1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những lá thư, những trang nhật ký, hồi ức thời chiến

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi TLV, 17/04/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Có một người con gái tuổi 20 (kỳ 4):  http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=89724&ChannelID=89
    Cuộc sống ở bên cái chết

    [​IMG]

    Ảnh chụp tại chiến trường - một trong những bức ảnh hiếm hoi chị Thùy Trâm gủi về được cho gia đìnhTT - 4.8.68Vẫn là những ngày công tác dồn dập, khó khăn vẫn đến từng giờ từng ngày, vậy mà sao lòng mình lại thấy ấm áp niềm tin. Phải chăng nụ cười trên đôi môi còn thoáng nét đau buồn của người học sinh trẻ ấy làm mình dịu đi mọi suy nghĩ về riêng tư?
    Phải chăng vì tiếng hát lạc giọng vẫn vang lên khi lòng người trai ấy vẫn đang rớm máu vì hai cái tang đè nặng trên ngực, đã là một lời nhắc nhở mình hãy học tập tinh thần lạc quan kỳ diệu đó. Vâng, tôi xin học tập và học tập không ngừng để giữ vững niềm tin cách mạng mà các đồng chí đã dạy tôi bằng cuộc sống chiến đấu kiên cường của các đồng chí.
    Và mình đã vui, lời ca lại cất lên sau những giờ lao động mệt nhọc.
    Lòng sung sướng biết bao khi thấy rằng có rất nhiều đôi mắt nhìn mình cảm thông thương yêu mến phục. Đó là đôi mắt của những học sinh mong đợi mình lên lớp. Đó là đôi mắt của các bệnh nhân mong mình đến bệnh phòng... Vậy là đủ rồi Thùy ạ, đừng đòi hỏi cao hơn nữa. Cả Đức Phổ này đã dành cho mình một tình thương yêu trìu mến. Đó là một ưu tiên rất lớn rồi.
    Chị Hai về mang tin buồn: anh Dũng đã chết vì bị Mỹ bắt sống và giết tại chỗ.
    Đau xót biết chừng nào!
    Không lẽ quyển sổ nhỏ này cứ ghi tiếp mãi những trang đầy máu hay sao. Nhưng Thùy ơi! Hãy ghi đi, ghi cho đầy đủ tất cả những máu xương, mồ hôi nước mắt của đồng bào ta đã đổ 20 năm nay. Và ở những ngày cuối của cuộc đấu tranh sinh tử này, mỗi sự hi sinh càng đáng ghi đáng nhớ nhiều hơn nữa. Vì sao ư? Vì đã bao nhiêu năm rồi ta chiến đấu hi sinh và niềm hi vọng đã như một ngọn đèn rực sáng trước mắt, ở cuối đoạn đường, hôm nay gần đến đích thì ta ngã xuống...
    14.8.68
    Buổi chiều hôm ấy 26-1-1967 mình rời Phổ Hiệp ra đi. Sân nhà Thường đông nghịt những người đến tiễn đưa mình. Xúc động làm mình lúng túng, chẳng biết làm gì, mình ngồi xuống cạnh mẹ Thường bốc củ bỏ vào thúng. Lúc ngẩng lên mình bỗng sửng sốt vì một đôi mắt đăm đăm nhìn mình, đôi mắt đen to rất hiền, long lanh nước mắt. Đôi mắt nhìn mình buồn vô hạn và tràn ngập một tình thương yêu thiết tha. Đó là đôi mắt của Khiêm.


    Thư Frederic Whitehurst gửi Đặng Kim Trâm
    Ngày 3-6-2004
    Kim
    Hôm nay tôi đọc thư cô viết về những bức ảnh đó (ảnh những người ở Đức Phổ đã được phóng viên ảnh Văn Giá chụp năm 1970, nay còn sống ở địa phương - K.T.) và tôi lại có cái cảm giác cũ.
    Tôi đau đớn thật sự, tôi không thể nào cầm được nước mắt. Thật là kỳ lạ vì những người đó vẫn muốn gặp tôi. Lạ quá. Chúng tôi cần phải nói chuyện với nhau cả về chiến tranh, nếu không sẽ là có tội. Chúng ta cần phải biết về những trận đánh, những khái niệm và những cảm giác.
    Khi những người bình thường nghe theo chính phủ (Mỹ) đi đánh nhau với những con người bình thường khác thì đó là vì họ không có đủ thông tin, không có đủ khái niệm. Khi những người lính Mỹ đi tới một đất nước xa xôi như thế để đánh nhau với người Việt Nam, không một ai trong họ biết về đối thủ của mình và rồi sẽ có bao nhiêu người chết .
    Nhưng các bạn không bao giờ phải đặt câu hỏi trong đầu bởi vì các bạn chiến đấu để bảo vệ, chiến đấu vì tự do.
    Còn chúng tôi đánh nhau để làm gì? Những gì người Mỹ xa nhà có thể lấy được từ VN có đáng phải làm cho máu đổ nhiều đến thế không?
    Tôi biết Việt Nam đẹp lắm. Tôi biết Đức Phổ là nơi giống với thiên đường nhất trên trái đất này. Nhưng các tướng lĩnh không đánh nhau vì một nơi giống với thiên đường. Họ đánh nhau vì dầu mỏ, vì những tài nguyên thiên nhiên, vì đất đai, vì những thứ mà chúng ta chẳng bao giờ cần đến cả.
    Người ta bảo chúng tôi rằng nếu chúng tôi thua trong cuộc chiến tranh này thì cả thế giới sẽ thay đổi khủng khiếp. Vâng, chúng tôi đã thua cuộc chiến tranh vậy mà thế giới chẳng có gì thay đổi. Chúng tôi học được gì từ điều đó?
    FREDMình quen Khiêm trong những ngày ác liệt của mùa khô 1967 khi mình về công tác tại Phổ Khánh. Người giáo viên trẻ ấy đã đến với mình bằng cả tình thương mến và cảm phục rất chân thành. Tâm hồn những đứa đã qua thời học sinh có những nét dễ cảm thông nhau. Những ngày nằm dưới công sự mình kể cho Khiêm nghe về Pavel và Ruồi Trâu, về những bài thơ mình yêu thích.
    Anh viết tên em thành liệt sĩBên những hàng bia trắng giữa đồngNhớ nhau anh gọi: em, đồng chíMột tấm lòng trong vạn tấm lòng.
    Khiêm cũng rất thích bài Núi Đôi, Quê hương.
    Rồi Khiêm kể cho mình nghe cuộc đời học sinh vào tù ra tội của Khiêm. Khiêm đã ở tù ba năm, đi khắp nhà lao tỉnh, Huế... Bọn giặc đánh đập nhiều lần làm Khiêm gầy yếu.
    Mới đầu chỉ là thân với nhau, nhưng sau mình trở nên thân với Khiêm bằng một tình bạn rất đỗi trong trắng và chân thành. Công tác đồng bằng được một thời gian mình về căn cứ. Từ buổi xa Khiêm đến nay gần một năm rồi nhưng mình vẫn cảm thấy có một đôi mắt đen buồn, long lanh nước mắt đang nhìn mình trong buổi chia tay.
    Ai có ngờ lần chia tay đó lại là vĩnh biệt. Khiêm đã chết rồi! Trong một buổi đi càn, giặc Mỹ đã tìm thấy công sự của Khiêm. Chúng mở nắp công sự, Khiêm vọt lên dùng quả lựu đạn duy nhất trong tay quăng vào lũ giặc. Bọn quỉ khát máu sợ hãi nằm rạp xuống.
    Khiêm chạy được một đoạn nhưng quả lựu đạn ******** đã câm, bọn giặc chồm dậy đuổi theo Khiêm và đến băm nát người Khiêm. Khiêm chết rồi, đôi mắt đen dịu hiền giờ đây mở trừng căm giận. Mái tóc đen xanh của Khiêm giờ đây đẫm máu và bụi cát. Những hạt cát của quê hương quyện vào mái tóc của người thanh niên anh dũng. Chiếc áo Ninfan màu xám giờ đây rách nát và loang lổ máu.
    Chiếc áo ấy Khiêm đã mặc hôm đầu tiên gặp mình, cũng chiếc áo ấy Khiêm đã cùng Thùy len lỏi trên những con đường nhỏ hẹp đầy gai lưỡi hùm... Và cũng chiếc áo ấy một đêm trăng đẹp từ Phổ Khánh trở về, gió lạnh từ biển thổi vào làm Khiêm khẽ run.
    Thùy đã đưa chiếc áo của Quế cho Khiêm mặc, trên nền áo xám giản dị nổi bật màu đỏ đậm đà như lời nói Khiêm hôm ấy: ?oThùy ơi! Trên đời này trừ ba má, Khiêm không thương ai hơn Thùy kể cả người yêu Khiêm?.
    Khiêm đã hi sinh rồi! Nghe tin mình bàng hoàng không tin là sự thật. Khi đã chắc chắn mình không khóc, có phần bình thản nữa. Mình đã dùng nghị lực khống chế nỗi xúc động nhưng mỗi giây phút qua đi nỗi đau thương mới lớn dần và giờ đây nước mắt mình ràn rụa. Mình khóc một mình bên ngọn đèn khuya, những giọt nước mắt mằn mặn chảy dài trên mặt rồi rơi xuống lăn trên vạt áo mình.
    Khiêm ơi, có cách nào nghe được lời Thùy nói một lần nữa hay không? Hãy nghe đây lời hứa trả thù cho Khiêm là hứa bằng đau thương xé ruột, bằng căm thù bầm gan và lời hứa bằng cả thương nhớ không bao giờ phai nhạt. Nghe chăng Khiêm, người bạn bất tử trong lòng tôi!
    14.7.69
    Hôm nay là ngày sinh của ba, mình nhớ lại ngày đó giữa bom rơi đạn nổ, mới hôm qua một tràng pháo bất ngờ đã giết chết năm người và làm bị thương hai người. Mình cũng nằm trong làn đạn lửa của những trái pháo cực nặng ấy. Mọi người còn chưa qua cái ngạc nhiên lo sợ, vậy mà mình vẫn như xưa nay, nhớ thương lo lắng và suy tư đè nặng trong lòng. Ba má và các em yêu thương ở ngoài đó làm sao thấy hết được cuộc sống ở đây.
    Cuộc sống vô cùng anh dũng, vô cùng gian nan, chết chóc hi sinh còn dễ dàng hơn ăn một bữa cơm. Vậy mà người ta vẫn bền gan chiến đấu. Con cũng là một trong muôn nghìn người đó, con sống, chiến đấu và nghĩ rằng mình sẽ ngã xuống vì ngày mai của dân tộc. Ngày mai trong tiếng ca khải hoàn sẽ không có con đâu.
    Con tự hào vì đã dâng trọn đời mình cho Tổ quốc. Dĩ nhiên con cũng cay đắng vì không được sống tiếp cuộc sống hòa bình hạnh phúc mà mọi người trong đó có con đã đổ máu xương để giành lại. Nhưng có gì đâu, hàng triệu người như con đã ngã xuống mà chưa hề được hưởng trọn lấy một ngày hạnh phúc. Cho nên có ân hận gì đâu!
    Nhật ký ĐẶNG THÙY TRÂM
  2. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Có một người con gái tuổi 20 (kỳ 5):http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=89917&ChannelID=89
    Nỗi buồn người con gái

