1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những Hình ảnh xưa về Đất Nước, Con Người, Văn Hoá Việt Nam (Updated ngày 19/6/2014)

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ruavang, 16/11/2002.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133

    [​IMG]
  2. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133

    [​IMG]
  3. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133

    [​IMG]
  4. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133

    [​IMG]
  5. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Hòn ngọc Phương Đông: Cẩm nang du lịch Sài Gòn và thuộc địa



    [​IMG]

    Lily Chi là Giáo sư Thiết kế, Lý thuyết và Phê bình Kiến trúc, giám đốc Chương trình Cao học tại Trường Kiến trúc, Đại học Cornell (Hoa Kỳ). Cô đồng thời là biên tập của Tạp chí Giáo dục Kiến trúc (Journal of Architectural Education) từ năm 2000. Cô đã viết rất nhiều bài báo về chủ để phê phán kiến trúc đương đại và giáo dục. Luận án tiến sĩ của cô khám phá vai trò của các khái niệm của thế kỷ Ánh sáng về phong tục, thiên nhiên và lịch sử trong tiến trình định hình các thảo luận kiến trúc hiện đại. Những chủ đề này giờ đây được phát triển trong nghiên cứu của cô về du lịch, đô thị học và tuyên truyền của nhà nước tại Đông Dương thời thuộc địa. Năm 2004, giáo sư Chi đã tổ chức một studio kiến trúc cho sinh viên cao học của trường Cornell tại Hà Nội.
    [​IMG]
    Bài viết “Hòn ngọc Phương Đông: Cẩm nang du lịch và Sài Gòn thuộc địa” của giáo sư Chi đăng trên tạp chí Architecture and ideas số hè-thu năm 2000 năm trong loạt bài viết của cô về sự kiến tạo hình ảnh đô thị thuộc địa thông qua các cuốn cẩm nang du lịch.
    (Bản gốc: Chi_PearloftheOrient_AI (tiếng Anh) trên tạp chí Architecture and Ideas)
    Như người trung gian giữa du khách và điểm đến, những quyển cẩm nang du lịch đảm đương hai vai trò khác nhau. Được viết dưới ngôn ngữ của người đọc, quyển cẩm nang như đồng minh của người đi du lịch. Mặt khác, như một chuyên gia mặc định về nơi chốn đang mô tả, sách hướng dẫn du lịch là phương tiện trung gian thuyết phục giữa một bậc thầy về thắng cảnh và người đi tham quan độc lập. Nỗ lực ngầm này có lẽ được nhận thấy rõ nhất bởi các độc giả không phải là đối tượng mục tiêu, như những ai xa xứ về thăm quê, hay những người đi du lịch ở một thời khác. Những bài đọc ngầm định hình về sở thích và các ý tưởng đóng góp cho cái nhìn về một thành phố của một người. Điều này đặc biệt rõ trong trường hợp Sài Gòn/Thành phố Hồ Chí Minh, thủ đô một thời của thực dân Pháp, chủ nhà của sự kế tục những ý thức hệ của kẻ địch, và là nơi diễn ra nhiều chuyển biến chính trị trọng yếu trong suốt thế kỷ 20. Cẩm nang du lịch và những ấn phẩm lưu niệm trong bối cảnh này đã thực sự là nơi khẳng định và tranh luận đặc tính văn hóa. Bài viết này tập trung vào du lịch của Sài Gòn thuộc địa và vai trò nổi bật đáng ngạc nhiên của kiến trúc và đô thị trong đó.
    [​IMG]Tòa Thị Chính. Ảnh dùng trong cuốn Tourist Guide năm 1930. Nguồn: Thư viện Đại học Cornell.
    [​IMG]Tòa Công Lý. Ảnh trong cuốn Saigon 1930. Nguồn: Thư viện Đại học Cornell.
    Quyển Tourist Guide (Cẩm nang du lịch)
    Hành trình đến ‘Hòn Ngọc Phương Đông’ không đơn giản, trải dài qua biển và sông. Khoảng cách từ bên ngoài đến Sài Gòn trong những thập kỷ đầu được đo bằng cả không gian lẫn thời gian. Theo tác giả của quyển “Cẩm nang du lịch đến Saigon, Angkor Wat và Phnom Penh” xuất bản năm 1930, sau nhiều giờ ngồi tàu ngắm thời gian lặng lẽ trôi,” du khách cuối cùng đến “thành phố Sài Gòn đẹp như tranh, có tên gọi là Hòn Ngọc Phương Đông, với những tháp chuông, cao ốc sừng sững và các bến thuyền. Sài Gòn vì thế bật lên giữa một vùng rộng lớn xanh tươi, ‘một thành phố được sắp xếp kỹ lưỡng và xinh đẹp’ với “các cửa hàng, cao ốc, khách sạn và biệt thự’ ‘mang dấu ấn riêng biệt của Pháp’. Sự xa xôi của thành phố biến mất ngay trong cảnh phố thị. Những tên gọi ‘bến cảng nhộn nhịp’, ‘trung tâm thương mại quan trọng’ đến ‘đối thủ cạnh tranh của cảng Singapore và Hồng Kông,’ và một lực lượng dân số tăng 7 lần trong 50 năm đã minh chứng cho vị trí của Sài Gòn là ‘thủ đô thương mại của Đông Dương thuộc Pháp.’
    Như trong những cuốn cẩm nang khác cùng thời điểm này, Sài Gòn được liên hệ về mặt không gian và nhận thức như một ‘thành phố Pháp’, phân biệt với hai thành phố láng giềng ‘Chợ Lớn’ và ‘Gia Định’ và những thành phố đã tọa lạc tại địa điểm này cho đến năm 1859. Quyển Tourist Guide thiết lập sự phân biệt này bằng một lịch sử ngắn gọn của thành phố. Lịch sử này bắt đầu từ sự định cư của người Khmer và những người kế tục họ thế kỷ 17, những người định cư An Nam từ phương Bắc, nhưng được liên hệ như một câu chuyện về các dân tộc bất hòa cho đến khi một nhà truyền giáo người Pháp tên Pigneau de Béhaine xuất hiện. Chính nhờ Pigneau và sự trợ giúp của người Pháp mà Hoàng đế Gia Long cuối cùng có thể giành được pháo đài Sài Gòn từ sự nhiễu loạn liên tục của các ‘lực lương nổi dậy’. Tầm quan trọng của vị giáo sĩ trong câu chuyện này được nhấn mạnh trong quyển Tourist Guide bởi một đoạn miêu tả dài ngoằng về nỗi đau của triều đình tại tang lễ của ông. Phần tiếp theo rất ngắn gọn: “Từ năm 1800 trở đi đất nước thịnh vượng cho đến năm 1833, một cuộc nổi dậy nổ ra và các nhóm đối lập tàn phá. Mãi đến năm 1859 người Pháp… đã phải can thiệp nhằm khôi phục hòa bình dưới quốc kỳ Pháp.” Lịch sử Sài Gòn, rõ ràng trong thành tựu về hòa bình và trật tự trước sự nổi dậy và bất ổn, vì thế đã bắt đầu với Pigneau de Béhaine. Lá cờ Pháp trên đất Sài Gòn sau cái chết của ông vẫn đảm bảo tính liên tục của nó.
