1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những lá thư, những trang nhật ký, hồi ức thời chiến

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi TLV, 17/04/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Có một người con gái tuổi 20 (kỳ 8): http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=90501&ChannelID=89
    Những trang nhật ký cuối cùng

    [​IMG]

    Đặng Thùy Trâm (phải) cùng các sinh viên Y6 trên bãi cỏ công viên Thống Nhất, Hà Nội năm 1965TT - 12.6.70Có cái gì mong đợi tha thiết trong lòng. Mong gì? Mong những người về bổ sung cho bệnh xá để có thể đảm đương nhiệm vụ nặng nề trong những ngày tới. Mong cuối tháng em về, mong thư những người thân yêu...
    Và niềm mong ước lớn lao nhất là hòa bình, độc lập để mình lại trở về sống trọn trong lòng mẹ. Sao mấy bữa rày trong tâm tư mình nặng trĩu nhớ thương... đêm đêm mình mơ thấy miền Bắc... Ngày ngày mình ước ao mong đợi... Ôi Th. ơi! Đường đi còn lắm gian lao, Th. còn phải bước tiếp chặng đường gian khổ đó. Hãy kiên trì nhẫn nại hơn nữa nghe Th..
    14.6.70
    Chủ nhật, trời sau một cơn mưa quang đãng và dịu mát, cây lá xanh rờn. Trong nhà lọ hoa trên bàn vừa thay buổi sáng, những bông hoa mặt trời xinh đẹp ngả bóng xuống màu gỗ bóng loáng trên chiếc radio đặt giữa nhà. Chiếc đĩa hát đang quay một bản nhạc quen thuộc - Dòng Danube xanh... Có tiếng cười nói bạn bè đến chơi... Ôi, đó chỉ là giấc mơ - một giấc mơ không phải là trong giấc ngủ!
    Sáng nay cũng là chủ nhật, trời cũng sau một cơn mưa. Không gian êm ả, nếu không có tiếng máy bay thô bạo xé nát bầu trời thì không có gì khác đâu ngoài tiếng suối rì rào chảy! Nơi mình ở lại vừa qua một trận bom - chiều hôm kia hai chiếc Moran hai thân quần mãi rồi phóng rocket xuống...
    Nghe rocket nổ mọi người vội lật đật xuống hầm, nghe bom rít trên đầu mình tưởng chúng thả ở quả đồi trước mặt, nhưng sau bốn loạt bom chúng đi, mọi người mới hốt hoảng nhận ra rằng bom nổ cách mình chỉ không đầy 20m. Cả một vùng cây trơ trọi, nilông che trên nhà rách tan nát và bay tơi tả từng mảnh. Từng cây cột bị mảnh bom tiện xơ xác. Đất đá rơi đầy hầm! May mắn là không ai bị thương. Sau trận bom, mọi người nhận định điểm này đã bị lộ, vội lập tức triển khai tìm điểm khác làm nhà để chuyển đi.
    Số lực lượng mạnh khỏe đã đi hết, để lại năm thương binh nặng cố định và bốn chị em nữ. Chiều hôm qua trời mưa như trút nước, bọn mình đem nilông trải kín mặt nền nhà vậy mà nước vẫn đổ xuống giàn giụa. Trong nhà lênh láng nước, đứa nào đứa nấy ướt sũng, luôn tay hứng mưa dột và đổ nước ra ngoài. Mấy thương binh ngồi co ro ướt lướt thướt.
    Nhìn những cảnh đó mình cười mà nước mắt chực trào ra trên mi. Tiếng chị Lãnh hỏi mình: ?oCó ai biết cảnh này cho không?.
    Ai biết? Chắc nhiều người biết nhưng cũng không ai biết cho tường tận. Và mình, mình cũng không biết hết còn bao nhiêu cảnh khổ hơn nữa trong cuộc kháng chiến quyết liệt này. Sinh tử không thể nào mà ghi hết, mà có lẽ cũng không nên nói hết để làm gì. Những lá thư mình viết cũng không bao giờ kể hết với những người thân yêu về tất cả nỗi khổ mình đã trải qua.
    Kể để làm gì cho người thân yêu của mình thêm lo lắng. Thuận em mình đã trải qua bao nhiêu lần cái chết kề bên, bao nhiêu câu chuyện đau buồn đã hằn lên khuôn mặt của em, những nếp nhăn làm em già trước tuổi nhưng bao giờ viết thư cho mình lá thư cũng tràn ngập lo âu cho mình và nhắc nhở mình cảnh giác hơn. ?oCòn em vẫn khỏe thôi!?. Mình đã học tập em tinh thần đó.
    Hôm qua trong cảnh hoang tàn sau trận bom, mọi người gồng gánh ra đi, anh Đạt đăm đăm nhìn mình nửa đùa nửa thật hỏi: ?oCó ai biết cảnh này không nhỉ? Nếu hòa bình lập lại ắt hẳn phải chiếu cố nhiều đến những người đã qua cảnh này?. Mình cảm thấy đau nhói trong lòng, mình làm không phải để được chiếu cố, nhưng có ai hiểu nỗi ước ao cháy bỏng của mình không? Mình trả lời anh Đạt:
    - Ồ, em thì chả cần chiếu cố đâu. Ước mong của em chỉ là hòa bình trở lại để em được về với má em. Có thế thôi!
    16.6.70
    Chúng mình đang sống trong những ngày căng thẳng tột bậc. Bệnh xá đã bị đánh phá, địch tiếp tục uy hiếp dữ dội bằng đủ loại máy bay. Nghe tiếng máy bay quần trên đầu mình thấy thần kinh căng thẳng như một sợi dây đàn lên hết cỡ.
    Không có cách nào giải quyết khác hơn là mình vẫn phải ở lại cùng anh em thương binh. Buồn cười thay đồng chí chính trị viên của bệnh xá từ chối không dám ở lại cùng mình trong tình huống này. Vậy đó, lửa thử vàng gian nan thử sức. Mình cũng đành chịu đựng trong hoàn cảnh này chớ biết nói sao hơn?
    Những ngày này nhớ miền Bắc tha thiết, nhìn trời râm mát mình nhớ những buổi chiều mình cùng các bạn ung dung trên chiếc xe dạo qua vườn ươm cây, những luống hoa pensées rực rỡ như những đàn **** đậu trên mặt đất, những đóa hồng ngào ngạt hương thơm... Mình nhớ cả khóm liễu tường trong vườn thực vật - bông hoa Phương thường hái về cắm trong nhà. Ôi miền Bắc xa xôi, bao giờ ta trở lại?
    17.6.70
    Ngày nay Moran không quần, không khí im lặng, thỉnh thoảng từng đợt những chiếc HU-1A quần sát trên đồi, chắc chắn là có địch ở quanh khu vực này. Chỉ có ba chị em gái ở nhà cùng năm thương binh cố định. Nếu địch sục vào đây chắc không có cách nào khác hơn là bỏ chạy! Vậy được sao? Mọi người đều đã xác định là không có cách nào hơn trong tình huống đó nhưng nỡ nào?... Niên, một cậu bé thương binh, đã nói với bọn mình giọng rất đỗi chân thành: ?oCác chị cứ bình tĩnh, giặc đến cứ chạy đi, bọn em ở đây một mất một còn với chúng!?.
    Niên năm nay 19 tuổi, em công tác ở đội an ninh thị trấn. Đó là một cậu bé rất xinh trai, khuôn mặt đầy đặn, sống mũi cao và đôi mắt to dưới hàng mi rậm. Những lúc đau đớn Niên nhìn mình với đôi mắt long lanh nước mắt. Niên bị thương trong lúc đi công tác, vết thương làm chảy máu thứ phát ở động mạch chằng trước. Mình mới mở buộc động mạch được ba bốn bữa thì bom giội xuống bệnh xá, Niên bị cây gỗ trong hầm đè gãy chân đúng ngay chỗ vết mổ.
    Mười hai ngày qua mình lo lắng chân em sẽ chảy máu lại, nếu vậy sẽ khó bảo tồn nổi. Hôm nay sự nguy hiểm ấy qua rồi, nhưng nếu địch ập đến... em sẽ chết ư Niên? Lòng mình đau như dao cắt, không biết nói thế nào và làm cách nào để bảo vệ những người thương binh bọn mình đã tận tình phục vụ với bao nhiêu gian khổ trong bao nhiêu ngày qua.
    18.6.70
    Chiều đã xuống, ánh nắng đã mờ tắt sau dãy núi xa. Những chiếc phản lực, Moran đã thôi gào rú. Rừng chiều im lặng một cách dễ sợ. Không một tiếng chim kêu, không một tiếng người nói, chỉ có tiếng suối róc rách chảy và chiếc transistor đang phát một bản nhạc. Mình không nghe nhan đề nhưng chỉ biết khúc nhạc êm dịu, mượt mà như cánh đồng lúa xanh êm ả trong sương chiều. Bất giác mình quên đi tất cả, quên cái không khí nặng nề đang đè nặng trên mình suốt mấy ngày nay.
    Từ sáng đến giờ ngoài lúc ăn cơm, ba chị em mỗi đứa ngồi một góc, mắt đăm đăm theo dõi phát hiện địch. Mình không rời vị trí quan sát một phút nào nhưng đầu óc mình lại là những cảnh của ngày đoàn tụ sum họp. Mình sẽ trở về chắt chiu vun xới cho tổ ấm gia đình, mình sẽ biết quí từng phút, từng giây hòa bình ấy bởi vì có sống ở đây mới hiểu hết giá trị của cuộc sống. Ôi! Cuộc sống đổi bằng máu xương, tuổi trẻ của bao nhiêu người. Biết bao nhiêu cuộc đời đã chấm dứt để cho cuộc đời khác được tươi xanh. Miền Bắc ơi có thấu hết lòng miền Nam không nhỉ?
    20.6.70
    Đến hôm nay vẫn không thấy ai qua. Đã gần mười ngày kể từ hôm bị bom lần thứ hai. Mọi người ra đi hẹn sẽ trở về gấp để đón bọn mình ra khỏi khu vực nguy hiểm mà mọi người nghi là gián điệp đã chỉ điểm này. Từ lúc ấy, những người ở lại đếm từng giây, từng phút. Sáu giờ sáng mong cho đến trưa, trưa mong đến chiều... Một ngày, hai ngày... rồi chín ngày đã trôi đi mọi người vẫn không trở lại! Những câu hỏi cứ xoáy trong đầu óc mình và những người ở lại. Vì sao? Lý do vì sao mà không ai trở lại? Có khó khăn gì? Không lẽ nào mọi người lại đành đoạn bỏ bọn mình trong cảnh này sao?
    Không ai trả lời bọn mình cả, mấy chị em hỏi nhau, bực bội, giận hờn rồi lại bật cười, nụ cười qua hai hàng nước mắt long lanh, chực tràn ra trên mi mắt.
    Hôm nay gạo chỉ còn ăn một bữa chiều nữa là hết. Không thể ngồi nhìn thương binh đói được. Mà nếu đi, một người đi thì không đảm bảo. Đường đi trăm nghìn nguy hiểm. Còn nếu đi hai người thì bỏ lại một người, nếu có tình huống gì xảy ra thì sao? Và không nói gì xa xôi, trước mắt trời sẽ ập nước xuống, một mình loay hoay làm sao cho kịp. Chăng nilông trước thì sợ máy bay? Cuối cùng cũng phải hai người đi. Chị Lãnh và Xăng ra đi, mình đứng nhìn hai chị quần xắn tròn trên vế, lặn lội qua dòng suối nước chảy rần rần, tự nhiên nước mắt mình rưng rưng...
    Bất giác mình đọc khẽ câu thơ:
    Bây giờ trời biển mênh môngBác ơi có thấu tấm lòng trẻ thơ...
    Không, mình không còn thơ dại nữa, mình đã lớn, đã dày dạn trong gian khổ nhưng lúc này đây sao mình cảm thấy thèm khát đến vô cùng bàn tay chăm sóc của một người mẹ mà thật ra là một bàn tay của một người thân hay tệ hơn chỉ là một người quen cũng được. Hãy đến với mình, nắm chặt bàn tay mình trong lúc cô đơn, truyền cho mình tình thương, sức mạnh để vượt qua những chặng đường gian khổ trước mắt.
    Đó là những dòng chữ cuối cùng của chị Thùy Trâm. Hai ngày sau, ngày 22-6-1970 chị hi sinh...
  2. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Có một người con gái tuổi 20 (kỳ 9):http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=90694&ChannelID=89
    Chị đã chết như chị đã sống

    [​IMG]