    [​IMG]

    Thùy Trâm cùng mẹ là bà Doãn Ngọc Trâm trước ngày lên đường (ảnh chụp ngày 18-12-1966)TT - 12.4.68Rừng chiều sau một cơn mưa, những lá cây xanh trong trước ánh nắng, mỏng mảnh xanh gầy như bàn tay một cô gái cấm cung.
    Không khí trầm lặng và buồn lạ lùng. Cả khu nhà bệnh nhân im lặng, bên khu nhân viên cũng chỉ nghe thấy tiếng Hường rì rầm trò chuyện với ai. Một nỗi nhớ mênh mang bao trùm quanh mình. Nhớ ai? Nhớ ba, nhớ má, nhớ những người vừa ra đi... và nhớ cả một người bệnh nhân đang chờ mình đến với anh nữa.
    Bên trong nỗi nhớ hình như có một nỗi buồn sâu kín, thầm lặng nhưng rất nặng nề. Dù sao vết thương lòng vẫn đang rỉ máu, dù mình có muốn lấy công việc, lấy mọi nỗi nhớ khác để lên trên nó vẫn trỗi dậy xót xa vô cùng. Hãy quên đi Th. ơi ! Hãy quên đi mà tìm lại niềm hi vọng mới mẻ xanh tốt trong lành hơn. Hãy lấy niềm tự hào mà quên đi thất vọng.
    14.4.68
    Một bài thơ làm tặng cho mình, bài thơ của một thương binh đang nằm viện, xuất phát từ lòng mến thương cảm phục đối với một người bác sĩ đã chăm sóc anh và mọi bệnh nhân khác một cách tận tình. Anh ta tìm hiểu kỹ về mình và viết bài thơ tặng mình. Bài thơ tràn ngập niềm mến yêu chân thành và nỗi đau xót trước mối tình tan vỡ của mình. Anh ta nói lên những lời nói xót xa cay đắng của một cô gái bị người yêu phụ bạc. Đọc bài thơ... mình buồn vô hạn.
    Ôi! Đây mới là điều đáng buồn nhất trong quan hệ với M.. Mọi người đều trách M., đều thương mình, nhưng mình xót xa biết bao nhiêu khi thấy người ta thương mình bằng một tình thương có cả sự thương hại nữa! Dù anh Thiết, dù Hào, Nghinh... ai ai đi nữa đã cảm thương san sẻ với mình, mình vẫn không muốn.
    Một mình đã đủ giải quyết rồi, một mình đủ sức chôn sâu cả chín năm thương yêu hi vọng ấy xuống tận đáy đất sâu rồi - mảnh đất tâm hồn mình vẫn màu mỡ, vẫn đủ sức để gieo lên đó một mùa hoa tươi đẹp được kia mà. Hỡi tất cả mọi người, không cần tưới lên mảnh đất ấy những giọt lệ xót thương đâu. Hoa thơm phải được tưới bằng nước mát trong lành.
    21.12.68
    Rất lâu rồi mình không nghĩ đến M.. Hôm nay đọc lại những lá thư từ ngoài Bắc, thư của Thái, của Phương, của cậu Hiền... bỗng dưng mình buồn vô kể. Ngoài ấy ai cũng mong mình hạnh phúc, ai cũng tưởng mình hạnh phúc khi gặp lại M.. Nhưng cuộc đời sao lắm nỗi éo le.
    Hạnh phúc trong tình yêu đã không đến với mình. Mình không thể hiểu được sau này sẽ ra sao, mình sẽ yêu ai, người đó như thế nào, liệu trong mình có còn được cái sôi nổi tha thiết yêu thương nữa hay không?
    Thùy ơi! Bi quan đấy ư? Hãy nhìn lại đi, bên cạnh Thùy có bao nhiêu đồng chí, bao nhiêu thanh niên đã cống hiến tuổi trẻ của họ cho cách mạng, họ ngã xuống chưa hề được hưởng hạnh phúc. Sao Th. lại nghĩ đến riêng tư. Đừng nhìn ra Bắc, hãy nhìn ở đây, ở mảnh đất còn nóng bỏng đạn bom đau thương và lửa khói này.
    26.11.69


