1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những lá thư, những trang nhật ký, hồi ức thời chiến

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi TLV, 17/04/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Em yêu ơi, Sài Gòn đã giải phóng!
    Thư của ông Phan Khắc Hy, nguyên Phó tư lệnh Bộ Tư lệnh Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh viết gửi vợ là bác sỹ Nguyễn Thị Ngọc Lan.
    Sài Gòn, 7/5/1975
    Em yêu!
    Chắc em không ngờ ngày 7/5 năm nay anh lại ngồi viết thư cho em tại Sài Gòn đã giải phóng.
    Ngày mai có người ra Hà Nội, viết vội thư này nhắn tin nhanh cho em biết để mừng và khỏi mong.
    Nhiều cảm xúc đặc biệt, nhiều chuyện Sài Gòn trước, trong và sau giải phóng không thể viết vội cho em được.
    Anh sẽ ghi lại nhật ký 2 tháng qua, bây giờ phải dành thì giờ để ghi lại những ngày lịch sử anh đã sống để sau này anh kể lại để em cùng được sống lại với anh những ngày bằng hàng chục năm đó.
    Ngày 15/4, ra Hà Nội anh đã gửi thư ngay cho em. Ngày 17/4, trước khi lên máy bay đi vào gửi tiếp một thư nữa. Em đã nhận được chưa?
    Ngày 18/4, anh lại đi tiếp tham gia chiến dịch giải phóng Sài Gòn. Tròn 30 năm tham gia cách mạng, trực tiếp được dự ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, ngày vĩnh viễn dành độc lập tự do, thống nhất cho Tổ quốc, anh và mọi người đã trào nước mắt vui sướng. Anh vẫn khỏe và cũng như các anh em khác trẻ lại hàng chục tuổi?
    Anh đến Sài Gòn ngày 1/5. Đến Dinh Độc Lập lúc Dương Văn Minh còn ở đó, nhưng không có máy ảnh mang theo. Ngày 2/5 trở lại đã chiều tối, tranh thủ chụp một bức ảnh gửi em làm kỷ niệm, (chụp ảnh lấy ngay nên chỉ được một chiếc).
    Sài Gòn rất đông, suốt các ngả đường dòng người, dòng xe đi như nước. Trật tự và sinh hoạt bình thường trở lại nhanh. Địch kìm kẹp, tuyên truyền nhiễu sự nhiều năm nhưng nhân dân Sài Gòn hàng triệu người nổi dậy phối hợp với bộ đội. Nhiều khu phố quần chúng cách mạng đã làm chủ trước khi bộ đội vào. Mọi người kể cả sĩ quan, binh lính, nhân viên ngụy quyền qua thực tế tiếp xúc với ta đều phục và tin cách mạng. Đón bộ đội ta với cả cờ hoa và niềm tự hào dân tộc. Chắc em nghe đài phương Tây, đã nghe họ nói phần nào.
    Vấn đề lớn bây giờ và sắp tới là xây dựng đất nước thống nhất, phồn vinh. Em sẽ về cùng tham gia sự nghiệp đó.
    Viết vội chừng này. Gửi em tất cả niềm vui, xúc động, nhớ thương và tự hào. Chúc mừng tất cả các bạn của em.
    Anh: Phan Khắc Hy.

    http://www.tienphongonline.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=8124&ChannelID=4
    Được TLV sửa chữa / chuyển vào 07:44 ngày 05/05/2005
  2. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Thư viết trên... mảnh vải quần.
    Lá thư độc đáo này là của nhà báo Phạm Nho Nghĩa - Nguyên Uỷ viên Thường trực Thông tấn xã Giải phóng viết trên mảnh vải kaki được cắt từ chiếc quần cũ gửi vợ báo tin ngày lên đường vào chiến trường B.
    Em Loan yêu,
    Khi em nhận được những quần áo còn ấm hơi anh, thì anh đã đi được chặng đường khá dài và đang tiếp tục cuộc hành quân tới đích.