    Đặng Thùy Trâm (trái) cùng bạn gái trong Hội diễn sinh viên Trường Đại học Y khoa năm 1963TT - Nhật ký chấm dứt ở ngày 20-6-1970. Hai ngày sau, ngày 22-6-1970, chị tôi hi sinh. Mãi mấy tháng sau gia đình tôi mới biết tin dữ. Hôm đó là một ngày đầu đông, có mấy người khách đến gặp gia đình.
    Nỗi đau người mẹ
    Mẹ tôi ngã vật xuống giường, lặng đi không nói được câu nào. Nhưng mẹ tôi không khóc. Mẹ tôi là một người phụ nữ ít nói, đầy nghị lực và đầy lý trí. Có lẽ nỗi đau đã kết lại trong tim thành một khối rắn chắc, kể từ đó mẹ tôi càng ít nói và hầu như tôi không thấy mẹ tôi cười.
    Giấy báo tử không nói rõ hoàn cảnh chị tôi hi sinh. Đồng đội cũng mỗi người nói một khác. Người thì kể trên đường về đồng bằng xin tiếp tế cho bệnh xá, chị tôi gặp ổ phục kích của Mỹ, chị báo động cho đồng đội chạy thoát và ở lại yểm trợ rồi hi sinh. Người khác kể bệnh xá bị địch tập kích, chị hi sinh để bảo vệ thương binh.
    Có người lại kể toán công tác của chị có bốn người, hi sinh ba, chỉ còn một người thoát, đó là chị y tá Nguyễn Thị Rô. Cuộc chiến tranh quá khốc liệt, sự hi sinh diễn ra từng ngày, từng giờ, chị tôi hòa lẫn trong muôn ngàn người đã lặng lẽ hi sinh vì Tổ quốc, người ta có thể lẫn lộn trường hợp này với trường hợp khác.
    Có một điều chắc chắn là chị tôi hi sinh trong tư thế đương đầu với giặc. Một vết đạn sâu hoắm, ghim ngay giữa trán chị - điều này khi mẹ và tôi lên vùng núi Ba Tơ để đưa chị về, tôi đã nhìn thấy. Anh Tâm, bí thư Huyện ủy Đức Phổ hiện nay, cho biết anh được nghe kể lại trước khi hi sinh chị còn hô vang: ?oHồ Chí Minh muôn năm. Đả đảo đế quốc Mỹ?.
    Tôi cũng không rõ đó có phải là sự thật, hay chỉ là một huyền thoại mà người dân Đức Phổ yêu thương chị kể lại cho thế hệ sau nghe về một nữ bác sĩ người Hà Nội trẻ trung, xinh đẹp đã chiến đấu và nằm lại trên quê hương họ - trên mảnh đất Đức Phổ mà chị đã coi là quê hương thứ hai của mình.
    Câu chuyện của người cựu chiến binh Mỹ
    Sau bao đêm Fred thức cùng Nguyễn Trung Hiếu để đọc cuốn nhật ký thứ nhất, cuốn nhật ký cùng người viết nên nó đã trở thành điều bí mật riêng của hai người lính. Tháng mười năm ấy, Fred lại có được một thông tin về tác giả cuốn nhật ký. Một đêm, trong khi chờ trận đánh mở màn, Fred ngồi cạnh một người lính Mỹ (*).
    Hai người kể lại cho nhau nghe những trận đánh mà họ đã trải qua. Người lính nọ kể cho Fred nghe một trận đánh lạ lùng mà anh ta đã tham dự. Đó là một trận đánh không cân sức giữa 120 lính Mỹ với một người phụ nữ. Anh ta tả lại người con gái nhỏ nhắn với chiếc túi vải bạt trên người, trong đựng vài quyển sổ nhỏ có vẽ những sơ đồ vết thương và phác đồ điều trị. Fred sững sờ hiểu rằng anh đang được nghe kể về những giây phút cuối cùng của tác giả cuốn nhật ký đã ám ảnh anh mấy tháng nay, liệu đó có phải là sự thật?
    Suốt bao nhiêu năm Fred băn khoăn với ý nghĩ ấy. Sau khi liên lạc được với gia đình tôi, Fred viết cho mẹ tôi bức thư sau:
    20g27, chủ nhật 1-5-2005
    Thưa bà Trâm.
    Tôi mong rằng thư này sẽ không đem đến cho bà nỗi buồn mà chỉ là niềm tự hào của một người mẹ đã sinh ra một người con gái rất đặc biệt. Tôi cần phải nói lại với bà điều mà bao năm qua tôi vẫn tin: đó là trường hợp hi sinh của con gái bà. Tôi đang ngồi chờ một trận đánh cùng một đơn vị lính Mỹ. Ngồi bên cạnh tôi là một người lính và chúng tôi nói với nhau về những trận đánh đã từng tham dự.
    Người lính đó kể cho tôi nghe về một trận chiến đấu lạ lùng giữa đơn vị của anh ta gồm 120 người đàn ông với một người phụ nữ. Đơn vị của anh ta gặp nhiều lều trại trong rừng sâu trên vùng núi phía tây huyện Đức Phổ. Ngay lập tức có một người nổ súng vào họ. Người lính thấy rõ nhiều người đang chạy trong rừng để trốn thoát và muốn bắt họ, vì thế họ kêu gọi người đang bắn hãy đầu hàng, nhưng đáp lại lời kêu gọi đầu hàng là thêm rất nhiều viên đạn bắn vào họ.
    Đây là một người rất anh hùng bởi vì lính Mỹ được trang bị rất nhiều vũ khí vậy mà phải khá lâu mới có thể chặn lại một tay súng duy nhất. Khi thấy bị bắn tiếp, lính Mỹ bèn bắn trả và tay súng kia trúng đạn. Nhưng toán lính Mỹ không bắt được ai khác nữa. Khi đến được nơi người kia nằm toán lính Mỹ nhận thấy người đó đang bảo vệ các bệnh nhân trong một bệnh viện. Trên xác người phụ nữ đó có một khẩu CKC và một cái túi vải bạt đựng vài cuốn sổ và sách vở.
    Trong chiến tranh nhiệm vụ của tôi là kiểm tra tất cả các giấy tờ, tài liệu bắt được của đối phương. Những điều người lính đó kể cho tôi nghe chắc chắn là cái chết của người phụ nữ có cuốn nhật ký tôi nhận được ít lâu sau khi chị hi sinh. Trong thời gian đó không có một tài liệu nào khác giống như người lính mô tả, vì thế tôi tin chắc mình đã được nghe người lính nọ kể về cái chết của tác giả cuốn nhật ký. Đó là cuốn nhật ký thứ hai của bác sĩ Đặng Thùy Trâm.
    Các con gái bà kể rằng một tháng (**) sau ngày cuối cùng ghi trong cuốn nhật ký thứ hai thì Thùy Trâm hi sinh trong một trận đánh. Và nhờ một người bạn dẫn đường chỉ nơi chôn cất gia đình đã mang hài cốt chị từ Quảng Ngãi về vào năm 1979. Có đúng chị nằm trên một dãy núi cao ở miền tây Đức Phổ? Và các bạn của chị có kể lại chị đã hi sinh ra sao không? Suốt 35 năm nay tôi vẫn nghĩ rằng chắc chắn bác sĩ Đặng đã chết đúng như chị sống, hoàn toàn không vị kỷ, hoàn toàn dâng hiến.
    Nếu tôi có xâm phạm vào riêng tư của bà thì cho phép tôi xin lỗi và mong không có điều gì xấu cả. Tôi đã mang điều này trong lòng quá lâu và tôi vẫn đang đi tìm câu trả lời.
    Nhận được thư của Fred, mẹ tôi vội gọi điện hỏi lại anh Lê Văn Khương - người cùng công tác trong bệnh xá Đức Phổ về địa điểm chị tôi hi sinh. Anh cho biết nơi chị tôi ngã xuống chỉ cách bệnh xá có 50m. Hôm đó anh cũng đi công tác, mãi hơn một tháng sau mới về và chỉ được nghe kể lại rằng chị tôi vừa ra khỏi bệnh xá để đi công tác xuống đồng bằng thì phát hiện có địch, chị nổ súng ngay báo hiệu cho các bạn và chiến đấu giữ chân chúng. Mọi người thoát được hết, toán lính Mỹ kia vẫn nằm lại phục thêm ba ngày nữa mới rút lui.
    Chị tôi được đồng bào dân tộc địa phương và đồng đội chôn cất ngay tại nơi chị ngã xuống, trên một đỉnh dốc của sườn núi Ba Tơ.
    Nghe tôi kể lại những chi tiết ấy, Fred viết cho mẹ tôi:
    9g44, thứ hai, 2-5-2005.
    Thưa bà Trâm.
    Và giờ đây thắc mắc của tôi đã được giải đáp. Trận đánh mà người lính nọ tả lại cho tôi đúng là điều đã xảy ra. Con gái bà đã một mình chiến đấu với 120 lính Mỹ để bảo vệ các bạn mình. Ở bất cứ đất nước nào trên thế giới điều đó đều được gọi là ANH HÙNG và những người anh hùng đều được tất cả mọi người tôn kính, dù người đó là đàn ông hay đàn bà. Thế giới phải được biết về sự dũng cảm của con gái bà và mãi mãi học hỏi được điều gì đó từ tình yêu và những suy nghĩ của chị.
    Hôm qua tôi cùng mẹ, vợ và con gái đi ăn tiệm. Em trai tôi và vợ nó cũng đi cùng. Em trai tôi là Michael, thời gian chiến tranh nó rất nóng lòng muốn được sang VN tham chiến. Nhưng cha tôi, một sĩ quan hải quân cao cấp, lại không muốn đưa cả ba con trai sang VN. Lúc đó anh trai tôi và tôi đã ở VN rồi. Vì thế ông đã dùng các thế lực chính trị của mình để Michael không tham gia cuộc chiến.
    Michael rất tức giận vì chuyện ấy. Nó vẫn tiếp tục trở thành một sĩ quan quân đội và mới về hưu năm ngoái với hàm đại tá sau 34 năm phục vụ trong không lực. Hôm qua lúc ở tiệm ăn nó xẵng giọng nói với tôi rằng thoạt tiên nó rất phản đối những việc mà Robert và tôi làm đối với hai cuốn nhật ký của con gái bà. Nó tức giận trước hành động của chúng tôi. Tôi hiểu. Dẫu sao nó cũng chưa từng phải nếm vị mặn của chiến tranh.
    Nó chưa từng biết đến cảm giác nát tim khi nhìn thấy những người lính ngã xuống trên trận địa. Vì thế nó mới tức giận. Nhưng trong bữa ăn với mẹ tôi nó hiểu ra hành động của chúng tôi. Một người mẹ nhất thiết phải được biết về cuộc đời và những suy nghĩ của con gái mình. Vậy là nó chấp nhận.
    Tôi nghĩ thật buồn biết bao vì nó không biết được Thùy Trâm đã dạy chúng ta những gì. Nó không nhìn thấy những gì tôi đã nhìn thấy. Nó và biết bao nhiêu người khác chỉ nhìn thấy vầng hào quang của chiến tranh mà không cảm thấy sai trái đến thế nào khi một dân tộc này đi xâm lược một đất nước khác. Biết bao cuộc đời đã bị hủy hoại. Nhưng nó là một người lính.
    Những lúc không hành nghề luật sư hay khoa học, tôi trở thành một người làm vườn. Những lúc làm việc trong vườn chăm sóc những bông hoa, tôi có thể nghĩ triền miên hàng giờ về những chuyện như thế. Hôm qua những ý nghĩ của tôi tràn đầy về Thùy Trâm. Tôi vẫn thắc mắc. Và hôm nay, một bông hoa đẹp từ Hà Nội đã trả lời bao câu hỏi ngày hôm qua của tôi. Thùy Trâm đúng là người như tôi nghĩ. Chị đã chết đúng như tôi hình dung qua câu chuyện của tôi với người lính nọ bao nhiêu năm về trước. Và giờ đây tôi đã biết. Và bật khóc để biết.
    Người phụ nữ - tay súng duy nhất chiến đấu với 120 lính Mỹ ấy là ai? Là chính chị Thùy Trâm hay là một người con gái nào khác thì cuộc chiến bi tráng ấy vẫn làm xúc động người đọc hôm nay.
    Và dù là ai thì niềm tin của người cựu chiến binh Mỹ vẫn nguyên vẹn thế - chị Thùy Trâm đã chết đúng như chị sống, hoàn toàn dâng hiến...
    Dâng hiến ngay cả khi chị mất đã 35 năm...
    ĐẶNG KIM TRÂM
    ------------------
    (*) Người lính Mỹ này được biên chế ở đại đội B, tiểu đoàn 4, sư đoàn bộ binh số 21 của Mỹ.
    (**) Bao nhiêu năm nay gia đình chị Thùy Trâm vẫn nghĩ chị hi sinh ngày 22-7.
  3. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Có một người con gái tuổi 20 (kỳ 10)http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=90854&ChannelID=89
    Một cây cầu bắc qua dòng sông cay đắng

    [​IMG]