    Sài Gòn mà những người viếng thăm nhìn vào trong quyển Tourist Guide xác nhận đặc tính này. Tham quan thành phố bằng xe kéo, du khách đi qua các đại lộ Charner (Nguyễn Huệ) và Bonnard (Lê Lợi), gặp Halles Centrales (chợ Bến Thành), Nhà thờ Đức Bà, các dinh thự của Governor General (Toàn quyền) và Governor of Cochin China (Thống đốc Nam Kỳ), các tòa án, Jardin de la ville (Công viên Tao Đàn), Blanchard de la Brosse (Bảo tàng lịch sử), khách sạn Majestic và dela Rotonde (Khách sạn Grand), và vân vân. Chuyến đi kết thúc bằng cuộc tản bộ dọc các cửa hàng ‘mỹ nghệ, đồ cổ, và tơ lụa’ trên ‘đại lộ đông người’ của rue Catinat (Đường Đồng Khởi). Sự đảm bảo về tính thân thuộc trong những hình ảnh này được nhấn mạnh bằng cái nóng trong trẻo và bóng râm sum sê thiếu sức sống. Theo bức ảnh của Phodo Nadal về Sài Gòn buổi đầu xuất hiện trong quyểnTourist Guide, thành phố vắng vẻ một cách lạ lùng. Ngoại trừ đám đông ‘vô danh’ trên đường Đồng Khởi, một số ‘đền Hindu và chùa Phật giáo đáng thăm viếng, những dòng kênh và các tuyến đường thủy ‘thực sự chật chội với tàu hơi nước nhổ neo, tàu chở hàng hóa và thuyền bè lớn nhỏ,’ không có hình ảnh nào trong quyển Tourist Guide nói về ’90,000 linh hồn’ định cư tại Sài Gòn trước cuộc chiến.
    Hình ảnh duy nhất về người bản xứ nằm xa xôi ngoài thành phố trên tận cao nguyên Đà lạt. Là ‘phố núi duyên dáng dành cho nghỉ dưỡng’ được khí hậu ưu ái gồm bốn khách sạn, Đà Lạt mang lại sự ‘nghỉ ngơi’ từ ‘cái nóng và thử thách của một cuộc hành trình xuyên Đông Dương’. Một thành phố Pháp mới được xây dựng cho mục đích này; đó cũng là điểm khởi hành khám phá khu vực chung quanh. Ở cùng độ cao này, du khách có thể gặp ‘thổ dân’ mà ‘người bản địa gọi là Mọi’; họ ‘sống trong rừng, đi săn theo nhóm, mặc trang phục của thiên nhiên, di chuyển rất xa và nhanh, ‘chinh phục những sườn dốc cao’, ‘những thôn xóm nhỏ, các túp lều và các ngôi làng bé xíu… tất cả tương phản với cảnh đô thi thị.’ Cuộc sống đô thị của Sài Gòn, so với hình ảnh cuộc sống du canh miền núi, xác nhận quyền năng ngày càng tăng của những người làm nên nó.
    [​IMG]
    [​IMG]Giờ cao điểm trên đường Pasteur và gánh hàng hoa gần nhà thờ lớn. Ảnh trong cuốn: Saigon: A Booklet of Helpful Information for American in Vietnam (Cuốn sổ tay với thông tin hữu ích cho người Mỹ ở Việt Nam) năm 1959. Nguồn: Thư viện Đại học Cornell.
    ‘Thiết kế với sự tinh tế…’
    Sài Gòn trong mắt những người viết cẩm nang cũng như du khách còn có sự nổi trội của kiến trúc độc đáo và thiết kế đô thị. Sự mô tả những đặc điểm của thành phố từ đầu thế kỷ trở đi luôn kể đến các công trình công cộng ấn tượng của thành phố, ‘sự cân đối hài hòa’, khu vườn xinh xắn’ được thiết kế với nghệ thuật tinh tế,’ các đại lộ lớn thoáng và đẹp, những tòa nhà và đường phố rộng, ’trật tự và sạch sẽ”… Cuối cùng là sự xuất hiện của người dân thuộc địa trong môi trường sống tự nhiên của họ, ở những dinh thự sang trọng hay khung cảnh làng quê bụi bặm; những kẻ chống đối bị bắt hay bị bắn – đề tài làm nên một thể loại bưu thiếp.
    Những hình ảnh của Photo Nadal, một nguồn sách lưu niệm và bưu thiếp phát hành rộng rãi từ những thập niên đầu của thế kỷ 20, nói lên nhiều điều về quan điểm của thuộc địa nơi thành phố này. Loạt ảnh của họ nhìn chung là một hoạt cảnh về những công trình công cộng của Pháp – Dinh Toàn quyền, Nhà thờ Đức Bà, nhà hát lớn được truyền cảm hứng từ nhà hát Garnier tráng lệ ở Paris, Vườn bách thú… và cả chiếc xe lôi được đậu ở những vị trí dễ quan sát, có hoặc không có người phu chân trần như chiếc bóng. Sự đặt cạnh nhau của những tòa nhà trắng sạch sẽ, phương tiện lao động, người bản xứ bị lu mờ phản ánh nhiều thứ. Nó thể hiện sự bố cục tinh tế: xe lôi là một hình ảnh trực quan nhắc nhở người xem về nơi mà sự tao nhã của kiến trúc Beaux-Arts[ii] ngự trị – Sài Gòn, chứ không phải Paris. Sự đảo nghịch thú vị này giữa địa điểm của bức hình và những gì bức ảnh lột tả về địa điểm nhắc lại tầm nhìn được vạch ra cho một thành phố thuộc địa bởi thị trưởng Pháp: một nền văn minh hoàn toàn phát triển với tất cả nét quyến rũ của vùng nhiệt đới. Sự hoán chuyển mà trong đó thành phố châu Âu được kiến tạo ở một nơi khác trở thành cột mốc cho bối cảnh mới của nó làm rõ vai trò của kiến trúc và thiết kế đô thị trong kinh doanh du lịch của thuộc địa.
    Giá trị của tính thân thuộc nghịch lý được tán dương trong những bức hình của Photo Nadal và trong quyểnTourist Guide được cấu thành một cách sâu sắc trong hình ảnh của hòn ngọc: một vẻ đẹp đáng ngạc nhiên và tao nhã trong những chiều sâu của bản chất không hình dạng và thô sơ. Tính phổ biến lâu dài và rộng khắp của Vườn bách thú – một trong những công trình đầu tiên của thành phố được xây dựng trong một khu rừng dày đặc – minh chứng giá trị của của tái tạo thiên nhiên trong bối cảnh này. Sài Gòn là một công trình: một bản sao vật thể của sự ảnh hưởng văn minh của Pigneau de Béhaine.
    Tác phẩm của kiến trúc và đô thị có một tầm quan trọng đặc biệt ở Đông Dương thuộc địa bởi những người dân trong đó được xem là thiếu khả năng xây dựng thành phố. Theo một nhà sử học người Pháp thời kỳ đầu, đó là do ‘tình hình kinh tế’ tồi tệ của khu vực. Trong quan sát của Foulhoux, kiến trúc sư trưởng của Đông Dương thời bấy giờ, người An Nam chỉ xây nhà, đền và lăng mộ. Sứ mệnh của kiến trúc trong những thành phố này rõ ràng và cụ thể với ông: các công trình kiến trúc và tòa nhà sẽ là những nét đặc trưng thanh lịch của Sài Gòn. Ông cũng tỉnh táo và rõ ràng về logic của việc xây dựng trong quá trình ‘văn minh’. Đơn đặt hàng đầu tiên là Dinh toàn quyền thể hiện uy thế. Kế đến là nhà thờ hướng đến chinh phục tôn giáo và tòa án công lý. Chân dung Sài Gòn của Foulhoux là một sự phân loại về những định chế dân sự bao gồm bưu điện, cảng thương mại, vườn bách thú, bảo tàng, nhà giam và một nhà xưởng thuốc phiện.
    Ảnh sưu tầm bởi Dũng đô thị
    [​IMG]Bản đồ Sài Gòn năm 1928. Nguồn: L’ Indochine Coloniale Sommaire
    [​IMG]Đại lộ Charner (Đại lộ Nguyễn Huệ) vào năm 1922. Nguồn: L’ Indochine Coloniale Sommaire
    Thành phố của nhân dân
    Khác với vị trí ngày nay như sự ghi dấu của lịch sử hay như món đồ thị giác qúy hiếm, những công trình công cộng của Sài Gòn đóng một vai trò mang tính cấu trúc trong việc định nghĩa thành phố thuộc địa như một tuyệt tác cả về nghệ thuật lẫn sự rộng lượng mang tính áp đặt. Những tòa nhà và đại lộ mang phong cách Beaux-Arts đều tập trung cả về thị giác lẫn hệ quy chiếu cho việc xây dựng bức tranh thuộc địa và con người trong đó. Sự tương phản giữa chiếc xe lôi thô sơ và tòa nhà thanh lịch; giữa cảnh thành thị Sài Gòn và nơi trú ngụ của những người miền núi – là những thước đo về sự cách biệt trông thấy giữa thực dân và thuộc địa, và của số lượng công trình văn minh thực hiện được. Ngày nay nhìn vào những địa điểm này ngoài khuôn khổ đó, khó mà bỏ qua vai trò của sự che đậy và sự khuất phục trong việc sử dụng kiến trúc và đô thị.
