1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những Hình ảnh xưa về Đất Nước, Con Người, Văn Hoá Việt Nam (Updated ngày 19/6/2014)

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ruavang, 16/11/2002.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [​IMG]
  2. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [​IMG]




  3. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [​IMG]\\
    [​IMG]

    [​IMG]
  4. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    CHA CẢ PIGNEAUX DE BÉHAINE


    Câu hỏi căn bản cho lịch sử Việt Nam vào thế kỷ 18, 19 là: "Đạo Thiên Chúa đem Pháp vào Việt Nam, hay Pháp đem đạo Thiên Chúa vào Việt Nam?". Ai có nghiên cứu lịch sử Giáo hội La Mã đều biết rằng những nhà truyền giáo đã đi các nơi trên thế giới từ mấy trăm năm trước,để truyền đạo và chinh phục thế giới theo Thánh lệnh Romanus Pontifax của Giáo Hoàng Nicolas V (1447-1455). Họ đã đến Việt Nam từ thế kỷ 16. Do sự phát triển về kỷ nghệ ở Âu châu, những nhà truyền giáo vay mượn văn minh đó để lòe mắt những người ít học và đã thu phục một số tín đồ. Cả mấy thế kỷ trôi qua, không hề có sự kỳ thị nào của các vua quan Việt Nam đối với đạo này. Quân đội Pháp cũng chưa hề tràn vào Việt Nam trước thế kỷ 19. Phải có một nguyên nhân cho hai chủ thể ngoại lai này trở thành "vấn đề sinh tử" đối với dân tộc Việt Nam, xâu xé dân ta cho đến ngày nay. Dòng lịch sử cũng bị phân đôi, một bên chép sử theo phía dân tộc, quyết "đặt vấn đề" đối với các nhân tố gây thương tích cho mình, còn một bên chép sử theo phía ngoại nhân, quyết biện hộ để thoát ra khỏi mặc cảm theo giặc, và đồng thời lên án ngược đối phương. Cuộc tranh luận của hai bên vẫn kéo dài qua đến thế kỷ 21 ngày nay. Dần dà, phía dân tộc có thêm nhiều chứng cớ lịch sử, và những "kẻ theo giặc", nếu còn một chút tự trọng, phải biết gục đầu dừng lại trong một thái độ ăn năn.

    Bài viết sau đây dịch từ trang http://belleindochine.free.fr/, trang nhà của một nhóm truyền giáo người Pháp ghi lại, đã khẳng định trả lời cho câu hỏi trên. Chính Giám mục Pigneaux de Béhaine là người đầu tiên đem quân đội Pháp đến Việt Nam theo lời yêu cầu của Nguyễn Ánh, để giành lại ngôi vua từ trong tay nhà Tây Sơn.

    Đọc bài viết này, người ta sẽ thắc mắc một vài điểm, mà cũng chính những điểm này cho thấy rõ sự mâu thuẩn trong tâm lý của Nguyễn Ánh đối với Pigneaux de Behaine. Những đoạn như "Về phía nhà vua, độc tài, nóng nảy, hay thay đổi ý kiến và hay làm sai trái", "và không biết dằn cơn nóng giận" dường như thiếu hẳn lý do tồn tại trong bài. Việc chi mà nhà vua nóng giận trong khi đang nhờ ông giám mục một việc trọng đại nhất đời mình? Thật ra, chỗ thiếu đó phải được giải thích rằng: "nhà vua không chịu điều kiện theo đạo, việc mà giám mục Pigneaux đã định sẵn trong kế hoạch". Lấy lại được ngôi vua, rồi mất cả nước vào tay ngoại quốc mà cả trăm năm sau, dân ta phải đổ biết bao nhiêu máu xương mới giành lại được.
    Vua Gia Long đã có di chúc như thế nào đó lúc lìa đời để cho vua Minh Mạng giải quyết dùm cái "niềm ân hận" của ông đối với việc làm của Pigneaux de Behaine.

    Qua bài viết này, người ta nhìn thấy biệt tài "cơ hội chủ nghĩa" của giám mục Pigneaux khi nhìn ra được miếng mồi ngon. Giúp đỡ Nguyễn Ánh lúc bị Tây Sơn vây khốn là một việc lợi lộc như giăng mẻ lưới ở nơi nước đục (xem Nguyễn Ánh như một "Mai-Sen được cứu khỏi nước"). Cần nhắc lại, theo kinh thánh Do Thái, Mai-sen là ngừơi đã lãnh đạo cuộc đấu tranh với vua Pharaon, đưa dân Do Thái ra khỏi đất Ai Cập cách nay trên 3300 năm. Mai-sen đã viết phần đầu của Kinh Thánh gọi là sách "Sáng Thế Ký".
    Lời văn trong bài cũng chứng minh rất rõ ràng thái độ của các nhà truyền giáo khinh miệt, gọi dân ta là những người "rừng rú" (sauvages), và có giọng khinh rẻ anh em Tây Sơn là những anh hùng chống ngoại bang (nhà Thanh). Mong rằng những người Ca-tô biết đau lòng và xúc động ăn năn vì đã theo những ngườì chà đạp danh dự tổ quốc như thế. (Nhấn mạnh của người biên tập)


    Giám mục ADRAN - Đức Cha Pigneaux de Behaine

    Pierre PIGNEAUX (với chữ X) sanh ngày 2 /11/1741 tại thành Origny-en-Thiérache, tỉnh Aisne. Ông là trưởng nam trong một gia đình có 12 người con. Gia đình ông khá giả, thân phụ làm chủ một tiệm thuộc da khá phát đạt. Ông vào chủng viện Hội Truyền giáo Ba Lê năm 1765 và đi xứ Nam kỳ ngày 9 /9 năm đó, chống lại ý muốn của cha ông. Ông viết rằng : « Tôi phải đi đến một số nước mà thánh Phanxicô Xavie đã từng đến. » Tình cờ lịch sử đã khiến ông đồng hành với ông Pierre Poivre. Sau khi đã xuyên qua đảo Bourbon (la Réunion), Pondichy, Malacca, và Macao, ông dừng lại ở đảo Hòn Đất, gần Hà Tiên (1767).

    Nhưng ông bị bắt ngày 8/01/ 1768, vì tội chứa chấp một vị hoàng tữ Xiêm, vốn là kẻ thù của Mạc Thiên Tứ, thống đốc vùng Hà tiên. Ông bị giam gần 2 tháng, trong năm 1768. Ông phải mang một cái gông nặng 45 kg, dài 1,77m… Để trốn cuộc bách hại ông đã ra đi cùng với 43 chủng sinh, đến Malacca, và sau đó đến Pondichéry. Óng dừng chân tại Virampatnam và xây cất một chủng viện. Năm 1771, ông được bổ nhiệm làm Giám mục lúc 30 tuổi, và được tấn phong ngày 24 /02/1774. Ông quay trở lại Nam Kỳ, đáp tàu ngày 12/03/1775 và trở về cư trú tại Hà Tiên.Theo sự ước lượng lúc đó, xứ truyền giáo có khoảng 60000 hoặc 100000 người công giáo. Vào năm 1779 có 9 linh mục Hội thừa Sai, 1 linh mục người Ý, một tu sĩ dòng Phanxicô Manilla, và những linh mục người bản xứ.