    Chúc em và 3 con Bách + Hồng + Việt mạnh khỏe và tin tưởng ở ngày mai thắng lợi.
    Thương yêu anh, em hãy tỏ ra có nghị lực, gan góc - đừng tỏ ra mềm yếu, buồn rầu mà ảnh hưởng đến sức khỏe.
    Xa em và các con, anh luôn nhớ và sẽ luôn gửi thư về. Đến nơi, anh sẽ viết địa chỉ về để em viết thư cho anh.
    Hẹn gặp em trên những bức thư với nét chữ của em và của con Bách.
    3/4/1965
    Hôn em thắm thiết!
    Ký tên: Nghĩa
    Tái bút:
    - Đến ngày đi, anh vẫn không nhận được thư của em. Anh chắc thư bị thất lạc, hoặc chậm.
    - Tiền gửi em 2 lần là tiền ngoài. Bắt đầu từ tháng 4/65, em nhờ chị Sáu lĩnh, hoặc hỏi cách lĩnh
    .
    Ông Phạm Nho Nghĩa kể:
    Gần 10 năm sau, tôi được ra miền Bắc để chữa bệnh. Ngày gặp lại vợ con, tôi rất vui và xúc động khi được vợ mình trao lại một tập thư, trong đó có mảnh vải kaki tôi dùng để báo tin ngày lên đường vào chiến trường B?

    http://www.tienphongonline.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=8124&ChannelID=4
  3. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Thư viết trên... mảnh vải quần.
    Lá thư độc đáo này là của nhà báo Phạm Nho Nghĩa - Nguyên Uỷ viên Thường trực Thông tấn xã Giải phóng viết trên mảnh vải kaki được cắt từ chiếc quần cũ gửi vợ báo tin ngày lên đường vào chiến trường B.
    Em Loan yêu,
    Khi em nhận được những quần áo còn ấm hơi anh, thì anh đã đi được chặng đường khá dài và đang tiếp tục cuộc hành quân tới đích.
    Chúc em và 3 con Bách + Hồng + Việt mạnh khỏe và tin tưởng ở ngày mai thắng lợi.
    Thương yêu anh, em hãy tỏ ra có nghị lực, gan góc - đừng tỏ ra mềm yếu, buồn rầu mà ảnh hưởng đến sức khỏe.
    Xa em và các con, anh luôn nhớ và sẽ luôn gửi thư về. Đến nơi, anh sẽ viết địa chỉ về để em viết thư cho anh.
    Hẹn gặp em trên những bức thư với nét chữ của em và của con Bách.
    3/4/1965
    Hôn em thắm thiết!
    Ký tên: Nghĩa
    Tái bút:
    - Đến ngày đi, anh vẫn không nhận được thư của em. Anh chắc thư bị thất lạc, hoặc chậm.
    - Tiền gửi em 2 lần là tiền ngoài. Bắt đầu từ tháng 4/65, em nhờ chị Sáu lĩnh, hoặc hỏi cách lĩnh
    .
    Ông Phạm Nho Nghĩa kể:
    Gần 10 năm sau, tôi được ra miền Bắc để chữa bệnh. Ngày gặp lại vợ con, tôi rất vui và xúc động khi được vợ mình trao lại một tập thư, trong đó có mảnh vải kaki tôi dùng để báo tin ngày lên đường vào chiến trường B?