    Robert Whitehurst (thứ nhất, bên phải) và Frederic Whitehurst (đứng giữa, hàng sau) - người lính Mỹ đã gìn giữ cuốn nhật ký suốt hơn 30 năm quaTT - Đây là bức thư Robert Whitehurst (anh trai của Fred) gửi cho bà Doãn Ngọc Trâm (mẹ của chị Thùy Trâm). Thư viết ngày 28-5-2005, lúc 23g47, được mở đầu bằng một dòng chữ ?oGửi người mẹ tuyệt vời?.
    Gửi người mẹ tuyệt vời,
    Sau bức thư rất dài gửi đi không nhận được hồi âm, tôi cứ nghĩ có lẽ mình đã làm bà bực mình, thế nhưng hôm nay bà gửi cho tôi một bức thư và trao cho tôi một nhiệm vụ nặng nề - làm một người sáng suốt. Tôi không dám chắc mình có phải là người sáng suốt hay không nhưng tôi sẽ cố hết sức thành thật nhất.
    Tôi gọi điện cho mẹ tôi, đọc cho mẹ tôi nghe bức thư của bà và dường như cả hai mẹ con tôi đều hòa chung nước mắt với bà, cảm nhận được vị mặn chát của nỗi buồn - nỗi buồn giống nhau ở mọi con người. Tôi xin mẹ tôi cho một lời khuyên và sau đây tôi xin chuyển tới bà những suy nghĩ của mẹ tôi và cũng là của tôi.
    Tôi nghĩ không ai có thể xúc phạm đến Thùy, và không ai từng hiểu Thùy như bà hiểu. Bà là mẹ của Thùy và đã cho Thùy sự sống cũng như cho Thùy những giấc mơ. Mọi người - những ai được đọc nhật ký của Thùy - sẽ không bao giờ lấy đi của bà được điều đó. Không ai có thể tước đoạt của bà những năm tháng vất vả nhưng tuyệt vời nuôi dạy Thùy từ thơ ấu cho đến lúc trưởng thành - không gì có thể làm thay đổi điều đó.
    Những riêng tư của bà - trong đó có Thùy - không bao giờ có thể mất đi. Bà đã nuôi dạy nên một người con gái chân thành và tốt đẹp... và bà cũng rất may mắn khi Thùy còn có ba người em gái khác, tất cả đều rất yêu thương bà. Fred và tôi sống với cuốn nhật ký của Thùy lâu hơn thời gian Thùy được sống, vậy mà chúng tôi vẫn không được ở trong cùng thứ ánh sáng của gia đình bà.
    Bà cần phải biết rằng ở đây nhiều người đã được đọc cuốn nhật ký, không phải chúng tôi muốn làm nó nổi tiếng mà chỉ muốn gìn giữ không để cho nó bị mai một. Trong lịch sử đã có bao điều tuyệt vời được viết ra, được ca ngợi, được xây nên và rồi sau đó mất đi... vì chiến tranh, vì thời gian, vì những sự vô tình. Sự vô tình đối với những điều Thùy cống hiến cho cuộc đời - không phải chỉ cho chúng tôi hay cho gia đình bà... Fred sợ rằng số phận cuốn nhật ký của Thùy cũng sẽ như vậy.
    Khi rời Hà Nội để dấn thân vào những trận chiến ác liệt ở miền Nam, Thùy chưa biết chiến tranh là thế nào. Hơn ba năm ở Đức Phổ, những điều Thùy viết ra đã thay đổi và chị đã trưởng thành. Chị đã học được những bài học củng cố thêm lòng quyết tâm mà gia đình đã nuôi dạy nên cho chị. Chị đã học được những điều mà tất cả chúng ta đều cần phải học. Chúng tôi, những kẻ sống bên ngoài vầng ánh sáng gia đình ấy, sẽ không bao giờ tước đoạt đi được những lời chị thường viết gửi đến bà, đến gia đình.
    Nhưng tất cả chúng tôi đều cần học những bài học kia - những bài học về danh dự, những bài học về tinh thần trách nhiệm và chăm sóc người khác, bài học về tận tụy với sự nghiệp và những bài học mà chính chị là một tấm gương về tình yêu kiên định, về cái đẹp và lòng nhân ái. Tôi biết Thùy không định viết cho cả thế giới rộng lớn này đọc, nhưng có lẽ chính vì thế mà những niềm tin sâu thẳm trong chị được nói ra rất tự nhiên, và tôi đã thấy chị có đủ dũng cảm để theo đuổi niềm tin ấy trong trận thử thách cuối cùng.
    Cả Fred và tôi đều rất sung sướng vì bà còn sống với gia đình để được nhận những lời con gái bà gửi lại, nhưng cả hai chúng tôi đều nghĩ rằng giá như cách nào đó chị còn sống cho đến ngày giải phóng thì chúng tôi sẽ thấy hạnh phúc hơn nhiều. Cho đến lúc này tôi là người đã đọc đi đọc lại cuốn nhật ký nhiều hơn ai hết. Trước đây tôi đã viết và bây giờ tôi xin nhắc lại rằng tôi không hề đọc thấy điều gì có thể khiến Thùy hoặc bà thấy khó xử. Những lời chị giải bày về tình yêu cũng như lời gọi tha thiết hướng tới gia đình sẽ khiến bà xúc động hơn cả, nhưng bất cứ ai được đọc những lời đó đều cảm thấy xúc động...
    Tôi đã gặp Steve Maxner ở Texas và từ đó đến giờ thường trao đổi với anh ta. Đọc thư bà tôi nhận thấy có sự khác biệt về văn hóa và những gì bà thấy có vẻ huênh hoang thì với chúng tôi chỉ là một cách anh ta muốn bày tỏ rằng mình nhận trách nhiệm này một cách nghiêm túc thế nào. Tất cả những kế hoạch, những lời hứa về việc bảo quản đó ở bên này là rất cần thiết và chúng tôi, những người lớn lên ở đất nước này, muốn được nghe thấy.
    Tôi nghĩ rằng rồi bà sẽ quyết định cộng tác với anh ta và dần dần anh ta sẽ trở nên dễ chịu hơn đối với bà... Tôi tin chắc anh ta sẽ đáp lại sự dịu hiền của bà, và tôi tin rằng nếu như đối với bà mọi việc diễn ra quá nhanh thì bà cần phải làm anh ta điềm tĩnh lại. Người Mỹ chúng tôi là thế đấy, bà cần phải tha thứ cho chúng tôi.
    Bà chưa gặp Fred, khi nào gặp Fred bà sẽ bắt đầu biết rằng chúng tôi đã thực hiện việc này như thế nào. Nhưng đôi lúc nhịp sống quá nhanh khiến chúng tôi bỏ qua không nhìn thấy tình yêu của một người mẹ. Bà cần nhắc nhở chúng tôi. Chúng tôi muốn biết vì sao Thùy có thể kiên định đến thế, vì sao chị lại có thể trở thành dũng cảm đến thế, bao nhiêu năm rồi chúng tôi chưa được hỏi bà những câu hỏi ấy. Đó là những bài học cho tất cả chúng tôi.
    Có phải Thùy học được những điều đó từ gia đình không? Hay chị học được một số điều từ các bạn cùng lớp, từ thầy giáo, hay từ xã hội? Có phải mặc dù rất bận rộn để học trường y chị ấy còn học cả chính trị, và có thật chị ấy đã tốt nghiệp về chính trị cũng như đã tốt nghiệp y khoa? Chị ấy lấy đâu ra khả năng cảm thụ về cái đẹp?
    Trả lời chúng tôi những câu hỏi đó không hề tước đoạt đi tình mẹ của bà, nhưng có thể chúng sẽ làm cho những lời chị viết trở nên sâu sắc hơn. Tôi muốn hỏi bà tất cả những câu đó và nếu như câu hỏi có vẻ quá ngạo mạn thì xin bà hãy nhắc nhở tôi và buộc tôi phải kiên nhẫn hơn.
    Giờ đây mẹ tôi nói rằng vì chúng tôi mà bà bị cuốn nhật ký của Thùy làm cảm động. Bà đọc chúng lần đầu cách đây gần 30 năm và trong suốt mấy chục năm nay bà cũng tham gia vào câu chuyện của Fred và tôi về cuốn nhật ký. Mẹ tôi đòi tôi nói với bà rằng đối với mẹ tôi cũng như đối với rất nhiều bạn bè của mẹ tôi - những người từng được đọc vài phần của cuốn nhật ký đó, những lời Thùy viết là một cây cầu, một con đường bắc qua dòng sông chất chứa những vô tình, những cay đắng, những lòng tin lầm lạc đã chia cắt hai đất nước chúng ta quá lâu.
    Các bạn của mẹ tôi đã nhận ra rằng bà cũng không khác họ nhiều, và họ cũng sẽ vô cùng tự hào nếu có được một người con gái như con gái bà. Mẹ tôi nói rằng cây cầu quan trọng chính vì điều đó. Cây cầu đó cũng có nghĩa là mẹ Trâm ơi, bà cần phải suy nghĩ thật nhiều về việc xuất bản cuốn nhật ký.
    Mẹ tôi bảo tôi nói với bà rằng cuốn nhật ký của Thùy là một phương thuốc để chữa lành nỗi đau và sự chia cắt, và việc xuất bản cuốn nhật ký cũng là một cách để nối tiếp sự nghiệp của cuộc đời Thùy... sự nghiệp làm dịu những vết thương và đau đớn. Tôi nghĩ mình đồng ý với ý kiến của mẹ tôi, và tôi hi vọng bà cũng sẽ nhìn thấy điều đó. Mẹ tôi gửi đến bà lòng thương mến, một người mẹ của một gia đình thương yêu nhau.
    Tôi sẽ kể cho bà nghe chuyện cụ tôi xưa kia là một nông dân và là một giáo sĩ trong cái thị trấn nhỏ bé. Khi cuộc nội chiến ở nước chúng tôi vào những năm 1860 sắp nổ ra thì cụ rất ủng hộ Abraham Lincoln và cụ cũng không sử dụng các nô lệ da đen trong nông trang. Cụ đã hứa rằng nếu chiến tranh nổ ra thì cụ sẽ rời khỏi miền nam. Nhưng rồi trận địa tiến đến quá nhanh và hầu hết chín người con trai của cụ đều lần lượt ra trận chiến đấu bảo vệ miền nam.
    Bốn trong số chín người con của cụ ngã xuống, và theo như những câu chuyện tôi được nghe kể lại thì trước lúc nhận được tin báo tử từng người cụ đều đã biết trước rồi. Chiến tranh chưa kết thúc cụ đã tự kết liễu đời mình trong nỗi tuyệt vọng vì đã mất bốn người con cho một mục đích mà cụ không ủng hộ. Tôi rất muốn mình có thể đọc được những gì cụ viết ra, để biết được những suy nghĩ cũng như biết được niềm tin của cụ.
    Đó là một sự mất mát. Giờ đây, vào những năm này Thùy vẫn còn sống trong tim mẹ, sau này sẽ là trong tim các cháu trai, cháu gái, rồi đến chắt trai, chắt gái, một ngày nào đó chị sẽ trở thành một bà tổ cô đối với vô số thế hệ, nhiều người trong số con cháu đó có thể sẽ không phải người VN. Mẹ Trâm ạ, tất cả chúng ta cần được biết những lời chị viết. Giống như chị viết trong bài thơ đề ngày 7-1-1970 ?otình thương đã chắp cánh dài cho ta?...
    Ước gì tôi được ngồi cạnh bà, và khóc, và nói về tất cả những điều này. Bà sẽ nhìn Fred và tôi, biết được nét mặt chúng tôi khi nói đến những chuyện này. Tôi định tháng tám này sẽ cùng Fred sang Hà Nội và có lẽ lúc đó bà sẽ có thể đánh giá được Rob có sáng suốt hay không, hay chỉ là một kẻ lắm lời. Tôi kính trọng nỗi e sợ của bà và nhìn thấy ở đó những năm tháng đằng đẵng bà ôm ấp tình yêu đối với Thùy. Tôi mong bà sẽ cho phép chúng tôi được hiểu và được kính trọng chị, và khi đó trái tim bà sẽ được bình yên.
    Người cựu chiến binh Mỹ đã đặt ra rất nhiều câu hỏi xung quanh cuộc đời một người con gái VN - người con gái ở bên kia chiến tuyến nhưng hơn 30 năm nay chẳng còn xa lạ trong chính gia đình ông.
    Điều gì đã làm nên sức mạnh nơi cô gái dịu dàng đa cảm ấy? Đó cũng là câu hỏi mà nhà văn Nguyên Ngọc đi tìm câu trả lời. Và ông có một đề xuất...
    ROBERT WHITEHURST
  4. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Có một người con gái tuổi 20 (kỳ 11):  http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=91024&ChannelID=89
    Ngọn lửa Thùy Trâm

    [​IMG]


    Thùy Trâm chụp cùng các bạn lớp 10C Trường Chu Văn An, Hà NộiTT - Đã có những ngẫu nhiên may mắn hội tụ lại, để có được ngày hôm nay, khi hai cuốn sổ tay của cô bác sĩ trong rừng sâu nọ, như trong một truyện thần thoại đẹp đẽ, một truyện cổ tích khó tin, lại trở về được với gia đình cô, với mẹ cô năm nay đã tròn 80, với các em gái cô, bạn bè cô và với tất cả chúng ta, những người, tôi dám nói thế này mà không sợ sai đâu, những người đã may mắn được sống cùng thời với cô, là đồng bào, đồng đội của cô. 
    Một ?obí mật? kỳ lạ của cuộc chiến tranh
    Đã có nhiều ngẫu nhiên may mắn đến một lúc nào đó hội tụ lại, đúng vậy, nhưng khi đã nói ?ohội tụ? thì tất phải có một lực trung tâm, và lực trung tâm đó đủ xung lượng để cho những nhân tố phân tán đến thế, không chỉ trong không gian - hơn nửa vòng trái đất, trong thời gian - gần nửa thế kỷ.
    Và đáng sợ hơn nữa, phân tán giữa hai trận tuyến từng đối địch sinh tử theo tất cả các nghĩa của từ sinh tử... bỗng quây quần lại, thành một chùm tinh tú, và chùm tinh tú ấy, khiêm nhường thôi, như cô gái ấy suốt đời đã sống rất khiêm nhường, lại có sức soi sáng, tôi không sợ nói ngoa đâu, ở tầm nhân loại. (Anne Frank và cuốn nhật ký nổi tiếng của cô không phải là đã có tầm nhân loại đó sao?).
    Xung lực trung tâm đó, như bây giờ chúng ta đã biết, có tên là Thùy Trâm, hay như những người thân thường gọi, ngắn gọn, đơn giản, mà thật đằm thắm: Thùy. Chính vì vậy mà ta bỗng muốn biết, muốn tìm hiểu về cô gái ấy, thời của cô, xã hội và dân tộc của cô trong thời ấy đã tạo nên cô, về cô và thế hệ cô - bởi vì một người bạn của tôi, một người bạn gái rất thân của tôi, cùng lớp tuổi với Thùy Trâm, mới hôm qua đây khi cuốn sách của Thùy Trâm vừa ra mắt đã nói với tôi: ?oThật ra cũng chẳng có gì ghê gớm lắm đâu. Ngay như em đây, trong hoàn cảnh đó chắc chắn em cũng sẽ sống đúng như vậy, hành động đúng như vậy?. Và tôi tin chị.
    Vâng, Thùy Trâm là một cá nhân và một thế hệ, một thế hệ mà đất nước chúng ta đã có được một thời.
    Anh thượng sĩ quân đội Sài Gòn Nguyễn Trung Hiếu đã nói đến lửa trong cuốn sổ nhỏ người lính Mỹ cầm trên tay ngày ấy. Người mẹ Mỹ của Fred cũng nói đến lửa. Lửa nào vậy? Tôi không nghĩ nhiều đến lửa của ý chí chiến đấu và của lòng căm thù nhiều khi sục sôi mà Thùy Trâm đã thể hiện trong những trang viết của mình, nhất là khi chị tận mắt chứng kiến những hi sinh đau đớn của đồng đội, đồng bào. Một ngọn lửa như vậy có thể khiến anh Hiếu ngày ấy phải suy nghĩ, nhưng có lẽ nó chưa đủ làm anh rung động và cảm phục.
    Tôi tin rằng chính sức sống tràn trề của cô gái trẻ Hà Nội ngay giữa chiến tranh, một cuộc chiến tàn khốc vô cùng, nhiều khi bi thảm vô cùng, và đầy ứ hận thù, vậy mà sức sống ấy bất chấp tất cả vẫn tươi rói, làm sáng bừng những trang viết của cô, mới khiến người thanh niên miền Nam chắc chắn là có học và rất có văn hóa ấy xúc động đến có thể bày tỏ lòng kính trọng, một lòng kính trọng cũng phải là dũng cảm lắm đối với một kẻ thù.
    Ở Thùy Trâm toát lên một sức mạnh rất lớn, nhưng tôi đặc biệt muốn nói đến điều này: sức mạnh ấy sở dĩ có được, và có được đến mức sâu sắc và khi cần thì quyết liệt đến vậy, chính là vì cô là một cô gái... rất mềm yếu, rất ?ođa sầu đa cảm?, một cô gái quá ư ?otiểu tư sản? như nhiều lần cô tự trách mình. Có một biện chứng rất lạ và rất kỳ diệu ở đây: một người nữ anh hùng hầu như đêm khuya nào cũng ngồi buồn một mình và... khóc.
    Trong nhật ký của Thùy Trâm, hầu như không có trang nào chị không viết về nỗi buồn. Rất kỳ lạ: niềm lạc quan chiến đấu và niềm tin vững vàng kiên định vào chiến thắng tràn đầy trong cuốn nhật ký của Thùy Trâm lại toát lên từ chính những dòng thấm đẫm sự đa cảm đa sầu đó. Thùy Trâm đã cho chúng ta biết được một ?obí mật? to lớn và kỳ lạ của cuộc chiến tranh vừa qua: trong cuộc chiến tranh vô cùng dữ dội đó, chúng ta đã thắng chính là vì chúng ta, cũng như chị, là những con người rất đa cảm. Những con người rất người...
    Những góc đẹp tuyệt vời và lời cảnh báo...
    Hồi chiến tranh tôi không được trực tiếp gặp Thùy Trâm lần nào. Tôi được phân công chuyên trách một chiến trường khác: Quảng Đà, còn chị thì lại ở Quảng Ngãi. Nhưng tôi có nhiều lần được nghe nói đến chị. Tôi biết chị là người Hà Nội và vào chiến trường được phân công về phụ trách bệnh xá huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi.
    Tôi vẫn thầm cảm phục đặc biệt những bác sĩ phụ trách bệnh xá huyện trong chiến tranh, vì tôi từng biết tất cả khó khăn hết sức đặc biệt mà một bệnh xá huyện phải gánh chịu. Ác liệt đến mấy nó cũng phải đứng, bám chặt ở đó thôi, tuyệt đối không được dời tránh đi đâu hết, đơn giản vì nó là một bệnh xá, nó phải ở đó, chết sống cũng phải bám chặt ở đó để mà bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng cứu chữa thương binh, bệnh binh, cả đồng bào bị thương, bị bệnh.
    Và người phụ trách một bệnh xá như vậy từng ngày phải giải quyết không biết bao nhiêu công việc, đều là những việc sống còn: cứu chữa thương bệnh binh, chống càn, chống bom đạn cho thương binh và cho chính nhân viên của mình, lo đi lĩnh và đi tìm, đi mua cho đủ thuốc men, lo chạy cho đủ lương thực nuôi thương bệnh binh và tự nuôi sống mình, tỉ lệ người hi sinh trong khi làm công việc tiếp tế lương thực thường lớn hơn cả người hi sinh trong chiến đấu bảo vệ bệnh xá, lo di chuyển bệnh xá mỗi khi có dấu hiệu không an toàn, có khi một tháng mấy lần dời, mỗi lần dời lại phải làm nhà, làm phòng mổ, đào hầm cho thương binh, một loại hầm đặc biệt có thể đưa được cả cáng thương xuống, có khi cả hầm bí mật phòng tình huống cuối cùng...
    Tất cả, tất cả những công việc nặng nề và phức tạp ấy đổ xuống hết trên đôi vai một cô gái mới hôm qua còn là một cô tiểu thư Hà Nội nhỏ nhắn. Ngày ấy, tôi biết ở Đức Phổ, một trong những huyện ác liệt nhất của chiến trường Khu 5, có một cô bác sĩ như vậy, và chưa từng gặp mà vẫn thầm nuôi một lòng kính trọng sâu xa. Tôi còn biết Thùy Trâm vì một điều khác nữa: tôi biết chị yêu tha thiết một người con trai bấy giờ cũng đang chiến đấu ở chiến trường Quảng Ngãi, và chị đi vào chiến trường cũng có phần vì mong ước tha thiết gặp lại anh ấy, được cạnh nhau chiến đấu trên cùng một trận tuyến.
    Anh ấy cũng là bạn tôi, và tôi cũng phải nói rõ điều này: anh ấy là một cán bộ quân sự có tài và hết sức dũng cảm. Không hiểu vì sao mà rồi tình yêu giữa họ lại có trắc trở. Trong suốt những trang nhật ký của mình, mối tình tan vỡ ấy khiến cô bác sĩ anh hùng của chúng ta rất đau đớn. Cô dằn vặt, cô giận dỗi, và rồi cô vẫn yêu thương, tha thiết nhớ nhung và yêu thương, khi thì cô bảo đã phai nhạt rồi, quên phứt đi cho rồi, khi thì cô lại bảo vẫn nồng nàn quá không sao dứt bỏ hẳn đi được...
    Rất đằm thắm, rất yếu mềm, cô gái ấy cũng rất mạnh mẽ trong ứng xử, trong công tác, trước máu lửa và cả trong tình yêu. Cô yêu như lửa cháy. Cô không bao giờ chịu chấp nhận một tình yêu ?ovừa phải?, ?ochừng mực?. Hai người đều là những người anh hùng, hai người đều là những con người tốt tuyệt vời, nhưng cuộc đời là vậy đó, không phải cứ có hai người thật tốt thì nhất định sẽ có một tình yêu hạnh phúc...
    Tôi nghĩ cuốn nhật ký nhỏ của Thùy Trâm có lẽ còn quí và còn có sức hấp dẫn lớn đối với chúng ta ở khía cạnh đó nữa: nó rất đời, nó nói về tất cả với một sự chân thật đến thắt lòng, về những đau khổ không đâu của một người con gái rất anh hùng mà cũng rất đỗi bình thường, rất con người, một con người có đòi hỏi rất cao về đạo đức, về tình yêu, rất đỗi nhân hậu, rất rộng lòng, mà cũng đầy tự ái, rất dễ bị tổn thương. Rất có thể chính điều này khiến những con người ở tận bên kia trái đất, một người mẹ Mỹ chưa từng đặt chân đến VN, thậm chí có thể chưa từng trực tiếp gặp mặt một người Việt, sửng sốt: họ sửng sốt vì cái chất người quá người ở một nữ *********!
    Con người của chúng ta ngày ấy, những người con trai con gái của chúng ta ngày ấy, là như vậy đấy. Ngọn lửa chiến tranh vừa thiêu đốt quê hương ta, vừa chiếu rạng những góc đẹp sâu kín và phong phú đến không ngờ ẩn tàng trong con người chúng ta. Những góc đẹp tuyệt vời, mà rất có thể trong chen chúc ngày nay, ta đã để cho bị vùi lấp mất rồi. Cuốn nhật ký nhỏ nhoi của một cô gái nhỏ nhoi này còn nói, còn nhắc chúng ta hôm nay một điều nghiêm khắc ấy nữa. Thậm chí, chừng nào đó, một lời cảnh báo.
    Một con đường mang tên Thùy Trâm
    Một trong những đặc điểm khiến ta có thể nhận ra một người trí thức theo nghĩa đúng nhất, đẹp nhất của khái niệm này, là con người ấy vừa sống vừa luôn biết tự quan sát mình, quan sát sự sống, cách sống của mình, luôn tự thẩm định mình, luôn tự đặt ra cho mình những câu hỏi về tư cách sống của chính mình. Sống một cách hết sức có ý thức, một cách thật sự tự giác. Thùy Trâm là một con người như vậy. Miền Bắc ngày ấy đã đào tạo ra được cho dân tộc một thế hệ trí thức như vậy đấy. Và gửi họ cho miền Nam đang chiến đấu. Thùy Trâm xứng đáng tiêu biểu cho một thế hệ trí thức rất đẹp, thật sự trí thức mà miền Bắc đã cống hiến cho cuộc chiến đấu của dân tộc.
    Riêng tôi, tôi có một ao ước, cũng có thể là một đề nghị: tại sao thành phố Hà Nội của chúng ta, thành phố đã sinh ra được một người nữ anh hùng tiêu biểu cho một thế hệ anh hùng một thời không thể quên, đến một lúc nào đó lại không thể có một con đường mang cái tên đằm thắm của người con gái ấy: Thùy Trâm. Hà Nội sẽ đẹp thêm lên nhiều lắm, tôi tin vậy, khi có một con đường mang tên người nữ anh hùng ấy của đất nước và cũng là của riêng mình. Một Hà Nội thật sự có văn hóa và thật sự văn minh.
    Nhật ký Đặng Thùy Trâm chỉ là một phần của cuộc đời chị sôi động và chan chứa yêu thương. Nhưng còn nhiều điều chị chưa nói hết, đặc biệt là những tháng ngày chị vừa đặt chân vào Quảng Ngãi mùa khô 1967.
    NGUYÊN NGỌC
  5. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Có một người con gái tuổi 20 (kỳ 12):   http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=91221&ChannelID=89
    Điều chưa ghi trong nhật ký