    Nội chiến tại An nam

    Vào lúc đó, xứ An Nam đang có nội chiến, xâu xé nhau giữa nhà Nguyễn đương vị và quân khởi nghĩa Tây Sơn (« những người miền núi phía Tây »). Cuộc nổi dậy xuất phát từ Qui-Nhơn, phía nam xứ Huế. Vào cuối năm 1775, quân Tây Sơn bắt giữ toàn thể hoàng gia ở vùng Long-Xuyên, và xử tử nhà Vua và đứa con của nhà vua. Là người đại diện duy nhứt của nhà Nguyễn, chàng trẻ tuổi Nguyễn Ánh, Hoàng đế Gia Long tương lai, lúc đó 16 tuổi, trốn thoát được nhờ sự giúp đỡ của Giám Mục. Người công giáo nhìn thấy trong đứa bé nầy một vi tân «Mai-Sen được cứu khỏi nước ».
    Tạm thời, nhà Tây Sơn cho rằng cuộc chinh phục Nam kỳ đã thành công, nên xuất quân ra Qui Nhơn để chuẩn bị đánh Bắc Hà. Nguyễn Ánh qui tụ phe của ông và nhóm Trung Hoa của quan đầu tỉnh Hà Tiên, và cố tái chiếm vùng đất đồng bằng sông Cửu Long. Sài gòn được chiếm lại vào năm 1776. Ở phía Bắc, cùng năm đó, Thăng Long rơi vào tay nhà Tây Sơn, và toàn vùng bị rơi vào nạn đói kinh khủng.
    Vào giữa năm 1778, hải tặc Kampuchia xâm chiếm khu đạo ở Hà Tiên, càn giết những người công giáo, gây ra nhiều tử vong cho những nhà truyền giáo. Pigneaux và những chủng sinh trốn ở Tân- triệu, gần Sài gòn.

    Nguyễn Ánh ở gần đó nên thường thăm viếng Pigneaux. Từ lúc đó, nảy sinh ra một tình bạn khắng khít giữa hoàng thân và giám mục.
    Yên ổn được 3 năm, quân Tây Sơn trở lại miền Nam vào năm 1782, đóng quân trước cửa thành Sài Gòn và chiếm được thành. Hơn 10,000 (mười ngàn) người Trung Hoa ở Chợ Lớn bị sát hại bởi phe chiến thắng.
    Pigneaux bắt buộc phải bỏ trốn cùng với các chủng sinh và một số người công giáo, trước tiên là đến Kampuchia, rồi đến những hòn đảo thuộc vịnh Xiêm La. Trên đảo Poulo Vai, Giám mục viết ra quyển giáo lý bằng tiếng Nam Kỳ, trong khi chờ đợi hết mùa mưa. Vào tháng giêng năm 1784, Giám mục gặp Nguyễn Ánh, cũng trốn tránh như ông và đang ở trong bước đường cùng. Giám mục chia sẻ với Nguyễn Ánh và quân lính đang đói khát những lương thực cuối cùng, nhờ vậy cứu được họ. Giám mục cùng với họ đi đến đảo Poulo Condore. Quân Tây Sơn rượt đuổi cả Giám Mục. Nguyễn Ánh chỉ còn 1000 quân. Họ đành trốn trở lại Phú Quốc.

    [​IMG]
    Tượng Giám Mục Pigneaux và hoàng tử Cảnh,
    trưóc nhà thờ chánh toà trong thời Pháp thuộc.


    Làm sao quật lại thế cờ ? Cầu viện với người Xiêm ? Làm như vậy sẽ có nguy cơ mất các tỉnh. Dù vậy họ cũng đành phải cầu viện. Kết quả là một thất bại nặng nề. Nguyễn Ánh xác tín rằng vì quân Tây Sơn quá hùng mạnh, nên không một quốc gia Châu Á nào có thể đơn phương đẩy lùi họ được. Người Bồ đào nha, người Hoà Lan, và người Anh, đồng tình sẵn sàng tiếp viện.

    Vì không muốn sự nhập cuộc của người Tin lành với nước Anh, hoặc người đạo Calvin với người Hoà Lan, cũng như không muốn những khó khăn trước kia với người Bồ Đào Nha tái xuất hiện, Pigneaux đề nghị với Nguyễn Ánh cầu viện nước Pháp. Nguyễn Ánh cuối cùng chấp nhận đề nghị nầy. Giám mục được cử đi Versailles. Giám mục rời đảo Poulo-Panjang, cùng với con của Nguyễn Ánh là Hoàng Tử Cảnh, 5 tuổi, và người bạn thâm giao Nam Kỳ, linh mục Paul Nghi, và 2 quan lại, cùng với 40 người lính. Họ đến Pondichéry vào năm 1785. Nhưng tại đây, trong khi những thương gia tán thành ý kiến của giám mục, thì chính quyền địa phương và vị chỉ huy căn cứ Hải quân lại cho rằng kế hoạch nầy sẽ không mang lại lợi ích nào. Giám mục bắt đầu đặt nghi vấn về kế hoạch của ông, ông gửi thư cho Hội Truyền giáo Ba Lê để báo tin ông sẽ quay trở lại Nam kỳ. Cuối cùng mọi chuyện được sắp xếp ổn thoả, và tàu có thể rời bến đi Pháp. Đến Lorient ngày 5 tháng 2 năm 1787.

    Có lẽ do sự đề bạt của hầu tước De Castries, bộ trưởng Hải Quân, tên của Giám mục được thêm danh hiệu “de Béhaine”, để ông được dễ dàng vào cung . Dẫu sao ông cũng đã được yết kiến vua Louis XVI ngày 6 /05.
    Pigneaux đã chuẩn bị một bản trường tình long trọng và được hưởng ứng tốt đẹp. Ông trình bày về thương mại, về sự hấp dẫn của thành phố Tourane (Đà Nẵng). Ông cũng đề cập đến chiến lược hành quân, đến những đối thủ và sự cần thiết phải đối trọng thế đứng của người Anh ở Ân Độ. Ông đưa ra những con số chính xác về chiến thuật sinh tồn. Một nghìn năm trẳm (1500) người đủ để chiếm Qui Nhơn.

    Triều đình đánh giá cao phẩm chất và sự chính xác của bài tường trình. Montmorin và Castries, Tổng thư ký các Bộ Ngoại giao và Bộ Hải Quân, đều tán thành đề án của Giám Mục và hứa sẽ giải quyết thuận lợi cho Giám mục. Trong khi chờ đợi, nét uy nghi của Giám mục và tính cách ngoại lai của hoàng tử được triều đình yêu thích. Hoàng tử Cảnh chơi đùa với con của vua Louis XVI.

    [​IMG]
    Hoàng tử Cảnh

    Một cuộc viễn chinh được quyết định. Nước Pháp hứa sẽ cấp 4 chiến hạm và 1650 quân.
    Một hiệp ước được soạn thảo rồi ký kết giữa Vua nước Pháp và Vua nước Nam Kỳ tại Versailles ngày 28 /11/ 1787. Người ký là Bá Tước Montmorin, Bô trưởng của Vua Louis XVI, và ông Pigneaux, người đại diện cho hoàng tử Cảnh.

    Với hiệp ước nầy, nước Pháp hứa sẽ giúp Nguyễn Ánh đoạt lại ngai vàng, bù lại nước Pháp được quyền xử dụng hải cảng Tourane, đảo Poulo-Condor, và độc quyền kinh doanh với vương quốc, như đã thoả thuận trước đó với Nguyễn Ánh.