    http://www.tienphongonline.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=8124&ChannelID=4
  4. josemourinho

    josemourinho Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/03/2005
    Bài viết:
    69
    Đã được thích:
    0
    videoclip giới thiệu về cuốn sách:
    " Tuổi thơ ngây thơ chưa làm được gì cho đời...mà chỉ thấy phiền phức ..." ( lời anh Thạc khi 19 tuổi )
    http://vietnamtelevision.vnn.vn/050505sach_Maimaituoi20.wmv
    Được josemourinho sửa chữa / chuyển vào 17:37 ngày 05/05/2005
    Được josemourinho sửa chữa / chuyển vào 17:38 ngày 05/05/2005
  5. josemourinho

    josemourinho Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/03/2005
    Bài viết:
    69
    Đã được thích:
    0
    videoclip giới thiệu về cuốn sách:
    " Tuổi thơ ngây thơ chưa làm được gì cho đời...mà chỉ thấy phiền phức ..." ( lời anh Thạc khi 19 tuổi )
    http://vietnamtelevision.vnn.vn/050505sach_Maimaituoi20.wmv
    Được josemourinho sửa chữa / chuyển vào 17:37 ngày 05/05/2005
    Được josemourinho sửa chữa / chuyển vào 17:38 ngày 05/05/2005
  6. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Thơ từ hồ sơ chiến tranh
    (Theo nguồn của chị minh_le - box Quảng Trị)
    Bruce WeiGL (Nhà thơ, dịch giả, nhà lý luận phê bình Văn học Mỹ):
    Thời kỳ cuối 1966 đến cuối 1972 là lúc diễn ra những trận đánh dai dẳng và ác liệt nhất, đặc biệt những năm 1967, 1968, khi có tới hơn nửa triệu lính Mỹ sang VN. Các đơn vị quân đội Mỹ đã thu thập được tại chiến trường nhiều tài liệu của quân nhân VN, trong đó có cả nhật ký riêng, thư từ, và thật bất ngờ là rất nhiều thơ.
    Số tài liệu này đã được chuyển về Sài Gòn để phân tích, dịch, phân loại và chụp lại trên microfilm cỡ 35mm để lưu trữ. Bản gốc đã mất đi khi Sài Gòn sụp đổ, chủ yếu do quân Mỹ phá huỷ trước khi rút chạy. Các bản chụp microfilm được lưu tại Kho Lưu trữ Quốc gia ở Washington D.C.
    Trung tâm William Joiner về Nghiên cứu Chiến tranh và Hậu quả xã hội thuộc Trường ĐHTH Massachusetts ở Boston đã mua lại một bản chụp.
    Các bài thơ ở đây được trích ra từ những cuộn phim dài 19 dặm này. Chúng đã đem lại cho ta những ý niệm đặc biệt về bản thân những người lính. Thử tưởng tượng về những người đã giữ những cuốn nhật ký này suốt thời gian chiến tranh khốc liệt và đằng đẵng...
    Những bài thơ ở đây được viết ra dưới nhiều hình thức khác nhau, từ thể thơ tự do tới các hình thức dân gian. Cũng như hầu hết những vần thơ được viết dưới chiến hào trong thời Chiến tranh Thế giới Thứ nhất, các vần thơ này thường đầy cảm tính và rất riêng tư. Nhưng điều quý giá nhất là tính chân thực trong sự trải nghiệm của những người lính - nhà thơ: Đấy là sự tích tụ trên trang giấy nỗi gian khổ, niềm khao khát trong những năm tháng chiến tranh mà nội dung của nó rõ ràng và trực tiếp tới mức tâm trí người đọc không thể không bị cuốn hút, thậm chí bị biến đổi, bởi những vần thơ này.
    Qua thơ, những người lính - nhà thơ (mà nhiều người đã khuất) có được tiếng nói riêng tư của mình. Đọc thơ họ, ta có thể chứng kiến cuộc đấu tranh thường ngày trong mỗi người. Vừa dịch vài bài thơ đầu tiên, tôi đã sững sờ bởi những gì họ trải qua. Những người lính Việt Nam chịu đựng sự khát khao người yêu xa cách, sự căng thẳng, gian khó trong những ngày tháng chiến đấu dài dằng dặc...