    Thư Frederic Whitehurst gửi Đặng Kim Trâm
    Thứ sáu, 6-5-2005
    Em gái Kim,
    Bác sĩ Đặng Thùy Trâm là một anh hùng đối với toàn thế giới. Đó không phải một lời khoa trương mà hoàn toàn là sự thật. Anh Robert và tôi đã nghĩ rằng nếu không tìm được gia đình chị thì chúng tôi sẽ xuất bản một cuốn sách về chị Thùy và gia đình em - nếu còn sống - sẽ biết về chị.
    Và chúng tôi đã tìm được gia đình em. Thùy Trâm quá đặc biệt và quá nhiều điều em kể cho chúng tôi ngay cũng như chúng tôi kể cho gia đình em khiến điều đó càng trở nên rất rõ nét. Vì thế ý tưởng của em về một cuốn sách cũng trùng giống ý tưởng của chúng tôi.
    ...Thùy đã cho chúng ta mọi hi vọng về tương lai. Cô gái có thể nhận thấy vẻ đẹp ngay giữa cuộc chiến tranh đó quá đặc biệt, không thể bị giấu kín mà không cho mọi người cùng biết...
    ...Tôi đã nhượng quyền sở hữu của mình đối với hai quyển nhật ký này cho bảo tàng, vì thế tôi không thể quyết định về tương lai của chúng nữa nhưng tôi muốn mẹ các bạn phải được sờ thấy những dòng chữ đó, sờ thấy những trang giấy và cảm nhận được tình yêu trong hai cuốn sách đó.
    Và tôi không biết phải làm thế nào. Tôi sẽ rất vinh dự nếu được trả tiền mời mẹ các bạn đến để cầm hai quyển nhật ký, hoặc là Kim hoặc Hiền hoặc Hồ Nam đều được. Tôi không giàu nhưng cũng không quá nghèo đến mức gia đình tôi phải phản đối mong muốn đó.
    Từ rất lâu rồi tôi vẫn nghĩ nếu như cuốn sách được xuất bản, hoặc người ta làm phim về nó thì tôi sẽ dùng số tiền bán sách để thiết lập một số giường bệnh tại Hà Nội.
    Lúc ở Texas tôi nói với mọi người rằng đó có thể là ý tưởng của tôi nhưng ý tưởng đó sinh ra từ khi tôi nhìn thấy những đứa trẻ bị đốt cháy ở Quảng Ngãi bao nhiêu năm về trước. Và tôi có thể nhìn thấy bác sĩ Đặng tiếp tục sự nghiệp y tế của mình ngay cả khi chị đã chết đi, tiếp tục chăm sóc đồng bào mình bằng chính câu chuyện của chị.
    Tôi biết điều này giống như chuyện cổ tích, nhưng chuyện cổ tích cũng có thể trở thành sự thật. Hai tuần qua đã chứng minh điều đó.
    Anh trai Fred
    Thêm một tuổi đời, thêm một năm lửa khói trên chiến trường miền Nam gian khổ. Chúc Thùy vững bước trên con đường vinh quang mà Th. đã chọn. Th. ơi, Th. không buồn khi lễ kỷ niệm sinh nhật của Th. chỉ có lá rừng ướt đẫm trong mưa dào dạt khẽ nói với Th. những lời thân mến. Th. không buồn khi bản nhạc mừng Th. hôm nay chỉ có dòng suối ào ào tuôn nước về xuôi.
    Và căn phòng mà Th. đang ngồi để ghi lên trang vở đời của mình thêm một trang mới chính là chiếc hầm chật chội ướt át này. Th. không buồn vì sau này mở lại những trang sổ này Th. sẽ tự hào về những năm tuổi trẻ của mình. Ở đây Th. không có những giây phút ấm áp giữa bạn bè bên lọ hoa nhỏ với những bông hồng thơm ngát để trên bàn. Ở đây Th. không có cái hạnh phúc đi cạnh người yêu trên con đường vắng khi ánh chiều tím dần trong buổi hoàng hôn. Ở đây Th. thiếu nhiều nhưng cũng rất đầy đủ.
    Cho nên Th. hãy cười đi, hãy vui đi khi vở đời mở sang một trang mới đầy vinh quang, đẹp đẽ.
    13.1.70
     
    Vậy là M. đã ra đi! Không thể nào mình lại nghĩ sự việc như bây giờ. Tám năm về trước dưới rặng cây trên con đường cũ mình tiễn M. đi Nam, không một lời hứa hẹn, không một giọt nước mắt trong buổi chia tay để rồi suốt năm năm sau mình dành trọn tình yêu thiết tha chung thủy cho người giải phóng quân ấy. Và mình đã lên đường vào Nam theo tiếng gọi của Tổ quốc và tình yêu.
    Mình đã gặp lại M.. Ai cũng tưởng rằng hạnh phúc đó không có gì sánh được. Nhưng cuộc đời thật lắm nỗi éo le. Khi xa nhau mình đã thiết tha thầm gọi tên M. trong từng giây từng phút nhưng khi gặp nhau mình đã để cho lòng tự ái ngự trị lên trên tình yêu. M. không phải là của riêng mình, đành rằng M. chỉ dành tình yêu cao nhất cho Đảng, cho nhân dân, nhưng nếu để cho mình quá ít yêu thương thì... không thể đáp ứng với trái tim sôi nổi yêu thương của mình.
    Mình không hề đòi hỏi phải gần nhau, phải cưới nhau mà chỉ mong rằng dù giữa bom rơi đạn nổ, giữa lửa khói chiến trường tình yêu vẫn sáng ngời rực rỡ. M. đã không làm được như vậy và mình đã bắt con tim mình phải quên đi những gì đã nuôi sống nó trong hơn mười năm nay.
    Bây giờ M. ra đi không gặp Thùy, như lá thư M. viết lại: ?oSự sống của tình yêu không cần sự có mặt của nhau, dù ở Nam hay Bắc, dù là gần nhau hay cách ngàn dặm đường nắng mưa cát bỏng... Ở đâu anh cũng vẫn là anh của tám năm qua và nhiều năm nữa để mà yêu em tha thiết. Hãy sống với nhau như một người thân yêu nhất trên đời. Quyền quyết định là hoàn toàn do em...?.
    Cách giải quyết đó cũng được. Ở đây mình cũng sẽ dành trọn cuộc sống cho chiến đấu và công tác - không thể nào có tình yêu được và M. ở đó chắc cũng không thể nào có được một tình yêu chân chính khi nghĩ đến ai khác ngoài mình.
    Cuộc đời đã dành cho ta một đoạn đường như vậy thì hãy ráng mà đi, bao giờ gặp lại nhau hãy nói tiếp đến tương lai.
    Chúc M., người đồng chí yêu thương, lên đường bình an. Gửi theo M. ngàn vạn nhớ thương, tình nhớ thương của một người bạn và một người đồng chí.
    10.6.70
    Chiều nay sao buồn da diết. Phải chăng vì đây là thời gian cuối cùng anh có thể đến thăm em trước lúc lên đường, nhưng thời gian ấy đã trôi đi và như vậy là không gặp anh trước khi chia tay. Chia tay - những cuộc chia tay trên mảnh đất khói lửa này ai mà biết được ngày gặp lại như thế nào, có hay là không có. Lẽ nào anh lại làm thinh ra đi sao anh trai thân quí?
    Nhưng nỗi buồn còn vì lá thư của mẹ, lá thư ngắn ngủi, có giấu nỗi đau buồn và thương nhớ nhưng nỗi đau buồn ấy vẫn toát lên dù chỉ trong một vài chữ mẹ chưa cân nhắc kỹ trước khi viết.
    Mẹ yêu ơi, con hiểu lòng mẹ héo hon đau xót khi con của mẹ còn phải lăn mình trong lửa đạn, những lá thư của con, của các em gửi đến mẹ chỉ nói lên một phần vạn sự gian khổ ác liệt vậy mà mẹ đã lo lắng như vậy. Nếu như mẹ biết được con và các em đã trải qua những ngày ác liệt như thế này thì mẹ sẽ nói sao?
    Mẹ yêu ơi, nếu như con của mẹ có phải ngã xuống vì ngày mai thắng lợi thì mẹ hãy khóc ít thôi mà hãy tự hào vì các con đã sống xứng đáng. Đời người ai cũng chết một lần.
    Dĩ nhiên lòng con bao giờ cũng ao ước được trở về với mẹ với ba, với miền Bắc ngàn vạn yêu thương.
    Nhật ký ĐẶNG THÙY TRÂM
  3. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0


    Viết tiếp chuyện bác sĩ - liệt sĩ Đặng Thùy Trâm:  http://www2.thanhnien.com.vn/Thegioitre/2005/7/21/116488.tno
    Buổi chiều cuối cùng của một thiên thần