    Tuy nhiên, chỉ 4 ngày sau khi hiệp ước được ký kết, những chỉ thị mật được gửi đến Pondichéry qua trung gian của Montmorin. Những chỉ thị nầy nhằm tham khảo ý kiến địa phương về cách thực thi hiệp ước.
    Giám mục trở lại Pondichéry một tháng sau khi ký hiệp ước, cùng với người học trò hoàng gia và 8 nhà truyền giáo. Tất cả đều tin tưởng vào sự thi hành hiệp ước.
    Tới Pondichéry, Bá tước de Conway, người nhận chỉ thị mật, đã thi hành chỉ thị bằng cách tra vấn Pigneaux về lợi ích của kế hoạch của ông. Cuối cùng cả hai bên trao đổi lý lẽ qua thư từ, và quyết định báo cáo trực tiếp về Versailles. Cuối cùng, một cuộc họp mật được tổ chức ngày 4/10/1788 và Louis XVI quyết định ngưng hẳn cuộc viễn chinh. Ngoài ra, cũng có quyết định rút quân ra khỏi Ấn độ.
    Giám mục không từ bỏ những cam kết với Nguyễn Ánh. Nhờ sự ủng hộ của gia đình ông và của những chủ đóng tàu của Ile de France (Maurice), đảo Bourbon (La Réunion) và Pondichéry, Giám mục mua nhiều quân cụ, súng đạn, đại bác thần công, đạn dược và thuê nhiều tàu chiến, và trang bị sẵn để gửi đến cho Nguyễn Ánh. Giám mục cũng tin vào sự giúp đỡ của 12 sĩ quan Hải Quân Pháp, từng ngưỡng mộ công trình ái quốc của Giám Mục, và bất chấp những cam kết của mình. Như vậy, 359 thủy thủ sẵn sàng phục vụ cho xứ Nam Kỳ.

    Ngày 24 / 07/ 1789, Giám mục lên bờ tại vịnh Cây Dừa (mũi Saint Jacques) từ chiến hạm “La Méduse” (sẽ nổi danh khi nó bị đắm ngoài khơi bờ biển của đảo Mauritanie vào năm 1816).

    Nguyễn Ánh rất vui mừng trước sự thành công của cuộc viễn chinh, cám ơn Vua nước Pháp, nhưng tiếc rẻ thái độ của ông Conway mà ông gán cho trách nhiệm trong việc Pháp từ chối giúp đỡ.

    Tức khắc Giám mục và các sĩ quan bắt tay vào việc. Pigneaux muốn vỗ về dân chúng để giành được sự ủng hộ của họ, đồng thời ông tổ chức lại Hải Quân và quân đội của Nguyễn Ánh. Để thực hiện ý định nầy ông xây dựng một quân đội nhỏ hữu hiệu, theo kiểu Âu châu.

    Ông Victor OLIVIER de PUYMANEL và ông Théodore LEBRUN xây dựng 2 thành lũy, một ở Sài Gòn và một ở Diên Khánh, gần Nha Trang.
    Ông PUYMANEL cất một trường chiến tranh. Ông Laurent BARISY và ông Godefroy de FORSANZ làm tư lênh các tàu chiến và chuyên lo huấn luyện sĩ quan. Ông DAYOT, CHAIGNEAU và ông Philippe VANNIER lo về hải quân.

    [​IMG]
    Ngôi nhà đơn sơ của Giám mục Pigneaux de Béhaine,
    ngày nay được dựng lại trong khuôn viên toà ************* Sài gòn.
    Thánh lễ mỗi ngày vào 5giờ 30 sáng.

    Không phải tất cả mọi người đều vui mừng tiếp nhận những người Ấu châu “dã man”. Trước sự thù hằn của những quan lại, hàng chục người Pháp nãn lòng đã rút lui. Quần chúng, tức giận vì bị bắt phải lao tác cực nhọc để xây thành lũy đã nổi dậy; nhà vua vì thiếu kinh nghiệm và không biết dằn cơn nóng giận đã làm cho nhiều người phẫn nộ. Nhờ Giám mục Pigneaux, mọi chuyện đã được giải quyết nhanh chóng; những người Pháp đã rút lui chấp nhận quay trở lại; các sĩ quan được che chở và tìm lại được danh dự phải có; từ đó nhà vua để tâm nghe theo những ý kiến khôn ngoan của vị cố vấn của ông.

    Nhà vua cấp cho Giám mục một đội binh bảo vệ gồm 200 quân, vừa để bảo vệ bản thân Giám muc, vừa để phù hợp với chức vị của Giám mục. Nhà vua muốn Giám mục cư ngụ gần cung điện của ông, và thường tiếp kiến Giám mục, sẵn sàng nghe theo ý kiến của Giám mục, kể cả những lời quở trách của Giám mục. Pigneaux de Béhaine đã được nhà vua hứa rằng sẽ không bao giờ hành quyết người nào mà không báo trước cho Giám mục biết; và nếu Giám mục, sau khi đã cứu xét kỹ hồ sơ, xin nhà vua miễn xá cho tội phạm, thì nhà vua bắt buộc phải chấp thuận.. Nhà vua luôn luôn trung thành với lời hứa nầy. Nhờ đó ông tránh được những lỗi lầm do tánh nóng nãy của ông gây ra.

    Vai trò chính trị của Giám mục dù quan trọng đến đâu cũng không làm cho ông xao lãng nhiệm vụ của ông là Giám quản Tông Toà. Ông cải tổ công tác truyền giáo, gọi các chủng sinh từ Chantaboun về. Dưới sự điều khiển của ông có 14 linh mục của Hội Truyền giáo, kể cả 8 linh mục mà ông đã mang theo, 3 tu sĩ dòng Phan xi cô, và 9 linh mục bản xứ. ông cắt đặt công tác mục vụ cho mỗi người. Mặt khác, Pigneaux cũng hoạt động cho những nhà truyền giáo và những người công giáo, bằng cách viết ra một quyển tự điển Nam kỳ- Latin rất có giá trị mà Giám mục Taberd, một trong những người kế vị ông, đã cho ấn hành vào năm 1838. Cũng nhờ ông mà trái măng cụt được nhập cảng vào xứ Nam kỳ.

    Về mặt quân sự, nhà vua đã lấy lại được lãnh thổ miền nam, trước khi Giám mục trở về nước. Trong số 3 anh em Tây Sơn, chỉ còn 2 người nhưng họ xung khắc nhau. Một người đã qua đời vào tháng 9 năm 1792, và không bao lâu sau, người kia cũng mất. Cuối năm 1792, chiến thắng ở biển Qui Nhơn làm cho dân chúng phấn khởi. Dẫu vậy, nhà vua cũng từ chối tiến quân khiến cho người Pháp thất vọng định rút quân một lần nữa.

    Tuy nhiên vào năm 1799, nhà vua qưyết định tấn công cả 2 mặt: đánh bộ và đánh thủy vào Qui Nhơn là thành trì chính của Tây Sơn vốn đã từng chống lại tất cả những cuộc tấn công. Giám mục chứng kiến cuộc tấn công nhưng ông lâm phải bệnh (bệnh lỵ amíp) đau đớn kéo dài 2 tháng, mặc dù ông được nhà vua và bác sĩ hết sức tận tâm chạy chữa.

    Pigeaux de Béhaine qua đời ngày 9 tháng 10 năm 1799. Cái chết của ông được giữ kín cho đến khi Qui Nhơn bị thất thủ ngày 2 tháng 11. Đám tang được cử hành tại Sài Gòn theo nghi thức hoàng gia.
    Bắt đầu vào lúc 2 giờ sáng, đoàn kiệu kéo dài hơn 7 giờ, gồm trên 12.000 người, 120 con voi và trên 100 ***g đèn. Bốn mươi ngàn (40.000) người đi theo sau đoàn kiệu. Vua Nguyễn Ánh chủ toạ đám tang và đọc bài điếu văn ca ngợi Giám Muc. Nhà vua dựng cho ông Pigneaux một ngôi mộ sang trọng và cắt đặt 50 quân canh mộ, với chỉ thị canh gác vĩnh viễn.

