1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những Hình ảnh xưa về Đất Nước, Con Người, Văn Hoá Việt Nam (Updated ngày 19/6/2014)

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ruavang, 16/11/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Duperré
    [​IMG]

    • 1813 : mise sur cale sous le nom de la Couronne.
    • 1830 : expé***ion d'Alger.
    • 1845 : refondu à Toulon.
    • 1848-49 : renommé la Barricade.
    • 1849 : renommé Duperré trois mois après la mort de l'amiral.
    • 25-7-1852 : entre au bassin à Toulon.
    • 1854 : en opérations en Baltique, bombardement de Bornarsund, puis voyages en Crimée en tant que transport.
    • 20 au 29-5-1854 : escale à Kiel avec l'escadre française.
    • 22-11-1859 : armé en hôpital flottant à Toulon.
    • 11-1-1860 : appareille de Toulon pour la Chine, remorqué par le Caton.
    • 6-12-1860 : aménagé en navire-hôpital en Chine.
    • 3-1863 : à Saïgon.
    • 17-8-1869 : rayé des listes - ponton.
    • 1870 : démoli à Saïgon.

  2. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [​IMG]




  3. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Chuyện chưa kể xung quanh tác giả mẫu quốc huy VN

    Tags: Bùi Trang Chước, Trần Văn Cẩn, Triều Dương, Việt Nam, Viện Khoa học Hình sự, Lưu Trữ Nhà Nước, tổ tư vấn, tượng trưng cho, quốc huy, mẫu quốc, tác giả, gia đình, bông lúa, chúng tôi, sỹ


    [​IMG]
    Họa sĩ Bùi Trang Chước (1915-1992).