    Giờ đây, dù chẳng còn cách nào để tìm hoặc xin phép hoặc cảm tạ các tác giả, chúng tôi hy vọng rằng những bài thơ rút từ tuyển tập dịch này tự nó là sự tưởng nhớ tới họ. Những người lính - nhà thơ này đã viết trong hoàn cảnh khốc liệt nhất những vần thơ mà sự trong trẻo, cảm xúc sâu sắc của chúng là bằng chứng đầy ấn tượng về vị trí của thơ ca trong tâm hồn người VN.
    (M.Y dịch)
    Bàn tay
    (trích)
    Nguyễn Văn Lục
    Bàn tay nào dìu em vào lối mộng?
    Bàn tay nào ve vuốt tóc em đây?
    Bàn tay nào xoa ngực em xúc động?
    Bàn tay nào đưa em lên ngàn mây?
    (...)
    Ừ, bàn tay nầy,
    Bàn tay nầy đây
    Bàn tay gân guốc
    Từng đốt ghi tháng ngày.
    Bàn tay thuở xưa quen tìm vú mẹ
    Thì bây giờ mùi xa ngọt mờ phai
    Bàn tay thuở xưa say tìm vú mẹ
    Thì bây giờ đang luồn trong áo ai?
    Bàn tay phiêu du khắp cùng ngõ ngách
    Dù quần xắn áo cài
    Dù mày cau môi mím
    Cố gói những gì em mơ
    Em say.
    ---
    Gặp nhau
    Khuyết danh
    Tối qua dưới ánh trăng vàng
    Anh đang mang súng theo đoàn hành quân
    Gặp cô thôn nữ xóm Vân
    Quẩy đôi thúng gạo nuôi quân qua cầu.
    Tình cờ ta lại gặp nhau
    Phải chăng là mối tình đầu nên duyên?
    Mỉm cười e thẹn ngẩng lên
    Nhìn đôi má lúm đồng tiền thầm yêu...
    Ngày 20-4-1966
    (Còn tiếp)
  7. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Thơ từ hồ sơ chiến tranh
    (Theo nguồn của chị minh_le - box Quảng Trị)
    Bruce WeiGL (Nhà thơ, dịch giả, nhà lý luận phê bình Văn học Mỹ):
    Thời kỳ cuối 1966 đến cuối 1972 là lúc diễn ra những trận đánh dai dẳng và ác liệt nhất, đặc biệt những năm 1967, 1968, khi có tới hơn nửa triệu lính Mỹ sang VN. Các đơn vị quân đội Mỹ đã thu thập được tại chiến trường nhiều tài liệu của quân nhân VN, trong đó có cả nhật ký riêng, thư từ, và thật bất ngờ là rất nhiều thơ.
    Số tài liệu này đã được chuyển về Sài Gòn để phân tích, dịch, phân loại và chụp lại trên microfilm cỡ 35mm để lưu trữ. Bản gốc đã mất đi khi Sài Gòn sụp đổ, chủ yếu do quân Mỹ phá huỷ trước khi rút chạy. Các bản chụp microfilm được lưu tại Kho Lưu trữ Quốc gia ở Washington D.C.
    Trung tâm William Joiner về Nghiên cứu Chiến tranh và Hậu quả xã hội thuộc Trường ĐHTH Massachusetts ở Boston đã mua lại một bản chụp.
    Các bài thơ ở đây được trích ra từ những cuộn phim dài 19 dặm này. Chúng đã đem lại cho ta những ý niệm đặc biệt về bản thân những người lính. Thử tưởng tượng về những người đã giữ những cuốn nhật ký này suốt thời gian chiến tranh khốc liệt và đằng đẵng...