    Sinh năm 1943, tại Hà Nội tốt nghiệp hạng ưu Đại học Y khoa Hà Nội 1966, bác sĩ Đặng Thùy Trâm là con gái đầu của một gia đình trí thức. Bố chị là bác sĩ người gốc Huế, còn mẹ chị là dược sĩ gốc người Quảng Nam. Tình nguyện vượt Trường Sơn vào công tác tại chiến trường Quảng Ngãi, từ tháng 4.1967 đến tháng 7.1970, chị Thùy Trâm là Bệnh xá trưởng Bệnh xá Đức Phổ (Quảng Ngãi). Suốt thời gian ấy, chị Trâm cùng đồng nghiệp đã cứu chữa cho hàng nghìn thương binh và nhân dân Đức Phổ.
    Hy sinh trên đường công tác, hai cuốn nhật ký của chị Thùy Trâm đã rơi vào tay lính Mỹ. Và hành trình kỳ lạ của hai cuốn nhật ký này trước khi nó được trao về cho gia đình chị Trâm đã được Báo Thanh Niên lần đầu tiên giới thiệu trong một bài viết kỷ niệm 30 năm ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Cảm hóa chính những kẻ thù đã sát hại mình bằng hai cuốn nhật ký ấy, nữ bác sĩ Đặng Thùy Trâm đã là biểu tượng cho những gì cao đẹp nhất của người thầy thuốc Việt Nam trong chiến tranh, và cũng là biểu tượng cho lòng yêu nước, tinh thần xả thân vì lý tưởng của cả một thế hệ những trí thức yêu nước trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. 
    Chị Thùy Trâm đã nói gì trước lúc hy sinh?  
    Chị Nguyễn Thị Kim Liên, 56 tuổi, nguyên học viên lớp y tá Bệnh xá Đức Phổ, người duy nhất chứng kiến cái chết của bác sĩ Đặng Thùy Trâm, kể với giọng buồn buồn về buổi chiều định mệnh ấy. Tiếp chúng tôi tại nhà riêng ở một "nhà không số, phố không tên" thuộc thị xã Quảng Ngãi, chị Liên nay đã về hưu, có chồng là thẩm phán tòa án tỉnh, có 3 con, 2 gái 1 trai và đã có đứa cháu ngoại đầu tiên. Trong buổi sáng, tiếng khóc của đứa trẻ nằm nôi nghe thật thanh bình. Cháu út của chị sắp tốt nghiệp Cao đẳng Tài chính - Kế toán, ra chào khách. Khi chúng tôi hỏi cháu định xin việc ở đâu sau khi tốt nghiệp, chị Liên thật thà: "Khó lắm anh ạ. Tôi giờ về hưu rồi...". "Nhưng anh chồng chị đương chức, lại là thẩm phán tòa tỉnh, to thế cơ mà!" - tôi ngạc nhiên. Chị Liên cười cười: "Lại khó nữa.Vì những người sắp... đứng trước vành móng ngựa rồi mới quan hệ với anh ấy, thì làm sao nhờ họ xin việc cho con mình được?". Chúng tôi bật cười dù câu chuyện chị  kể sắp đi vào đoạn buồn nhất. Chị Liên chợt hỏi tôi: "Anh có biết vào buổi chiều ngày 22 tháng 7 năm 1970 ấy, trong lúc vượt qua ngọn núi giáp ranh xã Phổ Cường và Phổ Ninh, chị Trâm đã nói gì với tôi không ?". Làm sao tôi biết được, nhưng tôi biết, đó có thể là câu chuyện cuối cùng, những lời nói cuối cùng của nữ bác sĩ Thùy Trâm gửi lại thế giới này, cuộc đời này. "Chị Trâm đã kể tôi nghe về người yêu của chị. Tôi không biết anh ấy là ai, chỉ nhớ chị Trâm đã kể rất say sưa những kỷ niệm về mối tình đầu của mình. Hai chúng tôi đang trên đường từ căn cứ sắp chuyển bệnh xá về lại căn cứ cũ. Hai chị em chúng tôi đi tiền trạm mà. Tôi là y tá tập sự của Huyện đội Đức Phổ được cử về bệnh xá của chị Trâm để học lớp y tá đợt 2 nhằm nâng cao tay nghề. Tôi chỉ mới được ở với chị Trâm gần 6 tháng, nhưng thời gian ấy đủ cho tôi thương mến và cảm phục chị Trâm vô cùng. Chị Trâm không chỉ được mình tôi thương, dù chị nhận tôi là em nuôi. Chị được tất cả bà con ở Phổ Cường và Đức Phổ - những nơi chị đã sống, đã lăn lộn trong mấy năm ác liệt - thương như thương con đẻ hay chị em ruột thịt. Ở trạm xá trên núi, nhưng chị Trâm thường xuyên nhận được quà của bà con

    [​IMG]


    Ông Ted Engerlmen Cựu chiến binh Mỹ trao đĩa CD lưu giữ cuốn nhật ký cho mẹ bác sĩ Trâm. Ảnh Ngọc Thắng
    Phổ Cường gửi lên cho, từ hộp sữa đến bộ quần áo hay cả chiếc radio bán dẫn. Tôi nhớ, có lần chị còn khoe tôi chiếc nhẫn vàng bà con gửi cho chị "làm nhẫn cưới". Anh biết không, tôi chưa thấy một người con gái nào đẹp, giỏi giang và lại dễ thương như chị Trâm. Người như thế được nhiều anh để ý hay thầm yêu trộm nhớ cũng là chuyện bình thường. Nhưng trong thời gian sống bên chị, tôi thấy hình như chị chưa nhắm đến ai trong số những người mà chúng tôi quen biết. Cả chuyện chị thường xuyên ghi nhật ký, cũng ít người trong chúng tôi biết, vì chị rất kín đáo. Không hiểu vì sao, trong buổi chiều cuối cùng ấy, chị Trâm lại kể tôi nghe về người chị yêu. Hình như mối tình này của chị mãnh liệt lắm, qua cách kể và giọng kể của chị. Một trong những lý do chị vượt Trường Sơn vào đây là để được gặp anh ấy". Tôi hỏi chị Liên, có phải hai cuốn nhật ký của bác sĩ Thùy Trâm bị lính Mỹ thu khi họ đánh vào bệnh xá không ? Chị Liên khẳng định: ?oLàm gì có chuyện đó! Mỗi khi chạy càn hay chuyển cứ, chị Trâm và chúng tôi đều mang theo tất cả tài liệu của bệnh xá và những gì thiết cốt nhất của cá nhân. Hai cuốn nhật ký mà người Mỹ lấy được của chị Trâm đã được chị cất trong chiếc bòng (ba lô) mà chị đeo bên mình khi cùng tôi đi tiền trạm đến căn cứ mới. Sau khi hạ sát chị Trâm, lính biệt kích Mỹ đã lấy hai cuốn nhật ký này cùng những vật dụng cá nhân khác của chị Trâm. Chúng chỉ để lại quần áo của chị, sau khi đã xé ra và treo vắt vẻo trên những cháng cây rừng". Tôi hỏi, trước khi chết chị Trâm mặc chiếc áo màu gì, chị Liên nói ngay: "Chị mặc áo bà ba đen. Chị Trâm rất thích mặc áo bà ba, trong ba lô của chị khi ấy vẫn còn vài chiếc áo bà ba đen. Sau khi chị mất, có một chiếc áo bà ba trong ba lô chị bị lính Mỹ xé đôi vắt trên cây, tôi đã cầm về vá lại và mặc miết cho tới sau hòa bình".
    Thật tiếc, chị Liên đã không còn giữ được chiếc áo bà ba đen thương thiết ấy. Nhưng hình ảnh người nữ bác sĩ can đảm trong chiến đấu, nhẫn nại và chịu đựng đến vô cùng khi chăm sóc thương binh, hình ảnh người con gái yêu mãnh liệt và lãng mạn trong câu chuyện cuối cùng vào buổi chiều định mệnh ấy, tôi biết, mãi mãi còn trong trái tim chị Liên và những đồng đội của bác sĩ Thùy Trâm. 
    Chị là thiên thần của chúng tôi 