    TS) - Căn phòng nhỏ nơi cố họa sỹ Bùi Trang Chước từng sống treo đầy các mẫu quốc huy và một cuốn sổ lớn lưu đủ 18 mẫu quốc huy ông đã sáng tác cùng các tài liệu, chứng cứ mà gia đình ông đã tìm kiếm và dựa vào nó mà đấu tranh suốt ba năm qua cho một sự thật lịch sử. Những chứng cứ quan trọng nhất gồm có: Bản sao của Cục Lưu trữ Nhà nước đề tác giả mẫu quốc huy (đã được Quốc hội thông qua năm 1955) là của họa sỹ Bùi Trang Chước; công văn do chính họa sỹ Trần Văn Cẩn ký trong đó có nói tác giả Quốc huy trình lên chính phủ là Bùi Trang Chước; thư tay của cụ Phan Kế An, di bút của chính họa sỹ Bùi Trang Chước thuật lại quá trình sáng tác của mình và chứng cứ quyết đinh: kết quả thẩm định của Viện Khoa học Hình sự, Bộ Công An.
    Những chứng cứ quan trọng nhất được tìm thấy như thế nào?
    [​IMG]
    Mẫu Quốc huy Việt Nam do họa sĩ Bùi Trang Chước vẽ, đã được Quốc hội khóa 5 (tháng 9/1995) thông qua.
    Chị Minh Thủy, con gái của cố họa sỹ Bùi Trang Chước kể: "Trong khoảng 10 năm, từ khi bố tôi qua đời và trăng trối lại điều khúc mắc sau cùng của cụ về việc nhầm lẫn tác giả mẫu quốc huy, gia đình tôi và các học trò của bố tôi (gồm họa sỹ Ngọc Linh, họa sỹ Lê Lam giám đốc công ty Mỹ Thuật Trung ương và bà Thục Chi - Giám đốc xưởng tranh cổ động) đã đi thu thập tài liệu làm chứng cứ. Tôi đã vào Cục lưu trữ Nhà nước không biết bao nhiêu lần, hàng tháng trời "phục" trong đó để sao các văn bản liên quan. Tại đó tôi chưa hề thấy một văn bản nào của Nhà nước nói rằng tác giả mẫu quốc huy là ông Trần Văn Cẩn. Quốc huy chỉ có duy nhất một bản nét. Chúng tôi thấy bản quốc huy đã được nhà nước thông qua lưu trong Cục lưu trữ lại giống đến 99% so với mẫu của bố tôi mà hiện gia đình đang lưu giữ bản gốc từ năm 1955 cũng như so với bản tờ rơi "Quốc kỳ - quốc ca - quốc huy" của Quốc hội Khóa 5 tháng 9/1955. Tôi đã sao lại toàn bộ. Về những tư liệu đại loại như thế, gia đình tôi có đủ để chất thành một góc nhà".
    Cùng với tài liệu của cục Lưu trữ nhà nước là bản mẫu của 18 bản vẽ quốc huy mà ông Bùi Trang Chước đã chọn từ 94 bản của ông để tham gia cuộc thi sáng tác hồi đó. Đến năm 2001, khi cảm thấy chứng cứ đã "hòm hòm", gia đình cố họa sỹ phát đơn kiến nghị lên Đảng, Chính phủ và các cơ quan hữu trách để xin xác định quyền tác giả cho người thân của họ.
    [​IMG]
    Mẫu Quốc huy Việt Nam do họa sĩ Bùi Trang Chước vẽ cuối năm 1954.
    Chị Thủy đã tới tám cuộc họp bàn về vấn đề này: Bộ Văn hóa, Cục bản quyền, Liên hiệp các Hội VHNT VN (lúc bấy giờ ông Nguyễn Đình Thi là chủ tịch)... Nhưng tại tất cả các cuộc họp này, chưa khi nào gia đình chị giành được sự ủng hộ. Cũng trong thời gian này, họ tìm thấy một tài liệu quan trọng: Công văn của chính ông Trần Văn Cẩn, lúc ấy là Trưởng ban Mỹ thuật, gửi lên Bộ tuyên truyền trong đó có câu: "Khoảng trung tuần tháng 10/54, chúng tôi có gửi sang quý bộ một số 15 mẫu quốc huy để quý Bộ đưa trình Thủ tướng chính phủ xem và cho ý kiến quyết định. Chúng tôi chờ đợi đã lâu mà chưa có tin gì về việc đó. Gần đây vụ Lễ tân bên Thủ tướng phủ có cho người giục luôn nên chúng tôi cử họa sỹ Bùi Trang Chước, tác giả những mẫu ấy, sang đề nghị quý Bộ cho biết tin tức về các mẫu đã được chọn."
    Giữa năm 2002, Ông Phan Kế An, Nguyên là Ủy viên Ban Mỹ thuật Trung ương vào những năm 1952-1954 ở Việt Bắc, được nghe thông tin về vụ việc, đã viết một "giấy nhận thực". Trong giấy đó có đoạn: "Năm 1955, tôi đã được họa sỹ Bùi Trang Chước nói cho nghe việc này, chính tôi cũng được họa sỹ Trần Văn Cẩn nói với tôi là các mẫu Quốc huy gửi lên Quốc hội là do anh Chước sáng tác, anh Cẩn chỉ có sửa mấy chi tiết trên bản vẽ cuối cùng chính thức của anh Chước rồi gửi lên Quốc hội". Để cho cẩn thận, ông An đã lên Hội Mỹ thuật VN tự xin chứng nhận chữ ký của mình.