    Những bài thơ ở đây được viết ra dưới nhiều hình thức khác nhau, từ thể thơ tự do tới các hình thức dân gian. Cũng như hầu hết những vần thơ được viết dưới chiến hào trong thời Chiến tranh Thế giới Thứ nhất, các vần thơ này thường đầy cảm tính và rất riêng tư. Nhưng điều quý giá nhất là tính chân thực trong sự trải nghiệm của những người lính - nhà thơ: Đấy là sự tích tụ trên trang giấy nỗi gian khổ, niềm khao khát trong những năm tháng chiến tranh mà nội dung của nó rõ ràng và trực tiếp tới mức tâm trí người đọc không thể không bị cuốn hút, thậm chí bị biến đổi, bởi những vần thơ này.
    Qua thơ, những người lính - nhà thơ (mà nhiều người đã khuất) có được tiếng nói riêng tư của mình. Đọc thơ họ, ta có thể chứng kiến cuộc đấu tranh thường ngày trong mỗi người. Vừa dịch vài bài thơ đầu tiên, tôi đã sững sờ bởi những gì họ trải qua. Những người lính Việt Nam chịu đựng sự khát khao người yêu xa cách, sự căng thẳng, gian khó trong những ngày tháng chiến đấu dài dằng dặc...
    Giờ đây, dù chẳng còn cách nào để tìm hoặc xin phép hoặc cảm tạ các tác giả, chúng tôi hy vọng rằng những bài thơ rút từ tuyển tập dịch này tự nó là sự tưởng nhớ tới họ. Những người lính - nhà thơ này đã viết trong hoàn cảnh khốc liệt nhất những vần thơ mà sự trong trẻo, cảm xúc sâu sắc của chúng là bằng chứng đầy ấn tượng về vị trí của thơ ca trong tâm hồn người VN.
    (M.Y dịch)
    Bàn tay
    (trích)
    Nguyễn Văn Lục
    Bàn tay nào dìu em vào lối mộng?
    Bàn tay nào ve vuốt tóc em đây?
    Bàn tay nào xoa ngực em xúc động?
    Bàn tay nào đưa em lên ngàn mây?
    (...)
    Ừ, bàn tay nầy,
    Bàn tay nầy đây
    Bàn tay gân guốc
    Từng đốt ghi tháng ngày.
    Bàn tay thuở xưa quen tìm vú mẹ
    Thì bây giờ mùi xa ngọt mờ phai
    Bàn tay thuở xưa say tìm vú mẹ
    Thì bây giờ đang luồn trong áo ai?
    Bàn tay phiêu du khắp cùng ngõ ngách
    Dù quần xắn áo cài
    Dù mày cau môi mím
    Cố gói những gì em mơ
    Em say.
    ---
    Gặp nhau
    Khuyết danh
    Tối qua dưới ánh trăng vàng
    Anh đang mang súng theo đoàn hành quân
    Gặp cô thôn nữ xóm Vân
    Quẩy đôi thúng gạo nuôi quân qua cầu.
    Tình cờ ta lại gặp nhau
    Phải chăng là mối tình đầu nên duyên?
    Mỉm cười e thẹn ngẩng lên
    Nhìn đôi má lúm đồng tiền thầm yêu...
    Ngày 20-4-1966
    (Còn tiếp)
  8. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Rừng đêm
    Đức Thành (trích)
    (Kỷ niệm chiến trường)
    Qua bao nhiêu ngày tháng giẫm chân ở chiến trường
    Chịu bao nhiêu những khó khăn gian khổ
    Đấy là trui rèn người giải phóng quân
    Phải biết và quen với tiếng nổ long trời
    Và mùi thuốc đạn.
    Bạn ơi!
    Tôi cực lắm bạn ơi!
    Tôi là người con của dân tộc Việt Nam
    Hàng trăm năm nay bị đô hộ
    Hết giặc Pháp tới Mỹ
    Giờ đây tôi phải lăn vùi
    Hầu cứu lấy quê hương thanh bình và yên vui.
    (...) Tôi đã chịu từng cơn kinh khủng của bom đạn
    Đổ trút trên đầu tôi
    Hay có những hôm mưa tầm tã
    Mà tôi phải đứng ngoài mưa ướt cả đêm
    Chịu đói bụng cả đêm trường.
