt với đầy đủ tiện nghi nào là nhà trù, bếp, nhà vệ sinh.. tiếp đến là xây dựng khu thiền thất phía sau chùa với hai hàng cốc dành cho thiền sinh khắp các tỉnh trên toàn quốc về đây tu học và tham thiền. Sau đó xây đựng một cốc Biệt Giáo và cốc Vô Ưu. Bên phải Chùa phần đất được nới rộng và tạo dựng khu Quán Không Thiền Viện dành riêng cho phái nữ đã xuất gia. Như thế, hàng đêm đạo chúng bao gồm mọi giới như giáo sư, sinh viên, học sinh, công chức, dân lao động, nông dân.. từ dưới thành phố hay các vùng phụ cận như Thành, Cam Ranh, Cầu Đá hay các tỉnh trong nước về đây để nghe thuyết pháp, học giáo lý, tham thiền, sinh hoạt.. Từ ngày đặt viên đá đầu tiên năm 1967, Chùa tiến hành xây cất được phần hậu điện Chùa và cột cờ, riêng phần cổng Tứ Quán được thay thế tạm bằng cổng Tam Quan. Thiết kế Chùa được các nhà thầu khoán Giáo sư Nguyễn Hữu Dưỡng, Huỳnh Ngọc Điển… thi công với sự dạy vẽ của Giáo Chủ Pháp Hoa. Chùa được các vị Huynh trông nôm như Huynh Như Trí, Huynh Pháp Hư (G/S Hồ Viết Đốc ) và sau cùng là Huynh Pháp Doãn. Khi Cộng Sản giải phóng miền Nam, chùa Lôi Am bị gài vào tội chống phá chế độ nên trong một đêm cuối năm 1975, Công An đột nhập vào chùa tịch thu tất cả tài sản và tiến hành đập phá chùa, nay chùa chỉ còn lai cổng Tam Quan nơi triền dốc. Và trong chùa vẫn còn hai nấm mộ cuả người Hời hay Chàm chôn từ lúc nơi đây còn là lãnh thổ Chiêm Thành. Muốn lên chùa, có thể đi bằng hai ngả: Đường từ Phương Sài, chéo góc nhà hộ sanh Bác sĩ Tý, đi vào xóm lao động thuộc đất bà Ngô Đình Nhu; ngả thứ hai là bên đường Trần Quý Cáp, bên hông đồn Quân Cảnh cùng với lối đi lên chùa Tịnh Đức, đi dọc theo triền núi. Cả hai ngả đều qui về cổng Tam Quan "Lôi Am Tự". Chùa Lôi Am tọa lạc ở vị trí của cánh phải, chân phải của con Dơi, nên khi đào hồ chứa nước Quán Không Thiền Viện đã làm thương tích long mạch. Muốn nhìn toàn diện thành phố Nhatrang chỉ có vị trí Chùa Lôi Am ta mới ngắm được toàn cảnh từ Bắc (Tháp Bà, Dòng La San, Xóm Bóng, Cồn Dê, Hộ, Xóm Lò Vôi..) kéo dài về biển Đông (hòn Én, hòn Tre, đường Duy Tân, Bãi biển, Cầu Đá) băng qua phía Nam (cửa Bé, núi Đồng Bò, khu Phước Hải...). Chính vì thế vào năm Mậu Thân 1968, ********* đã chiếm vị trí này để đóng bộ chỉ huy mặt trận tiện việc điều động quân đánh chiếm thành phố nhưng Quân Lực VNCH cũng đánh gía tầm quan trọng của vị trí này nên đã cho trực thăng phóng rocket ngay vào chỗ này tiêu diệt ngay bộ đầu não ********* từ đầu cuộc tấn công vào ngày mồng 1 Tết Mậu Thân. Từ một khu đất hoang nay đã khang trang với các loại cây ăn trái trồng khắp chùa, nào là mận, ổi, mít, chùm ruột, chuối, mãng cầu… làm cho mảnh đất trở nên có sinh khí nhưng sau ngày giải phóng đã hoang tàn do sự nghèo đói, phá hoại; lại thêm phần không có nước và người chăm sóc vì thế chỉ là chỗ dung thân của những kẻ không nhà và nghiện ngập sau một ngày lang thang khắp phố trở về đây tránh nắng mưa dưới mái chùa hoang này.