    Chuyện chưa được kể
    [​IMG]
    Công văn của họa sĩ Trần Văn Cẩn gửi lên Bộ Tuyên truyền.
    Chị Thuỷ cho biết thêm: "Bên nói rằng tác giả là bác Cẩn thì chỉ nói miệng thôi chứ không có bằng chứng gì. Đến 2003, Viện Khoa học Hình sự Bộ công an đến gia đình tôi xin tài liệu gốc để giám định xem có phải bản vẽ chứng thực của Bố tôi không. Qua đó họ cũng chứng minh rõ ràng chỉ số mà mẫu quốc huy của bố tôi giống (khớp) 99% mẫu quốc huy hiện tại, chỉ có khác đi một số điểm chỉnh sửa. Còn bản vẽ của Bác Cẩn vẫn được gia đình hoạ sỹ Trần Văn Cẩn và ông Triều Dương (báo Văn nghệ) công bố cho đến thời điểm bấy giờ, lại không phải bản gốc mà chỉ là một bản phô tô. Cục Bản quyền đã phát hiện ra dòng chữ ký "Trần Văn Cẩn 1955" trên bản phác của ông Cẩn là giả mạo và do ông Triều Dương tự ý ghi vào bắt chước nét chữ của hoạ sỹ Cẩn. Chính ông Trần Khánh Chương, Tổng thư ký hội Mỹ thuật, đã nói với hoạ sỹ Ngọc Linh, hoạ sỹ Duy Oánh, Phó Tổng thư ký Hội Mỹ thuật và gia đình tôi điều đó. Điều làm chúng tôi ngạc nhiên là tại sao phát hiện ra điều đó mà không hề lập biên bản cũng như không có ý kiến gì.
    Khi chúng tôi đề nghị đưa bản vẽ đó lên giám định, ông Triều Dương đã cắt bỏ đoạn có chữ ký giả mạo.Tôi đã được trông thấy bản vẽ đó, một bản rất mới trên giấy trắng, vẽ hình chiếc quốc huy to gần bằng miệng cốc.Về những điều tôi vừa nói, gia đình chúng tôi sẵn sàng tìm người đối chứng". Tuy nhiên trách nhiệm của Viện Khoa học Hình sự chỉ là xác định và so sánh xem chỉ số giống của hai bản mẫu của hai tác giả so với bản quốc huy hiện hành là nhiều hay ít (kết quả giám định: chỉ số giống của bản hoạ sỹ Chước là 4, của hoạ sỹ Cẩn là 2), chứ không phải xác minh chữ ký trên bản phác của họa sỹ Cẩn là giả hay thực. Chúng tôi đem điều này hỏi ông Lương Xuân Đoàn, nguyên là thành viên Tổ tư vấn, ông nói: " Có chuyện đó. Chính Cục Bản quyền (Bộ VH-TT) cũng chú vào văn bản tư liệu của Tổ tư vấn là: Đây là chữ ký của ông Triều Dương. Đó là điều mà tất cả các thành viên trong Tổ tư vấn chúng tôi đều biết nhưng không ai nói ra".
    Dù thực hư sự việc này như thế nào nhưng nó cũng có thể hiểu được, vì một số người để bảo vệ ý kiến của mình, có lẽ đã tỏ ra quá "sốt sắng" và đưa đến một hành động không được đúng đắn lắm.
    Sinh thời, họa sỹ Bùi Trang Chước đã hai lần viết đơn khiếu nại lên Thủ tướng chính phủ (vào năm 1973 và 1976) nhưng không lần nào có hồi âm. Khi đó, ông Huỳnh VănThuận đã ngăn ông không nên kiện ông Trần Văn Cẩn. Họa sỹ im lặng cho đến cuối đời. Ông đã viết một bản di bút "Tôi vẽ mẫu Quốc huy". Đó là vào ngày 26 tháng 4 năm 1985. Bảy năm sau, ông qua đời. TS xin lược trích nửa đầu của bản di bút.
    "Tôi vẽ mẫu Quốc huy
    "Năm 1953, nhân dịp Nhà in Bộ tài chính biệt phái tôi một thời gian sang để vẽ mẫu bằng và huân chương cho Chính phủ, đồng chí Trịnh Xuân Côn Ban Pháp chế Phủ Thủ tướng phụ trách Bộ phận Huân chương đưa cho tôi một số mẫu quốc huy của các nước XHCN làm tài liệu tham khảo để tôi phác sẵn mẫu quốc huy của ta. Qua nghiên cứu số quốc huy của bạn, các nước bạn đều dùng những bông lúa hoặc liềm, búa hay bánh xe để tượng trưng cho công nông nghiệp. Về nội dung bên trong dùng hình tượng mang đặc điểm của đất nước, dân tộc mình.