    Buổi chiều ngày 22 tháng 7 của 35 năm trước. Câu chuyện chị Nguyễn Thị Kim Liên kể bằng giọng nghèn nghẹn: "Có lẽ bọn biệt kích Mỹ nghe giọng nói của hai chị em chúng tôi. Chúng đã phục lại chờ ngay đỉnh dốc. Mải chuyện, tới lúc đột nhiên một tên biệt kích Mỹ đen nhô ra, gần như nó đã nắm được tay chị Trâm. Tôi chỉ kịp hét lên: "Chị Hai, Mỹ!" và vùng chạy.  Hai chị em không có vũ khí, mà thực ra, có vũ khí lúc ấy cũng không đối phó kịp. Tôi lao mình xuống dốc, và nghe phía sau mình một loạt tiểu liên đanh gọn. Chúng đã hạ sát chị Trâm ở một khoảng cách quá gần, chỉ chừng 1 mét. Cái chết của chị Trâm và cây rừng đã cứu tôi thoát chết". Không chủ định, nhưng bằng cái chết của mình, chị Thùy Trâm không chỉ cứu sống chị Liên mà còn báo động cho cả bệnh xá biết sự hiện diện của bọn biệt kích Mỹ. Bệnh xá đã dời đi an toàn. Đơn vị vũ trang huyện đã bám gần nơi chúng sát hại chị Trâm đúng một tuần, bọn biệt kích Mỹ mới bỏ đi. Nấm mộ người nữ bác sĩ đã được đắp cao lên, chứ không thể đào huyệt an táng chị. Ngày ấy, không có hương hoa, nhưng tất cả những người quen biết và cùng sống cùng chiến đấu với chị Thùy Trâm mỗi khi qua con dốc này đều đắp thêm cho chị một nắm đất. Cho tới hòa bình. Trước khi người mẹ thương yêu của chị Trâm vào với con, suốt một tháng ròng, hương đã được thắp lên trên nấm mộ người con gái kính thương của hàng nghìn thương binh từng được chị cứu chữa và chăm sóc. Bao nhiêu nước mắt đã chảy mỗi khi có người nhắc đến tên Thùy Trâm. Hơn cả anh hùng, Thùy Trâm đã là một thiên thần của thế hệ chúng tôi, một thế hệ trong sáng hồn nhiên vô tư đến kinh ngạc khi bước vào cuộc chiến đấu sinh tử. Một thiên thần trong màu áo trắng tinh khiết, dù trong chiến tranh, chị Trâm nào có điều kiện để mặc chiếc áo blouse trắng của người bác sĩ. Khi tìm gặp những người đã từng sống với chị trong 3 năm khốc liệt nhất của cuộc chiến tranh, tôi mới hiểu vì sao chị Thùy Trâm được chính những người lính Mỹ - những kẻ thù một thời của chị - yêu mến và kính trọng đến như vậy. Bởi trước hết, chị được chính những đồng đội của mình yêu thương và kính trọng. Chị được nhân dân của mình yêu thương và quý trọng. Chị được mảnh đất chiến trường Đức Phổ che chở và nâng niu cho tới khi chị nhập vào hồn đất ấy. Và ngay khi đã chết rồi, chị vẫn tiếp tục cải hóa được chính những kẻ thù của mình. Bằng hai tập nhật ký. Bằng tình yêu thương và sự dâng hiến vô hạn cho cuộc đời, cho con người, cho lý tưởng. Mới hôm qua thôi, tôi mới biết, hóa ra, người yêu của chị Thùy Trâm, người một thời đã là thần tượng của chị - người đi trước chị vào chiến trường với màu áo quân phục giải phóng - lại là người sau này rất thân với tôi, người tôi kính trọng và yêu quý như một người anh. Dù chưa một lần tôi nghe anh kể về chị, và có thể anh mang một nỗi đau, một nỗi dằn vặt nào đó trong mối tình này mà anh cố giấu, cả chị Trâm cũng vậy, nhưng tôi có thể nói, họ là hai con người theo đúng nghĩa cao đẹp của từ này. Anh đã qua đời vì những vết thương và những di chứng chiến tranh, và có thể ở cõi xa xăm ấy, anh đã gặp lại chị. Mong là như vậy. Xin chị yên nghỉ, chị Thùy Trâm, chị mãi mãi là niềm tự hào của chúng tôi, là thiên thần của chúng tôi!  
    Quảng Ngãi, ngày 21/7/2005
     
    Thanh Thảo
     


    Được TLV sửa chữa / chuyển vào 10:30 ngày 22/07/2005
  4. huanmq

    huanmq Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    04/05/2003
    Bài viết:
    417
    Đã được thích:
    0
    Buổi chiều ngày 22 tháng 7 của 35 năm trước. Câu chuyện chị Nguyễn Thị Kim Liên kể bằng giọng nghèn nghẹn: "Có lẽ bọn biệt kích Mỹ nghe giọng nói của hai chị em chúng tôi. Chúng đã phục lại chờ ngay đỉnh dốc. Mải chuyện, tới lúc đột nhiên một tên biệt kích Mỹ đen nhô ra, gần như nó đã nắm được tay chị Trâm. Tôi chỉ kịp hét lên: "Chị Hai, Mỹ!" và vùng chạy.<SPAN style="mso-spacerun: yes">  [/bigchar]Hai chị em không có vũ khí, mà thực ra, có vũ khí lúc ấy cũng không đối phó kịp. Tôi lao mình xuống dốc, và nghe phía sau mình một loạt tiểu liên đanh gọn. Chúng đã hạ sát chị Trâm ở một khoảng cách quá gần, chỉ chừng 1 mét. Cái chết của chị Trâm và cây rừng đã cứu tôi thoát chết". Không chủ định, nhưng bằng cái chết của mình, chị Thùy Trâm không chỉ cứu sống chị Liên mà còn báo động cho cả bệnh xá biết sự hiện diện của bọn biệt kích Mỹ. Bệnh xá đã dời đi an toàn. Đơn vị vũ trang huyện đã bám gần nơi chúng sát hại chị Trâm đúng một tuần, bọn biệt kích Mỹ mới bỏ đi. Nấm mộ người nữ bác sĩ đã được đắp cao lên, chứ không thể đào huyệt an táng chị. Ngày ấy, không có hương hoa, nhưng tất cả những người quen biết và cùng sống cùng chiến đấu với chị Thùy Trâm mỗi khi qua con dốc này đều đắp thêm cho chị một nắm đất. Cho tới hòa bình. Trước khi người mẹ thương yêu của chị Trâm vào với con, suốt một tháng ròng, hương đã được thắp lên trên nấm mộ người con gái kính thương của hàng nghìn thương binh từng được chị cứu chữa và chăm sóc. Bao nhiêu nước mắt đã chảy mỗi khi có người nhắc đến tên Thùy Trâm. Hơn cả anh hùng, Thùy Trâm đã là một thiên thần của thế hệ chúng tôi, một thế hệ trong sáng hồn nhiên vô tư đến kinh ngạc khi bước vào cuộc chiến đấu sinh tử. Một thiên thần trong màu áo trắng tinh khiết, dù trong chiến tranh, chị Trâm nào có điều kiện để mặc chiếc áo blouse trắng của người bác sĩ. Khi tìm gặp những người đã từng sống với chị trong 3 năm khốc liệt nhất của cuộc chiến tranh, tôi mới hiểu vì sao chị Thùy Trâm được chính những người lính Mỹ - những kẻ thù một thời của chị - yêu mến và kính trọng đến như vậy. Bởi trước hết, chị được chính những đồng đội của mình yêu thương và kính trọng. Chị được nhân dân của mình yêu thương và quý trọng. Chị được mảnh đất chiến trường Đức Phổ che chở và nâng niu cho tới khi chị nhập vào hồn đất ấy. Và ngay khi đã chết rồi, chị vẫn tiếp tục cải hóa được chính những kẻ thù của mình. Bằng hai tập nhật ký. Bằng tình yêu thương và sự dâng hiến vô hạn cho cuộc đời, cho con người, cho lý tưởng. Mới hôm qua thôi, tôi mới biết, hóa ra, người yêu của chị Thùy Trâm, người một thời đã là thần tượng của chị - người đi trước chị vào chiến trường với màu áo quân phục giải phóng - lại là người sau này rất thân với tôi, người tôi kính trọng và yêu quý như một người anh. Dù chưa một lần tôi nghe anh kể về chị, và có thể anh mang một nỗi đau, một nỗi dằn vặt nào đó trong mối tình này mà anh cố giấu, cả chị Trâm cũng vậy, nhưng tôi có thể nói, họ là hai con người theo đúng nghĩa cao đẹp của từ này. Anh đã qua đời vì những vết thương và những di chứng chiến tranh, và có thể ở cõi xa xăm ấy, anh đã gặp lại chị. Mong là như vậy. Xin chị yên nghỉ, chị Thùy Trâm, chị mãi mãi là niềm tự hào của chúng tôi, là thiên thần của chúng tôi! </FONT> </FONT></P>
    Đọc những dòng về bác sỹ ĐặngThùy Trâm, tôi đã xúc động mạnh, đặc biệt khi được biết đúng thời điểm này 35 năm trước (chiều 22/7/1970) chị đã hy sinh (xin phép được gọi bằng chị vì lúc chị hy sinh tôi vẫn còn đang trong bụng mẹ). Xin được thắp 1 nén nhanh tưởng nhớ tới chị.
  5. huanmq

    huanmq Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    04/05/2003
    Bài viết:
    417
    Đã được thích:
    0

  6. BrodaRu

    BrodaRu Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    06/03/2004
    Bài viết:
    1.026
    Đã được thích:
    32
    Cái tệ của lính Commando hay Seal Mỹ là cứ hay đột kích vào trạm xá bắn chết hết mọi người. Nhiều tên có thú cắt tai nạn nhân rồi phơi xâu chuỗi đeo ở cổ như mộc nhĩ khô. Nghe nhiều người kể,nhưng khi xem phim truyện của Holiwood cũng tả nhân vật chính là thằng Commando,sau này về Mỹ nó có thâm thù với sếp bèn giết và cắt tai sếp
  7. vuhoatran

    vuhoatran Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/07/2005
    Bài viết:
    52
    Đã được thích:
    0
    Tại sao con người phải giết nhau nhỉ , vì tiền bạc hay là quyền lực ? . Nuôi nấng , dạy dổ một trẻ nhỏ thành một con người đâu phải điều dể dàng , vậy mà chỉ `bùm` một cai là xong . Tôi rất xúc động khi đọc chủ đề này , với một lòng tôn kính với người đã khuất
  8. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Có một người con gái tuổi 20 (kỳ 6): http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=90069&ChannelID=89
    Giấc mơ Hà Nội