    2 . HÒN HOA-SƠN :
    Tục gọi là Núi Một, ở quận Nhatrang Tây (nay đổi thành phường Phước Tiến và Phước Tân). Đi vào thành phố bằng con đường Gia Long (nay là Thái Nguyên), qua Mã Vòng, đến nhà Ga Xe Lửa và gặp ngay Ngã Sáu - nhìn bên phải thấy một giáo đường to lớn, đồ sộ, uy nghi chọc thẳng lên trời và được xây trên một hòn núi nhỏ, đây chính là hòn Hoa Sơn.[/FONT]

    [​IMG]
    [FONT=times, times new roman, serif]Nguyên thủy lúc ban sơ, hòn núi này không bị cắt thành hai cụm núi nhỏ, nó trông giống con Rùa vì phần núi nhỏ hướng ra biển Đông như đầu Rùa, trên có ngọn cổ Tháp nhỏ; phần núi lớn hướng về phía Tây là thân Rùa, nên gọi là "Kim Qui đới Tháp", nghĩa là Rùa Vàng đội tháp.

    Vào thời vua Lê Cảnh Hưng (1740-1786), một vị Thiền Sư, pháp danh Phật An đến cất một am tranh tu khổ hạnh trên hòn Núi Một. Năm Bình Ngọ 1786, vị Thiền Sư thiết hóa trà tỳ (tự hỏa táng), đệ tử thâu xá lợi, xây Liên Hoa tháp thờ phụng ở trên đầu hòn núi Một. Sau ngày thiền sư viên tịch, đệ tử của ngài dời về khu trảng cát cách đó khoảng 300m để xây lập chùa mới gọi là chùa Ngộ Phước, tục gọi chùa Cát nằm trên đường Hoàng Tử Cảnh (ngày nay đổi tên là đường Hoàng Văn Thụ).

    Khi người Pháp chiếm cứ tỉnh Khánh Hòa, núi Hoa Sơn chỉ có một ngọn cổ tháp của Thiền Sư Phật An và nơi cổ Rùa người ta khai phá một con đường mòn đi qua vùng Phước Hải - Đồng Bò để kiếm củi, đốt than, bắt cá hay đi chặt những nhánh mai vào dịp gần Tết, vì đây là một rừng mai vàng tuyệt đẹp, được truyền tụng qua những vần thơ:

    Mã Vòng đêm trắng, ma trêu nguyệt,
    Phước Hải rừng mai, cọp thưởng Xuân.

    Hay :
    Biển Én sóng vờn trăng thúy liễu,
    Đồng Bò hương thoảng gió hoàng mai.

    Ngay trong câu "Cọp Khánh Hòa, ma Bình Thuận" cũng là do khu rừng mai này và vùng núi Đồng Bò trước kia là nơi thâm u rậm rạp nên rất nhiều cọp sinh sống. Khi đất nước chia đôi, dân miền Bắc di cư vào Nam, thành phố Nhatrang cũng đã tiếp nhận một số khá đông đồng bào miền Bắc và họ đã định cư tại khu Xóm Mới - Phước Hải vì thế thành phố nới rộng ra và phát triển mạnh, con đường mòn qua cổ Rùa trở thành đường Phước Hải (nay là Nguyễn Trãi) với chiều rộng 8 mét, hai bên đường nhà cửa mọc lên như nấm và từ đấy hòn Hoa Sơn bị cắt hẳn thành hai phần rõ rệt, khu rừng mai Phước Hải cũng mất luôn với những cây xương rồng trổ hoa màu đỏ khi hè về, một phần lớn được khai phá để làm Phi trường Nha Trang và Trung tâm huấn luyện Không quân, một phần quy hoạch các khu cư xá gia binh và dân chen chúc nhau mà sống. Riêng ngôi giáo đường trên phần núi còn lại vẫn sừng sững như ngày nào. Vào năm 1930-1935, một nhà truyền giáo người Pháp tên là Vallet, kiến lập ngôi giáo đường này. Nhà thờ kiến trúc không giống như những giáo đường trong nước và đặt tên là Nhà Thờ Chánh Tòa Nhatrang, dân địa phương gọi là nhà thờ ông Cố hay nhà thờ Núi. Nhà thờ vừa cổ kính, trang nghiêm vừa tân kỳ vì vật liệu xây dựng toàn là những viên đá hoa cương với những tấm kính đủ màu lắp trên các cửa sổ, vách khi ánh sáng mặt trời vừa hừng đông chiếu vào tạo thành nhiều màu sắc rực rỡ, đẹp lạ thường, kỳ ảo ẩn hiện những bức tranh có tánh cách tôn giáo và đứng chắc trên một đầu non, với bộ áo xám tro, hình tướng trông nửa khiêm nhường, nửa ngạo nghễ. Đi lên nhà thờ chúng ta có thể dùng hai lối đi: một con đường bằng đá hoa cương chạy từ dưới ngã Sáu chạy men theo triền núi phía Nam lên tận sân giáo đường với chiều rộng khoảng 8 mét, có thể dùng xe hơi lên cũng được và một con đường khác bên hông trường Hưng Đạo (đường Gia Long) ta phải đi bằng chân với những bậc cấp lót bằng đá chẻ. Phía bên trái nhà thờ có xây một hang đá Tiểu Vương Cung Đức Mẹ Maria, được che mát bởi cây đa lớn nhiều lá và rễ phụ um tùm.