    "(...) Phác thảo mẫu Quốc huy VN cuối cùng của tôi hồi đó là trìnhbày theo hình tròn, hai bên chung quanh là các bông lúa VN có mấy bông lúa rủ vào bên trong ôm cái đe ở giữa phía dưới, tượng trưng cho công nông nghiệp. Dưới đe là dải lụa sau này có chữ VN dân chủ cộng hòa, hai đầu dải lụa quấn hai bên bông lúa từ dưới lên mỗi bên hai đoạn. Ở giữa phía trên trong nền là ngôi sao vàng trên nền đỏ. Dưới ngôi sao gần giữa trung tâm nền là vòng cung mặt trời có tia chiếu sáng chung quanh, gợi lên hình ảnh của buổi bình minh. Toàn bộ Quốc huy tôi dùng hai màu vàng và đỏ, khi thực hiện sơn mài là sơn son thiếp vàng, màu cổ truyền hoành phi câu đối của dân tộc ta hay dùng. Số mẫu này tôi làm hai bản: Một bản đưa đồng chí Côn để đệ trình lên Bác Hồ và được Bác Hồ góp ý: hình tượng cái đe là thủ công nghiệp cá thể; nên dùng hình tượng tượng trưng cho nền công nghiệp hiện đại. Còn một bản hiện nay tôi vẫn giữ.
    "(...)Cuối năm 1954. Mẫu quốc huy lần này tôi vẽ cũng hình tròn, chung quanh hai bên có thêm những bông lúa kéo dài lên trên tiếp giáp với nhau ở đỉnh trục đường vòng, hai bên vẫn giữ những bông lúa rủ xuống vào trong ôm lấy bánh xe thay cho cái đe, ở phía dưới, dải lụa ở giữa có chữ: "Việt Nam dân chủ cộng hòa", hai đầu dải lụa vẫn quấn lên các bông lúa mỗi bên hai đoạn. Gốc của các bông lúa xếp bằng nhau bắt chéo tạo thành đế quốc huy thót hai đầu cho gọn. Phía trên trong nền là ngôi sao, dưới ngôi sao để trống cho thoáng, không có mặt trời và tia chiếu sáng xung quanh. Về màu sắc, riêng nền bên trong quốc huy và dải lụa là màu đỏ, còn các họa tiết khác như các bông lúa, ngôi sao và bánh xe là màu vàng.
    "Sau khi nộp mẫu, qua thời gian chờ đợi, đầu năm 1955, một đồng chí (tôi không nhớ tên và ở đâu) tìm tôi ở nhà in Ngân hàng mang theo mẫu quốc huy của tôi đã làm, nói là trên trung ương đã duyệt mẫu này và có ý kiến đề nghị tôi sửa lại cho bông lúa nhiều hạt. Tôi sửa đi sửa lại hai lần. Bản mẫu này tôi đưa cho đồng chí ấy để đệ trình lên trên, còn bản mẫu đen trắng tôi vẽ tách màu để chuẩn bị sẵn khi in (bản này hiện tôi còn giữ, do đồng chí Nguyễn Hải, họa sỹ phòng vẽ nhà in Ngân hàng tìm thấy ở Nhà in đưa lại cho tôi làm tư liệu). Anh em ở nhà in Ngân hàng hồi đó đều biết về việc này và cũng mừng cho tôi là hy vọng mẫu của tôi vẽ có triển vọng được duyệt chính thức. Lần thứ ba, đồng chí mà tôi quên tên đó lại đến nói với tôi: vì điều kiện thời gian gấp, trên trung ương có nói Họa sỹ Trần Văn Cẩn đến tập trung một chỗ để sửa và làm gấp mẫu quốc huy cho kịp.
    "Bẵng đi một thời gian dài, được tin mẫu quốc huy VN đã được duyệt và đã in chính thức để thông báo. Tôi xem thì thấy mẫu quốc huy đó từ hình dáng, từ hình thức trang trí họa tiết đến nội dung bố cục trình bày hoàn toàn giống mẫu của tôi mà quá trình tôi đã làm từ năm 1953 đến đầu 1955 và đã được trung ương sơ duyệt. Có khác chăng là chỉ khác nhau về chi tiết hình của họa tiết như: thêm nhiều bông lúa có nhiều hạt; còn ngay đặc điểm lúa của VN mà tôi đã dụng ý trình bầy mấy bông lúa hai bên rủ xuống ngả vào trong nền thì cũng vẫn nguyên không thay đổi. Bánh xe có nhích lên cao hơn và răng bánh xe vát chếch phía ngoài và có gờ cho thêm khỏe. Dải lụa của tôi dùng toàn đường cong thì nay sửa có chỗ có góc cạnh. Gốc lúa của tôi tạo thành đế thót vào cho gọn thì sửa ngược lại cho choãi ra ngoài tạo cho đế có thế vững vàng hơn. Còn màu sắc cũng là hai màu cổ truyền là vàng son. Ngoài ra không có gì khác cả. Khi xem đến tên tác giả lại là Trần Văn Cẩn(!)"
    (...)
    Bùi Trang Chước
    (Bản di bút ghi rõ nhân chứng là ông Trịnh Xuân Côn, Ban pháp chế Phủ thủ tướng, nay đã nghỉ hưu và ông Nguyễn Hải, họa sỹ phòng vẽ Nhà in Ngân hàng).