    [​IMG]

    Đại gia đình. Thùy Trâm ở hàng trước, thứ hai từ trái sang. Ba má Thùy Trâm hàng sau, thứ 4 và 5TT - 1.6.68 Một buổi sáng như sáng nay, rừng cây xanh tươi sau một trận mưa rào. Không gian trong lành mà sao lòng mình lại ngập tràn thương nhớ, nhớ miền Bắc vô vàn.
    Nhớ từ những hàng cây bên đường phố, những cây bàng, cây sấu lá xanh bóng sau những cơn mưa và con đường nhựa sạch sẽ vào những buổi sáng. Nhớ một căn phòng đơn sơ nhưng đầm ấm, buổi sáng râm ran tiếng cười nói chen lẫn tiếng phát thanh từ chiếc radio để giữa nhà.
    Nhớ mẹ, nhớ ba, nhớ Phương và tất cả những người thân yêu ngoài ấy. Bao giờ tiếng súng chiến tranh chấm dứt để ta trở về với miền Bắc yêu thương? Liệu còn có được những ngày đoàn tụ ấy không? 
    4.6.68
    Mưa vẫn cứ rơi hoài. Mưa càng thêm buồn thấm thía và mưa lạnh làm cho người ta thèm khát vô cùng một cảnh sum họp của gia đình. Ước gì có cánh bay về căn nhà xinh đẹp ở phố Lò Đúc để cùng ba má và các em ăn một bữa cơm rau muống và nằm trong tấm chăn bông ấm áp ngủ một giấc ngon lành. Đêm qua mơ thấy hòa bình lập lại, mình trở về gặp lại mọi người.
    Ôi, giấc mơ hòa bình độc lập đã cháy bỏng trong lòng cả 30 triệu đồng bào ta từ lâu rồi. Vì nền hòa bình độc lập ấy mà chúng ta đã hi sinh tất cả. Biết bao người đã tình nguyện hiến dâng cả cuộc đời mình vì bốn chữ độc lập, tự do. Cả mình nữa, mình cũng đã hi sinh cuộc sống riêng mình vì sự nghiệp vĩ đại ấy.
    8.10.68
    Nắng đầu thu tươi vàng óng ả tràn ngập cả khu rừng. Nắng đầu thu với những cơn gió se môi và se cả lòng người. Lại nhớ? Nhớ từ một người bạn hiền lành, kín đáo có ngôi nhà nhỏ cuối phố Đội Cấn, nhớ đến đứa em tinh nghịch có mái tóc mềm kẹp bổng lên cao, nhớ một đứa em trai miền Nam vừa gửi thư tạm biệt trước lúc lên đường đi học, nhớ một đứa em thân thiết có đôi mắt long lanh dưới hàng mi dài và nhớ sao một người thân yêu đã vĩnh viễn nằm yên nghỉ trên bờ biển quê hương.
    Đất nước ơi! Bao giờ cho nhớ thương nguôi bớt, bao giờ cho đất nước thanh bình? Mình biết ngày thắng lợi không xa nữa nhưng sao vẫn thấy hạnh phúc xa vời quá. Liệu có được thấy ngày hạnh phúc ấy nữa không?
    21.2.69
    Đọc bài thơ của P.H viết tặng mình từ miền Bắc gửi vào:
    Nơi ấy là khoảng trời anh ởNgày xưa và cả mai sauNơi ấp iu mối tình nhỏ, tổ chim sâuCon chim nhỏ bay rồi?
    Không lẽ nào mối tình không được đáp lại vẫn còn mãi trong anh hở người nghệ sĩ? Với mình, hình ảnh anh bị những hình ảnh khác che khuất lâu rồi nhưng hôm nay đọc bài thơ sao mình thấy nhớ anh. Một mùa hè khi hoa phượng nở đỏ trên đường phố, nắng chói chang qua vòm cây xanh.


    Ngày 6-6-2005
    Kim,
    Neil, người viết bức thư dưới đây, là một nhà làm phim và nhiếp ảnh vốn là bạn thân của gia đình tôi từ lâu. Anh ấy rất thân với Robert và sống ở New Orleans. Anh ấy rất muốn ghi lại cuộc hội ngộ của gia đình chúng ta, tôi sẽ gửi cho Kim xem những thư anh ấy viết...
    Fred
    Ngày 5-6-2005
    Fred thân mến,
    Tất cả những người từng đọc cuốn nhật ký của bác sĩ Trâm đều cảm động theo một phương diện nào đó. Hoặc vì những câu thơ mà chị dùng để tả lại thiên nhiên quanh mình trong màn sương của cuộc chiến hay vì tình thương sâu sắc với người em nuôi, hoặc vì niềm tin chắc chắn vào cuộc đấu tranh mà vì nó chị đã hi sinh. Không một ai đọc xong mà không cảm thấy một điều gì.
    Trong những trang nhật ký của chị chứa đựng biết bao câu chuyện. Là một nhà làm phim, thách thức đối với tôi là phải nhận diện được phần cốt lõi cảm xúc của câu chuyện và làm sao kể lại câu chuyện với sự kính trọng và chân thực nhất sao cho xứng đáng với câu chuyện ấy.
    Vì tôi đã đến Hà Nội năm 1994 và được biết về cuốn nhật ký hơn mười năm, cũng như vì mối quen biết cá nhân với cậu và Rob, tôi cảm thấy mình thật may mắn và vinh dự được tham gia vào bộ phim tư liệu này.
    Sau 25 năm làm việc trong tư cách một nhà làm phim và một nhà nhiếp ảnh, tôi sẽ nói với cậu rằng thường thường câu chuyện mà người ta bắt đầu  sẽ không nhất thiết đúng như câu chuyện người ta sẽ kết thúc. Bản trường ca của cậu với tác phẩm của bác sĩ Trâm chưa kết thúc. Theo nhiều nghĩa nó chỉ mới bắt đầu.
    Cuộc gặp giữa cậu và Rob với bà Trâm (mẹ của bác sĩ Thùy Trâm - ND) cùng với các con gái của bà là Hiền và Kim sẽ là phần rất quan trọng của câu chuyện. Qua cuộc gặp đó có thể chúng ta sẽ nghe được tiếng nói của bác sĩ Trâm và câu chuyện về chị ấy sẽ làm tất cả chúng ta đều hiểu dẫu cho chúng ta có sống ở bên bờ nào của đại dương đi chăng nữa...
    NeilMình đi học về qua căn nhà ba tầng ở 14 phố Lê Trực ngước lên nhìn đã thấy anh đứng đó đợi mình, mái tóc xòa phủ trên đôi mắt buồn. Một chiều khi cơn dông ầm ĩ nổi lên khắp bốn chân trời gió bụi mù mịt, anh vẫn đứng đợi mình ở đầu sân Hàng Đẫy, mình đạp xe qua ngạc nhiên nhận ra anh dưới ánh đèn đêm của thành phố...
    Trong một lá thư cuối cùng viết cho mình, anh nói: ?oThôi em đi đi, rồi em sẽ có một người yêu xứng đáng nhưng anh có thể nói chắc chắn rằng không có một người nào trên đời này yêu em hơn anh được đâu?. Hình như câu nói đó là sự thực, nhưng mình không ân hận bởi vì mình không yêu anh thì làm sao có được một tình yêu đẹp đẽ công bằng?
    18.6.69
    Được thư nhà, những lá thư đượm màu sắc hòa bình. Những con đường đỏ rực hoa phượng và căn phòng nhỏ thơm ngát  hương sen. Chiếc tủ radio quen thuộc giữa nhà. Ôi! Các em của tôi ơi, khung cảnh ấy xa vời quá, chị Thùy của các em chỉ biết có những dòng đạn lửa đỏ rực giữa trời đêm, chỉ biết có mùi thuốc pháo hăng xộc vào mũi, chỉ biết có những buổi chia tay trong lo âu? cho nên cảm thấy buồn buồn khi đọc những trang thư của các em.
    Độ này rất nhiều người đi Bắc, họ ra đi hồ hởi vui tươi, nhưng khi đến chào mình hình như họ không dám biểu lộ niềm vui ấy. Còn mình cười rất tươi tiễn họ lên đường nhưng rồi sau đó một mình mình đứng lặng hồi lâu không biết nói gì. Thùy ơi, đừng buồn Thùy nhé,  hẹn ngày mai khi nước nhà độc lập Thùy cũng sẽ đi về phương Bắc, lúc đó chắc niềm vui sẽ vẹn toàn.
    23.11.69
    Hôm nay là ngày sinh của Phương. Em ơi! Không phải chị nhớ em và ngày sinh của em vì ngọn gió lạnh và mưa phùn từ phương Bắc thổi về gây nên cái lạnh giữa núi rừng này đâu. Bao giờ cũng vậy, giữa hoàn cảnh nào cũng vậy chị cũng vẫn giữ trọn trong lòng những kỷ niệm êm ấm của gia đình ta.
    Nhớ sao những ngày chủ nhật, những ngày kỷ niệm sinh nhật nhà mình đông vui bè bạn đến chúc mừng và những bữa liên hoan đậm đà ấm cúng. Hôm nay cũng ngày chủ nhật, em tôi làm gì để kỷ niệm ngày sinh của chính mình? Chắc chắn rằng em sẽ nhớ đến chị, trong niềm vui em đã để một chút nhớ thương cho người chị nơi xa.
    Em tôi không thể nào tưởng tượng được ngày này chị đã làm gì. Ngày này ư? Sáng ra vác rựa đi làm, buổi trưa xách thuốc trong vai theo hai chú dẫn đường đi thăm bệnh cho một đồng chí cán bộ. Trên đường đi gặp những người bộ đội, chị đã ngập ngừng đứng lại bên người bạn đồng hương mà không biết nói gì.
    Họ đang bẻ măng nứa, nước da xanh tái nói với chị rằng họ đã bị đói và sốt rét lâu ngày. Cuộc kháng chiến vĩ đại này viết bằng xương máu và tuổi xuân của bao người, em có biết thế không em?
    19.5.70
    Được thư mẹ? mẹ của con ơi, mỗi dòng chữ, mỗi lời nói của mẹ thấm nặng yêu thương, như những dòng máu chảy về trái tim khao khát nhớ thương của con. Ôi! Có ai hiểu lòng con ao ước được về sống giữa gia đình, dù chỉ là giây lát đến mức nào không? Con vẫn hiểu điều đó từ lúc bước chân lên chiếc ôtô đưa con vào con đường bom đạn. Nhưng con vẫn ra đi vì lý tưởng.
    Ba năm qua, trên từng chặng đường con bước, trong muôn vàn âm thanh hỗn hợp của chiến trường, bao giờ cũng có một âm thanh dịu dàng tha thiết mà sao có một âm lượng cao hơn tất cả mọi đạn bom sấm sét vang lên trong lòng con.
    Đó là tiếng nói của miền Bắc yêu thương, của mẹ, của ba, của em, của tất cả. Từ hàng lim xào xạc trên đường Đại La, từ tiếng sóng sông Hồng dào dạt vỗ đến cả âm thanh hỗn tạp của cuộc sống thủ đô vẫn vang vọng trong con không một phút nào nguôi cả.
    Biết bao lần trong giấc mơ con trở về với Hà Nội, con trở về giữa vòng tay êm ấm của ba mẹ, trong tiếng cười trong trẻo của các em và trong ánh sáng chan hòa của Hà Nội. Xa nhà ba năm, năm năm hay bao lâu đi chăng nữa chắc rằng cũng không có gì khác trong tình nhớ thương của con.
    Địch càn lên súng nổ rần rần con vẫn cười, bình tĩnh ra công sự. Địch tập kích vào căn cứ, vừa chạy địch có đêm phải ngủ rừng con cũng vẫn cười, nụ cười vẫn nở ngay cả khi tàu rọ và HU-1A quăng rocket xuống ngay trên đầu mình? Vậy mà khi nghĩ đến gia đình, đến những người thân yêu trên cả hai miền, lòng con xao xuyến xót xa và cũng có những lúc những giọt nước mắt thấm mặn yêu thương chảy tràn trên đôi mắt của con.
    Nhật ký ĐẶNG THÙY TRÂM
  9. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0