    Lầu chuông cao ngất!
    Lên đứng nơi gác chuông nhìn bốn mặt, thì vọng cảnh bao trùm toàn diện thành phố Nhatrang. Trông tới ngó lui, nước non, nhà cửa, nơi gần nơi xa, nơi ẩn nơi hiện, khoái con mắt, hả tấm lòng, nhiều khi tưởng mình đương đứng nơi trung tâm điểm của một vùng đất giàu sang trù phú với biển xanh, núi cao, đồng bằng với hòn non bộ nhỏ này. Tiếng chuông làm cho ta thức tỉnh và xung quanh tháp chuông có gắn bốn cái đồng hồ to thường báo hiệu giờ giấc cho mọi người trong thành phố hôm sớm đi làm.

    3. NÚI CẢNH LONG:
    Núi Cảnh Long ở Chụt, là Con Rồng
    Cảnh là bờ cõi, Long là thịnh vượng. Không hiểu cổ nhân thủ nghĩa ra sao, có người hỏi cụ cử Phan Bá Vỹ làm ký lục Tòa Sứ Nhatrang thời tiền chiến, cụ đáp:

    - Có lẽ ông cha chúng ta biết trước rằng thế nào vua ta cùng các quan bảo hộ cũng đến cất dinh thự để làm nơi thừa lương nên mới đạt tên là núi Cảnh Long. Hình núi chạy dài theo bờ biển, giống như một con Rồng xanh. Cổ nhân gọi là "Thanh Long hí thủy" tức là Rồng xanh giỡn nước.

    Con đường Duy Tân (nay là đường Trần Phú) chạy ngang qua phi trường Nhatrang và Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân, rồi đến Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân, chạy đến tận Chụt, con đường đổi thành tên là Đường Tự Do và vượt qua một dốc nhỏ, thấy ngay Cảng Cầu Đá và Hải Học Viện bên tay trái. Chính con dốc này cắt ngọn núi Cảnh Long thành hai phần: một phần nhìn ra biển, gọi là đầu Rồng; phần còn lại chạy dài đến tận cửa Bé, là mình Rồng. Ngoài ra còn có một con đường piste chạy vòng theo từ sườn phía Đông cho đến Cửa Bé (cảng cá Vĩnh Trường), chạy vòng lên sườn phía Tây, để xuống đất bằng trở về Chụt, đường này có thể gọi là "đường vòng mỹ cảnh". Ngoạn mục nhất là đoạn đường chạy ra biển. Nằm trên lưng chừng núi, đường khi lên khi xuống, uốn éo quanh co như con rắn bò quanh hòn non bộ.
    Trên đầu núi về phía Cầu Đá có lầu Bảo Đại và nhiều dinh thự của người Pháp xây vào thời Pháp thuộc. Hiện nay cũng là nơi nghỉ mát của các lãnh đạo Trung Ương, đồng thời cũng mở cửa cho du khách vào thăm viếng coi như là nhà bảo tàng dấu tích thời Pháp thuộc và phong kiến của thành phố.
    Bên dưới đầu Rồng sát chân núi là viện Hải Dương Học, do phủ Toàn Quyền Đông Dương xây dựng năm 1927 và bàn giao lại cho chánh phủ VNCH vào năm 1952. Viện được xây theo lối kiến trúc Tây Phương, tọa lạc trên một khu đất rộng 20 mẫu tây, phạm vi bao trùm cả phần bên dưới đầu con Rồng. Cơ sở viện chia làm hai phần:
    - Nhà của cấp Chỉ Huy gồm 5 ngôi biệt thự, khang trang, cất trên đỉnh núi cách mặt biển chừng 35 m và ẩn hiện trong bóng xanh của những cây Bàng lâu đời, lá thay đổi bốn mùa.
    -Viện chính thức: một sở nhà lầu đồ sộ, cất dưới chân núi phía Đông, trên một khoảng đất bằng phẳng, cách mặt biển 4m ngay trước cổn vào Cảng Cầu đá. Bao gồm: Một tòa nhà lầu hình khối chữ nhật ba tầng với hai tầng lầu, một tầng trệt cao 12 m, dài 40 m; hai tầng lầu dùng làm phòng thí nghiệm, thư viện và văn phòng. Tầng trệt dùng nuôi những giống cá lạ ở dưới biển... để cho công chúng thưởng lãm (Aquarium). Một tòa lầu thứ hai, kiểu thức giống như tòa thứ nhất nhưng nhỏ hơn, nằm phía Nam tòa thứ nhất, sát chân dốc, mặt ngó ra hướng Bắc dùng làm phòng nghiên cứu về Sử, Lý Hóa… trong ngành Hải học. Một nhà bảo tàng, rộng 400 mét vuông, cao 5m nằm phía sau chính viện và dùng để lưu giữ những giống thủy tộc sưu tập được (Hall des collections).