    • Thanh Doãn
  4. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [​IMG]

    một họa phẩm tí hon mầu nước khá đẹp do bác Trịnh Xuân côn gửi ông Théo Kléwitz, hai nhân vật nổi tiếng quốc tế về dòng tem VNDCCH.

    [​IMG]
  5. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Tại sao phong bì nước VNDCCH rồi CHXHCNVN thường có hình ảnh chiếm phần bên trái? Hay đây là chủ trương Văn hoá-Thông tin-Tuyên truyền của các nước xã hội chủ nghĩa như hình ảnh Thiên An Môn ở Bắc Kinh trên phong bì in tại Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc mà anh Trịnh Xuân Dĩnh gửi bác Côn năm 1961 dưới đây?

    [​IMG]
    Cảnh thanh bình ở thôn quê

    [​IMG]

  6. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Sài Gòn – Dáng chợ năm xưa


    Sài Gòn hai trăm năm mươi chợ, kể sao cho vừa. Trong thời khó khăn, kinh tế lạm phát, siêu thị, trung tâm thương mại đại diện cho phái “chợ ngoại” tràn lan, thì chợ Việt truyền thống với những món hàng để nấu cơm ba bữa, cây nhà lá vườn, tự sản tự tiêu đang bị co cụm. Trào lưu đưa hàng Việt về chợ đang được chú ý.
    Sài Gòn hai trăm năm mươi chợ, kể sao cho vừa. Trong thời khó khăn, kinh tế lạm phát, siêu thị, trung tâm thương mại đại diện cho phái “chợ ngoại” tràn lan, thì chợ Việt truyền thống với những món hàng để nấu cơm ba bữa, cây nhà lá vườn, tự sản tự tiêu đang bị co cụm. Trào lưu đưa hàng Việt về chợ đang được chú ý.
    Tết ta, dạo chợ Việt, sắm món ngon truyền thống, nhớ chuyện đất lề quê thói, như một việc tất yếu.
    Những ngôi chợ Sài Gòn xưa dưới đây có cái còn, nhưng cũng có cái đã đi vào dĩ vãng. Ngoài chợ Bến Thành ở khu trung tâm quen thuộc, chúng ta hãy “dạo qua” và ngắm lại một số chợ nổi tiếng khác, có cách nay trên nửa thế kỷ.
    1. Chợ Cầu Ông Lãnh: Từ bến ghe chành trở thành ngôi chợ vào năm 1872, đầu mối hàng thủy sản. Năm 1946, dẹp lò mổ heo, phát triển thêm chợ Cầu Muối, đầu ngành nông sản, biến đường Lò heo (đường Nguyễn Thái Học) thành bến xe.
    Tháng 4/1999, chợ Cầu Ông Lãnh cháy rụi. Đến năm 2004, cả hai chợ bị giải tỏa để làm đại lộ bờ sông. Ông Lãnh có lẽ là Lãnh Binh Thăng, còn Cầu Muối là cầu chuyển muối từ ghe miền Trung chở vào.
    [​IMG] 2. Chợ Lớn cũ: Ra đời sau khi người Hoa từ Cù Lao Phố về đây lánh giặc Tây Sơn (1776). Ảnh này chụp đầu thập niên 1920. Địa danh Chợ Lớn phát xuất từ đây: ngôi chợ lớn nhất vùng… “Chợ Lớn”. Sau khi lập Chợ Lớn mới (Bình Tây) thì chợ này bị dẹp bỏ vì quá tải.
    [​IMG] 3. Chợ Bình Tây: Biết chính quyền Chợ Lớn có ý định xây ngôi chợ mới để thay thế Chợ Lớn cũ đã quá chật chội, năm 1928, ông Quách Đàm, thương gia người Hoa, liền bỏ tiền ra mua một cuộc đất rộng nằm giữa kênh Tàu Hủ và rạch Bàng (đường Hậu Giang – Tháp Mười ngày nay), xây nên ngôi chợ Bình Tây đồ sộ (26.000m2, gấp đôi chợ Bến Thành), cấu trúc trệt – lầu, kiến trúc Đông phương nhưng thoáng đãng, tân kỳ.
    Ông Quách Đàm hiến tặng ngôi chợ cho tỉnh, chỉ với điều kiện sở hữu dãy phố tự xây hai bên tả, hữu chợ, cũng trên đất mình mua, làm kinh doanh. Ông được đặt tượng trong chợ sau khi qua đời.
    Dĩ nhiên, chính quyền đồng ý cái rụp, vì đâu phải bỏ ra xu nào, lại được thu thêm tiền thuế. Phần Quách Đàm, đã giàu lại giàu thêm, nhờ cho thuê phố chợ, vừa thơm danh làm nghĩa, lại được tiểu thương đội ơn (nên gọi là Chợ Quách Đàm).
    Sau 1975, tượng đồng Quách Đàm bị hạ bệ, nhốt vào nhà kho. Sau đó, được đặc cách về Bảo tàng Mỹ thuật ở 67 Phó Đức Chính. Tiểu thương chợ Bình Tây góp tiền, làm lại tượng khác, đặt lại ở sân giữa tầng trệt, đêm ngày nhang khói.
    Bình Tây, tên làng cũ. Trước 1990 là chợ đầu mối cho cả nước.