    (...) Bạn ơi! Mẹ tôi đã già rồi
    Còn đang đợi con ở chốn quê hương
    Hằng đêm mẹ tôi chờ tôi về
    Để mẹ tôi còn thấy tôi rồi chết.
    Xóm làng tôi ngày đêm chịu cảnh chiến tranh.
    (...) Đêm nay là một đêm
    Tôi cùng các bạn tôi phải ôm súng chặt
    Để ra tận chiến trường.
    Đêm đã dài mà tôi phải thức đào công sự.
    (...) Người tôi bị dồn dập nhiều đêm
    Nên đêm nay tôi mệt lừ
    Tôi gắng gượng lại cho thân thể tôi đảm bảo
    Chiến đấu tinh thần tôi còn hăng say
    Chưa bao giờ tôi lại nghĩ hoang mang sợ sệt.
    Các bạn ơi!
    Chúng ta là thanh niên của dân tộc anh hùng
    Dẫu cho cực khổ, chết chóc
    Nhất định ngày thành công sẽ về ta.
    ---
    Hy vọng
    Khuyết danh
    (Tặng Trần Mạnh Giang, người bạn quen thân gặp nhau trên đường chiến đấu)
    Nước suối vờn mây, mây hồng ấp núi
    Ta đã qua mấy núi mấy đèo
    Đầu gối Trường Sơn, chân mòn vết đá
    Sốt rét lên cơn mệt lả.
    Đi cứ đi vì cả ngày mai
    Ta đi trên vạn đường dài
    Vẫn thấy ngày mai trong ánh mắt.
    Khói lửa qua rồi quê ta hết giặc
    Ta hát bài ca xây dựng cuộc đời
    Dẫu bây giờ mỏi gối khàn hơi
    Vui tất cả cuộc đời ta làm việc.
    Làm thân cầu nối tiếp ngày mai
    Đất nước Việt Nam biển rộng sông dài
    Đường tiếp nối đi về muôn mạch sống
    Trong gian lao cần bài ca hy vọng.
    Ngày 23-2-1967
    --
    Năm 1967, Bruce Weigl, 18 tuổi, được điều đến VN để "đốt những xóm làng và giết những người dân vô tội mà chẳng có bất cứ một lý do nào". Năm 1968, trở về Mỹ, ông trở thành một trong những cựu chiến binh đấu tranh tích cực nhất trong phong trào phản chiến. Xuất thân từ một gia đình công nhân Mỹ nghèo đến mức không có tiền để đến trường, giờ đây Bruce Weigl đã trở thành một tiến sĩ văn học, một giảng viên đại học, một nhà thơ - nhà văn - dịch giả rất được yêu thích ở Mỹ.
    Ông nói:
    "Trước khi sang VN, tôi là một thanh niên Mỹ thất học, chỉ quan tâm đến bóng chày, bóng rổ và bóng đá Mỹ, chứ không có chủ kiến gì về chiến tranh. Nhưng chính tâm trạng đổ vỡ trong thời gian tham gia cuộc chiến ở VN đã bắt tôi phải đối diện với nội tâm của chính mình để tìm ra câu trả lời cho những gì đang diễn ra xung quanh. Và con đường đó đã đưa tôi đến với thi ca".
    Cuốn "Thơ từ hồ sơ chiến tranh" do ông chọn và dịch từ tài liệu về những chiến sĩ VN bị mất tích hoặc hy sinh trong chiến tranh (xuất bản năm 1994 tại Mỹ) đã gây tiếng vang lớn
  9. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Rừng đêm
    Đức Thành (trích)
    (Kỷ niệm chiến trường)
    Qua bao nhiêu ngày tháng giẫm chân ở chiến trường
    Chịu bao nhiêu những khó khăn gian khổ
    Đấy là trui rèn người giải phóng quân
    Phải biết và quen với tiếng nổ long trời
    Và mùi thuốc đạn.