    [​IMG]
    Giám mục Pigneaux de Béhaine
    (sưu tầm của Hội Thừa Sai Ba Lê)

    Thế là Giám mục thành Adran qua đời 2 năm trước khi Huế (1801) và Thăng Long (1802) bị thất thủ. Anh em Tây Sơn hoàn toàn bị đánh tan. Nguyễn Ánh có thể tự xưng hoàng đế ngày 31 tháng 5 trong cùng năm đó. Ông lấy hiệu là Gia Long (thịnh vượng lâu dài), và cũng là sự kết hợp của Gia định – tên của Sài Gòn – và Thăng Long (tên cũ của Hà Nội). Huế trở thành kinh đô mới của Việt Nam thống nhất. Nguyễn Ánh không những đã khôi phục những vùng đất của tổ tiên nhà Nguyễn mà còn thêm vào phần đất ngoài Bắc, do đó thống nhất đất nước từ vịnh Bắc Việt đến vịnh Thái Lan.
    Nguyễn Ánh băng hà năm 1820, Minh Mạng thế ngôi. Những viên sĩ quan Pháp, bị Minh Mạng thải hồi đã chọn lưạ rút quân.
    Công giáo lại bị bách hại vào năm 1831.

    Cuộc sống bị dày vò của Giám mục

    Những năm cuối đời, Giám mục sống trong nghi ngờ và buồn bã.
    Trước hết, Giám mục chứng kiến cái chết của những người bạn hữu, thân thuôc, tại Nam Kỳ vì bệnh, hoặc tại Pháp vì cuộc Cách Mạng Pháp. Hầu tước Montmorin, người ký hiệp ước, bị đâm chết trong cuộc tàn sát năm 1792.
    Sống bên cạnh vua Nguyễn Ánh đã dày vò Giám mục vô cùng. Những chỉ thị của Bộ Truyền Giáo cấm các vị truyền giáo không được xen vào chính trị của những nhà vua. Thực vậy, Giám mục bị các nhà truyền giáo chỉ trích, kể cả trong hàng ngũ của Hội Thừa Sai Ba Lê (thí dụ Giám mục Pothier ở Se Tchouen). Những tu sĩ dòng Phan xi cô tại Cần Thơ không còn nhìn nhận quyền hành của Giám mục. Giám mục bị anh em của ông ở Viễn Đông chống đối, nhưng ông biết ông được Roma ủng hộ.

    Về phía nhà vua, độc tài, nóng nãy, hay thay đổi ý kiến và hay làm sai trái. Pigneaux ngỡ ngàng trước sự chậm chạp và do dự của nhà vua. Năm 1792, Giám mục sẵn sàng chấp nhận ra đi, thất vọng. Ô biết mình là một biểu tượng, chỉ cần có sự hiện diện của ông là đủ để quân đội phấn khởi. Nhưng Giám mục đã chọn lựa ẩn mình phía sau.
    Mối hy vọng vào việc cải đạo cho hoàng tử Cảnh càng lúc càng tiêu dần. Nếu Giám mục đã nuôi hy vọng như các vị tông đồ vĩ đại đưa cả xứ Nam kỳ trở lại đạo, tin vào một Thiên Chúa độc nhất, thì cũng chỉ là một mơ tưởng. Ông sẽ không bao giờ trở thành một Constantin của Âu châu chúng ta. Gần gũi với Giám mục, hoàng tử Cảnh đã thấm nhuần luân lý công giáo. Khi hoàng tử Cảnh trở lại Nam kỳ, ông đã từ chối không chịu lạy bàn thờ tổ tiên, làm chấn động gia đình của ông. Nhưng một cuộc tranh chấp ảnh hưởng trên hoàng tử do các quan lại, và hy vọng trở lại đạo bị tan vỡ. Năm 1797, hoàng tử Cảnh lấy 3 vợ lẽ! Lâm bệnh, hoàng tử qua đời vào năm 1801, lúc ông được 22 tuổi.

    [​IMG]

    Nghĩa địa Huế, ngôi mộ
    của Godefroy de Forsanz (1770 -1811)

    Pigneaux cũng đau khổ vì thái độ của sĩ quan Pháp. Dù với uy tín của Giám mục, đa số các quân lính chỉ mơ ước tài sản và danh vọng. Không được trả lương hậu, bằng hiện vật hoặc bằng tiền địa phương, các sĩ quan phải chạy chọt thêm để kiếm sống. Họ quên bổn phận thiêng liêng của họ, chỉ trừ ông de Chaigneau. Puymanel có một cuộc sống “khả ố” và sống chung với một phụ nữ lăng loàn.

    Về mặt tôn giáo kết quả cũng không tốt. Công cuộc truyền giáo cho người “rừng rú” bị thất bại. Năm 1797, con số người công giáo đã rút xuống còn 25000. Nhà vua tuyên bố trong năm đó rằng chỉ có “khinh dễ và căm hận đối với đạo công giáo”.

    Giám mục xin Roma được thích nghi một số nghi thức để dễ phổ biến đức tin :
    - phụng vụ bằng tiếng Trung Hoa thay vì tiếng la tinh,
    - tu phục khác, vì nó gây chế diễu, và kỳ cục.
    Nhưng nhứt là sự cấm đoán thờ cúng tổ tiên, một tục lệ trong cả nước, mà Giám mục muốn vãn hồi. Ông đề nghị thích nghi tục lệ nầy với đạo công giáo bằng cách biến nó thành “kính nhớ tổ tiên”. Dù đã trao đổi nhiều thư từ về vấn đề nầy, Roma vẫn từ chối. Giám mục tuyên bố rằng “Chúng ta câu nệ quá tỉ mỉ, chỉ làm hại cho đạo công giáo” thôi. Sự thờ kính ông bà chỉ được Roma chấp nhận vào năm 1932, và chính thức cho phép vào năm 1964.

    Chính trong bối cảnh khó khăn nầy mà Giám mục Tổng quản Tông Toà đã qua đời sau hơn 29 năm làm mục vụ.

    Vào năm 1859 khi cấm cờ ở Nam Kỳ, Pháp tìm lại được ngôi mộ của Giám Mục và đã trùng tu ngôi mộ nầy. Ngày 10 tháng 3 năm 1902, theo nguyện vọng của Paul Doumer, tượng đài của Giám mục Adran được khánh thành trên công viên Nhà Thờ Chánh Toà Sài Gòn.

    Ngôi nhà gia đình của Giám mục ở Origny-en-Thiérache trở thành viện bảo tàng ngày 1 tháng 6 năm 1914.



    Tài liệu tham khảo :
    - Giấy tờ của Hội Truyền giáo Ba Lê,
    -“Cuộc đời sóng gió của Giám mục Adran”, de Taboulet, 1940
    - Pigneaux de Béhaine, Alexis Faure, 1891,
    và đăc biệt với sự giúp đỡ quý báu của Francois Xavier Landrin !