    Sài Gòn đã chứng kiến sự bùng nổ những tác giả và độc giả mới của cẩm nang du lịch sau năm 1954 khi trở thành thủ đô của nước Việt Nam Cộng hòa, một nửa đất nước trong thời chiến. Hình ảnh những tượng đài Beaux-Arts và những đại lộ rợp bóng râm quay trở lại, nhưng cạnh tranh với những công trình khác mô tả thành phố như một ‘căn cứ hải quân hiện đại, một thành phố quốc tế, một sự chạm trán giữa Đông và Tây… Sự đa dạng của những nguồn cẩm nang được phản ánh trong sự đa dạng về quan điểm và tầm quan trọng giữa chúng. Pigneau de Béhaine tiếp tục bắt đầu lịch sử Sài Gòn trong những quyển hướng dẫn du lịch tiếng Pháp và Mỹ những năm sáu mươi, với người bản địa trong vai trò người giúp việc nhà. Những quyển cẩm nang do các đơn vị Việt Nam phát hành, mặt khác nhấn mạnh ẩm thực, phong tục, lễ hội, chùa chiền và đặc tính của người Sài Gòn. Ý tưởng rằng Sài Gòn được định nghĩa bởi chính người dân trở nên rõ ràng trong những cuốn cẩm nang về Thành phố Hồ Chí Minh.
    Các công trình công cộng không còn phủ đầy cái nhìn của người viếng thăm trong những quyển hướng dẫn sau này. Sự tập trung về vẻ đẹp của Sài Gòn và Thành phố Hồ Chí Minh trở nên càng ít về thị giác khi thành phố được xác định ngày càng nhiều bởi những cuộc sống tồn tại trong nó. Tuy thế kiến trúc và đô thị tái xuất hiện trong những quyển cẩm nang này trong những nỗ lực ngầm lẫn công khai nhằm hun đúc lại định dạng của thành phố. Một sự phân biệt độc đáo của những quyển cẩm nang Việt Nam thời những năm 1960, chẳng hạn, nằm trong sự tôn vinh sự năng động của thành thị: giao thông, đám đông, sự thay đổi nhanh chóng, tiến bộ, sự đặt cạnh nhau lung túng của đông và tây, cũ và mới. Những điều có thể được xem xét là không hấp dẫn ở một thời khác thì được đề cao ở đây như những dấu hiệu của một trung tâm nhộn nhịp và thịnh vượng, mở ra vô số khả năng. Sài Gòn và Ho Chi Minh City là những câu chuyện chưa có hồi kết.
    Điệp khúc nghịch lý về sự trường thọ và sự hồi sinh trong những quyển cẩm nang của nhà nước đến quyển Ho Chi Minh City cho thấy tình hình phức tạp của ký ức thuộc địa trong lòng thành phố. Một mặt, những mô tả về các khách sạn kiểu Beaux-Arts được khôi phục làm hồi sinh ‘những kỷ niệm ngọt ngào của một ‘khoảng thời gian đã mất’ đối với nhiều “khách phương Tây” vuốt ve sự luyến tiếc quá khứ du lịch. Mặt khác, khi những sản phẩm ngoài mong đợi của một lịch sử về sự bền bỉ và sự tồn tại vượt xa khỏi chúng, những công trình công cộng lỗi thời sẽ trở thành những tàn tích của những chế độ bị diệt vong. Một ví dụ về danh sách thắng cảnh trong quyển Ho Chi Minh City (1990): “Hội trường Thống nhất” (trước là “Dinh độc lập,” một phiên bản được xây dựng lại của “Dinh tổng thống” xưa; tiền thân là “Dinh Norrodom, nơi ở và làm việc của Toàn quyền Pháp tại Đông Dương”); Nhà tưởng niệm Hồ Chí Minh (“Nhà Rồng” trước là trụ sở công ty hàng hải Messageries Maritimes); Đại sứ quán Mỹ và những tòa nhà khác do người Mỹ ‘chiếm đóng’ trong suốt chiến tranh; địa đạo Củ Chi; khu Tam Giác Sắt[iii]; rừng ngập mặn huyện Duyên Hải[iv]; chùa chiền và, ‘với những du khách thích xem về tác động của chiến tranh với xã hội Việt Nam,” thì có những trại mồ côi và “các trường phục hồi nhân phẩm”, nơi những phụ nữ trẻ lầm lỡ được cho cơ hội làm lại cuộc đời tốt đẹp hơn’. Dù ‘những người tìm kiếm niềm vui’ trong chuyến tham quan đều có thể tìm được chỗ cho mình, thắng cảnh trong Ho Chi Minh City là một bài học lịch sử – và một sự trưng bày thị giác tuyệt vời về sự kế tục.
    Danh sách trên cho thấy không chỉ sự liên quan diễn tiến của môi trường được xây dựng và sự phức tạp về đặc tính Thành phố Hồ Chí Minh, mà còn là sự phê bình tinh tế về thái độ đối với kiến trúc và tổ chức công cộng. Người ta sẽ nhận ra nơi đây những thắng cảnh tên đã đổi – đôi khi nhiều lần – và những địa danh ‘mới’ chưa bao giờ được liệt kê trước năm 1975: các trụ sở của chế độ bị đánh bại, những điểm giao tranh ngoài đô thị trọng yếu đã mang thắng lợi trong cuộc chiến, và những định chế xã hội minh chứng những lý tưởng dân sự mới. Tương tự như thế, nếu sự đồ sộ và quy mô của công trình xây dựng thuộc địa kiểu Beaux-Arts thể hiện tầm vóc và sự bền bỉ của chủ nghĩa đế quốc thì sự kế tục của những người sở hữu các công trình này thời những năm 1990 mang tính biểu tượng tương tự cho một thành phố xác định sức mạnh của mình bằng khả năng tồn tại của dân tộc. Trong cả hai trường hợp, những giả thuyết lâu dài về kiến trúc công cộng và sự thể hiện của nó được đặt nghi vấn chỉ bằng cách triển lãm những công trình này với quyền lực bị mất.
    Ảnh sưu tầm bởi Dũng đô thị
    [​IMG]Nhà hát lớn trên đường Cantinat (Đg. Đồng Khởi) vào năm 1922: Nguồn: L’ Indochine Coloniale Sommaire
    [​IMG]Một góc đường Cantinat (Dg. Đồng Khởi) vào năm 1922. Nguồn: L’ Indochine Coloniale Sommaire
    [​IMG]Chợ Bến Thành. Nguồn: L’ Indochine Coloniale Sommaire
    [​IMG]Dinh Norodom (Dinh Thống Nhất). Nguồn: L’ Indochine Coloniale Sommaire
    [​IMG]Đại lộ Bonnard (Lê Lợi) vào năm 1930. Nguồn: L’ Indochine Coloniale Sommaire
    [​IMG]Nhà thờ Đức Bà năm 1922. Nguồn: L’ Indochine Coloniale Sommaire
    [​IMG]Quảng trường tòa thị chính. Nguồn: L’ Indochine Coloniale Sommaire
    [​IMG]Đường Lagrandière (Lý Tự Trọng) năm 1922. Nguồn: L’ Indochine Coloniale Sommaire
    [​IMG]________________________________________________________________________
    Ngay sau khi thành Gia Định bị Pháp chiếm đóng, khu vực được đổi tên Sài Gòn và xem là thủ đô của Cochin China, tỉnh duy nhất có địa vị thuộc địa chính thức tại Đông Dương Pháp thuộc. Thành phố bị quân đội Nhật chiếm đóng từ năm 1940-1945. Đến cuối thời gian này trong thời gian ngăn ngủi là một phần của nước Việt Nam Dân chủ Công hòa độc lập do Hồ Chí Minh thành lập. Sau thất bại của Nhật ở Chiến Tranh thế giới thứ 2, Sài Gòn “được trao trả” cho Pháp.