    [​IMG]

    Những đứa trẻ Đức Phổ - Ảnh do Frederic Whitehurst cung cấp
    TT - Về Quảng Ngãi, chúng tôi tìm đến những vùng đất mang tên Qui Thiện, Nga Mân, Bàn Thạch, Xuân Thành, Phổ Hiệp, Phổ Cường...
    Ngày đầu trên đất Đức Phổ
    Đó là những thôn, những xã của huyện Đức Phổ, những nơi mà bác sĩ Đặng Thùy Trâm đã sống, chiến đấu, đã cho và nhận, đã dạy và học được những bài học hay nhất, đẹp nhất, lãng mạn nhất về sự sống, cái chết, tình yêu của thời chiến tranh giữ nước.
    Chúng tôi cũng đã gặp được nhiều người trong số những người mà trong nhật ký chị đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần với những lời yêu thương, quí trọng. Đó là những con người đã cùng chị nằm hầm, núp bụi, cùng chị đội đạn, đội bom, đứng ở ngay lằn ranh chết và sống, cùng chị sẻ chia một miếng ăn, một mảnh vải, một nỗi buồn, một niềm vui...
    Đọc lại nhật ký của chị: nhật ký được bắt đầu từ ngày 8-4-1968, như vậy là đã trên dưới một năm sau ngày chị đặt chân đến đất Đức Phổ. Ngày đầu tiên chị đến, anh Nguyễn Thanh Tâm - hiện là phó bí thư Huyện ủy Đức Phổ, hồi ấy là y sĩ, cán bộ phong trào của trạm xá huyện Đức Phổ - vẫn còn nhớ. ?oNhớ mà - anh khẳng định - mùa khô năm 1967, tôi được anh Đạt phụ trách trạm xá phân công vào trạm tiếp nhận ở Núi Lớn, Phổ Phong đón chị...?.
    Không chỉ nhớ địa danh, thời điểm mà anh còn nhớ cả hình ảnh, lời nói của chị trong lần gặp gỡ đầu tiên ấy: ?oNói thiệt, hồi đó ác liệt quá, thấy chị tôi đâm lo. Lo là trông chị mảnh khảnh quá, trắng trẻo như cục bột thế kia liệu có chịu nổi chiến trường này không...?. Thoáng chốc sau phút gặp nhau, chị em thân gần, anh hỏi: ?oSợ không chị??. Chị nói: ?oKhông. Các anh chị bám trụ được, tôi bám trụ được. Các anh chị chiến đấu, tôi chiến đấu...?.
    Nghe chị nói cứng cỏi thế nhưng trong lòng anh vẫn không tin, vẫn cứ lo. Nhưng nỗi lo đó chẳng bao lâu đã tan biến ngay và tức khắc thay vào là sự kính nể hết mực. Điều này không chỉ diễn ra riêng trong lòng anh mà dường như với tất cả anh chị em trong trạm xá... Từ Núi Lớn anh đưa chị vào đèo Ải, Phổ Cường để về trạm xá. Trạm xá bấy giờ có bí danh là Bác Mười, nằm ở núi Cây Muối, huyện Ba Tơ, giáp ranh với Bình Định.
    Khi đến đèo Ải thì nghe tiếng pháo, tiếng bom ì ầm, máy bay quần lượn, nhả đạn inh ỏi phía núi Cây Muối, anh Tâm nhận định: ?oChúng đánh trạm xá rồi?. Chị hỏi: ?oThương binh có nhiều không??. ?oTrên 100 người?. Hình như nghe đến con số ấy chị đâm ra bồn chồn: ?oThế là không ổn rồi. Phải về bệnh xá nhanh thôi...?. Người con gái của Hà Nội vừa vượt Trường Sơn vào Nam, đến trạm xá là đã nhập vào, hòa vào như mọi người, mặt thì nước mắt đầm đìa, tay thì nhanh nhảu hết băng bó người này lại khiêng bế người kia, ngã xuống thì đứng dậy...
    Khi tình hình ổn định, nhiều người mới nhớ ra có một cô bác sĩ người Hà Nội mới về, tìm xem mặt, nhưng có thấy ?oHà Nội? gì đâu, chỉ thấy một cô gái tóc tai, mặt mũi, áo quần dính đầy bùn đất, khói đen và máu. Đó là bác sĩ Đặng Thùy Trâm. Chị Xâng (hiện đã 75 tuổi, ở thị xã Quảng Ngãi), chị nuôi của bệnh xá Bác Mười, không cầm lòng được, đã đến ôm cô bác sĩ ?oem ơi!...?.
    Giành được thương binh từ tay lính Mỹ

    [​IMG]


    Một xóm ấp đầy không khí thời chiến ở Đức Phổ - Ảnh: Frederic Whitehurst
    Sau trận ấy, trạm xá phải phân tán, đưa thương binh đi các nơi. Người của trạm xá chia ra, một tổ lo xây dựng trạm xá mới, hai tổ về cơ sở vận động y tế, cứu chữa thương binh ngay tại địa phương.
    Chị Trâm cùng tổ với anh Tâm về xã Phổ Hiệp (nay thuộc xã Phổ Khánh), nơi mà sau một thời gian sống, khi chia tay ra đi, chị đã gửi tặng những đứa em trong xã một bài thơ (38 năm qua những đứa em của chị vẫn nhớ và chép lại cho chúng tôi): ?oChị về Phổ Hiệp quê em / Biển xanh sóng biếc, cát mềm dưới chân / Mặn mà biết mấy tình dân / Lời ai nói đó, ân cần thiết tha...?.
    Phổ Hiệp là một vùng đất kỳ lạ. Nó nằm bên phải quốc lộ (từ Nam ra Bắc), kéo dài ra biển. Nằm chắn trên Phổ Hiệp là ngọn núi Dâu. Nằm chắn trên đỉnh núi Dâu là một căn cứ của Mỹ và một đồn lính quân đội Sài Gòn. Dàn pháo trên hai căn cứ này rất bề thế, khống chế cả bắc Bình Định và nam Quảng Ngãi. Ấy thế nhưng ngay dưới chân núi, ngay trong làng, không biết bao nhiêu là hầm.
    Dân cứ cưa nhà làm hầm, hầm cho cán bộ, hầm cho thương binh Phổ Hiệp có trên 5.000 dân thì 4.700 người ?omột bước không đi, một li không rời?, quyết bám đất, bám làng đấu tranh, nuôi cán bộ, làm đường dây thông với các cơ sở ở các nơi. Nhà phần thì cưa làm hầm, phần bị pháo dập, bom thả, phần thì bị địch càn vào đốt, rốt lại cả xã hồi ấy chẳng còn cái nhà nào ra nhà. Dân cứ đào xuống đất một cái hố to rồi chống cây lợp vài tấm lá, tấm tôn để ở, gọi là ở hầm pháo.
    Chị Trâm về, ban đầu không được ở hầm pháo, phải ở hầm. Anh Nguyễn Tiến Thu, bấy giờ là bí thư xã Phổ Hiệp (hiện đã nghỉ hưu, trước khi nghỉ hưu anh là phó trưởng Ban dân vận tỉnh Quảng Ngãi), tiếp nhận chị. Tính ra đến giờ đã 38 năm, nhưng kể chuyện cũ với chúng tôi, chuyện chị Trâm, lúc thì anh cười khà khà, lúc thì anh khựng lại, mắt rưng rưng, anh quay mặt không nhìn chúng tôi.
    ?oTôi vẫn còn nhớ cái giọng của cổ mà - anh nói - Tôi hỏi cổ tính sao đây, cổ nói nhờ anh, anh sắp xếp thế nào em nghe thế ấy ạ!?. Anh Thu kể: ?oNhững ngày đầu anh băn khoăn mãi: lo cho cổ sao đây? Hợp pháp, nghĩa là sống ở hầm pháo với dân, giống như dân, đi lại, làm lụng bình thường thì không được vì cổ mỏng mảnh quá, trắng từ gót chân tới trán, ai cũng nhận ra không phải là dân quê. Không qua mắt được địch, lộ quá. Còn bất hợp pháp, ở hầm thì sợ cổ chịu không nổi?.
    Cuối cùng anh tìm ra giải pháp: tạm thời đưa chị đến nhà bà Râng (xóm 31, thôn Qui Thiện), ở hầm nhưng thỉnh thoảng có thể bí mật lên trên. Chính nơi này, mấy tháng sau, theo nhiều người kể lại, trong đó có chị Khiêm (hiện ở Gia Lai, nghỉ hưu sau thời gian làm ở Bệnh viện Gia Lai), anh Mận (con bà Râng, hiện vẫn ở ngay căn nhà cũ), trong một trận càn của Mỹ, chị và chị Khiêm đã đấu tranh trực diện với hai tên lính Mỹ để bảo vệ một thương binh.
    Tất cả đã đổi thay. Đứng ở xóm 31, Qui Thiện, không ai có thể hình dung xóm làng tan hoang, không một mái nhà, không một bóng cây thời ấy. Tuy vậy, vị trí cái hầm chị Trâm ở, anh Mận vẫn còn nhớ. Dẫn chúng tôi ra chỗ bờ rào, nơi bây giờ có một gốc cây dừa gần giếng nước, anh khẳng định: ?oĐây, chỗ này đây, chị Trâm ở đây?. Rồi anh kể:
    Đêm ấy ta đánh đồn Núi Dâu, chị Khiêm, ban dân y huyện, về phối hợp với chị Trâm chuẩn bị lo cho thương binh. Khoảng gần sáng, ba thương binh được đưa về nhà bà Râng. Hai chị đang lau dụng cụ thì bất ngờ hai tên lính Mỹ xuất hiện ngay ở cửa, xí xô: ?oVi xi, vi xi?. Bình tĩnh, mạnh bạo, hai chị lùa dụng cụ xuống đất, ra chặn ở cửa, hét lên: ?oNô Vi xi, nô vi xi?...
    Cùng lúc nhiều người nhà của bà Râng từ hầm pháo ùa lên, tri trô, chặn cửa. Trong lúc đó hai anh thương binh là anh Lệ và anh Sơn còn đi được, được ba anh Mận bảo anh Mận (hồi ấy 13 tuổi) dẫn chạy băng qua đồi cát ra mé biển. Hai tên Mỹ thoáng thấy, đuổi theo. Anh Mốc bị thương phần chân không đi được, được đẩy lên một cái mái trong nhà.
    Đang cố đẩy anh lên thì hai tên Mỹ quay lại. Thấy anh Mốc, chúng chĩa súng vào: ?oVi xi, vi xi?. Chị Trâm ra đứng cản đầu súng: ?oNô vi xi, nô vi xi?. Bà con xông vào, vừa ra điệu bộ, vừa nói tiếng đực, tiếng cái, giải thích rằng pháo bắn, anh ta chỉ là dân thường bị thương... Không biết đường nào mà lần, hai tên lính Mỹ lại bỏ đi. Giữa buổi hôm đó, nào lính Mỹ, nào lính ngụy lại ầm ào kéo vào càn quét, nhưng anh Mốc, chị Trâm, chị Khiêm đã được xuống hầm...
    Từ đó, Mỹ càn quét xuống làng thường xuyên hơn. Anh Thu, bí thư xã, lo ngại nên đã đưa chị Trâm lên hang Bộng Dầu ở mé chân núi Dâu. Đó là một hang hẹp, nước chảy róc rách quanh năm. Những thương binh nặng cũng được đưa lên đó để chị Trâm chăm sóc. Ngày ngày có những người bưng mủng đi hái rau, cắt cỏ đem đồ ăn, thuốc men lên cho chị... Một thời gian sau, tình hình im im, chị lại về làng, lúc ở hầm, lúc ở hầm pháo. Bấy giờ chị như một người dân quê ở Qui Thiện: quần đen, áo vải, nón lá.
    Cái chân bị mìn tơi tả, phải cưa, chị quyết giữ lại. Cái chân ấy, người ấy vẫn còn đó. Vườn cây thuốc, chị vận động trồng để cung cấp cho bệnh xá, vẫn còn đó. Những bài thơ chị làm tặng chị, tặng em... cứ nằm mãi trong lòng người...
    HÀNG CHỨC NGUYÊN - VÕ QUÍ CẦU
  6. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Những dòng lưu bút tuổi 20 của 10 cô gái Đồng Lộc