    Cuốn sách "Nhật ký Đặng Thùy Trâm" đã được Hội Nhà Văn xuất bản tháng 7-2005 (322 trang)

  10. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Có một người con gái tuổi 20 (kỳ 7):http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=90324&ChannelID=89
    Ngày u uất...

    [​IMG]

    Thùy Trâm (bìa phải) cùng các đồng đội tại bệnh xá Đức Phổ. Người con trai là Thuận, được nhắc đến rất nhiều trong nhật ký. Thuận hi sinh năm 1970TT - 4.5.68Mình cắt đứt câu chuyện bằng sự im lặng. Trong bóng tối mình vẫn nhận thấy sự băn khoăn của hai bệnh nhân đang nói chuyện với mình. Hình như họ thấy được cái im lặng nặng nề đẫm nước mắt ấy của mình.
    Họ thương mình một cách chân thành thắm thiết, nhưng họ càng nói mình càng thấy khổ đau. Họ hỏi mình vì sao không đấu tranh cho quyền lợi chính trị, tại sao mình rất xứng đáng là một đảng viên mà chi bộ không kết nạp.
    Vì sao, vì sao và vì sao ư? Ai mà trả lời được hở hai bạn mến thương. Quả tình tôi không thể trả lời được. Cái im lặng nặng nề của tôi cũng nói được với các bạn nhiều về sự bế tắc đó. Nào phải mình không thiết tha, nhưng càng thiết tha chỉ càng thấy khổ đau mà thôi.
    Mấy hôm nay rất buồn, ngày ngày những lá thư, những lời nói, những hành động tỏ lòng thương mến thiết tha vẫn đến với mình. Nhưng chính những tình thương ấy lại là những mồi lửa châm vào một đống củi đã khô từ lâu. Tại sao mọi người thương mến cảm phục mà Đảng lại khắt khe hẹp hòi đối với mình?
    6.5.68
    Rất nhiều chuyện đau đầu hằng ngày vẫn xảy ra quanh mình. Thì đã tự nhủ rằng không thể đòi hỏi ở đâu chỉ có toàn người tốt kia mà, đã khẳng định ?ođời phải qua dông tố nhưng chớ có cúi đầu trước dông tố?, mà thật ra dông tố đến với mình vẫn là những cơn dông của ngày cuối hè, nhẹ nhàng âm ỉ mà thôi.
    Hãy vui lên đi, vui lên với những nụ cười trìu mến của những bệnh nhân đã dành cho mình. Vui lên với những tình thương chân thật mà đa số cán bộ trong huyện, trong tỉnh, trong khu quen biết đã dành cho mình. Vậy là được rồi, Thùy ơi, đừng đòi hỏi nữa. Đảng ư? Rồi Đảng sẽ thấy.
    25.5.68