    4. HÒN SINH TRUNG :
    là một hòn độc sơn, đứng trên mé đầm Xương Huân, cạnh bến Hà Ra của con sông Cù, nơi đây có một bến xe chạy các vùng lân cận phía Bắc Nam như Ninh Hòa, Tu Bông, Đại Lãnh, Cam ranh… (Nay bến xe chuyển ra gần đèo Rù rì) .
    Các thầy Địa Lý gọi là "Bạch Tượng quyện hồ" tức là Voi trắng cuốn hồ.
    Núi Sinh Trung không cao lắm, đi lên đỉnh núi chỉ cần bước trên 90 bậc cấp, được làm bằng xi măng, ngay chân núi có xây một cổng Chùa mặc dù trên đỉnh núi vẫn còn cổng Miếu cũ nay đã trùng tu rất đẹp. Đối với thành phố Nhatrang thì núi Sinh Trung chẳng khác nào như một hòn non bộ đứng trong vườn cảnh xung quanh có sông nước bao bọc; rừng dừa, cây cối, dương liễu xếp thành hình vòng cung theo dọc bờ biển. Quanh núi toàn những cây dẹp mọc (loại cây dân chúng thường dùng để trị bệnh sán lãi).

    Trên đỉnh núi là một vùng đất rộng khoảng hơn 150 m chiều dài và 100 m chiều ngang nhưng thiết trí chùa cũng rất gọn và trang nghiêm. Vào năm 1802- 1852, triều Nguyễn dựng một cái Miếu thờ 350 vị công thần bị tử trận hay bị mệnh vong trong khi tranh hùng với nhà Tây Sơn[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif], miếu có tên là Tinh Trung, sau đổi là Sinh Trung. Tên núi mượn tên Miếu mà kêu. Người địa phương cũng thường gọi là núi Ha Ra. Ha Ra là tên khu vực. Sách Đại Nam chép là A La. Năm Tự Đức thứ 5 (1852) trùng tu miếu và đặt lại tên là Trung-Nghĩa miếu. Đến năm 1945-1950, Đức bà Từ-Cung và một số hào lão làng Vạn Thạnh vận động hiến cúng Miếu cho Giáo Hội Phật Giáo Khánh Hòa , vị trụ trì đầu tiên là Hoà Thượng Thích Thiện Minh, đặt tên chùa là Khuôn Hội Kỳ Viên; kế thừa là Hòa Thượng Thích Từ Mãn, Hòa Thượng Thích Chí Tín, Đại đức Thích Viên Mãn. Từ đấy thật sự Miếu Sinh Trung đổi thành tên Kỳ Viên Trung Nghĩa Tự. Năm 1990, thầy trù trì Thích Trí Viên cùng Phật Tử khắp nước và địa phương phát nguyện cúng dường trùng tu chùa: xây dựng phần chánh điện rất trang nghiêm, nhà Tổ và những công trình phụ trông rất mỹ quan như đúc tạc các tượng Đức Di Lặc với lục tặc đặt trước cổng chùa, tượng Đức Quan Thế Âm đứng trên toà sen, nhìn về hướng Đông, đặt sau lưng chùa với một công viên trồng hoa hai bên có những bức tường đá dùng làm những hộc đựng hài cốt, mặt hộc có ghi tên tuổi người quá cố để thân nhân dễ tìm và thăm viếng. Phía sau chùa một khoảng đất trống lớn xây một gác chuông với một Đại Hồng Chung cao hơn 1 mét bên cạnh có một hồ nuôi cá với những hòn non bộ và cây cảnh, cây mai chiếu thủy nở hoa trắng suốt bốn mùa, có cầu nhỏ bắt qua trông rất thơ mộng; một tấm bia ghi tiểu sử thành lập chùa và miếu. Bên phía trái Chùa là một dãy nhà trù dành cho cho việc ăn ở của các Tu sĩ. Toàn công trình được hoàn tất vào tháng 2 năm 1992. Năm 1995, chùa lại xây thêm một nhà mát tứ giác hai tầng, dùng vào việc tiếp khách thập phương, đối diện với nhà trù. Ngày nay, việc xây dựng chùa xem như là hoàn mỹ. Một quang cảnh tươi sáng với sân chùa trồng toàn cây bông sứ trắng nhụy vàng, xen lẫn những cây hoa phượng vỹ đỏ thắm và bức bình phong có hình con Cọp được sơn vẽ lại làm cho Chùa trở nên uy nghi.