    [ii] Beaux-Arts là một trường phái kiến trúc tân cổ điển được hình thành ở trường Beaux-Arts tại Paris.

    [iii] Vùng đất rộng ở phía Bắc tỉnh Bình Dương là nơi quân ********* và sau đó là Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam lập căn cứ vững chắc.

    [iv] nay là huyện Cần Giờ
    Blog KTS Nguyễn Đỗ Dũng
  6. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Nguyễn Đức Hiệp – Ngày xuân nhìn lại những bức ảnh xưa

    12.02.2012 Để lại phản hồi

    [​IMG]Việt Nam có một lịch sử nhiếp ảnh và phim ảnh phong phú, có thể nói là một trong nước mà nhiếp ảnh và điện ảnh được bắt đầu áp dụng trước nhất ở Á châu. Sau khi Louis Daguerre khám phá ra kỹ thuật chụp ảnh năm 1837, thì bảy năm sau Alphonse Jules Itier đã ghé Đà Nẳng trên đường qua Trung Quốc đã chụp một đồn lính Việt Nam trên bảng đồng. Đây là bức ảnh đầu tiên chụp ở Việt Nam.
    Cũng vậy sau một sự kiện lớn trong lịch sử kỷ thuật phim xuất hiện ở Pháp.khi hai anh em Lumière (Auguste và Louis) sáng chế ra máy quay phim vào năm 1895,, thì chỉ một năm sau, Auguste và Louis Lumière đã gởi Gabriel Veyre đến Đông Dương và quay các phim ở vùng này (hai anh em cũng gởi người đi đến nhiều nơi khác trên thế giới). Vì thế các phim đầu tiên thực hiện ở Việt Nam là của hai anh em Lumière. Trong các phim này thì phim đầu tiên là do Gabriel Veyre quay năm 1896 ở một làng gần Đà Nẳng có tựa đề là “Le Village de Namo – Panorama pris d’une chaise à porteurs” . Làng này chính là làng Nam Ô, sát cạnh biển gần thành phố Đà Nẳng, Gabriel Veyre đã quay cảnh các trẻ em chạy chung quanh ông lúc đang ngồi trên kiệu cầm máy quay phim vào làng (1)
    Nhưng tư liệu nhiều nhất để lại là những hình ảnh do các nhà nhiếp ảnh Pháp (và sau này là các nhiếp ảnh người Việt Nam) chụp vào hậu bán thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 ở Việt Nam, Cam Bốt và Lào. Những nhà nhiếp ảnh tiên phong trong thời kỳ này là Émile Gsell, Aurélien Pestel, George Victor Planté, Gabriel Auguste Paullussen, G. Wirth, Alexandre Francis Decoly, Poujade de Ladevèze, Ludovic Crespin, Fernand Nadal, Võ An Ninh… Riêng Émile Gsell đã có chụp những bức hình xưa nhất rất quí giá về lịch sử văn hóa và nghệ thuật vào năm 1866 ở Saigon và Bắc Kỳ.
    Bài này chỉ giới hạn trong sự giới thiệu sơ lược các tác giả và vài hình ảnh tiêu biểu của 3 nhà nhiếp ảnh vào đầu thế kỷ 20: Ludovic Crespin, Fernand Nadal và Võ An Ninh. Một bài nghiên cứu tương đối đầy đủ hiện sắp hoàn thành về lịch sử nhiếp ảnh Việt Nam ở Saigon và sẽ được trình bày sau.
    [​IMG]
    Ludovic Crespin – Saigon đầu thập niên 1920: Place de la Douane.
    Ludovic Crespin, sinh năm 1873, là một trong những nhà nhiếp ảnh chuyên nghiệp sống ở Saigon cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Ông có cơ sở thương mại tại số 136-138 rue Catinat (đưo=`ng Đồng Khở ngày nay) và có một phòng phim ở số 10 Boulevard Charner (Nguyễn Huệ) (1). Ông Crespin cũng xuất bản các sách in lại từ các ảnh, như bộ ảnh về thành phố Chợ Lớn năm 1909. Ông xuất bản bộ ảnh nổi tiếng tên là “Souvenir de Cochinchine et du Cambodge”.
    Hình trên là trích từ bộ ảnh này. Bên phải là tòa nhà Hải quan (trước đó là nhà của ông Vương Thái, Wang-Tai). Bên trái là Quai de commerce (bến Bạch Đằng ngày nay). Chính tại bến này Nguyễn Tất Thành lên tàu Amiral Latouche-Treville của hãng Chargeurs Reunis (chứ không phải tại bến Nhà Rồng là nơi đậu tàu của hãng Messageries Martitimes) (5). Trụ sở của hãng Chargeurs Reunis là ở lầu một của khách sạn Hotel de la Rotonde, số 2 rue Catinat.
    Để ý xe buýt chở khách trong hình có mang biển quảng cáo “amer picon”, một một loại rượu đắng màu cam (từ võ cam) khai vị uống cùng với bia. Loại rượu này do ông Picon, người lính Pháp gốc đảo Corse sáng chế vào năm 1837 và sau này rất phổ thông trong quân đội Pháp, được cho là chữa nhiều bệnh như sốt rét, cảm cúm… Xe hơi vào Saigon nhiều bắt đầu từ năm 1910, sau khi ông hoàng Duc de Montpensier mang xe Lorraine Diétrich24/30 HP đến Saigon trong chuyến đi vượt rừng Saigon đến Angkor (nhiều người cho rằng ông điên rồ) nhưng ông đã thành công đến được di tích văn minh Khmer, Angkor.
    [​IMG]
    Ludovic Crespin – Saigon đầu thập niên 1920 (“Souvenir de Cochinchine et du Cambodge”)
    Trong hình trên là đường Catinat nhìn từ bến Bạch Đằng. Khách sạn Hotel de la Rotonde ở bên phải, có trụ sở hãng tàu Chargeurs Reunis mà trước đó Nguyễn Tất Thành đến xin làm phụ bếp của tàu Amiral Latouche Treville năm 1911. Lúc này khách sạn Majestic chưa xây, trên vị trí của Taverne Alsacienne phía trái hình (ta cũng thấy ở bên trái có ‘money changer’, sạp hàng nơi đổi tiền của người Ấn mà người Pháp gọi là Malabar).
    [​IMG]
    Không rõ tác giả bức ảnh này, chỉ biết thuộc E***eur Comiel, Saigon. Collection G. Comiel, đã có xuất bản một phóng sự đầy đủ về chuyến thăm chính thức của Toàn quyền Beau ở Vân Nam, năm 1905 (1). Đây là bến xe trước tòa nhà hỏa xa, gần chợ Bến Thành. Bến xe này đi các tỉnh miền đông và tây. Để ý các xe này cũng giống như xe trong các hình chụp của Crespin.