    [​IMG] Đã gần một thế kỷ trôi qua, Sài Gòn vẫn chưa có ngôi chợ nào to đẹp hơn. Ta thấy bài toán “đi chợ” của Quách Đàm ngày xưa thật kinh… thế, đâu có “đa dại” như một số “đại gia” làm ăn kiểu chụp giựt, rơi vào ngõ cụt, đi từ teo tóp tới tiêu tùng, phá sản.
    [​IMG] 4. Chợ Cá: Chợ này không còn, ngày xưa, nằm ngay trên con đường Tổng Đốc Phương (nay là Châu Văn Liêm), ở vị trí vòng xoay tượng Phan Đình Phùng bây giờ. Năm 1954, Sài Gòn xây lại một chợ tôm cá, nhưng kiến trúc khá văn hóa, đó là chợ Hòa Bình (tên làng cũ).
    Về sau có thêm chợ cá Trần Quốc Toản (đường 3/2, gần Nguyễn Tri Phương), chợ đã bị giải thể sau thời bao cấp.
    [​IMG] 5. Chợ Tân Định: Xây năm 1926. là chợ nhà giàu thời đó. Hai bên có bãi xe hơi, phía sau là bến xe ngựa (đường Mã Lộ). Rau. thịt tươi ngon sản xuất phía Gia Định đều chở về đây. Kiến trúc chợ đến nay không thay đổi nhiều, nhưng ngày xưa thoáng đẹp.
    Chung quanh là những nhà vườn, đất còn thênh thang của làng cũ Tân Định. Bây giờ bí lối, sạp hàng, ki-ốt, quảng cáo tứ bề. Đi bên đường Hai Bà Trưng, chẳng ai còn nhìn thấy mặt tiền kiến trúc, đường nét tịnh tiến đặc thù của nó.
    [​IMG] 6. Chợ Bà Chiểu: Chợ trung tâm của tỉnh Gia Định xưa, đã có từ đầu thế kỷ XIX. Kiến trúc chợ thuộc hạng bình dân, xây năm 1942. Thập niên 1900, vùng đất này nên thơ như bức tranh thôn dã: vườn cây, mái tranh, nhà ngói, ao sen đan xen giữa những lũy tre, khóm chuối, đường làng.
    Tên chợ từ tên vùng đất, chưa rõ nguồn gốc Bà Chiểu. Có người cho rằng bà là một trong năm bà vợ của một lãnh binh thuộc triều Nguyễn, đã có sáng kiến chia vùng quản chợ. Bốn chợ còn lại là Bà Hạt, Bà Hom, Bà Quẹo, Bà Điểm. Còn theo Sơn Nam, “chiểu” là ao. Bà là nữ thần được thờ bên ao.
    [​IMG] 7. Chợ Gò Vấp: Chợ đã có từ lâu, thuở dân cư còn thưa thớt. Sau 1954, người Bắc di cư vào ở vùng này thì chợ mới phát triển, cùng thời với các chợ hương vị Bắc khác, như Xóm Mới, Ông Tạ, Bùi Phát…
    [​IMG] 8. Chợ Thủ Đức: Chợ Thủ Đức có sau hành trình xuôi về phương Nam của Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào thế kỷ XVII. Người lập ra chợ này vốn là một thương gia người Hoa bỏ nước ra đi sau khi phong trào “phản Thanh phục Minh” thất bại.
    Về nhân vật lịch sử có liên quan, ông Tạ Dương Minh (Tạ Huy), hiệu Thủ Đức, đã góp phần khai khẩn lập ấp vùng Linh Chiểu xưa và xây dựng ngôi chợ đầu tiên tại đây mang tên hiệu của ông là chợ Thủ Đức.
    Tạ Dương Minh là tiền hiền họ Tạ, hiệu Thủ Đức. Tản Đà thích thú khi đến ăn nem Thủ Đức và tắm suối Xuân Trường (thập niên 1930). Ông về Bắc, gởi thơ vào Sài Gòn: “Thủ Đức – Xuân Trường khách vắng đông/Ngồi nhớ người xa thêm nhớ cảnh/ Xa xôi ai có nhớ nhau cùng…”
    [​IMG] 9. Chợ Bà Điểm: Vùng này xưa nhiều rừng, cọp dữ. Canh ba, canh tư, dân gánh nông sản về Bến Nghé bán phải đi thành đoàn, đốt đuốc chống cọp.
    Đây là vùng canh tác cau, trầu cuối cùng của 18 Thôn Vườn Trầu. Bà Điểm là chợ đầu mối trầu, cau cho Lục tỉnh từ thế kỷ XIX cho đến cuối thập niên 1980. Giữa thập niên 1990 vẫn còn bến xe ngựa.
    Theo một nhà nghiên cứu, Bà Điểm là vợ của một lãnh binh. Một tư liệu khác thì bảo là người đã giúp Trương Định đánh Pháp (1861), còn theo TS. Lê Trung Hoa, bà là chủ quán bán nước chè ở vùng này.
    Thập niên 1990, đã có dự án bảo tồn khu nhà vườn Bà Điểm. Tiếc rằng nói mà không làm, nay vườn trầu bán đất phân lô, chia ô hết rồi!
    Bức ảnh này cho ta thấy cảnh chợ Bà Điểm trăm năm trước (1910). Đường trước chợ đã quy hoạch cốt lề. Có đèn đường nhưng còn là trụ đèn thắp dầu (nay là góc Phan Văn Hớn – Phan Văn Đối). Hai bên đường nhiều nhà ngói, đi lại chỉ có xe bò và ngựa…
    [​IMG]