    Miếu Sinh Trung và đầm Xương Huân vốn có tình cốt nhục. Truyền rằng: lúc ban sơ không có đầm cũng không có núi. Khi nữ thần Poh Nagar giáng thế, sấm trời nổi dậy báo cho vạn vật biết tin, thì một con Cù sanh từ lúc khai thiên lập địa nằm ngủ quên trong lòng đất, giật mình vùng dậy, những lớp đất đá đã phủ lên mình Cù bị hất tung lên thành Núi và nơi Cù nằm trũng xuống thành Đầm. Cho nên Đầm có tên là Cù Đàm và Núi có tên là Cù Lĩnh. Đầm nằm ôm chân núi, núi đứng soi bóng vào lòng đầm. Nước trang điểm cho non, non trang điểm cho nước. Tương y tương ỷ, ngày nắng cũng như ngày mưa. Những đêm gió mát trăng trong, lên núi Cù Lĩnh xem Đầm thì cực kỳ thanh thú như chốn bồng lai tiên cảnh. Mặt đầm như tờ giấy băng cơ trắng láng và vầng trăng như quả ấn ngàn châu treo lơ lửng trên bầu trời, mờ mờ dưới chân núi là nhà cửa với những ngọn đèn dầu leo lét hay ngọn đèn điện thắp sáng choang, cây cối chỗ thấp, chỗ cao ẩn hiện trong ánh đèn khi thành phố bắt đầu sinh hoạt về đêm.

    Thời Pháp thuộc Cù Đàm bị lấp đi, để xây một ngôi chợ hình tròn, đó là chợ Đầm Nha Trang, Cù Lĩnh trơ trọi một mình, không còn soi dưới bóng nước và chị Hằng, con Voi trắng không có nước để uống khi trời hạn hán và bơ vơ giữa cảnh ồn ào, náo nhiệt của một thành phố đông người khi một cuộc di dân qui mô sau năm 1975.

    Đặc biệt là đứng trên núi Sinh Trung ta nhìn thấy ba hòn núi kia tượng hình ba con vật linh thiêng (Dơi , Rùa, Rồng) cùng với con Voi trắng đang hộ trì và phù trợ cho người dân thành phố nói riêng, người Khánh Hòa nói chung được phát tài như cuộc đất: Đại phú đại quí. Theo nhà phong thủy, Huyền Vi, viết trong cuốn sách Thiền và Phong Thủy đã nói về cuộc đất Nhatrang như sau:

    Hình thể thành phố Nhatrang rất giống Con Cóc. Bãi biển Nhatrang là bụng Cóc, hai chân sau là vùng Cầu Đá, hai chân trước chạy ra đến gần Hòn Chồng. Sóng biển vỗ quanh năm vào bụng Cóc Thần. Điều quan trọng là con Cóc Nhatrang tuy ngon lành thật nhưng chưa đủ hấp dẫn để dụ Xà Tinh vào miền Nam. Vậy phải làm sao thay đổi long mạch cho con Cóc mau chóng ngậm một hạt Minh Châu để cho Xà Tinh tăng thêm sự ham muốn. Sau khi long mạch con Cóc được làm cho vận hành mạnh mẽ, đốt giai đoạn thì chợ Đầm, ngôi chợ chính của Nhatrang, bị hỏa hoạn thiêu rụi (1967). Long mạch xui khiến Kiến Trúc Sư vẽ lại Chợ Đầm để tái thiết lại vẽ thành một hình thể độc đáo, hiếm có: chợ Đầm hình tròn! Nhìn lên bản đồ thành phố Nhatrang ta thấy rõ ràng hình con Cóc ngậm hạt Minh Châu hình tròn! Ngày nay, nếu ta đi máy bay nhìn xuống Nhatrang, ta sẽ thấy hình thể của một con Cóc khổng lồ ngậm hạt minh châu! So với thiết kế thì chợ Đầm xây chưa hoàn tất, phía bên tay trái hai chung cư A va B đã xong , còn chung cư C và D bên phải chưa dựng nên phần này đã hở hẳn ra, phía sau chợ chạy dài ra tận nhánh sông Hà Ra một khoảng đất trống lớn, dân đã chiếm cất ở lộn xộn nên không thể xây phần nối tiếp khu chợ trái cây và bán thịt cá với cái cảng nhỏ cho ghe thuyền từ các nơi vào, tạo thành một khối chữ T án ngữ mặt sau. Như thế hạt Minh Châu ở cái thế nửa kín nửa hở.

    Nhưng nói về địa lý tạo dựng mảnh đất Nha Trang nhìn từ biển Thái Bình Dương vào, mảnh đất Nhatrang là một bãi cát trắng rộng với bốn hòn núi trấn bốn góc tạo cái thế Bốn Con Thú qui tụ gồm Long (tại Cầu Đá), Tượng (tại Sinh Trung, chợ Đầm), Dơi (tai Mã Vòng) và Qui (tại Ngã Sáu). Long Mạch thành phố lấy hai hòn núi: Hòn Trại Thuỷ và Hòn Thị ở Diên Khánh làm Hữu và Tả bật, với bốn mặt có hai con sông Cái và sông Đồng Bò ôm choàng cuộc đất mà phía Đông là biển khơi. Nhưng nếu ta nhìn thật lâu và hình dung bãi biển Nhatrang vừa rộng và dài trông giống như một lưỡi liềm bằng bạc, cán trở ra xóm Cồn, mũi day xuống Chụt, và lưỡi được sóng biển mài dũa sáng trưng. Chính vì vậy thành phố Nha Trang mỗi ngày càng hưng khởi lên sự vượng khí: "Buổi sáng, bao nhiêu ánh ngọc ngà châu báu nơi thủy cung đều hiện lên mặt sóng, trông lộng lẫy huy hoàng. Và những cảnh vật chung quanh, nhờ cái hào quang ấy, cũng trở nên huy hoàng lộng lẫy tráng lệ tạo thành một kỳ quan đẹp cho mảnh đất Thánh này. Buổi trưa, biển trở thành một tấm sa tanh xanh thêu kim tuyến căn phơi. Nhà cửa cây cối núi non là những vật nhân cách hóa thành những người đang đứng canh giữ mảnh đất thiên. Buổi chiều, tất cả biển trời cây đá đều trở thành gấm vóc mà bên ngoài trùm một tấm màn bạch sa mỏng và thưa. Còn ban đêm, cát hòa với nước, không còn phân biệt ngã với nhân, và ánh đèn câu ngoài khơi giăng dài trên đường chân trới như nhừng hạt châu kết thành xâu đang tỏa ra ánh sáng lúc ẩn lúc hiện. Nếu trời có trăng thì trước mặt là một tấm nhung trắng kết hoàng bảo trải dưới vòm nhà bằng bạch cẩm nạm kim cương, nếu trời không trăng thì lại là một tấm nhung đen rải hồng bảo xích, một nửa trải nền một nửa phất trên trần, trong một đền thờ người Ấn". Nha Trang với cảnh đẹp tự nhiên với thiên hình vạn trạng, nó đã tạo dựng một thế phong thủy đặc biệt cho nên khi còn là đất của người Chiêm Thành hoặc là đất của dân Việt ta ngày nay và tiến dần về tương lai thì mảnh đất này chính là vùng đất Đại Phú và Đại Quý. Bước vào thế kỷ 21, thành phố đang tiến hành xây dựng chiếc Cầu nối liền từ bờ xóm Cồn đến Hòn Chồng và mở đường chạy dài ra tận bãi Tiên thì cái thế đất chưa hoàn hảo bởi vì cái long mạch chưa được nối liền bởi con sông Đồng Bò còn hở, vậy ta chỉ còn thêm một chiếc cầu nối liền Cầu Đá với Đồng Bò chạy dài đến tận Bãi Dài, Cam Ranh thì lúc ấy cái long mạch ấy mới hình thành trọn vẹn. Đến năm 2002, cây cầu Bình Tân đã được xây dựng mới với khu dân cư Hòn Rớ và con đường chạy dài ôm theo bờ biển nối đến sân bay Cam ranh đi qua một vùng sơn thủy hữu tình.