    [​IMG]


    Cuốn sổ lưu bút với những dòng chữ của liệt sĩ Hồ Thị CúcSau khi VTV1 truyền hình trực tiếp chương trình giao lưu ?oMãi mãi tuổi 20? (đêm 23-7), chị Nguyễn Thị Hường ở thị xã Hà Tĩnh báo tin còn lưu giữ được những dòng lưu bút của 10 nữ liệt sĩ ở ngã ba Đồng Lộc.
    Tháng 11-1967, Nguyễn Thị Hường tròn 16 tuổi, vừa học xong chương trình trung học cơ sở, viết đơn khai tăng thêm hai tuổi (chị sinh tháng 10 -1951) rồi đạp xe lên Huyện đoàn Đức Thọ xin gia nhập thanh niên xung phong (TNXP). Đơn được chấp thuận và chỉ mấy ngày sau chị Hường lên đường, tham gia tiểu đội 4, đại đội 552 đóng quân tại xã Thanh Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Tiểu đội 4 do Võ Thị Tần làm tiểu đội trưởng ở nhờ nhà dân trong làng.

    [​IMG]

    Chị Nguyễn Thị HườngNhận nhiệm vụ, chị Hường cùng các cô gái TNXP khác đến Đồng Lộc gấp rút triển khai công việc. Dưới mưa bom bão đạn các cô TNXP đang tuổi thanh xuân không hề biết đến sợ hãi, làm việc không ngơi tay, suốt ngày cười nói, í ới gọi nhau.
    Chị Hường kể: ?oTiểu đội chúng tôi hồi ấy chỉ có chị Võ Thị Tần nhiều tuổi nhất và đã có người yêu. Tôi và chị Trần Thị Hường là hai người ít tuổi nhất, đều mới 16 tuổi. Chúng tôi sống chan hòa bên nhau và mọi thứ trong đơn vị như là của chung. Trong một lá thư gửi cho mẹ, chị Võ Thị Tần đã viết: ?o...Ở đây vui lắm mẹ ạ! Ban đêm chúng nó thắp đèn để chúng con làm đường. Ban ngày chúng đem bom giết cá để chúng con cải thiện. Bom đạn của chúng có thể làm rung chuyển núi rừng nhưng không thể làm rung chuyển trái tim của chúng con...?.

    [​IMG]


    6 Bia tưởng niệm 10 cô gái Đồng Lộc Sau tám tháng cùng chung sống, chiến đấu với các đồng đội tại ngã ba Đồng Lộc, tôi được điều đi tăng cường cho tuyến Vĩnh Linh. Vào trung đội 39, đại đội 339. Trước ngày chia tay mấy hôm, tôi xin được mấy trang giấy trắng gấp lại làm cuốn sổ lưu bút. Mười mấy chị em ôm nhau khóc, tranh thủ ghi những dòng lưu bút, hứa với nhau công tác tốt, mong hẹn gặp lại nhau ngày thống nhất đất nước. 38 năm qua, đi đâu tôi luôn mang quyển lưu bút ấy theo như những người đồng đội luôn đi bên mình?.
    Đó là một quyển sổ mỏng tự làm với bìa giấy màu nâu (khổ 10x15cm); nay còn 20 trang giấy đã ố màu nhưng vẫn hiện rõ những nét chữ viết bằng mực Cửu Long bút Trường Sơn quen thuộc của học trò ngày ấy. Xin được trích:
    ?o...Chỉ còn 30 phút nữa thôi đành phải xa Hường. Hường xa Rạng, chỉ một hồi ngắn ngủi không nói nên lời, Rạng cầm bút mà nghẹn ngào lắm Hường ạ! Chúng ta chung sống cùng nhau đồng cam cộng khổ ngọt bùi cay đắng có nhau. Hường đi vào mảnh đất Vĩnh Linh, mình ở lại mảnh đất quê cha cùng làm nhiệm vụ trong thời đại này. Rạng hứa với Hường là luôn làm trọn mọi nhiệm vụ. Bắt tay mong ngày thống nhất?. (Liệt sĩ Nguyễn Thị Rạng)
    ?oNghẹn ngào biết mấy Hường ơiNgờ đâu đôi ngả cắt nhau đôi đường.Xa nhau biết mấy ngàn thương.Cây xa rừng ngậm gừng nuốt láNgười xa người khó tả Hường ơi.Nhớ khi Hường nói Hường cườiBây giờ Hường đi mình ở lại đâyQuê Hường là của bốn phương đất trờiQuê mình tiền tuyến đôi nơiXa nhau không phải quên lời năm xưa.Xa nhau không phải xa hoàiXa nhau là để ngày mai sum vầyHai trái tim cùng chung nhịp đậpTrong muôn vàn khối óc trái timĐôi ta như thể đôi chim bayĐi không mỏi để tìm ngày mai.Thôi nghẹn ngào xúc động quá.
    Mình chúc Hường luôn luôn vui, khỏe, trẻ, lạc quan yêu đời và phấn đấu trong mọi công tác, làm thế nào đàng hoàng công tác bảo vệ phẩm chất con người thanh niên hiện đại. Còn mình ở lại cũng hăng say công tác của trên giao cho.
    Thôi hạ bút chờ thư của Hường ở nơi xa gửi về cho Xuân.
    (Liệt sĩ Nguyễn Thị Xuân)
    Hường ạ! Vì nhiệm vụ thiêng liêng của Tổ quốc nên mỗi người mỗi ngả, kẻ Bắc người Nam. Hường đi mình ở lại sao đành, Hường ơi tuy chúng ta mới chung sống với nhau tám tháng trời. Hường ạ! Tám tháng trời đã để lại cho chúng ta những kỷ niệm sâu sắc.
    Hường mến! Hường đi làm nhiệm vụ xuất sắc trong mọi công tác. Còn mình thì hứa với Hường làm bất cứ việc gì khi Tổ quốc cần đến.
    Thôi đến đây mình tạm dừng bút, chúc Hường một lần nữa khỏe, trẻ, hăng say trong công tác gặp nhiều trong bão lửa.
    (Liệt sĩ Võ Thị Hà)

    [​IMG]
    Trên đường hành quân cùng đơn vị mới đến Vĩnh Linh, chị Hường nghe đồng chí giao liên báo tin dữ: 10 cô gái TNXP ở ngã ba Đồng Lộc trúng bom lúc đang làm nhiệm vụ và tất cả đã hi sinh. 
    Chị Hường nhớ lúc ấy mình đã gục ngã trên vai một đồng đội và tiểu đội trưởng Phúc động viên chị phải can đảm lên, cứng rắn chiến đấu báo thù cho đồng đội. Tiếp tục hành quân vào tuyến lửa cùng đơn vị mới, chị Hường không còn biết chùn bước trước mưa bom bão đạn của kẻ thù. Đơn vị chị luôn được tuyên dương.
    Cuối năm 1969 chị bị thương vì bom giặc, và lúc này mới nhận được thư từ quê nhà gửi vào, báo tin nhà chị cũng bị trúng bom Mỹ ném vào tháng 11-1968 khiến mẹ chị bị thương nặng, em gái mất khi mới 16 tuổi. Chị được đơn vị cho nghỉ phép về thăm quê nhà. Từ thị xã Hà Tĩnh, chị đi bộ vào thăm lại Đồng Lộc, viếng mộ của 10 cô gái anh hùng. Cuốn sổ lưu bút cầm tay, chị Hường ngồi bên những nấm mồ đọc lại những nét chữ vẫn còn thơm mùi mực Cửu Long.
    Năm 1970 chị Hường bị thương với tỉ lệ thương tật 28% (thương binh 4/4), chuyển ngành về Công ty Xây lắp thương nghiệp Hà Tĩnh. Năm 1974 chị xây dựng gia đình cùng anh Lê Văn Sáu, chiến sĩ bộ đội không quân; sinh được ba đứa con và nay chị đã có cháu ngoại. Chị Hường đã nghỉ hưu, cuộc sống gia đình chị ấm no, hạnh phúc.
    Chị nói: ?oBao năm qua mỗi lần về thăm quê tôi muốn ghé thăm nhà các chị cùng tiểu đội đã hi sinh nhưng rồi tôi không dám vào, sợ bố mẹ các chị ấy lại dấy lên niềm đau thương, chỉ dám đứng đầu làng hỏi thăm. Làng quê nay đã khởi sắc nên tôi cũng thấy ấm lòng hơn?. 
    http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=91304&ChannelID=3
  7. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Có một người con gái tuổi 20 (kỳ 13): http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=91443&ChannelID=89
    Chị vẫn sống trong lòng Đức Phổ

    [​IMG]


    Y sĩ Tho (bìa phải), người đã phụ cõng anh Nguyễn Đức Kiệm (thứ hai từ phải sang), đang kể lại câu chuyện năm xưa TT - Ở Quảng Ngãi, khi gặp lại những người từng quen thân chị Trâm, chúng tôi muốn tìm thêm những thương binh mà chị trực tiếp điều trị. Trong nhật ký ngày 28-4-1969, chị viết: ?o? Mấy ca thương được chuyển đi, còn lại Kiệm, một thương binh cố định gãy xương đùi? Kiệm lớn xác nặng quá, hai chị em không thể nào nhấc lên được...?.
    ?oCái chân tôi còn là nhờ chị?
    Tập sách in nhật ký của chị có chú thích: ?oKhông phải anh Trương Văn Kiệm mà là Nguyễn Đức Kiệm, hiện là trưởng Phòng tổ chức - LĐTB&XH huyện Đức Phổ... Anh Đức Kiệm kể là sau khi chị Trâm và mấy em không khiêng được anh ấy xuống trốn tạm ở hố, chị Trâm đã đi gọi anh Thông đến cõng anh?. Kể xong chuyện cũ, anh bùi ngùi nói: ?oTôi biết tính chị ấy mà, trong lúc nguy kịch nhất, chị sẵn sàng hi sinh chứ không nỡ bỏ một ai. Nhờ vậy mà tôi sống đây...?.
    Nhưng còn anh Trương Văn Kiệm, dũng sĩ diệt Mỹ? Anh nghỉ hưu đã lâu nên hỏi mãi chúng tôi mới tìm được.
    Chúng tôi theo lộ Đức Phổ - Phổ Vinh đến nhà anh. Trước đây là con lộ dẫn về căn cứ Phổ Vinh của Mỹ. Thôn Lâm An, xã Phổ Minh, quê anh nằm dọc theo lộ này, hồi ấy là vành đai trắng. Đạn bom cày xới đến mức cả làng muốn kiếm một cái cây làm đòn khiêng cũng không có, phải qua Phổ Vinh xin. Hiện anh ở trên phần đất của cái miếu Cô, hồi trước cha mẹ anh cũng không có đất, không có nhà, phải xin cái miếu làng mà ở. Anh đón chúng tôi, vóc dáng vạm vỡ, chắc nịch. Tuy nhiên khi anh bước đi, chúng tôi mới biết anh chân thấp chân cao.
    ?oCác anh ngồi đi. Hỏi chuyện bác sĩ Trâm phải không??. Hỏi rồi anh lặng im. Bỗng anh nhấc chân phải, từ từ kéo ống quần lên gối: ?oĐây, các anh thấy không??. Chúng tôi thấy nơi ống chân, phía trong, một cái thẹo lớn ăn sâu vào, sần sùi, làm ống chân anh cong lại. Thoa thoa vào cái thẹo, anh nói: ?oBa mươi lăm năm rồi, hễ cứ thấy nó là tui nghĩ đến bác sĩ Trâm. Nói thiệt với các anh, cái chân tôi còn là nhờ chị?.
    Anh kể: Khoảng đầu tháng 8-1968 (bấy giờ anh mới 19 tuổi, đã là đội trưởng đội quyết tử 53 do xã ủy Phổ Minh tổ chức, chuyên diệt ác, phá kềm), trước khi đi dự đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua Trung Trung bộ, anh quyết ?olàm một vố nữa?: thọc vào ấp diệt ác. Anh đến chỗ vực Lách, núi Sầu Đâu thì bị mấy tên Mỹ phục bắn trúng vào ống chân. Anh ngồi kéo chân lên xem thử vết thương thì bị ?onó chơi một phát nữa vào đùi, sát háng, làm tui quị luôn?.
    Anh lết vào mép sông, núp ở bụi chà gọng rồi bò, bò mãi đến cống Ông Kim thì kiệt sức. Giấu khẩu Garant vào bụi, lấy hai trái lựu đạn cầm tay, chuẩn bị quyết tử... Sáng, tỉnh dậy, thấy bà thím dâu đi dẫy cỏ, anh kéo nhánh chà gọng xuống, cột chiếc khăn đỏ có dòng chữ ?othề quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh? vào rồi cho nhánh cây bật lên...
    Đến trưa bà con gom lại được một bầy bò, cột anh giữa hai con bò, lùa đi, đưa anh vào làng. Mỹ lại vây, bố ráp, ai cũng nói chắc anh chết. Khi mở được đường máu đưa anh lên trạm xá Bác Mười, anh gặp chị Trâm và giữ mãi hình ảnh chị trong lòng.
    Bệnh xá không còn thuốc tê, chị định trói anh lại để phẫu thuật, anh không chịu: ?oCứ làm, khỏi trói, tui chịu được?. Vết thương cứ lầy nhầy mãi, bao nhiêu lần anh yêu cầu bệnh xá ?ocưa quách cho rồi?, nhưng mỗi lần như thế chị Trâm lại đến bên anh. Anh vẫn nhớ cái giọng nói nhỏ nhẹ, hiền dịu của chị: "Vết thương sẽ lành, em à. Có lẽ sẽ không còn tác dụng nhiều nhưng mà vẫn còn thấy cái bàn chân mình, ngón chân mình...?. ?oTui nhớ suốt đời?, đang kể chuyện, bỗng anh nói thế, rồi im lặng, quay nhìn ra phía cửa sổ.
    Con người từ đầu đến chân vẫn còn rất nhiều mảnh đạn ấy, con người có rất nhiều giấy chứng nhận của quân giải phóng miền Nam về thành tích nào là ?odũng sĩ diệt Mỹ 10 lần ưu tú?, nào là ?odũng sĩ bắn máy bay?... ấy, khi xúc động vẫn cứ thấy mình ngượng nghịu. Đó là những lúc câu chuyện của anh quay lại chuyện chị Trâm: ?oKhông chỉ cầm dao, cầm kéo chữa cho bệnh nhân đâu nha, chị còn làm vệ sinh cá nhân, đổ bô, giặt áo giặt quần cho tụi tui nữa... Hiếm lắm mà, trên cả lương y là từ mẫu, cha mẹ nữa mà?.
    Hồi anh ở trạm xá có trên dưới 100 ca thương binh, có những ngày hết lương thực, đói... ?oChị nhịn, vận động anh em nhịn dành phần cho tụi tui. Bom thả, thiếu hầm, chị nhường hầm cho tụi tui...?. Trong hầm khoét vào vách núi, chỗ anh nằm có treo một cái thùng thiếc, cần gì anh gọi. ?oMỗi lần tôi rung chiếc thùng thiếc là liền nghe bước chân chị...?.
    Vần thơ, vườn cây để lại