    [​IMG]
    Bức ảnh này là của Fernand Nadal chụp, in trong album Nadal năm 1926. Ông Fernand Nadal là người Ả Rập, sinh ở Algérie (Hussein-Dey năm 1898 ? hay El Affroun năm 1902?), ông đến Đông Dương trong năm đầu của thập niên 1920, ông trú ngụ và có cơ sở thương mại ở số 150 đường Catinat, Saigon.
    Đường Catinat (nay là Đồng Khởi), khách sạn Continental bên phải và bên trái là tiệm thuốc tây Solirène Pharmacie (số 20 rue Catinat). Chủ nhân trước của Solirène Pharmacie là ông Lourdeau (1865), sau đó sang lại cho dược sĩ Thomas Victor Holbé và ông Renoux. Ông Holbé đặc biệt cũng là nhà thực vật, sưu tầm khảo cổ và nhân chủng học. Ông là cộng tác viên của Trường Viễn đông Bác cổ. Tính tình phóng khoáng, ông tự bỏ tiền túi đi điền dã ở nhiều nơi như Angkor, Huế, Hà Nội, Vân Nam, Java, Borneo, cao nguyên Quảng Trị (cùng với ông Cardière)…
    Nhà ông ở Saigon, được bạn bè thân mật gọi là “Villa Hermosillo”, có vườn nhiệt đới đầy cây lan, cây cọ, dương sĩ… Ở đây giống như một ốc đảo giữa sa mạc là nơi tụ tập của các nhân sĩ, trí thức, những ai say mê về bất cứ khía cạnh nào về khoa học, xã hội, nhân chủng, khảo cổ, về các khía cạnh của Saigon, Nam Kỳ, hay những nơi khác có thể đến và được đón tiếp. Bộ “sưu tập Holbé” sau này được tặng cho thành phố Saigon sau khi ông mất, và được trưng bày trong nhiều phòng ở viện bảo tàng mới của Nam Kỳ, Musée de la Cochinchine (Bảo tàng Blanchard de la Brosse) (15) (16) Ông Holbé mất tại Saigon 18 tháng 2 năm 1927, sau đó tiệm thuốc tây nhường lại cho ông Renoux, thành nhà hàng của ông Pancazi, sau đó trở lại tiệm thuốc tây của ông Solirène (4). Cuối cùng trở thành nhà hàng café Givral (và năm 2010 thì bị phá bỏ).
    Hiện nay chưa biết đích xác địa chỉ nhà “Villa Hermosillo” của ông Holbé ở Saigon. Trong niên giám Annuaire général de l’Indochine năm 1909 chỉ có ghi địa chỉ Pharmacie Holbé ở số 20-22 rue Catinat và một người tên Nguyen Van Duc ở số 83 rue Gia Long làm cho Pharmacie Holbé et Cie. (Nguyen Van Duc, pharmacie europénne, Holbé et Cie., Saigon).
    [​IMG]
    Võ An Ninh – Cụ đồ viết câu đối Tết (1940)
    Võ An Ninh, tên thật là Vũ An Tuyết, sinh năm 1907 tại phố Hàng Gai, Hà Nội. Ông làm phóng viên nhiếp ảnh của Sở Kiểm Lâm. Võ An Ninh đi khắp mọi miền đất nước Bắc-Trung-Nam để chụp ảnh với cái camera của Đức hiệu Zeiss Ikon (1928). Ở Hà Nội, ông có nhiều ảnh nổi tiếng gợi nhớ về Hà Nội của những ngày thanh lịch xa xưa: Trong vườn si đền Voi Phục (1942), Gió nồm (Đê sông Hồng, 1948), Nhớ xưa (1944), Bậc đá đền Voi Phục (1956), Chùa Láng (1941), Cụ đồ viết câu đối Tết (1940), Tranh Tết làng Hồ (1941), Phố Hàng Buồm (1940). Ở thành phố Saigon trong giai đoạn 1946-1950, ông có chụp nhiều ảnh trong đó có “Chợ bến thành và bến xe thổ mộ” (1949), “Cụ đồ viết câu đối Tết” (Saigon, 1950), “Lăng ông ngày tết” (1952)…
    Bức ảnh này ông chụp ở Hà Nội năm 1940, vài năm sau khi Vũ Đình Liên sáng tác bài thơ nổi tiếng “Ông đồ già” (1936). Tác giả bài này được may mắn gặp ông trong nhiều dịp viếng thăm Saigon và được ông tặng tấm ảnh này sau khi đã đi điền dã với ông ở nhiều nơi. Võ An Ninh mất năm 2009 ở Saigon.
    Chú thích:
    (1) Phim này có thể xem ở http://www.youtube.com/watch?v=9dk15FlvRj4. Phim thứ nhì của anh em Lumière ở Việt Nam là “Indochine: Enfants annamites ramassant des sépèques devant la Pagode des dames (1903)” (có thể xem ở http://www.youtube.com/watch?v=WH5NZo8Mm0M). Bình luận và nghiên cứu chi tiết về hai phim này, có thể xem bài viết của hai giáo sư Barbara Creed và Jeanette Hoorn (University of Melbourne) trong phần tham khảo (6)
    Tham khảo
    (1) Marie-Hélène Degroise, Photographes en Outre-Mer (1840-1944), http://photographesenoutremer.blogspot.com/
    (2) Nguyễn Đình Đâu, Tìm lại cầu tàu nơi Bác Hồ rời cảng Sài Gòn, Báo Lao Động ngày 4/6/2011, http://laodong.com.vn/Tin-Tuc/Tim-lai-cau-tau-noi-Bac-Ho-roi-cang-Sai-Gon/45151
    (3) Nguyễn Đức Hiệp, Võ An Ninh: Nhiếp ảnh và cuộc đời, http://www.vannghesongcuulong.org/i...index.php?comp=tacpham&action=detail&id=10502
    (4) Victor Goloubew, V.-T. Holbé, Bulletin de l’Ecole française d’Extrême-Orient, Année 1927, Volume 27, Numéro 27, p. 525.
    (5) Chronique, Cochinchine, Bulletin de l’Ecole française d’Extrême-Orient, Année 1933, Volume 33, Numéro 33, p.1110-1111.
    (6) Barbara Creed and Jeanette Hoorn, Memory and History: Early Film, Colonialism and the French Civilising Mission in Indochina, in “French History and Civilization”, Papers from the George Rudé Seminar Volume 4, 2011, E***ed by Briony Neilson and Robert Aldrich, http://www.h-france.net/rude/rudevoliv/CreedHoornVol4.pdf
    (7) Hình ảnh một số từ http://www.flickr.com/photos/13476480@N07/collections/http://belleindochine.free.fr/Saigon1882.htm
    (8)
  7. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [​IMG]