    L'évêque d'Adran - Mgr Pigneaux de Behaine
    Pierre PIGNEAUXest né le 2 novembre 1741 à Origny-en-Thiérache, dans l’Aisne. Il est l’aîné des garçons d’une famille de 12 enfants. Sa famille est aisée, son père possédant une tannerie assez profitable. Il intègre les Missions Etrangères de Paris en 1765 et part pour la Cochinchine le 9 Septembre de la même année, contre l’avis de son père. « Je dois parcourir une partie des pays parcourus par Saint François Xavier » écrit il. Les hasards de l’histoire font qu’il voyage avec Pierre Poivre. Après un voyage qui le fera passer par l’Ile Bourbon (la Réunion), Pondichéry, Malacca et Macao, il s’installe sur l’île de Hon-Dat, à coté de Hatien (1767). Mais il est arrêté le 8 janvier 1768, accusé d’avoir donné l'hospitalité à un prince siamois plus ou moins ennemi de Mac-Thien-Tu, chef de la région de Ha-tien. Il est emprisonné pendant près de deux mois, en 1768. Il doit porter une cangue de 45 kilos et de 1,77 mètre de longueur …. Forcé par la persécution, il s’embarque avec 43 séminaristes pour Malacca puis Pondichéry. Là, il s’installe à Virampatnam pour y construire un séminaire. Il est nommé en 1771 évêque d'Adran, à l’age de 30 ans, puis sacré à Madras le 24 février 1774. Il repart pour la Cochinchine, y débarqua le 12 mars 1775 pour s’installer à nouveau à Ha-tien. La mission compte alors entre 60.000 et 100.000 chrétiens, suivant les estimations. En 1779, on compte 9 prêtres des Missions Etrangères, un prêtre italien, un franciscain de Manille, et des prêtres indigènes.

    Guerre civile en Annam

    A ce moment précis, l'Annam était en proie à la guerre civile, déchirée entre les Nguyen en place et les rebelles Tayson (Les « montagnards de l’ouest »). La révolte est dirigée depuis Qui-Nhon, situé au sudde Hué. A la fin de 1775, les Tayson s'emparèrent de toute la famille royale du coté de Long Xuyen, et mirent à mort le souverain et son fils. Seul représentant de la famille des Nguyen, le jeune Nguyen-Anh, le futur empereur Gia-long, âgé alors de seize ans, qui réussit à s’échapper grâce à l’aide de l’évêque. Les chrétiens voient dans cet enfant un nouveau « Moise sauvé des eaux ». Provisoirement, les Tayson, considérant la conquête de la Cochinchine terminée, remontent vers Quin Hon pour préparer l’attaque du Tonkin. Nguyen-Anh rallie alors ses partisans ainsi que des chinois fournis par le gouverneur d’Hatien et tente de reconquérir ses états du delta. Saigon est reprise en 1776. Au nord, la même année, Hanoi tombe aux mains de Tay-son, et toute la région subit une terrible famine.

    Au milieu de 1778, des pirates cambodgiens envahirent la chrétienté de Ha-tien, et s’attaquent violemment aux catholiques, occasionnant plusieurs morts parmi les membres de la mission. Pigneaux et les membres du séminaire se réfugient à Tan-trieu, prés de Saigon.
    Nguyen-Anh qui réside à proximité vient fréquemment visiter Pigneaux. A dater de ce jour, une solide amitié liera le prince et l'évêque.

    La tranquillité dura 3 ans. En 1782, les Tay-son reviennent dans le sud, mettent le siège devant Saigon puis s'en emparent. Plus de 10 000 Chinois de Cholon sont massacrées par les vainqueurs.

    Pigneaux fut obligé de prendre la fuite avec les séminaristes et quelques chrétiens, d’abord au Cambodge, puis dans les îles du golfe du Siam. Sur l’île de Poulo Vai, l’Evêque rédige un catéchisme en Cochinchinois, en attendant la fin de la mousson. En janvier 1784, il rencontra Nguyen-Anh, fugitif comme lui et réduit à la dernière extrémité. L'évêque partagea avec lui et les soldats affamés ses dernières provisions, et leur sauva ainsi la vie. Ils partent ensemble à Poulo Condore. Les Tay-son traquent aussi l’évêque. Nguyen Anh n’a plus que 1000 hommes avec lui. Nouvelle fuite sur l’île de Phu Quoc.

    Comment reprendre le dessus ? Faire appel aux Siamois ? C’était le risque de perdre des provinces. On fait néanmoins appel à eux. S’en suivra une défaite cuisante. Nguyen-Anh est convaincu que compte tenu de la puissance des Tay-sons, aucune nation asiatique n’arrivera à les repousser seuls. Des offres de services furent reçus des Portugais, des Hollandais, et des Anglais.

    Ne souhaitant pas l’entrée des protestants avec l’Angleterre ou des calvinistes avec les hollandais, ni voir resurgir les difficultés passées avec les portugais, Pigneaux offrit au prince le secours de la France, idée qu’il finit par accepter. L’évêque est mandaté pour aller à Versailles. L’évêque quitte alors l’île de Poulo-Panjang, accompagné du fils de Nguyen Anh, le prince Canh, agé alors de 5 ans, de son fidèle ami annamite le père Paul Nghi, de 2 mandarins, et d’une escorte de 40 soldats. Ils arrivent à Pondichéry en 1785. Mais là, tandis que les commerçants approuvaient son projet, le gouverneur et le chef de la station navale le considèrent sans intérêt. L’évêque doute du bien fondé de sa démarche et envoi une lettre au MEP pour annoncer son retour en Cochinchine. Les choses s’arrangent finalement et l’embarquement pour la France peut se faire. Arrivée à Lorient le 5 Février 1787.
    Sans doute sur recommandation du marquis de Castries, ministre de la Marine, la particule « de Béhaine » s’ajoute à son nom., afin de lui faliciter son introduction à la cour. Toujours est il qu’il obtient audience avec Louis XVI le 6 mai.

    Pigneaux a préparé un exposé magistral qui reçoit un bon accueil. Il y parle de commerce, de richesses et de l’attrait de Tourane. Il parle également de stratégie militaire, des adversaires et de l’intérêt à contrebalancer la position anglaise en Inde. Il fournit des chiffres très précis sur la tactique à suivre. 1500 hommes suffiraient à prendre Qui-Nhon.
    La cour est sensible à la qualité et à la précision de l’exposé. Montmorin et Castries, secrétaires d’Etat aux Affaires étrangères et à la Marine, sont favorables aux projets de l’Evêque. Une suite favorable est promise à l’Evêque. Dans cette attente, la prestance de l’évêque et l’exotisme du jeune prince seront très appréciés à la cours. Le prince Canh joue avec le fils de Louis XVI.

    Une expé***ion fut décidée. La France s’engage à fournir 4 frégates et 1650 hommes
    Un traité d'alliance entre le roi de France et le roi de Cochinchine est rédigé puis signé à Versailles le 28 novembre 1787. Il porte la signature du comte de Montmorin, ministre de Louis XVI, et celle de Pigneaux, représentant le Prince Canh.


    Par cette convention, la France s'engageait à aider Nguyen-anh à reconquérir son trône, et obtenait, en retour, la propriété absolue du port de Tourane, de l'île de Poulo-Condor, et le privilège exclusif du commerce avec le royaume, ce qui avait été convenu avec Nguyen Anh.

    Cependant, 4 jours seulement après la signature du traité, des instructions secrètes sont envoyés à Pondichéry par Montmorin. Ces instructions visent à faire apprécier localement l’application du traité.

    Toujours est il que l’évêque repart vers Pondichéry, un mois après la signature du traité avec son royal pupille et huit missionnaires. Tous sont confiants de l’exécution du traité.

    A Pondichéry, le comte de Conway, destinataire des instructions secrètes, les met en œuvre en interrogeant longuement Pigneaux sur le bien fondé de l’opération. Les deux protagonistes finissent par échanger leurs arguments par courrier puis décident d’en référer directement à Versailles. Le conseil secret se réunit enfin le 4 octobre 1788 et Louis XVI décide l’arrêt définitif de l’expé***ion. De plus, décision est prise d’évacuer l’inde.