    [​IMG]

    Ông Trương Văn Kiệm, người đã được bác sĩ Trâm cứu chữa bàn chân còn nguyên vẹn đến ngày nay
    Ở Phổ Cường, Đức Phổ, nơi mà trong nhật ký chị Trâm luôn bày tỏ lòng nhớ thương hết mực, giờ đây vẫn còn những vườn cây thuốc nam. Có chỗ người ta cứ gọi ?othuốc chị Trâm?. Chị Tạ Thị Ninh, ở thôn Nga Mân, hiện làm ở trạm y tế xã Phổ Cường, mà trong nhật ký ngày 4-1-1969 chị Trâm ghi: ?oNằm bên Ninh nghe nói chuyện...?.
    Hồi ấy chị Ninh ở dân y huyện, rồi về trạm xá, thường đưa chị Trâm đi cơ sở, kể: ?oVề Nga Mân là chị ở nhà tôi. Nhà tôi có bốn cái hầm. Anh Văn Giá, người chụp nhiều tấm ảnh của chị Trâm, cũng ở đây. Mỹ càn, anh theo du kích lên núi thì bị bắn chết chỗ ruộng. Còn chị Trâm thì ở cái hầm chỗ chuồng vịt kia kìa?. Chị chỉ tay về phía chuồng vịt. Nơi gần chuồng vịt vẫn còn những cây thuốc...
    Có thời gian tắc đường, địch đánh ác liệt quá, trạm xá thiếu thuốc, chị Trâm đã xuống Phổ Cường, Phổ Hiệp vận động dân, các em thiếu nhi làm thuốc, trồng cây thuốc. Có những đêm thật nhộn nhịp, chị tổ chức thiếu nhi đi bứt dây kinin đem về cho các dì các chị xắt, phơi tán nhỏ trộn với bột gạo, rồi cưa vỏ đạn làm khuôn in thành viên. Đó là thuốc trị sốt rét. Để rửa vết thương thì có lá trầu; cứ hái vò lấy nước đem lọc rồi nấu lên cho vào chai.
    Anh Trương Văn Đượm, hiện ở Nga Mân, hồi ấy trong đội thiếu nhi vẫn còn nhớ những ngày tháng ấy. Anh kể: ?oChị thương tụi tui lắm, chị thường nói mình phải tự lực cánh sinh, dùng cây nhà lá vườn để giúp các anh thương binh...?. Để có ?othuốc bổ? cho các anh, chị nói bà con kiếm hà thủ ô, củ cây lạc tiên nấu sệt lại bỏ vào chai.
    ?oKhông biết từ đâu chị có - chị Ninh nói - nhưng một lần chị đưa hạt cây xuyên tâm liên cho bà con rải. Chị nói để giã thành bột trộn với bột nếp làm thuốc sát trùng...?. Cứ như vậy, từ Phổ Cường, Phổ Hiệp, những bao thuốc tự chế ấy được cõng qua đèo, qua suối, qua đạn bom đưa lên trạm xá Bác Mười.
    Về những vùng đất này, ít nhiều chúng tôi cũng có thể hình dung được cảnh xóm làng điêu tàn, đổ nát do địch thả bom, rồi chà đi xát lại, sống chết có thể diễn ra trong một giây, nhưng thật tình chúng tôi không thể hình dung được trong cảnh ấy, trong thời gian chỉ hơn ba năm ấy mà sao chị Trâm, cô bác sĩ người Hà Nội, lại có thể làm được quá nhiều việc và để lại quá nhiều tình thương như thế! Nhiều người vẫn không quên được việc chị đi vận động bà con ăn sạch, uống sạch. Chị vận động cả việc ?ođi tiêu nhớ mang theo cây cuốc? nữa. Ở rừng, chị vận động được một buôn người dân tộc biết vào trạm xá khám thai, sinh nở.
    Không chỉ để lại tình thương cho Đức Phổ, chị còn để lại những vần thơ nằm mãi trong lòng người ở đây. Anh Trần Văn Trường, một trong những người thân thiết của chị Trâm, ở Quy Thiện, Phổ Hiệp, hiện là phó chủ tịch Ủy ban MTTQ VN tỉnh Quảng Ngãi, đã chép gửi cho chúng tôi một bài thơ của chị.
    Chúng tôi hỏi: ?oAnh ghi ở đâu mà còn??. Anh chỉ vào đầu, nói: ?oTrong đầu chớ đâu? Còn, còn mãi?. Đó là bài thơ khi một lần chị rời Phổ Hiệp đi công tác về bắc Quảng Ngãi đã viết gửi tặng các em thiếu niên ở xã: ?o...Chị đi xa cửa xa nhà / Đến đây chị đã coi là quê hương / Nhớ sao những buổi giặc càn / Tiếng la, tiếng mõ ầm vang cả trời...?.
    Ở Phổ Cường có món cua đồng rán, cua đồng lăn mắm rất ngon, bà con thường ăn. Thường ăn, ấy vậy mà có người mãi đến giờ cứ mỗi lần ăn cua đồng lại nhớ đến chị Trâm, nhớ đến bài thơ chị Trâm để lại: ?oNinh, em có nhớ chị không? / Chị nhớ em mãi cua đồng rán thơm / Mỗi lần tới bữa ăn cơm / Chị lại thầm nhớ mùi thơm cua đồng??.
    Ba mươi lăm năm, nằm trong lòng đất lạnh, dĩ nhiên chị không còn ?otới bữa ăn cơm? nữa, không còn ?othầm nhớ mùi thơm? nữa, nhưng chị Ninh (Tạ Thị Ninh) thì vẫn nhớ chị, mỗi lần tới bữa cơm có món cua đồng. Có đêm, chị Ninh ra ngồi ở đầu hè nhìn ra chỗ chuồng vịt, nơi ngày xưa có căn hầm chị Trâm ở, rồi nhẩm đọc bài thơ và không cầm được nước mắt...
    Trang nhật ký cuối cùng của BS Đặng Thùy Trâm ghi ngày 20-6-1970. Đó là ngày kinh khủng: trạm xá bị bom phá tan hoang chỉ còn lại tám người, năm thương binh nặng và ba phụ nữ. ?oCuối cùng cũng phải hai người đi. Chị Lãnh và Xâng ra đi...?. Như vậy chỉ còn mình chị Trâm và năm thương binh. Đến ngày 22-6-1970 thì chị hi sinh trên đường... Điều gì đã đến với chị trong ngày, đêm 21-6?
    HÀNG CHỨC NGUYÊN - DUY THÔNG
  8. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Có một người con gái tuổi 20 (kỳ 14):  http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=91627&ChannelID=89
    Ngày 21-6 của chị Trâm...

    [​IMG]

    Chị Thùy Trâm năm đầu thời sinh viên (hàng ngồi, thứ hai từ trái sang)
    TT - Trang nhật ký cuối cùng của chị Trâm ghi ngày 20-6-1970. Theo báo cáo quân sự của tiểu đoàn 4, sư đoàn bộ binh 21 của Mỹ trong thời kỳ chị Trâm hoạt động ở Đức Phổ (Quảng Ngãi) thì chị Trâm hi sinh vào lúc 17g20 ngày 22-6-1970.
    Chị Đặng Kim Trâm, em chị Trâm, cũng viết: ?oNhật ký chấm dứt ở ngày 20-6-1970. Hai ngày sau, ngày 22-6-1970, chị tôi hi sinh. Mấy tháng sau gia đình tôi mới biết tin dữ...?. Vậy ngày 21-6 của chị Trâm ra sao?
    Người duy nhất chứng kiến cái chết của chị Trâm là chị Nguyễn Thị Kim Liên, hiện ở thị xã Quảng Ngãi. Năm 1970 chị Liên 20 tuổi, là bộ đội thuộc huyện đội Đức Phổ, được đưa qua trạm xá học. Chị vừa phục vụ bệnh nhân vừa học được vài ba tháng thì sự việc đau đớn ấy diễn ra...
    Ngày 25-7 vừa qua, chúng tôi đến thăm chị và chị đã kể với chúng tôi về trường hợp chị Trâm bị Mỹ sát hại. Hôm ấy, ở Phổ Cường cũng báo lên là trạm xá bị lộ, phải dời. Buổi sáng hôm đó, từ trạm xá chị Trâm và hai anh bộ đội, cùng là học viên của trạm xá, vượt qua một hòn núi đến địa điểm mới để chuẩn bị dời trạm xá.
    Ở đó đã có anh Đạt, phụ trách trạm xá, đến trước. Ba anh em (anh Đạt, chị Liên và chị Trâm) ngồi bàn xong công việc, lấy một hộp sữa đốt lên cùng ăn. Ăn xong, khoảng 2 giờ chiều, chị và chị Trâm theo đường rừng trở về trạm xá. Chị Trâm đi trước, vừa đi vừa kể chuyện. Khi lên con dốc, ra đường mòn thì hai chị gặp Mỹ. Thấy tên Mỹ đen rất gần, chị Liên vừa kêu lên: ?oChết, Mỹ, chị Hai ơi!? vừa nhảy lăn xuống vực.
    Súng nổ, chị băng rừng tìm về chỗ anh Đạt, quần áo rách tơi tả. Anh Đạt dẫn chị ra chỗ bìa rừng nghe ngóng tình hình. Mấy hôm sau tìm trở lại nơi ấy, chị thấy chiếc áo đen của chị Trâm bị chúng xé đôi đem treo vất vưởng trên cây (sau đó chị Liên lấy chiếc áo ấy may lại mặc mãi, giữ  trên 20 năm đến khi quá cũ chị mới bỏ).
    Nhiều bạn đọc đọc kỹ nhật ký của chị Trâm, nhất là những ngày cuối cùng mà Tuổi Trẻ trích đăng trong số báo ra ngày thứ ba, ngày 26-7-2005, sau khi biết thông tin trên đã nêu thắc mắc với chúng tôi: Nhật ký của chị cho thấy đó là những ngày căng thẳng tột độ, bom thả, rocket phóng xuống, trạm xá phải di chuyển. ?oSố lực lượng khỏe mạnh đã đi hết ?, ?omọi người gồng gánh ra đi?, ?otrạm xá chỉ còn lại năm thương binh nặng cố định và bốn chị em nữ...?.
    Rồi tiếp theo là một chính trị viên ra đi. Ba chị còn lại, ngoài lúc ăn cơm mỗi người ngồi một góc để theo dõi phát hiện địch. Mọi người ra đi hẹn sẽ trở về gấp để đón các chị và năm thương binh, nhưng rồi chín ngày trôi qua không thấy ai trở lại. Đến ngày thứ 10 thì ?ogạo chỉ còn ăn một bữa, chiều nữa là hết?. Không thể ngồi nhìn thương binh đói được, các chị bàn bạc phải đi. Cuối cùng, ?ochị Lãnh và Xăng ra đi?. Chị Trâm nhìn theo hai chị lội qua suối mà ?onước mắt mình rưng rưng?...
    Như vậy, đến chiều 20-6 chỉ còn mỗi mình chị Trâm cùng năm thương binh ở trạm xá. Rồi ngày 21 diễn ra thế nào mà đến ngày 22-6 thì chị Liên ở trạm xá cùng với chị Trâm và  hai bộ đội đi đến địa điểm mới? Trước đó chị Liên ở đâu? Hai anh bộ đội ở đâu? Chúng tôi đem thắc mắc này hỏi chị Liên may ra chị có nhớ thêm gì không, nhưng chị vẫn khẳng định là hôm ấy chị vẫn ở trạm xá và chị cùng với chị Trâm từ trạm xá đi, trạm xá chưa dời, chỉ mới đi tìm địa điểm để dời?