  8. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [​IMG]

    PHOTO BACK
    [​IMG]
  9. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Hai trùm cự phú thuộc tứ đại gia đất Sài Gòn

    22-10-2012 | 16:26 (Nguoiduatin.vn) - Tam Xường (Lý Tường Quan), Tứ Định (Trần Hữu Định) là hai người xếp vị trí thứ 3, thứ 4 trong tứ đại gia đất Sài Gòn. Cả hai người đều có khối tài sản khổng lồ nhờ các hoạt động kinh doanh buôn bán và làm đầu mối cung cấp độc quyền các mặt hàng khan hiếm.

    Trong những đại phú gia đất Sài Gòn năm xưa, Tam Xường và Tứ Định là hai nhân vật nổi tiếng về giàu có đất Nam Kỳ. Hai ông trùm về tiền của này có nhiều điểm khác nhau, nhưng có một điểm chung là đều vận dụng thời cơ để tạo nên sự giàu có cho mình. Những giai thoại về khối tài sản giàu kếch xù của hai cự phú này vẫn được truyền tụng cho tới ngày nay và ngay cả ông Phạm Văn Thiều (73 tuổi, ngụ quận 9, TP.HCM) người nhiều năm nghiên cứu lịch sử Sài Gòn cũng xác nhận những điều trên.
    [​IMG]
    Khu đền thờ Bá hộ Xường
    Tam Xường oai thấu trời xanh
    Học giả Vương Hồng Sển trong cuốn Sài Gòn năm xưa có nhắc tới Bá hộ Xường như sau: "Tam Xường - Tục danh "Hộ Xường", tên thật là Tường Quan, tự "Phước Trai", gốc người Minh Hương”. Theo ông Phạm Văn Thiều thì cho đến nay, cuộc đời và sự nghiệp của Bá hộ Xường có rất ít sách vở còn ghi chép lại. Bởi vậy, gốc gác cũng như sự giàu có của Bá hộ Xường chủ yếu còn lưu lại trong những giai thoại mà thôi. Người ta chỉ biết Lý Tường Quan là người Minh Hương, tức là những người Hoa kiều trung thành với nhà Minh, không chịu khuất phục nhà Thanh nên đến lánh nạn ở miền Nam nước ta.
    Một số sách xưa có chép lại rằng: "Ông theo đạo Công giáo và gia nhập Việt tịch với tên thường gọi là Xường. Ông Xường được theo học trường thông ngôn nên thông thạo tiếng Pháp và tiếng Hoa, được dân tin tưởng và chính quyền Pháp ở Sài Gòn trọng dụng. Chính vì vậy, Bá hộ Xường làm thông ngôn, vừa có tiền lại có danh phận. Sự giàu có của cự phú Tam Xường lúc này vẫn chưa đạt đến đỉnh mà số tài sản khổng lồ của ông được nhiều người biết đến là được tạo dựng bằng mối quan hệ và đầu óc của ông sau này”.
    Câu chuyện về sự giàu có của Lý Tường Quan được truyền tụng với nhiều giai thoại ly kỳ cho đến ngày nay. Một câu chuyện về Bá hộ Xường lưu truyền trong dân gian là việc ông từ bỏ quan trường để tham gia vào lĩnh vực kinh doanh. Chuyện kể rằng: "Lúc 30 tuổi, Bá hộ Xường từ bỏ địa vị mà nhiều người mơ cũng không có được, để bước chân vào thương trường. Nhận thấy thời cơ đã đến, với uy tín và sự tin tưởng của dân chúng và giới quan chức Pháp lúc bấy giờ, ông đã đầu tư vào kinh doanh. Lĩnh vực kinh doanh mà ông nhắm đến là dịch vụ cung cấp lương thực, thực phẩm (lúa gạo, thịt cá...) cho Sài Gòn và các tỉnh lân cận. Gặp thời điểm xuôi chèo mát mái, lại biết khôn khéo lấy lòng các quan Tây để được họ che chở, nâng đỡ, nên chẳng mấy chốc Bá hộ Xường trở thành nhà cự phú quyền uy, nhất là trong lĩnh vực lương thực - thực phẩm lúc bấy giờ. Thời đó, hễ nhắc tới ông trùm lương thực và công nghệ thì ai cũng đều biết tới cái tên cự phú Tam Xường”.
    Cụ Nguyễn Trường Minh (72 tuổi, ngụ tại quận 5, TP.HCM) cho biết: "Theo tôi được biết thì có rất nhiều giai thoại nói về sự giàu có của Lý Tường Quan, nhưng tương truyền rằng dinh thự của ông nguy nga bề thế, tọa lạc trên đường Gaudot, nay là đường Hải Thượng Lãn Ông (quận 5). Tuy nhiên, sau khi Bá hộ Xường qua đời, tài sản của ông bị con cháu ăn xài, phung phí hết. Trước năm 1975, mộ của ông vẫn còn ở Gò Vấp, nhưng nay không tìm ra dấu tích. Chúng tôi tìm đến nơi, thấy dấu tích còn lại là khu nhà mồ cổ khá kiên cố do tôn tử tương tề đồng tâm xây dựng vào tháng 12/1896, hiện ở gần di tích địa đạo Phú Thọ Hòa, Tân Bình, TP.HCM hiện nay. Toàn bộ công trình này tuy không đồ sộ, khang trang, khoáng đạt, nhưng có nhiều hoa văn, họa tiết rất tinh tế. Tuy theo lối kiến trúc gô-tích, nhưng vẫn giữ được dáng dấp Á Đông”.
    Theo sách vở ghi chép thì ở giữa nhà mồ, là một cái quách lớn đựng thi thể người chết, bằng đá xanh hình chữ nhật 3,4x2,2m, dày 0,3m, nhô cao 0,8m. Ngày 20/10 âm lịch hàng năm là ngày giỗ của Bá hộ Xường. Nói về sự giàu có của Bá hộ Xường, trong sách Sài Gòn năm xưa của nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển cũng chép rằng: "Hộ Xường, vốn là thông ngôn xuất thân. Sớm sớm xin thôi, ra lãnh thầu cung cấp vật dụng thức ăn cho thị xã. Nhờ khéo tay thêm phùng thời, cự phú không mấy hồi. Còn nhà thấp năm căn nửa xưa nửa nay tọa lạc đường Khổng Tử. Vòng rào sắt trước ngõ chứng tỏ rằng mặt tiền ngó ra kinh có lẽ trước kia cao ráo, nay kinh đã lấp, thế vào đây là một con đường cái, thềm lộ bồi đất cao hơn sân nhà, thành thử sân như sâu xuống và vuông nhà đã thấp nay lại càng lụp xụp. Chủ nhà mất đã lâu, gia tài kếch xù, con cái nhiều dòng, phần ăn chia chưa xong".
    Hiện nay, từ đường họ Lý tại số 292 đường Hải Thượng Lãn Ông, phường 14, quận 5, đã được UBND TP.HCM xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp thành phố, theo Quyết định số 1769/QĐ-UBND ngày 27/4/2009.
    Tứ Định - Cự phú "ẩn danh"
    Tứ Định tuy là cự phú nổi tiếng lúc bấy giờ, nhưng ít có sách vở nào ghi chép, những giai thoại về sự giàu có của ông cũng ít ai biết được. Mặc dù được xếp hạng thứ 4 trong tứ đại phú gia, nhưng thường khi nhắc đến vị trí của ông người ta lại nhớ tới một nhân vật khác (ý nhắc tới tứ Hỏa, hay tứ Bưởi) bởi những thông tin về sự giàu có của ông rất ít người biết đến.
    Theo học giả Vương Hồng Sển, người xếp hạng tư trong tứ đại gia đất Sài Gòn xưa chính là Bá hộ Định. Bá hộ Định có tên thật Trần Hữu Định. Ông xuất thân là chủ tiệm cầm đồ, rồi được chính quyền Pháp cho làm Hộ trưởng kinh doanh đất đai, xuất nhập khẩu vải sợi.
    Sự giàu có của Bá hộ Định còn được học giả Vương Hồng Sển ghi chép lại trong cuốn Sài Gòn năm xưa: "Nhà ở khoảng giữa đường Trần Thanh Cần, gần dốc cầu Palikao một đầu và chợ Quách Đàm một đầu. Ngôi nhà 5 căn trệt chạm trổ thật khéo, cột cẩm lai bóng ngời có thể soi gương thấy mặt; trong nhà từ cái bàn, cái ghế, cái đôn sành đều có vẻ cũ xưa. Mấy năm trước chính mắt tôi còn thấy làu làu vững chắc tuy khoảnh vườn sân trước đã bị cắt xén sát mặt tiền nhường chỗ làm thềm và đường cái mở rộng nên lấp kênh. Gần đây, vì đất chợ cao giá tuy nhà lập làm phần hương hỏa, nhưng con cháu đã bán và dỡ đi. Thay vào đó là một dãy phố lầu tiệm buôn khách trú. Phần hoa lợi tuy có thêm, nhưng thiệt hại về cổ tích từ đây và cứ theo đà này, đô thành Sài Gòn ngày một mất dần những dấu vết xưa...".
    PGS.TS Hà Minh Hồng (trưởng Khoa lịch sử Trường ĐH KH&NV TP. HCM) cho biết: "Ngày nay, tuy những dấu tích gia sản để lại của hai nhà cự phú này còn rất ít, ngay cả dấu tích về mộ phần của các ông cũng mất. Những câu chuyện kể lại về các đại phú gia này đa phần chỉ là chuyện dã sử hay chỉ là những giai thoại mà thôi. Nhưng tên tuổi và những giai thoại và tiếng tăm của hai ông luôn gắn liền với một câu nói mà hễ nhắc tới sự giàu có thì ngay lập tức những cái tên trong tứ đại phú gia lại xuất hiện. Mỗi khi nhắc tới những người giàu bậc nhất năm xưa là nhiều người có thể đọc ngay không cần suy nghĩ "Nhất Sỹ, Nhì Phương, Tam Xường, Tứ Định"”.