    Source: Click Here!
  7. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Đây là đường Lê Lợi vào năm 1970 nè, thênh thanh ghê à.
    [​IMG]

    Một tiệm thuốc Bắc (chắc là trong khu Chợ Lớn) cũng vào năm đó.
    [​IMG]

    Dòm tới ngó lui, chỉ có mấy tấm này là...bắt mắt nhứt xứ. Nữ học sanh mà...bao giờ chả là thứ thiên hạ chăm bẳm nưng niu...
    [​IMG]

    Một đám tang sang trọng, phải nói thuộc giới thượng lưu thứ thiệt.
    [​IMG]

    Thêm một tấm hình của các cô gái Sài gòn lúc ấy. Nhìn để biết...nét đẹp thời 1970 nha.
    [​IMG]

    Xe xích-lô và các bác tài...đang ế khách.
    [​IMG]

    Sửa xe, vá ruột, bơm hơi....
    [​IMG]
  8. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Une salle du palais du Gouvernement
    Tirage albuminé
    16,4x21,8cm
    Circa 1880

    [​IMG]


    vintage albumen print
    Tirage albuminé
    20x25
    Circa 1875

    [​IMG]


    vintage print, Indochina
    Photomécanique
    11x16
    Circa 1890

    [​IMG]

    vintage print, Indochina
    Photomécanique
    11x16
    Circa 1890

    [​IMG]

    La caserne de l'infanterie de Marine de Saigon. 16 x 21 cm. Photographie collée sur carton.
    Tirage albuminé
    Circa 1880

    [​IMG]






  9. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Vintage albumen print,
    Tirage albuminé
    16x20
    Circa 1860

    [​IMG]

    Gsell Indochine Saigon Dans le fleuve, la toilette des chevaux



    Vintage albumen print, Des habitants de Saigon lavent leurs chevaux parmi les embarcations
    Tirage albuminé
    16x20
    Circa 1860


    [​IMG]


    Gsell Indochine Angkor Vat Ruines



    Vintage albumen print, Angkor est une région du Cambodge qui fut la capitale de l'Empire khmer existant approximativement du ixe au xve siècle.
    Ses ruines sont situées dans les forêts au nord du Tonlé Sap, en bordure de la ville de Siem Reap et sont classées depuis 1992 au patrimoine mondial par l'UNESCO.
    Tirage albuminé
    16x20
    Circa 1860


    [​IMG]

  10. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Salles, Firmin André (1860-1929). Photographe. Cochinchine. Saïgon. La poste / [photogr.] A. S[alles]. 1895.
    [​IMG]

Chia sẻ trang này