    L'évêque refuse pour autant d’abandonner les engagements fait à Nguyen Anh. Grâces au soutien de sa famille et d’armateurs de l'Ile de France (Maurice), de Bourbon (La Réunion) et de Pondichéry, il achète de nombreux matériel de guerre, des fusils, des canons, des munitions, et plusieurs vaisseaux sont loués, qu'il envoya tout armés à Nguyen-Anh. Il compte aussi sur le soutien de douze officiers de la marine française, admirateurs de son œuvre patriotique, qui n’hésitent pas à rompre leurs engagements. 359 matelots se mettent ainsi au service de la Cochinchine.

    Le 24 juillet 1789, il débarque dans la baie des Cocotiers (le Cap Saint Jacques), déposé par la frégate « La Méduse » (qui deviendra elle-même célèbre lors de son naufrage au large des côtes de Mauritanie en 1816)

    Nguyen Anh est très heureux de la réussite de l’expé***ion, remercie le roi de France, mais se désole de l’attitude de Conway qu’il juge responsable de l’absence de soutien.

    Aussitôt L’évêque et les officiers se mettent au travail. Pigneaux veut ménager les populations pour obtenir leurs soutiens, tout en réorganisant la marine et l’armée cochinchinoise. Pour se faire, il veut mettre en place une petite armée efficace, à l’européenne.
    Victor OLIVIER de PUYMANEL et Théodore LEBRUN construisent deux citadelles, l’une à Saigon et l’autre à Dien Khanh, situé à proximité de Nha Trang. PUYMANEL crée une école de guerre. Laurent BARISY et Godefroy de FORSANZ sont commandants de frégates et s’occupent de la formation du corps des officiers. DAYOT, CHAIGNEAU et Philippe VANNIER s’occupent de la marine.

    Tout le monde ne voit pas d’un œil l’arrivée des « barbares » européens. Confrontés à l'animosité des mandarins, plusieurs dizaines de français, découragés, donnèrent leur démission. Les populations, irritées des corvées imposées pour la construction des fortifications, se révoltèrent ; le roi, trop inexpérimenté et ne sachant pas maîtriser son emportement naturel, mécontentent les uns et les autres. Grâce à Mgr Pigneaux, tout rentra promptement dans l'ordre ; les Français qui avaient donné leur démission consentirent à la retirer ; les officiers obtinrent la protection et les honneurs qui leur étaient dus ; le roi s'attacha dès lors à suivre plus attentivement les sages avis de son conseiller.

    Il lui donna une garde de 200 hommes, tant pour veiller sur sa personne que pour honorer sa dignité. Il voulut que l'évêque habitât auprès de la résidence royale, et recevait régulièrement sa visite, écoutant volontiers ses avis, acceptant même ses reproches. Pigneauxde Béhaine avait obtenu qu'il ne ferait jamais exécuter personne sans l'en avertir ; et si le prélat, après avoir mûrement examiné la cause, demandait la grâce du coupable, elle devait lui être accordée. Le roi fut toujours fidèle à cette promesse. Il évita ainsi bien des fautes auxquelles sa colère l'eût entraîné.

    Le rôle politique, si considérable qu'il fût, de Mgr Pigneaux, ne lui faisait pas négliger ses devoirs de vicaire apostolique. Il réorganise sa mission, fait revenir de Chantaboun les élèves du séminaire. Il y avait sous sa direction 14 prêtres des M.-E., y compris les huit qu'il avait ramenés avec lui, trois religieux Franciscains, et neuf prêtres indigènes. Il assigna à chacun son champ d'apostolat. Dans un autre ordre d'idées, Pigneaux avait également travaillé pour les missionnaires et les chrétiens, en composant un dictionnaire annamite-latin de grande valeur, que publia en 1838 Mgr Taberd, un de ses successeurs. C'est aussi grâce à lui que l'on doit l'introduction du mangoustanier en Cochinchine.

    Sur le plan militaire, le roi avait déjà repris ses territoires du sud, avant même le retour de l’évêque. Des 3 frères Tay-sons, il n’en reste plus que 2 qui sont brouillés. L’un meurt en Septembre 1792 puis l’autre un peu plus tard. Fin 1792, la victoire maritime à Qui Nhon produit un immense impact sur les populations. Le roi refuse pourtant de prendre l’initiative au grand désespoir des français qui pensent à nouveaux se retirer.

    Cependant, en 1799, le roi se décide à diriger par terre et par mer une double expé***ion contre Qui-nhon, la principale forteresse des Tay-son, qui bravait toutes les attaques. Le prélat assiste à l’attaque mais contracte une douloureuse maladie (dysenterie amibienne) qui dura deux mois, malgré le soutien du roi et la présence de son meilleur médecin.

    Pigneaux de Béhaine expira le 9 octobre 1799. Sa mort est maintenue secrète jusqu'à la capitulation de Qui-nhon le 2 novembre. Des funérailles royales sont organisées à Saigon. A 2 heures du matin, une procession s’élance et durera plus de 7 heures. Le cortège compte 12000 hommes, 120 éléphants et plus de 100 lanternes. 40.000 personnes suivront la procession. Nguyen Anh préside les funérailles et prononce l'éloge du défunt. Il lui fit élever un riche mausolée près duquel il plaça une garde de 50 soldats, en prescrivant qu'elle y demeurât à perpétuité.

    L’évêque d’Adran meurt donc 2 ans avant la prise d’Hué (1801) et la soumission du Tonkin en 1802. Les Tay Son sont complètement défaits. Nguyen Anh peut alors se proclamer le 31 mai de la même année empereur. Il prend le nom de Gia Long (« Belle prospérité », qui est aussi la réunion de Gia Dinh – nom de Saigon – et de Thanh Long – ancien nom de Hanoi). Hue devient la nouvelle capitale d’un Vietnam réunifié. Il a non seulement reconquis les territoires de ses ancêtres Nguyen mais il leur a ajouté le Tonkin, réalisant ainsi l’unité du pays depuis le golfe du Tonkin jusqu’au golfe du Siam.

    Il meurt en 1820. Minh Mang le remplace. Les officiers français, victime d’ostracisme de la part de Minh Mang, préfèrent se retirer. La persécution des catholiques recommence en 1831.


    La vie tourmentée de l’évêque

    Les dernières années de la vie de l’évêque furent sous le signe du doute et de la tristesse.

    L’évêque voit d’abord nombre de ses proches ou amis mourir, en Indochine par la maladie ou en France du fait de la révolution française. Le comte de Montmorin, signataire du traité, meurt empalé lors des massacres de 1792.

    Sa présence auprès du roi le tourmente énormément. Les instructions de la Sacrée Congrégation font défenses aux missionnaires de s’ingérer dans les affaires temporelles des princes. De fait, il est l’objet de nombreuses critiques de missionnaires, y compris dans les rangs des MEP (Mgr Pothier au Se Tchouen par exemple). Les franciscains espagnols de Cantho ne reconnaissent plus son autorité. Il souffre de l’hostilité de la majorité de ses confrères en Extrême Orient. Mais il sait qu’il a le soutien de Rome.

    Quant au roi, il est autoritaire, coléreux, susceptible d’humeur changeante, et fait des erreurs. Pigneaux est perplexe face à sa lenteur et son irrésolution. En 1792, il est prêt à partir, déçu. Il sait qu’il est un symbole, que sa seule présence suffit à galvaniser les troupes. Lui préfère pourtant rester en retrait.