    Bạn ơi!
    Tôi cực lắm bạn ơi!
    Tôi là người con của dân tộc Việt Nam
    Hàng trăm năm nay bị đô hộ
    Hết giặc Pháp tới Mỹ
    Giờ đây tôi phải lăn vùi
    Hầu cứu lấy quê hương thanh bình và yên vui.
    (...) Tôi đã chịu từng cơn kinh khủng của bom đạn
    Đổ trút trên đầu tôi
    Hay có những hôm mưa tầm tã
    Mà tôi phải đứng ngoài mưa ướt cả đêm
    Chịu đói bụng cả đêm trường.
    (...) Bạn ơi! Mẹ tôi đã già rồi
    Còn đang đợi con ở chốn quê hương
    Hằng đêm mẹ tôi chờ tôi về
    Để mẹ tôi còn thấy tôi rồi chết.
    Xóm làng tôi ngày đêm chịu cảnh chiến tranh.
    (...) Đêm nay là một đêm
    Tôi cùng các bạn tôi phải ôm súng chặt
    Để ra tận chiến trường.
    Đêm đã dài mà tôi phải thức đào công sự.
    (...) Người tôi bị dồn dập nhiều đêm
    Nên đêm nay tôi mệt lừ
    Tôi gắng gượng lại cho thân thể tôi đảm bảo
    Chiến đấu tinh thần tôi còn hăng say
    Chưa bao giờ tôi lại nghĩ hoang mang sợ sệt.
    Các bạn ơi!
    Chúng ta là thanh niên của dân tộc anh hùng
    Dẫu cho cực khổ, chết chóc
    Nhất định ngày thành công sẽ về ta.
    ---
    Hy vọng
    Khuyết danh
    (Tặng Trần Mạnh Giang, người bạn quen thân gặp nhau trên đường chiến đấu)
    Nước suối vờn mây, mây hồng ấp núi
    Ta đã qua mấy núi mấy đèo
    Đầu gối Trường Sơn, chân mòn vết đá
    Sốt rét lên cơn mệt lả.
    Đi cứ đi vì cả ngày mai
    Ta đi trên vạn đường dài
    Vẫn thấy ngày mai trong ánh mắt.
    Khói lửa qua rồi quê ta hết giặc
    Ta hát bài ca xây dựng cuộc đời
    Dẫu bây giờ mỏi gối khàn hơi
    Vui tất cả cuộc đời ta làm việc.
    Làm thân cầu nối tiếp ngày mai
    Đất nước Việt Nam biển rộng sông dài
    Đường tiếp nối đi về muôn mạch sống
    Trong gian lao cần bài ca hy vọng.
    Ngày 23-2-1967
    --
    Năm 1967, Bruce Weigl, 18 tuổi, được điều đến VN để "đốt những xóm làng và giết những người dân vô tội mà chẳng có bất cứ một lý do nào". Năm 1968, trở về Mỹ, ông trở thành một trong những cựu chiến binh đấu tranh tích cực nhất trong phong trào phản chiến. Xuất thân từ một gia đình công nhân Mỹ nghèo đến mức không có tiền để đến trường, giờ đây Bruce Weigl đã trở thành một tiến sĩ văn học, một giảng viên đại học, một nhà thơ - nhà văn - dịch giả rất được yêu thích ở Mỹ.
    Ông nói:
    "Trước khi sang VN, tôi là một thanh niên Mỹ thất học, chỉ quan tâm đến bóng chày, bóng rổ và bóng đá Mỹ, chứ không có chủ kiến gì về chiến tranh. Nhưng chính tâm trạng đổ vỡ trong thời gian tham gia cuộc chiến ở VN đã bắt tôi phải đối diện với nội tâm của chính mình để tìm ra câu trả lời cho những gì đang diễn ra xung quanh. Và con đường đó đã đưa tôi đến với thi ca".