    Nhưng muốn chiếm cái ưu thế vững vàng nhất cho thành phố thì phải thay đổi vị trí tòa Thị Sảnh Nha Trang thì mặt hưng vượng của ngưới dân và chính quyền càng ngày càng cao về mọi mặt như sự xuất hiện các tài nhân, dân giàu sang, chính quyền có người tài đức ra gánh vác, đồng thời cũng là nơi đào tạo nhân tài về quân sự như Hải-Lục-Không quân rất là thuận tiện cho cả vùng Đông Nam Á và Đông Dương (Lào và Campuchia). Về mặt tâm linh, huyền bí nơi đây chính là Thánh địa vì một vị Đại Bồ Tát đến với cõi Ta Bà này thuyết pháp Đại-Thừa và Nhất Thừa trước tiên và đây chính là cái duyên to lớn nhất của chúng sanh và cho người dân Nhatrang vậy.

    Nhưng theo nhà Địa Lý HỨA MINH cùng con trai là HỨA VINH viết trong sách Địa Lý Toàn Thư do Lưu Bá Ôn và một số tác giả ghi đã nói như sau: Chỉ có nơi Tứ Thú hội họp mới được gọi là Long Tụ Tinh. Và để hình thành một vùng Đại- Phú Đại- Quý, nhân tài xuất hiện thì khí Âm Dương cần phối hợp tức là trước biển cả mênh mông sau là núi rừng vây bọ. Vậy thì Long mạch chính nằm ở vị trí nào trong thành phố Nhatrang? Khi ấy người đầu Tỉnh đặt bản doanh mình nơi ấy thì cái hào quang vi diệu kia tỏa khắp cho mọi người đều cùng hưởng cái diễm phúc của vũ trụ dành cho. Tôi không bàn rộng vấn đề này, xin để lại cho những ai có Đức, có Hạnh mà suy nghĩ, đem cái tài mình ra mà giúp dân, giúp nước được cái hạnh phúc phú quý trong những năm kế tiếp của thế kỷ 21.[/FONT]

    [FONT=times, times new roman, serif]Cần nói thêm một giai thoại của Thành phố Nha Trang:[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Với thế đất Tứ Linh hội tụ như đã nói trên, Nha trang được các nhà phong thủy xem là nơi địa linh nhân kiệt. Do đó khi Thực dân Pháp đặt nền móng cai trị tại Nha trang đã tìm cách bảo vệ sự bền vững của nhà cầm quyền thực dân bằng cách triệt long mạch để trấn áp mọi mầm móng nhân tài. Các biện pháp triệt long mạch này đã dẫn đến sự hủy hoại Tứ Linh của Nha trang:[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]- Ngọc bức hàm hoàn: lấp hồ nước phía sau hòn Trại Thủy làm cho con dơi không còn linh khí.[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]- Kim quy đới tháp: Mở đường Phước Hải băng ngang từ Ngã sáu đến Phước hòa chặt đứt đầu con rùa vàng linh thiêng.[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]- Thanh long hí thủy: mở con đường Tự do cắt đứt đầu rồng, xây 5 tòa biệt thự ngay trên đầu rồng như năm mũi kim để trấn yểm kinh mạch không cho con rồng ngóc đầu lên vùng vẫy.[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]- Bạch tường quyện hồ: lấp hồ cù Huân làm chợ Đầm để con voi trắng chết khô.[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Tứ linh đã chết, nhân kiệt còn đâu? Thế nên Nha trang từ đó đến nay được coi là vùng đất yên bình. Trong cuộc chiến tranh khốc liệt giữa 2 miền Nam Bắc, Nha trang cũng chỉ 1 lần duy nhất nghe tiếng đạn bom vào tết Mậu thân. Ngay đến những lần khói lửa ngút trời đất nước như mùa hè đỏ lửa 1972, mùa xuân đen tối 1975 Nha trang vẫn là nơi chốn an lành nhất. An lành hay an phận? Cho đến nay Nha trang vẫn chưa có được một nhân tài nào đứng hàng lãnh đạo đất nước dù những con người sinh ra từ nơi sơn phong thủy tú này có rất nhiều vị lưu danh kim cổ.[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]Huỳnh Tấn Ðức[/FONT]
    [FONT=times, times new roman, serif]http://votanh.fateback.com/huynhtanduc.html[/FONT]
  8. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [​IMG]
  9. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Colonisation francaise