    [​IMG]

    [​IMG]


    * Ông Lê Văn Khương - một trong những đồng đội của chị Trâm * Chị Nguyễn Thị Kim Liên - người chứng kiến giây phút cuối cùng của BS Thùy Trâm - Chị Lãnh đã hi sinh nhưng chị Xăng vẫn còn. Liên hệ với rất nhiều người, cuối cùng chúng tôi đã gặp được chị Xăng. Té ra chị đã ở tuổi bà, 75 tuổi. Hồi ấy bà làm chị nuôi (cấp dưỡng), đúng tên là Lê Thị Xâng, người Phổ Minh, hiện ở thị xã Quảng Ngãi. Nói đến chị Trâm, bà khóc. Trước đó xem tivi, thấy ảnh chị Trâm, bà cũng khóc. Chúng tôi cố đọc đi đọc lại nhật ký của chị để bà nhớ lại rõ ràng những ngày tháng ấy, nhưng thật tiếc bà không nhớ cụ thể.
    Hai hôm sau, bỗng tôi nhận được điện thoại của bà. Bà mừng rỡ báo: ?oCậu gì nhà báo đó hả? Đến ngay nhà tôi đi, tôi nhớ ra rồi, hôm đó...?. Chúng tôi vội vã đến gặp bà ngay. ?oNgủ không được, cậu à - bà nói, Nghĩ qua nghĩ lại miết. Nghĩ tới đâu thương cô Trâm tới đó...?. Nói đến chị Trâm, bà lại khóc. Đợi cảm xúc bà lắng xuống, tôi gợi lại: ?oThế chiều hôm đó cô đi với chị Lãnh...?. Bà gật gật đầu: ?oNhớ lại rồi, mấy ngày đó khủng khiếp lắm. Ba chị em bàn qua tính lại mãi, phải đi kiếm rau củ gì ăn, cho thương binh ăn...?.
    Cuối cùng, ba chị em quyết định: chị Xâng rành địa bàn, dẫn chị Lãnh cùng đi. Chị Trâm phải ở lại lo cho thương binh. Buổi chiều, chị Lãnh, chị Xâng lội qua dòng suối ra đi, như chị Trâm ghi trong nhật ký, chị đứng nhìn theo nước mắt rưng rưng. ?oPhần tui và chị Lãnh cũng vậy, nhìn cổ ở lại, hai chị em không ai cầm được nước mắt...? - bà Xâng kể.
    Biết đường, bà Xâng dẫn chị Lãnh băng rừng tìm đến một buôn người dân tộc, gặp rẫy mì của ?oông gì đó, quên tên rồi, thỉnh thoảng ông có đến  trạm xá ?. Ổng hỏi: ?oMỹ đang đánh mà ?ocon yên? đi đâu??. Biết chút ít tiếng dân tộc, bà Xâng nói: ?oBót ngót dí dá?? (đói quá?). Nghe vậy, ổng nhổ cho mấy bụi củ mì. Đến tối, bom đạn ngơi dần, chị Xâng và chị Lãnh trở về. Ba chị em mừng quá, lại khóc. Đêm ấy, dưới một nóc hầm, che mấy tấm nilông chị Xâng nấu một nồi khoai mì.
    ?oRồi qua ngày hôm sau, ngày 21?? - chúng tôi hỏi. Bà Xâng nhíu trán: ?oKhông nhớ rõ lắm nhưng hình như hôm sau tụi nó rút, nhiều người trở về...?.
    Chúng tôi trở lại nhà chị Liên, kể chị nghe những điều bà Xâng đã kể và đưa những dòng nhật ký của chị Trâm cho chị đọc lại. Trầm ngâm, chị nói: ?oQua nhiều trận ác liệt quá, không thể nhớ hết được. Tôi chỉ nhớ chính xác từ lúc tôi, chị Trâm và anh Đạt nướng hộp sữa ăn rồi đi, rồi chị Trâm bị bắn... Ừ, hình như trước hôm đó tôi và mấy anh về lại trạm xá?.
    Như vậy có thể ngày 21 tình hình im ắng, thông đường, số người đưa anh em thương binh nhẹ đi trước mới trở về trạm xá được, trong đó có hai anh em bộ đội, chị Liên, anh Kỳ.
    Anh Kỳ, một y tá rất giỏi, ở trạm xá lâu năm. Mọi chuyện mổ xẻ đều do một tay anh. Chị Trâm là bác sĩ chuyên khoa mắt nên lúc mới về việc ?ocưa, cắt? chị vẫn giao cho anh. Vài năm sau ngày chị Trâm mất, anh rời trạm xá. Dần dần người ta ít nhắc đến anh. Những ngày ở Quảng Ngãi chúng tôi đã tìm được chỗ ở của anh và liên lạc qua điện thoại (anh vào lập nghiệp ở Võ Su, Tánh Linh, Bình Thuận từ nhiều năm trước).
    Sau khi chúng tôi nhắc đi nhắc lại những ngày cuối cùng của chị Trâm ở trạm xá, ông nói: ?oTrạm xá bị đánh liên tục, bị dồn liên tục, thật tình không thể nhớ hết. Nhưng hồi chị Trâm chết, ờ ờ, chúng tôi dời đi rồi về?, có buổi họp phân công chị Trâm về Phú Cường liên hệ với du kích lên chuyển thương binh nặng...?.
    Hầu như những người từng làm ở trạm xá cùng thời với chị Trâm hiện còn sống, chúng tôi đã liên hệ hết. Nhưng những người kỳ cựu như anh Khương (hiện ở Sa Huỳnh, Quảng Ngãi), những ngày tháng sáu ấy lại đi học; như anh Thông (hiện ở thị trấn Đức Phổ, hồi ấy thường được gọi là Tho) khi ấy lại về dân y tỉnh cõng thuốc, chị Phượng đã chuyển về dân y tỉnh trước đó..
    35 năm đi qua, những ngày ấy ngày nào  cũng là ngày căng thẳng, chống chọi với cái sống, cái chết, cái thiếu, cái đói, làm sao ai có thể nhớ trọn vẹn? Biết thế nhưng khi đi tìm ngày 21-6-1970, ngày cuối cùng của chị Trâm, không được ai kể lại, vẽ lại hình ảnh chị chúng tôi thấy tiếc và buồn. Gom hết các lời kể, chúng tôi chỉ có thể hình dung: ngày 21, những người đưa thương binh nhẹ ra đi trước đó đã trở về. Chị Trâm được đưa lên địa điểm mới để xem, lo chuyện chuyển thương binh nặng, và khi ra về thì...
    Không được kể cụ thể nhưng chắc ai cũng biết: 10 ngày chị đã ở giữa một vùng chết để lo, để cùng chết, cùng sống với năm người thương binh nặng, cũng như từ khi đặt chân đến Đức Phổ chị đã từng ?olo?, đã từng ?ocùng? như thế nên ngày cuối cùng của chị cũng vậy. Chị đi đâu, chị đến đâu và hi sinh, chắc chắn cũng là vì những người thương binh... Chị là thế!
    Viên sĩ quan quân báo giờ đã là tiến sĩ Frederic Whitehurst vừa gửi những dòng tâm sự của mình đến Tuổi Trẻ. Từng là đối phương, nhưng trong ký ức về Đặng Thùy Trâm của người lính Mỹ Frederic luôn tự hỏi tại sao chúng ta tàn sát lẫn nhau trong khi chúng ta đều có ước mơ, có gia đình, chúng ta khóc, chúng ta yêu thương? Tại sao chúng ta không thể trở thành anh em, bạn bè?...
    HÀNG CHỨC NGUYÊN - VÕ QUÍ CẦU - TRÀ NINH
  9. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Có một người con gái tuổi 20 (kỳ 15):  http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=91781&ChannelID=89
    Tôi đã mang theo suốt 35 năm...
    (Thư của tiến sĩ FREDERIC WHITEHURST)

    [​IMG]

    Frederic Whitehurst trong những ngày nhận nhiệm vụ tại VN
    Các bạn trẻ thân mến! Ngày nay chúng ta có tầm nhìn hạn hẹp, và dường như những từ ngữ của Thùy dạy cho chúng ta thấy rằng những tiện nghi, vui thú của ngày hôm nay không phải tự nhiên mà có, đó là thành quả từ sự hi sinh to lớn của hàng bao nhiêu người.
    Một điều vô cùng quan trọng là không chỉ có thế hệ trẻ ở VN mà thế hệ trẻ thế giới cũng cần phải được đọc câu chuyện của Thùy Trâm. 
    Những từ ngữ của Thùy còn nói với thế giới rằng chúng ta đều giống nhau, chúng ta có ước mơ, có gia đình, chúng ta có những nỗi sợ hãi, chúng ta khóc, chúng ta yêu thương. Thùy Trâm sẽ khiến chúng ta tự hỏi tại sao chúng ta tàn sát lẫn nhau trong khi chúng ta giống nhau đến thế. Việc Mỹ xâm lược VN thì được lợi lộc gì? Sẽ mất gì nếu đơn giản chúng ta không tham gia chiến tranh? Tại sao người phải giết người thay vì có thể trở thành anh em nếu như đó không phải là vì chiến tranh?
    Thùy khiến chúng ta phải suy nghĩ. Gia đình Thùy đã chấp nhận tôi, một người đã từng là kẻ thù. Việc làm này cho thấy điều gì về lòng tốt của gia đình Thùy Trâm và những con người VN? Thùy khiến chúng tôi phải suy nghĩ.
    Hỡi các bạn trẻ!
    Cách đây rất lâu rồi, tôi rời đại học để tham gia quân ngũ, không phải vì tôi theo chủ nghĩa yêu nước, mà tôi muốn tìm lối thoát cho việc học đã trở thành gánh nặng. Tôi xung phong tham gia chiến đấu tại VN. Tôi vẫn còn nhớ lần đầu tiên tôi nhận ra sai lầm của quyết định xuất phát từ cách suy nghĩ giản đơn ấy khi đang tập xuyên những lưỡi lê vào lốp ôtô, được huấn luyện để hò hét và giết chóc bằng vũ lực. Cảm nhận rằng tôi sẽ tước đoạt cuộc sống của ai đó khiến tôi sợ hãi.
    Và rồi tôi đã tìm kiếm những lý do khiến tôi có thể sẵn sàng chiến đấu. Tôi lắng nghe những câu chuyện tuyên truyền về tội ác của chủ nghĩa cộng sản, về lý thuyết đôminô nói rằng toàn bộ châu Á sẽ rơi vào tay cộng sản nếu VN bị họ thống trị, về nhu cầu tài nguyên thiên nhiên, về những đồng đội đã chết. Tôi đã có được rất nhiều lý do để khỏa lấp. Nhưng không lý do nào thật sự thuyết phục được tôi. Tôi bắn vào người khác vì họ bắn vào tôi. Tôi hủy hoại cuộc sống vì mạng sống của tôi bị đe dọa. Tôi không bao giờ ngừng hỏi tại sao và không bao giờ tìm được câu trả lời thích đáng.
    Điều tôi đã tìm được là mảnh đất đẹp đẽ chưa từng thấy. Một mảnh đất khiến bạn phải hụt hơi, phải chùng gối, tác động lên toàn bộ giác quan của con người, giống như một giấc mơ rực sáng về thiên đường. Một mảnh đất đầy ắp những con người hiền lành tìm thấy niềm vui ở những điều giản dị nhất, nhưng cũng sẵn sàng chiến đấu bạo liệt để bảo vệ những gì đã thuộc về họ.
    Điều tôi tìm thấy hôm nay là một mảnh đất đã và đang là nơi cư ngụ của sự tha thứ cho những cuộc tàn sát trong quá khứ mà đến nay vẫn còn gây ảnh hưởng. Đó là bom mìn giết chết bao trẻ em khi chúng đi bộ qua những cánh đồng, và những chứng bệnh kéo dài do chất độc da cam. Điều tôi tìm thấy mạnh mẽ đến nỗi đến tận hôm nay tôi vẫn còn nhớ rõ những ngôi làng nhỏ như Nga Mân và Nhơn Phước ở huyện Đức Phổ như thể hôm qua tôi vẫn còn ở đó, ở nhà của tôi.

    [​IMG]

    Tiến sĩ Frederic Whitehurst hiện tại
    Và như vậy, tuổi trẻ ngày hôm nay sẽ học được gì từ cuốn nhật ký của một nữ anh hùng, bác sĩ Đặng Thùy Trâm, kẻ thù của tôi từ nhiều năm trước, người có cuốn nhật ký tôi đã mang theo suốt 35 năm nay, hi vọng một ngày nào đó sẽ trả nó về với gia đình và đất nước của cô?
    Thời bây giờ là của những thú vui, của những đồ chơi, của ôtô, tiếng ồn, giao thông tắc nghẽn, khói tràn ngập thành phố, sự mất phương hướng, sự hối tiếc về cái giá của tự do đến từ các nước phương Tây.
    Hãy đọc câu chữ của Thùy Trâm để hiểu được sự hi sinh đến tận cùng vì Tổ quốc của một nữ anh hùng, để đánh giá đúng đắn về giá trị của những đồ chơi và ôtô, để trở lại với cách sống của Thùy Trâm, một cách nhìn vì Tổ quốc của mình, tôn trọng gia đình, khao khát được giúp đỡ một ai đó, dù có phải trả giá bằng mạng sống.
    Thùy nói với các bạn rằng cô ấy là một cô gái bình thường với rất nhiều nỗi sợ hãi cũng như tất cả chúng ta, cũng ham thích những điều chúng ta ham thích. Nhưng Thùy cũng nói với các bạn rằng còn có một điều gì đó còn quan trọng hơn cả cuộc sống của cô ấy khiến cô ấy sẵn sàng hi sinh khi cần thiết. Gần đây, tôi đọc trên một tờ báo rằng tướng Giáp có nói thách thức hiện tại của VN không phải là sự xâm lược từ bên ngoài mà chính là sự đói nghèo.
    Các bạn trẻ, với điều bạn học được từ những gì cô ấy viết, hãy chiến đấu chống đói nghèo với lý tưởng của bác sĩ Đặng Thùy Trâm, bằng cách hi sinh những niềm vui tầm thường. Hãy chiến đấu cho những người đồng hương với lòng nhiệt huyết của một người lính giải phóng quân, giống như bác sĩ Đặng Thùy Trâm. Hãy xem Tổ quốc các bạn cần gì trước khi tính toán đến nhu cầu của bản thân và nuôi dưỡng tinh thần của bác sĩ Đặng Thùy Trâm.
    Và gửi tới tất cả những người có thể cho rằng những dòng chữ này là lố bịch, vô nghĩa của một người lính cổ xưa không còn hữu dụng nữa, tôi đề nghị các bạn hãy cứ đọc nhật ký của Đặng Thùy Trâm, và cuộc sống của bạn sẽ thay đổi mãi mãi. Cuộc sống của tôi đã như vậy rồi.
    FREDERIC WHITEHURST
    Người con gái ấy không tự nhiên sinh ra đã là anh hùng. Trong ngôi nhà mà chị đã chào đời, trong ánh mắt của người mẹ đã sinh ra và nuôi dạy chị, trong ký ức của những chị em gái, Thùy Trâm đã có một tuổi thơ tuyệt vời. Bất chấp những khó khăn và đạn bom thời chiến, gia đình bé nhỏ ấy đã tạo dựng cho thế hệ sau một người anh hùng thật sự từ những chuyện giản dị nhất, hằng ngày, hằng tháng. Trước khi tạm biệt Thùy Trâm và những trang nhật ký của chị, mời bạn đọc gặp lại người mẹ già và những người thân của nữ bác sĩ, những người mà với họ, Thùy Trâm chỉ như là người đi vắng, vừa hôm qua.