    L’espoir d’une vraie conversion du prince Canh va en s’amenuisant également. L'évêque avait-il fait, comme d'autres grands apôtres, le rêve de le convertir au vrai Dieu, et par lui, tout le royaume annamite ? Ce ne fut qu'un rêve. Il ne sera pas le Constantin de notre Occident. Au contact de l’évêque, le Prince Canh s’imprègne de la morale catholique. A son retour en Cochinchine, il refuse même d’aller saluer l’autel de ses ancêtres, causant un grand émoi dans sa famille. Mais une lutte d’influence agit sur le jeune garçon par les mandarins, et l’espoir d’une conversion va s’évanouir. En 1797, il accepte même 3 concubines ! Malade, il mourra prématurément en 1801 à l’age de 22 ans.

    Pigneaux souffre aussi de l’attitude des officiers français. Malgré l’ascendant moral de l’évêque, la plupart d’entre d’eux ne rêvent que de fortunes et de gloires. Mal payés, en nature ou en monnaie locale, ils doivent faire du négoce pour vivre. Ils oublient leurs devoirs religieux, à l’exception notable de Chaigneau. Puymanel a une vie « détestable » et vit un temps avec une femme publique.

    Le bilan religieux est aussi décevant. Les missions chez les « sauvages » échouent. En 1797, le nombre de chrétiens de la mission a baissé à 25.000. Le roi déclare la même année n’avoir que du « mépris et de la haine pour le Christianisme ».

    L’évêque demande à Rome une adaptation de certains rites pour mieux propager la foi :
    - la pratique de la liturgie en langue chinoise et non latine,
    - des tenues religieuses différentes, car elles provoquent l’ironie voire le ridicule.
    Mais c’est surtout l’interdiction du culte des ancêtres, pratique largement répandue dans tout le pays, que souhaiterait revoir l’évêque. Il propose de l’adapter à la religion catholique en le transformant en « honneur à la mémoire des aïeux ». Malgré une lourde correspondance sur ce sujet, Rome refuse. « Nous raffinons trop…cela finira par la ruine complète de la religion ici » déclare l’évêque. Le culte des ancêtres ne sera finalement accepté par Rome qu’en 1932 et officiellement en 1964.
    C’est donc face à toutes ces difficultés que s’éteint l’évêque en 1799, après plus de 29 ans de vicariat apostolique.

    Lorsqu'en 1859 la France planta son drapeau en Cochinchine, elle y retrouva le tombeau de l'évêque, qui fut restauré. Le 10 mars 1902, suite à la volonté de Paul Doumer, une statue de l'évêque d'Adran fut inaugurée sur la place de la cathédrale.

    La maison natale de l'évêque à Origny-en-Thiérache est transformée en musée le 1er juin 1914.



    Source :
    - Fiche des MEP,
    - La vie tourmentée de l’Eveque d’Adran, de Taboulet, 1940
    Pigneaux de Behaine, Alexis Faure, 1891

    http://belleindochine.free.fr/PigneauxDeBehaine.htm
  5. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [​IMG]
    Echinated snail: Figure 26o
    Found in Pulo Condore and part of Thomas Martyn's personal shell collection
  6. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Photos by Ngọc Viên Thay đổi


    [​IMG]





    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG][​IMG][​IMG][​IMG][​IMG][​IMG]




    Ngọc Viên - Miếu Cậu
  7. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    CÁC HÌNH ẢNH VỀ DI TÍCH AN SƠN MIẾU Ở CÔN ĐẢO

    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]




    [​IMG]


    [​IMG]
  8. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    CÁC HÌNH ẢNH VỀ DI TÍCH MIẾU CẬU TẠI CÔN ĐẢO​

    (Mộ phần và ngôi miếu thờ phượng Hoàng tử Cải - con trai của vua Gia Long và bà Lê Thị Răm)

    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]
  9. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    MỘ HOÀNG TỬ HỘI AN 4 TUỔI Ở ĐẰNG SAU MIẾU


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]
  10. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    NHẰM GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ TÔN VINH GIÁ TRỊ CỦA NHỮNG VỞ CẢI LƯƠNG BẤT HỦ MÀ CHO ĐẾN NAY DƯ ÂM CỦA NÓ ĐÃ THẤM SÂU VÀO TÂM KHẢM CỦA BAO KHÁN GIẢ MỘ ĐIỆU, CÔNG TY CỔ PHẦN NGHỆ SĨ MÊ KÔNG VÀ TRUNG TÂM TRUYỀN HÌNH CÁP HTVC – KÊNH THUẦN VIỆT CÙNG PHỐI HỢP THỰC HIỆN VỞ CẢI LƯƠNG “ CHẤT NGỌC KHÔNG TAN” (TÁC GIẢ: ĐINH BẰNG PHI; CHUYỂN THỂ CẢI LƯƠNG: TRƯƠNG HUYỀN – ĐẠO DIỄN: NSUT CA LÊ HỒNG – THIẾT KẾ SÂN KHẤU: TRẦN KHÁNH – ÂM NHẠC: TRƯƠNG MINH CHÂU).

    VỞ CẢI LƯƠNG “CHẤT NGỌC KHÔNG TAN” SÔI ĐỘNG TRÊN SÀN TẬP

    “Chất ngọc không tan” là vở cải lương đề tài lịch sử, ca ngợi lòng yêu nước của bà Lê Thị Răm, vì can ngăn hành động “rước voi giày mả Tổ” của chồng là Chúa Nguyễn Ánh nên bị đày ở lại đảo hoang, song bà vẫn giữ vẹn trinh tiết với chồng nên đã quyên sinh… Câu chuyện này cũng chính là nguồn gốc hình thành nên câu ca dao:


    “Gió đưa cây Cải về trời
    Rau Răm ở lại chịu đời đắng cay”


    Nơi mình sinh ra được gọi là quê hương. Khi rời quê hương xứ sở để định cư tại một nơi ở mới, có khi cuộc sống tốt hơn, nhưng không khỏi khắc khoải nổi nhớ nhà. Đó cũng chính là tâm sự của những nghệ sĩ cải lương tham gia trong vở “Chất ngọc không tan”, như NSƯT Hùng Minh, NS Trương Hoàng Long, danh hài Hồng Tơ… hiện đang “định cư” tại lĩnh vực phim ảnh, kịch nói, tấu hài…; hoặc như NSƯT Phương Hồng Thủy đang sinh sống tại nước ngoài… Tuy thu nhập của các nghệ sĩ này có thể khá hơn nhưng trong tim họ luôn khắc khoải nổi nhớ nhung “mái nhà” cải lương – nơi đã làm nên tên tuổi họ. Trong “Chất ngọc không tan” còn có sự trở lại sau nhiều năm xa sàn diễn của nàng Điêu Thuyền tuyệt sắc – Tô Kim Hồng, Công chúa Thủy Liên – Diệu Huê yêu chàng Phi Cát trong “Truyền thuyết Tình Yêu”, ông lão chèo đò Hoài Trúc Phương thật thà chơn chất… Tham gia trong vở còn có nhiều nghệ sĩ đang được khán giả yêu mến, như: NSUT Trọng Phúc, NSUT Hữu Quốc, NSUT Xuân Quan, Linh Huyền, Dũng Nhí, Thanh Đông, Chí Bảo, Chung Chung…

    * NSUT HÙNG MINH: CẢM ƠN “CHẤT NGỌC KHÔNG TAN”