    [​IMG]
  10. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Một Sài Gòn cổ xưa nhất qua ảnh

    Cập nhật lúc 18:51, Thứ sáu, 29/04/2011 (GMT+7)
    [​IMG]

    Cảng Sài Gòn xưa (năm 1890).


    NDĐT – Đoàn Bắc - một kiến trúc sư ở Hà Nội đang sở hữu một bộ sưu tập ảnh cổ về Sài Gòn, được chụp trong khoảng thời gian từ 1860 đến 1909. Theo nhận định của nhà sử học Dương Trung Quốc, đây là những bức ảnh cổ nhất về Sài Gòn mà chúng ta được biết đến.

    Đây là những bức ảnh mà KTS Đoàn Bắc tập hợp được trong kho ảnh tư liệu của anh và bố, nhà giáo Đoàn Thịnh. Những bức ảnh này có nguồn gốc từ bộ sưu tập của gia đình vị bác sĩ quân y người Pháp Louis Sadoul có mặt ở Việt Nam vào những năm 1860. Một số bức khác anh được nhà giáo Vũ Thế Khôi chuyển lại.
    KTS Đoàn Bắc cho biết, anh chỉ mới lọc ra được 168 bức ảnh trong bộ sưu tập có tới hàng nghìn bức của anh. Đây chỉ mới là những bức có xuất xứ lai lịch rõ ràng và có chú thích đầy đủ. KTS Đoàn Bắc mong muốn mang ra giới thiệu công chúng TP Hồ Chí Minh vào dịp kỷ niệm giải phóng Sài Gòn 30-4, nhưng vì không có đủ kinh phí và điều kiện tổ chức triển lãm nên anh chưa thể thực hiện được.
    Xem kỹ bộ ảnh, có thể thấy Sài Gòn của những năm 1865 đã thấp thoáng bóng dáng Hòn ngọc Viễn đông. Một thành phố sầm uất và xinh đẹp, con sông và bến cảng, một đô thị hiện đại với những công trình kiến trúc, đường sá, hình ảnh người dân và cả một vùng thiên nhiên rộng lớn, những làng quê truyền thống Việt Nam.
    Nhân kỷ niệm 36 năm giải phóng Sài Gòn, thống nhất Tổ quốc, chúng tôi tôi xin giới thiệu tới bạn đọc một số bức ảnh trong bộ sưu tập quý giá đó, giúp bạn đọc hình dung về một Sài Gòn trong quá khứ.
    Mọi bản quyền sao chép, sang nhượng, in ấn, phát hành những bức ảnh này thuộc về KTS Đoàn Bắc.
    [​IMG]
    Giao thông trên đường Catinat (ảnh chụp năm 1890).
    [​IMG]
    Một khu phố của người bản xứ (năm 1860).
    [​IMG]
    Người bán trái cây và rau trên phố (năm 1890).
    [​IMG]
    Quán rong trên đường phố (năm 1890).
    [​IMG]
    Một ngôi chùa Việt cổ (năm 1900). ​
    [​IMG]
    Lăng mộ Đức giám mục Adran Lang Cha ca (năm 1866).
    [​IMG]
    Công trường xây dựng phố Charner trên kênh trung tâm (năm 1866).
    [​IMG]
    Phủ Thống sứ Nam Kỳ dưới ánh điện (năm 1890).
    [​IMG]
    Cảng Sài Gòn và khu phố kiểu kiến trúc thuộc địa (năm 1866).
    [​IMG]
    Cảng dành cho các tàu buôn (năm 1866).
    [​IMG]
    Các hạm tàu trên cảng Sài Gòn (năm 1890).
    [​IMG]
    Tàu thuyền làm thủ tục nhập cảng (năm 1890).
    [​IMG]
    Nhà ở và cửa hàng gần bến cảng (năm 1866).
    [​IMG]
    Bản đồ quy hoạch Sài Gòn (năm 1866).

    HỒNG MINH

Chia sẻ trang này