    Mai Phon
  10. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [​IMG]
    Đuốc Nhà Nam * Số Xuân Tân Hợi * Đặc biệt TIỀN * Mỗi số 100đ
    Trụ sở : 4 Nguyễn Văn Thinh - Saigon * Điện thoại : 20.857 * Hộp thư 504 ​
    Chủ nhiệm kiêm chủ bút : TRẦN TẤN QUỐC​
    ---------- oOo ---------- ​
    Nhớ cái Tết “kinh tế” năm xưa…
    Tác giả : Tế Xuyên
    (Hồi chép : Võ Minh Cường)​
    Năm ấy, tôi đã ăn một cái Tết “kinh tế”…
    Một cái Tết “kinh tế” như cái Tết “kiệm ước” hay Tết “hối đoái song hành” năm nay. Danh từ “kinh tế” nếu nói theo danh từ đầy đủ là “kinh tế khủng hoảng” đã thành tiếng nói trên đầu môi chót lưỡi của người dân, cũng như danh từ “kiệm ước” và “hối đoái song hành” mà người dân đang thông dụng, kèm sau các danh từ khác như Phở “kiệm ước”, Sống “kiệm ước”, Lương “kiệm ước”…
    Năm ấy là 1932… suốt cả năm tôi đã từng thấy cả dãy phố đường Hàm Nghi (hồi ấy gọi là Boulevard de la Somme) - đường Tự Do (Catinat) - dường Tạ Thu Thâu (Sabourain) hầu hết bỏ trống khóa cửa, chỉ vài căn có người mướn… Chợ Bến Thành buôn bán ế ẩm. Một con vịt quay treo tòn teng ở quán thịt bán có 6 xu con nhỏ, 8 xu con lớn. Thỉnh thoảng cao hứng, bà xã của tôi xách một con về cho gia đình ăn một bữa, khỏi phải nấu nướng, làm món ăn mất công. Gạo thì 4 cắc một giạ, mà lại là thứ gạo nấu cơm mềm dẻo thơm phức, ngày nay nhớ lại mà thèm…
    Những kẻ thất nghiệp dám mướn phố lầu mà ở, những căn phố ở khu trung tâm, gần chợ Saigon. Chúng tôi đã có một “phép mầu nhiệm” để ở khỏi tốn tiền, chỉ xoay đủ tiền trả tiền phố tháng đầu rồi từ tháng sau không trả tiếp nữa mà ở lì luôn cả năm.
    Khi người thâu tiền phố đến đưa biên lai thâu tiền thì chỉ cười trừ “tiền đâu mà trả”. Người thâu tiền cũng thông cảm vì hoàn cảnh của thầy ta chắc cũng chẳng hơn gì mình.
    Có khi ngượng quá thì lánh mặt, cho vợ con “đại diện” mà trả lời rằng “Tháng này túng quá, thôi để tháng sau trả luôn thể”. Tháng sau ? Rồi tháng sau nữa… kéo dài cả 10 tháng, 12 tháng như vậy. Thầy thâu tiền riết rồi thối chí sau hai ba lần sẽ không đến nữa, báo cáo cho chủ đối phó.
    Đối phó cách gì ? Nhiều lắm là đưa ra tòa xin trục xuất thôi vì người mướn phố không có một món đồ gì đáng giá để tịch thâu. Kẻ nghèo chỉ có vỏn vẹn một cái ghế bố để ngủ và một cái rương hay cái va-li cũ kỹ đựng vài ba bộ quần áo rẻ tiền.
    Cái lối mướn phố “luân chuyển” đã thành “lối ở” của dân nghèo. Ở căn này một thời gian rồi lại ở đến căn kia, trả tiền phố có một tháng đầu mà ở đến một năm hay 8 tháng, ít lắm cũng là 6 tháng.
    Đi ngoài đường thấy vắng vẻ, buồn hiu. Những căn phố đóng cửa im ỉm, những căn phố chết… Saigon là thành phố chết, hay đang hấp hối. Nạn thất nghiệp tràn lan, kiếm được một việc làm là cả một cái may mắn như trúng “số đuôi”. Công chức, tư chức có “sở mần” rồi thì cố mà giữ lấy, cố chiều chuộng ông “sếp” để khỏi bể nồi gạo.
    Lao động lại càng cực khổ hơn vì phải đổ mồ hôi đổi lấy chén cơm manh áo và ít người có lấy một cái gì gọi là “nhà” để ở. Phần nhiều họ đóng đô ở ngay hàng ba những căn phố trống. Với tất cả nồi niêu xoong chảo, cả “thê tử đùm đề”, họ sống cố thủ tại đó vì có ai mướn căn phố ấy đâu. Đêm đến họ bẻ khóa cửa, di cư bớt bầy con vào ngủ trong nhà, sáng đến lại móc khóa vào cửa để khóa hờ, khóa tượng trưng cho người quản lý dãy phố khỏi rầy la.
    * * *​

    Tại sao có tình cảnh ấy ?
    “Kinh tế khủng hoảng”! Đi đâu cũng nghe bàn tán đến cái nạn ấy.
    Người bình dân còn nói chệch ra là “kinh tế lủng lẳng” có lẽ ngụ ý rằng đời sống của họ treo “lủng lẳng” trên sợ chỉ mành.
    Tại sao có tình trạng ấy ? Chính danh thủ phạm là “đồng bạc”… Đồng bạc bị “bình giá”.
    Ngày 31 tháng 5 năm 1930, Tổng thống Pháp Doumergue ký sắc lịnh ấn định chế độ tiền tệ cho Đông Dương, lấy vàng làm bản vị. Khoản thứ nhứt trong sắc lịnh nói : “Đồng tiền Đông Dương là một đồng vàng cân nặng 655/1.000 gờ-ram, thanh sắc là 0,9 tức là 10 quan tiền Pháp”. Như vậy dầu là đồng bạc đúc hay là tờ giấy 1 đồng tiền của Đông Dương có giá trị bằng một miếng vàng 655 li (mgr) mà 900 phần ngàn là vàng y.
    Từ đó giá bạc kim khí trên thế giới lên hay xuống, đồng “bạc” Đông Dương không bị ảnh hưởng gì.
    Sự bình giá đồng bạc tiện lợi cho các nhà buôn Pháp ở đây vì họ khỏi phải chịu cái cảnh bấp bênh do giá đồng bạc cao hay hạ gây ra, tùy theo giá bạc kim khí lên hay xuống. Ví dụ mua một cái máy 15.000 quan thì cứ trả 1.500 đồng bạc, trước kia nếu đồng bạc bị hạ giá còn có 5 quan thì phải trả tới 3.000 đồng. Tiện lợi cho các nhà buôn giao dịch với Pháp song hại cho nông gia, thương gia vô cùng. Bấy lâu nay gạo - nền tảng của kinh tế Đông Dương - vẫn bán qua Trung Hoa, bây giờ không bán được nữa. Vì giá đồng bạc Đông Dương bị “bình giá” 10 quan, mua gạo Đông Dương phải trả bằng một giá cao quá, người Tàu tính tốt hơn là của các nước mà giá tiền hạ như Xiêm La (thái Lan) chẳng hạn.
    Năm 1926, gạo xuất cảng thâu được 2.628.545.00 quan cho Đông Dương. Năm 1931, sụt xuống còn có 623.447.000 quan.
    Cũng chỉ vì sự bình giá đồng bạc kể từ năm 1930, theo tài liệu của A. Thiollier trong quyển La grande aventure de la piastre indochinoise, “nền kinh tế Đông Dương căn cứ vào gạo, gạo bán ra nước ngoài không được, tức nhiên kinh tế bị khủng hoảng. Một cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài mãi đến năm 1939”. Gần 10 năm, nhân dân sống đau khổ chỉ vì một nền kinh tế lệ thuộc Pháp, cũng như nền kinh tế ngày nay lệ thuộc Mỹ.
    * * *​