    Trong tình hình sân khấu cải lương đang “chết” dần như hiện nay, thì việc NS Linh Huyền cùng đài HTVC – kênh Thuần Việt phối hợp thực hiện những vở diễn như “Chất ngọc không tan” là điều rất đáng trân trọng và ghi nhận. Là một nghệ sĩ có hơn 50 năm tuổi nghề, vẫn yêu nghề và còn sức cống hiến cho nghiệp Tổ nhưng buộc phải sống xa sàn diễn nhiều năm nên tôi rất vui với lần “trở lại” này. Tôi còn vui và hạnh phúc vì được làm việc chung với ê kíp nghệ sĩ rất nghiêm túc trong giờ giấc, rèn luyện; BTC thì chăm sóc việc ăn uống cho diễn viên rất chu đáo; đạo diễn thì nhiệt tình, còn tác giả thì rất nhiệt tâm khi bám sát sàn tập, chỉnh sửa từng câu thoại, lời ca… Vai diễn Phúc Thăng của tôi trong “Chất ngọc không tan” là một vai hợp sở trường, gợi cho tôi nhớ đến vai diễn Đinh Điền trong “Thái hậu Dương Vân Nga” mà tôi từng đóng trên sân khấu Thanh Minh – Thanh Nga thuở xưa. Nói chung, tôi rất hài lòng với lần trở lại này trong “Chất ngọc không tan”. Và, tôi chỉ biết gởi lời cảm ơn đến tất cả: Ban tổ chức, tác giả, đạo diễn, ê kíp diễn viên tham gia… và nhất là những khán giả đã đến xem ủng hộ vở cải lương “Chất ngọc không tan”. Tôi cũng mong rằng đài HTVC – kênh Thuần Việt, NS Linh Huyền và nhiều ông bà “bầu” khác nữa sẽ thực hiện thêm nhiều vở diễn hay để giữ gìn và tôn vinh nghệ thuật cải lương – vốn là tài sản văn hóa quý giá của dân tộc ta.

    * NSUT TÔ KIM HỒNG: CHƯA DIỄN ĐÃ CÓ KHÁN GIẢ ỦNG HỘ

    Kể từ khi tham gia vở “Đêm giao thừa” đến nay cũng đã hơn 6 năm rồi tôi mới trở lại sàn diễn, mặc dù có rất nhiều lời mời; trong đó có cả NS Linh Huyền. Khi Linh Huyền mời tham gia “Chất ngọc không tan”, tôi có hơi lo sợ. Song, trước nhiệt huyết dành cho cải lương và sự quan tâm, động viên tôi trở lại với nghề trong nhiều năm qua của NS Linh Huyền đã làm tôi và “ông xã” là NSUT Nam Hùng cảm động; và ảnh đã khuyến khích tôi nhận lời tham gia.

    Vai diễn Nguyên Phi của tôi là vai tính cách, vừa hợp sở trường vừa không cần đòi hỏi nhiều về thanh sắc – “điểm yếu” mà những nghệ sĩ đã có tuổi như tôi đều có phần e ngại. Trong những ngày lên sàn tập “Chất ngọc không tan”, quả thật tôi rất vui vì tất cả mọi người đều nhiệt tình và rất nghiêm túc trong giờ giấc, tập luyện… gợi cho tôi nhớ đến hình ảnh của sân khấu cải lương ngày xưa, thuở mà tất cả diễn viên đều sẳn sàng sống chết vì nghề, vì sàn diễn. Vui hơn nữa là có nhiều khán giả khi nghe tin tôi trở lại sàn diễn đã gọi điện thoại thăm hỏi, động viên và rất ủng hộ. Đối với một nghệ sĩ thì đây là niềm hạnh phúc rất lớn!

    Chuyện bên lề: *GẶP LẠI “NGƯỜI XƯA”

    Là cảm nhận của NSUT – đạo diễn Ca Lê Hồng và NSUT Xuân Quan khi tham gia vở “Chất ngọc không tan”. Vào năm 1995, kịch bản Hát bội “Chất ngọc không tan” đã được NSUT Ca Lê Hồng dàn dựng cho Nhà hát Nghệ thuật Hát bội, vở được đưa đi tham gia LHSK chuyên nghiệp toàn quốc và đoạt Huy chương Bạc. Khi đó, NSUT Xuân Quan vào vai tướng Đỗ Thanh Nhân và đoạt Huy chương Vàng cá nhân.

    Đây là lần đầu “Chất ngọc không tan” được NSUT Ca Lê Hồng dàn dựng trên sân khấu cải lương, lập tức đạo diễn đã nhớ tới “người xưa” Xuân Quan với vai diễn bất hủ Đỗ Thanh Ngân. Đây cũng là lần đầu NSUT Xuân Quan – vốn là một nghệ sĩ Hát bội tham gia diễn cải lương. Anh cho biết, rất vui vì vừa được thể hiện lại vai diễn góp phần làm nên tên tuổi mình, vừa được thử sức ở lĩnh vực mới là sân khấu cải lương – bộ môn nghệ thuật mà anh cũng rất thích và biết hát khá nhiều bài bản.

    *“ LÂU LẮM RỒI TRÊN SÀN TẬP CẢI LƯƠNG MỚI CÓ KHÔNG KHÍ ĐÔNG VUI NHƯ VẦY!”

    Đây là lời nhận xét chung của tất cả nghệ sĩ khi tham gia vở cải lương “Chất ngọc không tan”. Vở được đưa lên sàn tập từ ngày 16/8/2012 tại nhà NS Linh Huyền, sau đó là tại rạp Thủ Đô và tại rạp Long Phụng> Nếu như trên sàn tập của nhiều vở cải lương hiện nay còn xài “giờ dây thun”, lên sàn trễ hơn 30 phút so với giờ qui định; thì tại vở “Chất ngọc không tan” giờ giấc tập tuồng được được các diễn viên tự nguyện tuân thủ rất tốt, có mặt đầy đủ và đúng giờ khiến không khí làm việc rất vui vẻ và thoải mái. Thậm chí vào ngày 29/8 trời mưa như trút nước, các nghệ sĩ ở xa như NSUT Tô Kim Hồng, NSUT Hùng Minh… đến sân khấu sớm gần 1 tiếng đồng hồ vì sợ kẹt xe… Vở được đưa lên sàn tập theo từng cảnh, ai có lớp diễn thì có mặt. Vì vậy, ngoài NSUT Ca Lê Hồng – vốn là đạo diễn của vở, mọi người trong “Chất ngọc không tan” đều nhất trí bình bầu cho hai người “siêng năng” nhất trên sàn tập là… tác giả Trương Huyền và tác giả Anh Kiệt – Giám đốc Nhà hát Nghệ thuật Hát bội. Có mặt trong hầu hết các buổi tập, tác giả Trương Huyền đã làm sống lại vai trò “thầy tuồng” của sân khấu cải lương ngày xưa, khi ông tỏ ra “khó tính” với từng lời ca sai, từng câu thoại dư thừa của diễn viên. Không chỉ thế, ông còn chỉnh sửa hoặc viết thêm lời, thêm cảnh ngay tại sàn tập để vở diễn được chỉnh chu hơn. Riêng tác giả Anh Kiệt thì ngoài việc cùng với BGĐ Nhà hát Nghệ thuật Hát bội hổ trợ cho mượn rạp Long Phụng để tập tuồng, anh còn có mặt trong hầu hết các buổi tập tại rạp Long Phụng để trò chuyện, thăm hỏi và xem mọi người tập luyện. Chính vì sự tham gia “đông, vui” này mà vở “Chất ngọc không tan” tuy lên sàn tập rất nghiêm túc nhưng cũng tràn ngập tiếng cười vui.

    BSK
    [​IMG]
    ngocanh Site Admin
    [​IMG] Bài viết: 47240Ngày tham gia: Thứ 2 Tháng 4 12, 2004 7:00 am

Chia sẻ trang này