    Ngày 4-5-2005,
    Trích thư Frederic gửi Hiền Trâm và Hồ (em gái và em rể của chị Thùy Trâm)
    Đây đúng là một chuyện cổ tích...
    Đây đúng là một chuyện cổ tích. Hằng ngày tôi làm nhiệm vụ luật sư tại tòa, nhưng từ thứ hai vừa rồi tôi không thể nghĩ đến điều gì khác ngoài Thùy Trâm. Tôi phải lặng lẽ nghĩ bởi vì mặc dù tìm thấy gia đình Đặng của tôi là một niềm vui to lớn nhưng trong tim tôi có cả nỗi buồn trĩu nặng vì Thùy Trâm đã mất đi. Và vì tôi đã bắt đầu già nên nước mắt rất dễ tuôn trào và điều tôi khóc ở tòa là rất không thích hợp.
    Vì thế suốt ngày tôi lặng lẽ nghĩ về Thùy. Trong những năm ấy cuốn nhật ký của Thùy Trâm trải qua một cuộc chu du chắc các bạn sẽ thấy khá thú vị. Hồi ở VN tôi luôn giữ hai cuốn nhật ký bên mình. Trước khi rời VN về Mỹ tôi đã đưa nó cho một người bạn ở cùng đơn vị hồi ở Đức Phổ. Anh ấy lấy vợ người Việt và tôi nhờ chị dịch hộ ra tiếng Anh.
    Khi tôi về tới nhà anh ấy gửi cho tôi bản dịch và hỏi tôi có muốn nhận lại cuốn nhật ký không. Tôi cảm thấy có lẽ để anh ấy giữ thì tốt hơn vì anh ấy là luật sư. Thời gian trôi qua. Năm 1982 tôi học xong đại học và vào làm việc cho FBI. Cả tôi cùng anh tôi đều đọc bản dịch cuốn nhật ký. Nhưng làm thế nào để tìm được gia đình Thùy Trâm? Chúng tôi không biết.
    Việc tôi vào làm việc cho FBI khiến tôi phải ngừng tìm kiếm mất mười năm. Tôi đã hỏi và tìm kiếm thông tin, nhưng thời gian sau chiến tranh ở VN gần như người ta không thể tìm được ai. Tôi biết Hà Nội đã bị ném bom và sợ rằng gia đình Thùy Trâm chết hết rồi. Năm 1992, tôi sống ở Washington.
    Có một nhà báo viết cho tờ Bưu Điện Washington đã viết một bài báo tên là ?oNgười xa lạ giữa quê hương xa lạ?. Hồi nhỏ anh ấy sống ở Hà Nội và khi trở về anh thấy tuổi thơ của mình đã hoàn toàn mất đi. Tôi liên lạc với anh ta, anh ta nói rằng có thể gia đình Thùy Trâm đã chết trong chiến tranh. Tuy nhiên tôi và anh Robert thấy đồng bào của Thùy Trâm cần phải biết chị là một anh hùng. Robert và tôi nói với nhau chuyện này trong bao năm.
    Chúng tôi quyết định nếu hai cuốn nhật ký đã được dịch sang tiếng Anh thì cũng có thể xuất bản thành sách để cả thế giới sẽ đọc nó, vậy là chúng tôi cũng hoàn thành nhiệm vụ. Vì thế tôi gọi điện cho người bạn đã dịch hộ cuốn nhật ký, nhưng anh trả lời hình như đã gửi trả lại cho tôi từ lâu. Tôi tin anh ấy và đã lục tìm khắp nơi rất lâu nhưng không tìm thấy hai cuốn nhật ký. Vì thế tôi nghĩ có thể trong bao lần vợ chồng tôi chuyển nhà khắp nước quyển nhật ký đã bị thất lạc.
    Thế rồi cách đây vài năm người bạn đó gọi điện báo tin rằng trong khi lục lọi đống hồ sơ luật lưu trữ từ năm 1966 anh ấy tìm thấy hai cuốn nhật ký. Chúng vẫn nằm nguyên trong cái phong bì mà tôi đã gửi cho anh. Anh ấy hỏi tôi có muốn lấy lại không. Tôi trả lời tôi rất muốn lấy lại, nhưng xin anh đừng gửi bằng đường bưu điện bởi vì có thể bị thất lạc mà chúng thì vô cùng quí giá. Vậy là tôi bay đi California để tự mình nhận hai cuốn nhật ký. Lúc đó tôi đã có máy tính và máy quét.
    Tôi bèn quét hai cuốn nhật ký cùng những bức ảnh và gửi bản quét cho Robert để anh ấy dịch lại. Mấy năm nay Robert vẫn dịch hai cuốn nhật ký. Sau đó Robert tìm thấy trên một trang ở cuối cuốn sổ tên và địa chỉ cha mẹ cô (hoặc chúng tôi đoán thế). Mấy năm sau này một người bạn của chúng tôi đã liên lạc được với gia đình BS Thùy Trâm ở Hà Nội và nói rằng gia đình cô vẫn còn sống, hiện đang làm việc ở một bệnh viện cách Hà Nội 8km về phía nam...
    Đó là chuyện về cuộc phiêu lưu của cuốn nhật ký của bác sĩ Đặng Thùy Trâm. Bởi vì trong 35 năm qua cuốn nhật ký chỉ được mở ra vài lần - có lẽ không quá mười lần nên chúng gần như còn nguyên như hồi Thùy Trâm viết vào đó lần cuối cùng. Giấy bắt đầu bị rạn và phải thật cẩn thận khi cầm nó nhưng nét chữ vẫn còn rất rõ như các bạn có thể thấy trong đĩa CD... 
    FRED
  10. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Có một người con gái tuổi 20 (kỳ 16): http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=91937&ChannelID=89
    Ngọn nến vẫn cháy mãi

    [​IMG]


    Bà Doãn Ngọc Trâm (bìa phải), hai con gái: Hiền Trâm (thứ hai từ phải sang) và Kim Trâm (thứ hai từ trái sang) cùng con rể và các cháu - Ảnh gia đình chụp năm 2001
    Cậu bé trông thật khôi ngô mang món tiền 1.200.000 đồng là phần thưởng cho giải nhất Hội thi tin học trẻ toàn ngành bưu chính viễn thông đến văn phòng Tuổi Trẻ ở Hà Nội để góp vào quĩ xây dựng bệnh xá Đặng Thùy Trâm.
    Cậu tên Nguyễn Đặng Việt Anh, đang học lớp 11 toán tin ở Trường chuyên Hà Nội - Amsterdam. Cậu nói thêm, nhỏ nhẹ: ?oCháu là cháu của bác Thùy?.
    Nghe giọng nói của cậu, người ta có thể tưởng tượng là bác Thùy của cậu đang ở nhà, bác Thùy bảo cậu mang tiền đến và chút nữa cậu về nhà là gặp bác. Nhưng bác Thùy của cậu chính là người con gái mãi mãi 20 tuổi - bác sĩ Đặng Thùy Trâm. Trong gia đình bé nhỏ của cậu, bác Thùy vẫn luôn luôn hiện diện từng ngày.
    Căn nhà nhỏ nằm trong một con hẻm cũng rất nhỏ ở phố Đội Cấn. Cụ bà Doãn Ngọc Trâm, mẹ của chị Thùy, đã 81 tuổi mà vẫn minh mẫn lạ thường. Cụ vẫn tiếp khách, nghe điện thoại, chăm sóc con cháu, giải quyết các công việc gia đình một cách nhẹ nhàng, sáng suốt.
    Cụ bà ở với chị Đặng Kim Trâm - người con gái út - và đứa cháu ngoại. Chị Đặng Hiền Trâm và gia đình cũng ở ngay cạnh đó, chỉ cách không đầy 50m. Tất cả các cô con gái đều muốn quây quần quanh mẹ. Bà còn ba cô con gái nhưng  không có cháu gái nào, cả năm đứa cháu đều là trai. Người con trai duy nhất của bà cụ và cũng là cậu con út trong nhà - Đặng Hồng Quang, một thanh niên ưu tú và tài hoa - cũng đã nằm lại trên đất Nga xa xôi từ 20 năm trước vì một cơn bệnh hiểm nghèo. Khi ấy anh mới ở tuổi 23.
    Ngôi nhà của bà cụ bé như hầu hết những ngôi nhà trong các con ngõ của Hà Nội. Chị Thùy không sinh ra và lớn lên ở đây. Ngôi nhà cũ, nơi chị ra đi, còn chật hẹp hơn thế này. Nhưng ở đó, cái gia đình nhỏ của hai vợ chồng người trí thức miền Trung cùng năm người con của họ đã sống những tháng ngày đẹp như trong cổ tích.
    Bà cụ nói: ?oGia đình không tưởng tượng được là ngay ở Đức Phổ, Quảng Ngãi mà Thùy còn gây dựng được một vườn thuốc và người dân vẫn giữ gìn đến tận bây giờ?. Chị Kim Trâm tiếp lời: ?oVốn kiến thức về dược liệu mà chị Thùy có đấy là được mẹ truyền cho từ ngày còn nhỏ. Trường y đâu có dạy chị về dược liệu, nhất là thuốc nam. Hồi bé, chúng tôi ở với cha mẹ ngay trong khu tập thể Bộ Y tế, đằng sau là một vườn thực vật rộng mênh mông. Ngoài giờ học và làm việc nhà, mấy chị em toàn chạy vào vườn thuốc chơi.
    Chúng tôi lấy những lá chuối to che lại làm lều, ?ocắm trại? ngay trong vườn thuốc, trò chơi yêu thích nhất của chúng tôi là ?ođố cây đố lá?, lá này của cây gì, dùng để làm gì. Không biết thì về hỏi mẹ. Cứ như thế mà chúng tôi biết được tên gọi và công dụng của các cây thuốc trong vườn?.
    Bà cụ lại tiếp: ?oThùy nó học nhiều hơn ở cha. Thùy học chuyên khoa mắt, không học ngoại, nhưng hằng ngày sau khi học ở trường y về Thùy vẫn đến bệnh viện của cha để theo dõi cha mổ, để học thêm những kinh nghiệm điều trị của cha. Tối đến, hay vào các ngày nghỉ, hai cha con lại say sưa cùng nhau vẽ. Ông ấy không dạy Thùy vẽ tranh phong cảnh mà dạy con vẽ người trên các bức hình giải phẫu. Ông ấy vẽ đẹp lắm, Thùy nhờ cha cũng vẽ rất khá, và cũng từ các bức vẽ ?oanatomie? ấy, cùng với những lần theo cha đi trực giải phẫu mà sau này khi vào chiến trường, nó có thể bắt tay làm phẫu thuật thương binh được, dù học chuyên khoa mắt?.



    [​IMG]
    ?oBáo chí, sách vở, bạn bè đồng đội quan tâm đến Thùy làm tôi càng nghĩ càng thương bao nhiêu bà mẹ khác. Họ cũng có con đi chiến đấu như Thùy, cũng hi sinh như Thùy, nhưng không may mắn để lại được chút tâm sự như Thùy. Có những bà mẹ đến giờ này vẫn chưa biết con mình nằm lại ở đâu. Có những người rõ ràng biết con mình hi sinh rồi nhưng do sự thờ ơ, tắc trách của những người làm chính sách mà đến bây giờ vẫn chưa được công nhận. Sao lại máy móc cứng nhắc đòi hỏi bao nhiêu thứ giấy tờ thế? Các bà mẹ ngày xưa cho con ra trận có suy nghĩ đòi hỏi nhiều thế đâu? Tôi cũng chỉ mong là nhân dịp này, khi báo chí và sách vở đang nói nhiều về chuyện của Thùy thì những người làm chính sách cũng thấy có một chút xúc động và có trách nhiệm hơn?.
    (Bà DOÃN NGỌC TRÂM - mẹ của bác sĩ Thùy Trâm)
    Chị Hiền Trâm và chị Kim Trâm đều thống nhất là ?omẹ thương chị Thùy nhất nhà, vì chị phải thay mẹ chăm lo cho các em?. Chị Hiền Trâm kể: ?oMẹ chúng tôi hầu như không bao giờ phải đụng đến chuyện tiền nong. Lương cha mẹ lĩnh về giao hết cho chị Thùy, chị tự lên kế hoạch mua bán, đi chợ, nấu nướng, mua sắm vật dụng gia đình, sách vở bút mực cho các em. Khi chị vào Nam rồi thì có chị Phương Trâm thay vai trò chị cả, chị Phương Trâm đi thì Hiền Trâm lo. Nhà tôi sống như vậy, tất cả mọi người đều quan tâm đến nhau, đều sống vì mỗi người, nhưng không ai xâm phạm đến tự do của ai?.
    Bà cụ bảo: ?oCác con gái của tôi đều viết nhật ký, vợ chồng tôi khuyến khích chúng ghi chép lại những việc đã làm trong ngày, cùng những suy nghĩ, cảm tưởng của mình, nhưng cả nhà không ai đọc nhật ký của ai cả, dù chúng có được mở ra ngay trước mắt. Thấy Thùy nó buồn, cũng nghe bạn bè nó nói phong thanh là chuyện tình yêu của nó không thành, nhưng vợ chồng chúng tôi cũng không hỏi. Lúc nào con nó thấy cần nói thì nó sẽ nói?.
    Khi được hỏi: ?oCác chị học được điều gì quan trọng nhất từ cha mẹ??, các chị đều thống nhất: tính lạc quan yêu đời, niềm tin vào những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Chị Hiền nói: ?oCha tôi là một chuyên gia giải phẫu, nhưng suốt từ khi theo kháng chiến đến khi về hưu, ông cụ vẫn chưa được xếp vào diện ?ocán bộ bìa C? và chưa từng vào Đảng vì lý lịch ?ochưa rõ ràng?.
    Còn mẹ tôi là ?ocảm tình Đảng? gần 30 năm, đến khi giải phóng miền Nam rồi, xác minh được lý lịch rõ ràng mới được kết nạp Đảng. Tất cả chị em chúng tôi thi đại học đều đủ hoặc thừa điểm đi nước ngoài nhưng không ai được đi - cũng vì lý lịch ?ochưa rõ ràng? - mà chị Thùy đã nhiều lần buồn bã nhắc đến trong nhật ký. Nhưng cha mẹ chúng tôi đều không lấy đó làm bi quan, chán nản hay sinh ra bất mãn.
    Cha mẹ vẫn phấn đấu học tập, rèn luyện chuyên môn, làm thuốc, chữa bệnh cứu người và động viên chúng tôi học hành. Ngôi nhà chúng tôi lúc nào cũng đầy ắp tiếng cười, tối đến cả nhà quây quần đàn hát. Cha mẹ đều hát rất hay, chị Thùy cũng hát rất hay. Chúng tôi vẫn sống như thế, đến tận bây giờ?.
    Ngọn nến vẫn cháy mãi 
    Từ nhiều ngày nay, khi nhật ký của chị Thùy và số phận kỳ lạ của nó được báo chí và các phương tiện thông tin liên tục nhắc tới, các đoàn khách liên tục gọi điện và đến thăm khiến cụ bà Doãn Ngọc Trâm hơi mệt, nhưng cụ rất cảm động và tự hào.
    Thật khó mà không xúc động khi bước vào ngôi nhà nhỏ ấy, ngồi giữa những con người bình dị trong ngôi nhà ấy, chứng kiến những tình cảm mà họ dành cho nhau và cho cuộc đời này.
    Kim Trâm nói: ?oNhu cầu được yêu thương con người của chị Thùy lớn lắm vì từ nhỏ chị ấy đã được sống giữa tình yêu của mọi người. Tôi không ngạc nhiên là trong nhật ký chị Thùy viết nhiều về tình yêu đến thế, thứ tình yêu không phải của nam nữ, mà lớn hơn thế rất nhiều, tình yêu thương của con người với nhau?.
    Đọc nhật ký chị Thùy, càng thấy chị với những con người trong ngôi nhà này gắn với nhau, hòa với nhau là một. Cụ bà đang có ?oâm mưu? góp 10 triệu đồng - số tiền dành dụm được nhờ dịch sách y học của cụ suốt mấy năm qua - để đóng góp cho bệnh xá mang tên con gái. Cụ khăng khăng: ?oCả nhà có đóng góp riêng, các em gái góp riêng, các cháu góp riêng thì bà cũng phải được góp phần bà chứ?.
    Nguyễn Đặng Việt Anh đã góp số tiền giải thưởng của mình thì anh trai cậu - Nguyễn Đặng Hồ Anh - cũng lặng lẽ đóng góp tháng lương thử việc đầu tiên của mình vào ?obệnh viện bác Thùy?. Các cậu sinh ra khi bác Thùy đã hi sinh rất lâu, nhưng chưa một ngày nào người bác ấy ra đi khỏi ngôi nhà của các cậu.
    Từ khi Thùy Trâm vào Nam, cả đến lúc được tin chị hi sinh, cho đến bây giờ năm nào cũng vậy, vào sinh nhật Thùy Trâm, cả nhà vẫn mua hoa, mua bánh gatô và thắp nến cho ?obác Thùy? . Những ngọn nến vẫn còn cháy mãi, như là Thùy Trâm chỉ vừa đi vắng và sắp về. Như là tuổi 20 của người con gái ấy...
    THU HÀ - ĐÀ TRANG

Chia sẻ trang này