    Một ông “bác sĩ kinh tế” ra đời
    Trước cơn bịnh kinh tế trầm trọng như đã phát họa trong vài nét đan thanh trên kia, một nhà thầu khoán ở miền Trung đã từng đâu “agent technique” ở trường C. Chánh Hanoi, nhảy lên sân khấu với một cái áo trắng dài và cái mũ trắng của bác sĩ. Ông tự xưng là “bác sĩ kinh tế” lên sân khấu một nhà hát ở Phan Thiết, diễn thuyết về nạn kinh tế khủng hoảng và tuyên bố đem tài “kinh bang tế thế” giải quyết nạn đồ thán cho đồng bào.
    Nhơn vật ấy là ông Trần Quang An.
    Ông còn chạy vào Saigon để kê toa, toan chữa bịnh “kinh tế lủng lẳng” cho toàn dân.
    Toa thuốc của ông giản dị lắm : tìm biết đúng nhu cầu hàng tháng của mỗi gia đình (bao nhiêu gạo, bao nhiêu than, bao nhiêu mắm muối, tương cà) rồi mua tích trữ trong kho để phân phối cho từng nhà.
    Tóm lại là mua tận gốc bán tận ngọn, mua gộp lại để có thể trả giá rẻ. Một hình thức “hợp tác xã” nhưng “bác sĩ kinh tế” gọi là “Entrepots - Warrant”.
    Ông dùng Saigon làm thí điểm. Ông in ra cả mấy vạn tập “câu hỏi” về nhu cầu bếp núc của mỗi gia đình, phát cho từng nhà xin trả lời để ông ước lượng số hàng phải mua trữ trong những “Entrepots - Warrant” của ông.
    Ông thuê một dãy 24 căn phố trệt ở đường Trịnh Minh Thế (Jean Eudel) - Khánh Hội để làm kho chứa hàng.
    Nhưng ông thất bại lớn. Vì người Việt Nam thế hệ trước quen sống với nếp sống cổ truyền “tén vén tương cà”, đâu có hiểu lợi ích của một biện pháp kinh tế xa lạ mà họ còn nghi ngờ là một thủ đoạn gì đây ? Toa thuốc kinh tế của “bác sĩ” Trần Quang An chưa kịp cứu dân độ thế đã bị xếp xó, 24 căn phố của ông thuê bị bỏ trống cả năm rồi trả lại cho chủ phố.
    * * *​
    Chú Quách Đàm - một nạn nhân điển hình
    Các nhà buôn lỗ lả, bị đóng cửa vì vỡ nợ, vì khánh tận. Nhà băng Đông Dương, nền tảng của đại tư bổn Pháp, quơ lưỡi hái mà “giết chết” thương gia này đến điền chủ kia. Cho đến các tiểu thương, trung thương Pháp cũng khó sống, muốn nghẹt thở, chết ngộp.
    Đám thương gia Pháp cầm đầu các cuộc biểu tình rầm rộ diễn ra ở Saigon, trong các phòng nhóm họp (chưa có phong trào xuống đường hồi đó). Ha la thét, thảo kiến nghị, đòi phá giá đồng bạc. Nhưng chỉ là tiếng kêu giữa bãi sa mạc, chẳng đi đến đâu vì phái đại lý tài Pháp vững như bàn thạch, có cần nghĩ đến ai. Định luật của bọn sống trên mồ hôi nước mắt, trên xương máu kẻ khác, dầu ngày trước cũng như ngày nay là một định luật bất di bất dịch “sống chết mặc bây, tiền thầy bỏ túi”.
    Nạn nhân điển hình nhứt là chú Quách Đàm mà cái chợ ở đường An Bình trong Cho-Lon còn ghi lại một kỷ niệm với pho tượng của chú được dựng lên giữa chợ. Ngày nay người ta gọi là chợ An Bình, nhưng ngày trước chợ ấy được gọi là “chợ Quách Đàm”.
    Chú Quách Đàm, một đại thương gia trong giới Huê kiều đã bỏ tiền ra xây cất chợ này. VỚi cái óc tính toán khôn khéo của các Hoa thương “luôn luôn đeo cái bàn toán sau đít” - như lời người tục thường nói - chú Quách Đàm mua đất trống rẻ tiền, cất một cái chợ cho dân chúng buôn bán. Thật là một việc công ích đáng tán thưởng nên trong chợ, nhà chức trách Đô thành hồi ấy đề nghị dựng pho tượng Quách Đàm để tri ân nhà “hằng tâm hằng sản” đã tặng cho Đô thành cái chợ này.
    Cái tài khôn khéo của chú Quách Đàm là ở chỗ chú biết “làm một công hai việc”, ích cho người mà cũng lợi cho mình. Nhà phú hộ ấy cho cất hai dãy phố lầu ở hai bên chợ. Nếu phố cất ở khoảng đất trống buồn hiu thì đâu có thể cho thuê cao giá. Chú Quách Đàm lập nên cái chợ cho dân chúng buôn bán thì khu đất này biến thành khu thương mại và hai dãy phố của chú cũng thành phố thương mại, cho mướn được giá cao. Chẳng mấy lúc mà giàu có lớn lại còn được danh giá nữa vì có Đô trưởng đến khánh thành chợ, đọc “đít-cua” đề cao tấm lòng trọng nghĩa khinh tài của “vị ân nhân của dân chúng”.
    Nhưng “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Công cuộc xây cất của Quách Đàm khởi sự từ lúc kinh tế chưa khủng hoảng, đến lúc hoàn thành thì “lúa xuống giá 4 cắc một giạ”.
    Dãy phố của chú Quách Đàm chẳng ai thuê, mà chợ cũng không có bạn hàng đến họp vì buôn bán ế ẩm, ai cũng muốn đến bán ở những chợ đã có từ lâu, sẵn sàng thân chủ.
    Dãy phố phải bán rẻ bán tháo để lấy tiền trả nợ ngân hàng. Một thất bại chua cay mà nguyên nhơn chỉ vì kinh tế khủng hoảng
    * * *​

    Cái “Tết kinh tế” năm ấy
    Tuy nạn kinh tế khủng hoảng lan tràn khắp nước, năm ấy tôi cũng đã ăn một cái Tết sung mãn, có heo sữa, có thịt gà, có cả bánh tết và đủ cả múa lân nữa.
    Lúa bán không được, công việc làm ăn buôn bán ngưng trệ, song nông gia vẫn sống đầy đủ. Một ông bạn ở Bạc Liêu, nhà không giàu có, chỉ ở vào bực trung, mời tôi về quê ăn Tết. Với tánh hiếu khách, là đặc tánh của người đất ruộng rẫy chất phác chơn thành, anh bạn ấy đã cho tôi hưởng một cái Tết vui thú, làm cho tôi quên hết cả nạn kinh tế khủng hoảng đang lan tràn khắp đất nước quê hương.
    Gạo có sẵn, không bán được thì để ăn, dân quê cũng như dân thành thị không phải lo nạn đói. Nhà nào ở quê cũng chất lúa đầy nẩm, đầy kho, gà vịt nuôi cả bầy, không phải để bán mà để ăn hàng ngày. Ngoài ra nhà nào cũng có một hai lu mắm, hay ít lắm cũng một lu. Cá đồng tràn trề, không thiếu, món mắm là món ăn thuần túy Việt Nam không nhà nào là không có.
    Nhà bạn tôi có cả một cái ao thả cá. Những con cá lóc lớn bằng bắp tay, được bắt lên để nướng trui ăn với bánh tráng rau sống. Dân nông thôn ở đây có một cách nướng trui khác với dân đô thị. Họ bọc con cá lóc vào hai miếng bẹ chuối, liệng vào đống rơm, châm lửa đốt khỏi cần than củi. Đống rơm cháy hết là món cá đã chín, đem lên để vào dĩa bàn, mùi thơm phức, thịt cá ngon ngọt, còn nguyên hương vị cá đồng.
    Heo cũng nuôi sẵn, nên ngày Tết, một con heo sữa được quay ngay tại nhà, để nguyên con trên bàn ăn, thực khách thích ăn chỗ nào là cứ cầm dao cắt lấy chỗ ấy để vào đĩa ăn, đưa cay với một ly rượu đế miền quê tự tay chủ nhà cất, ngon hảo hạng. Thứ rượu này bị coi là “rượu lậu” vì nhân dân phải uống “rượu công-xi” của công ty Fontaine được độc quyền chế tạo, bán cho toàn dân như một thứ “quốc tửu” duy nhứt. Uống “rượu lậu” thì ở tù, nhưng với gia đình có bề thế ở thôn quê, các ông làng cũng vị nể, không nỡ làm khó dễ.
    Trong khi chúng tôi nâng ly rượu mừng xuân thì bên ngoài lộ, lân đến các nhà khá giả để múa và lãnh giải. Treo giải cho lân múa là hai, ba đồng bạc (một số tiền không phải nhỏ hồi ấy). Một cái Tết thanh bình. Tuy chịu cái nạn chung kinh tế khủng hoảng song dân ruộng rẫy vẫn sống no đủ, sống khỏe phây phây với những món ăn “cây nhà lá vườn” khỏi phải bỏ tiền ra mua. Vì sống dễ như vậy mà có nhiều nhà hiếu khách dám nuôi bạn ở thành thị về nằm chèo queo ăn nhậu cả 6 tháng, cả 1 năm.
    Cái Tết năm ấy tôi còn nhớ mãi.
    Tôi còn nhớ cả những lúc nhàn rỗi ra đồng, lúa tỏa lên một mùi thơm bát ngát.
    Biết bao giờ cho đất nước thanh bình để trở về quê cũ hưởng lại cái thú vui êm đềm của ruộng rẫy ?
    * * *​

Chia sẻ trang này