    Lời kể của đại tá Nguyễn Đức Thắng, thuyền trưởng con tàu không số, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân:
    Tôi muốn nói với các anh về cái bệnh xá huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Các anh hiểu thế nào là một cái bệnh xá huyện trong chiến tranh, ở miền Nam hồi bấy  giờ không?
    Riêng tôi, thật ra đến lúc đó, có dịp trôi dạt vô đó, tôi mới hiểu. Thì ra giữa chiến tranh, một vùng đất quá ác liệt, thì một đơn vị bộ đội, chủ lực hay địa phương, thậm chí có khi cả du kích nữa, rồi các cơ quan chỉ huy, chỉ đạo... có thể tạm thời lánh đi đâu đó, thời gian ngắn hay dài.
    Nhưng một cái bệnh xá huyện thì không thể lánh đi đâu được cả, đơn giản chỉ vì nó là một cái bệnh xá. Nó phải có mặt ở đó bất cứ lúc nào, trụ bám ở đó, vì thương binh, vì những người dân bị thương, cả bị bệnh nữa, bất cứ lúc nào.
    Mà Đức Phổ lúc bấy giờ là một trong những huyện ác liệt nhất ở chiến trường Khu 5. Sư đoàn không vận số 1 Mỹ quần nát ở đó, rồi lữ 196 Mỹ, sư dù 101 Mỹ, có thời gian cả bọn sư 25 Anh Cả Đỏ Mỹ cũng ra đó.
    Rồi Rồng Xanh, Bạch Mã Nam Triều Tiên, rồi sư 2, sư 22, sư 23 ngụy, thủy quân lục chiến, quân dù ngụy chẳng thằng nào thiếu mặt ở đấy. B52 dầm nát một vùng bán sơn địa ngang dọc chỉ vài chục cây số... Mà trên cái vùng đất ghê gớm, suốt hàng chục năm trời vẫn tồn tại, trụ bám một cái bệnh xá huyện nhỏ nhoi, vô danh, gan lì, bất khuất.
    Và người chỉ huy bệnh xá ấy là một cô gái, một cô bác sĩ trẻ người Hà Nội. Năm ấy chị chưa đến 30. Tên chị là Trâm. Rất tiếc tôi rất có lỗi, tôi không hỏi địa chỉ gia đình chị ở Hà Nội, phố nào, số nhà bao nhiêu.
    Nghe nói chị có người yêu vào chiến trường trước mấy năm, đúng chiến trường Quảng Ngãi, cho nên khi tốt nghiệp trường y chị xung phong vào Nam ngay. Không biết vì sao vào chiến trường rồi hai anh chị lại không khăng khít với nhau nữa. Chị có nỗi đau riêng ấy, giấu kín.
    Và chị chỉ huy cái bệnh xá ấy, trụ bám đến gan lì, bền bỉ suốt mấy năm trời trên vùng đất hẹp đã bị đánh nát như băm ấy... cho đến ngày chị hi sinh...
    2g chiều hôm ấy mười mấy anh em thủy thủ xơ xác chúng tôi đến được bệnh xá của chị Trâm. Chị không nói gì nhưng biết chúng tôi là dân đường mòn bí mật biển Đông và coi chúng tôi là những người anh hùng.
    Chị bảo:
    - Các anh phải ở lại đây đã, chưa được đi đâu hết. Phải chữa cho lành các vết thương. Rồi bồi dưỡng cho lại sức để còn leo Trường Sơn.
    Bệnh xá đói, chị Trâm và các nhân viên của chị cũng đói. Nhưng chúng tôi vẫn được nuôi rất chu đáo.
    Chúng tôi ở lại chỗ chị Trâm đúng một tháng rồi bắt liên lạc, theo đường dây dọc Trường Sơn trở ra Bắc...
    (Có một con đường mòn trên biển Đông - Nguyên Ngọc)
    Những ngay u uất của tâm hồn. Có gì đè nặng trên trái tim ta? Đâu phải chỉ có một nỗi buồn của vết thương rỉ máu của con tim đó đâu? Mà còn có những gì nữa kia?
    Những sự thiếu công bằng vẫn còn trong xã hội, vẫn diễn ra hằng ngày; vẫn có những con sâu, con mọt đang gặm dần danh dự của Đảng, những con sâu mọt ấy nếu không bị diệt đi nó sẽ đục khoét dần lòng tin yêu với Đảng. Rất buồn mình chưa được đứng trong hàng ngũ của Đảng để đấu tranh cho đến cùng.
    29.5.68
    Ngày từng ngày vẫn trôi qua nặng nề. Công việc bận rộn làm mình quên đi những chuyện bực bội nhưng rồi nó vẫn lại đâm nhói vào suy nghĩ như những cây gai nhức nhối. Tại sao vậy hở tất cả mọi người? Tại sao khi ta là kẻ đúng, khi ta là số đông mà không đấu tranh được với một số nhỏ, để số người đó gây khó khăn trở ngại cho tập thể?
    Nhiệm vụ của ta là phải đấu tranh cho lẽ phải. Mà đã đấu tranh thì phải bỏ sức lực, phải suy nghĩ và phải hi sinh quyền lợi cá nhân, có khi là cả cuộc đời mình, cho lẽ phải chiến thắng. Vậy đó Thùy ơi! Khi đã giác ngộ quyền lợi giai cấp của Đảng thì suốt đời Thùy sẽ gắn bó với sự nghiệp ấy! Th. sẽ đau xót khi sự nghiệp ấy bị tổn thương, Th. sẽ sướng vui khi sự nghiệp ấy lớn mạnh - Có gì đâu nữa hở Th.?
    15.6.68
    Nhật ký ơi! Đừng trách Th. nghe nếu như Th. cứ ghi vào nhật ký những dòng tâm sự nặng trĩu đau buồn. Tiếng súng chiến thắng đang nổ giòn khắp chiến trường Nam Bắc. Thắng lợi đã đến gần chúng ta rồi... Nhưng trên mảnh đất Đức Phổ này vẫn còn nặng những đau thương, ngày từng ngày máu vẫn rơi, xương vẫn đổ.
    Điều đáng buồn nhất là trong những hi sinh gian khổ ấy, Th. chưa thấy được sự công bằng, sự trung thực. Chưa có một sự đấu tranh để thắng được những cái ti tiện, đớn hèn cứ xảy ra làm sứt mẻ danh dự của hai chữ đảng viên và làm mòn mỏi niềm vui say công tác của mọi người trong bệnh xá.
    Thùy ơi! Th. chịu thua sao, khi mà anh em quần chúng, đảng viên, thanh niên đều ủng hộ Th. mà vẫn không thắng được một vài cá nhân đang hoành hành trong đội ngũ cán bộ của bệnh xá. Cả mùa khô ác liệt không một lúc nào mình thấy bi quan, mình luôn cười trong gian khổ vậy mà bây giờ mình đau khổ quá đi. Kẻ thù phi nghĩa không sợ, mà sợ những nọc độc của kẻ thù còn rớt lại trong đồng chí của mình.
    20.8.68
    Viết đơn vào Đảng, niềm vui thì ít mà bực dọc thì nhiều. Tại sao con đường đi của một đứa tiểu tư sản bao giờ cũng nhiều chông gai đến vậy? Đành rằng vì tính chất giai cấp, nhưng mình vẫn thấy rất rõ một điều ngoài cái lẽ dĩ nhiên ấy. Có một cái gì đó bắt bẻ, gọi là bắt bí của một vài cá nhân có trách nhiệm.
    Chẳng biết nói sao, đời nó là như vậy đó. Dù thành tích anh có cố gắng bao nhiêu cũng không bằng một anh khác ở thành phần cơ bản chỉ vừa mới giác ngộ bước đầu. Hường hồi còn sống thường động viên mình rằng đó là chỗ hơn của một người tiểu tư sản! Hơn gì? Hơn khó khăn, hơn cực nhọc hở Hường?
    Mình như một đứa con không gia đình lâu ngày tìm về mẹ nhưng người mẹ ghẻ còn bận nâng niu những đứa con riêng nên thờ ơ lạnh nhạt với đứa con chồng. Muôn người đã tạo nên một người mẹ hiền vĩ đại là Đảng, nhưng trong muôn người mẹ ấy có một người mẹ (và chắc không phải một người đâu) y hệt một bà mẹ ghẻ trong câu chuyện cổ tích!
    27.9.68
    Kết nạp Đảng.
    Cảm giác rõ nét nhất của ngày hôm nay là: phải phấn đấu để sống xứng đáng với cái tên ?omột người cộng sản?.
    Còn niềm vui, sao nhỏ quá so với ý nghĩa của ngày vui. Vì sao vậy hở Thùy? Phải chăng như hôm nào Thùy đã nói: như một đứa con khát sữa mẹ khóc đã mệt rồi, miếng sữa nuốt vào không còn nguyên hương vị thơm ngon và cái thú vị của nó nữa.
    15.1.70
    Trở lại Đồng Răm. Mình đã tạm biệt nơi đây ngày 28-4-1969 khi mà bệnh xá bị địch tập kích vào. Hôm nay trở lại nhìn những nền nhà sụp đổ, ngổn ngang thân cây cháy lòng mình tràn ngập xót thương.
    Nơi đây đã ấp ủ biết bao nhiêu kỷ niệm vui buồn trong đời cách mạng của mình, nơi đây đã kết nạp mình dưới cờ Đảng sau bao ngày phấn đấu gian khổ.
    Nơi đây đã rèn luyện mình từ một sinh viên mới ra trường trở thành một cán bộ lãnh đạo có nhiều thành tích trong công tác.
    Nơi đây đã nảy sinh tình chị em cao quí thiết tha, mối tình đã nâng mình đi vững bước qua ngàn vạn chông gai trong cuộc đời. Dòng suối này một buổi trưa nào mình đứng chờ em, gốc cây này mình đã ngồi cùng em sau những ngày xa cách... Bao nhiêu kỷ niệm lần lượt hiện ra trong óc mình. Giặc đã cướp của mình hai quyển nhật ký (*), tuy đã mất những trang sổ vô giá đó, nhưng còn một quyển sổ quí hơn cả đó là bộ óc của mình, nó sẽ ghi lại toàn bộ những điều nó đã tiếp thu được trong cuộc sống.
    ---------------
    (*) Như vậy, có thể chị Thùy Trâm có ít nhất là ba cuốn nhật ký? Những gì chúng ta đang đọc là nằm trong hai cuốn chị ghi chép năm 1968, 1969, 1970. Không thấy có năm 1967, năm đầu tiên chị vào chiến trường Quảng Ngãi - ghi chú của Tuổi Trẻ.
    Nhật ký ĐẶNG THÙY TRÂM

Chia sẻ trang này