    Cuốn "Thơ từ hồ sơ chiến tranh" do ông chọn và dịch từ tài liệu về những chiến sĩ VN bị mất tích hoặc hy sinh trong chiến tranh (xuất bản năm 1994 tại Mỹ) đã gây tiếng vang lớn
  10. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0

    Lá thư đầy nước mắt của một người em gái:
    Có còn ai biết chị tôi?
    http://www.thanhnien.com.vn/News/PrintView.aspx?ID=108850


    [​IMG]

    "Người đứng múa ở bìa trái chắc chắn là chị Tú Anh của tôi!". Ảnh tư liệu
    Sau khi báo Thanh Niên ngày 22/4 đăng bài Huyền thoại suối Rụng Tóc, chị Lưu Thị Loan trú tại 120 Bùi Vương Trạch, quận Thanh Xuân (Hà Nội) đã gửi đến tòa soạn một lá thư đầy xúc động với tựa đề Theo báo Thanh Niên đi tìm chị gái bày tỏ nỗi niềm canh cánh suốt 30 năm qua của gia đình và hy vọng tìm lại được những người đồng đội của hai chị gái mình...

    "Người trong ảnh có phải chị tôi?"
    Thư của chị Loan viết: "Quê tôi ở huyện Đức Thọ, nhưng sống ở xã Thanh Lộc, huyện Can Lộc (Hà Tĩnh). Mẹ tôi mất năm 1956, bố tôi một mình vất vả nuôi ba người con, chị Lưu Thị Thanh Xuân (12 tuổi), Lưu Thị Tú Anh (8 tuổi) và tôi (3 tuổi). Năm 1962, lúc chị Xuân của tôi vừa bước sang tuổi 18, hưởng ứng lời kêu gọi của Tổ quốc, chị xung phong lên đường vào đặc khu Vĩnh Linh, nơi địa đầu giới tuyến để làm công nhân giao thông. Năm 1965, khi máy bay Mỹ ném bom bắn phá miền Bắc, chị Tú Anh cũng làm đơn xin đi thanh niên xung phong (TNXP) chống Mỹ cứu nước. Lúc đó chị mới tròn 16 tuổi nên bố phải ký giấy bảo lãnh cho chị lên đường (tháng 3/1965). Tôi còn nhớ, chị tôi rất xinh và hát rất hay. Tối liên hoan trước khi lên đường, chị hát rất nhiều bài cho mọi người nghe, rồi sau đó ôm tôi vào lòng và hát cho tôi nghe bài Câu hò bên bờ Hiền Lương, để bây giờ, mỗi khi nghe bài hát ấy, tôi tưởng như tiếng hát chị tôi ngày nào vẫn còn vọng lại...
    Bố tôi qua đời khi tôi vừa tròn 10 tuổi, sau đó hay tin hai chị tôi cũng đã hy sinh, một mình tôi tự nuôi thân và tiếp tục học tập đến khi tốt nghiệp đại học. Tôi lập gia đình với một anh bộ đội, sau này là bệnh binh, suốt bao nhiêu năm qua tôi vừa chăm sóc anh lại vừa nuôi hai con cho đến nay chúng đã vào đại học. Tất cả nỗi truân chuyên mà số phận đã dành cho, tôi đều cố gắng vượt qua. Nhưng suốt 30 năm qua, cứ mỗi dịp đến ngày 30/4, nỗi niềm day dứt lại trỗi dậy trong lòng. Nếu không thực hiện được điều này thì đến lúc nhắm mắt, tôi cũng không dám gặp bố mẹ và hai chị dưới suối vàng.
    Cả hai chị tôi đều đã lên đường theo tiếng gọi của Tổ quốc và hy sinh. Điều tôi day dứt là đến bây giờ, hai chị tôi vẫn chưa có danh phận gì cả.
    Tôi chân thành cảm ơn báo Thanh Niên vì qua bài báo Huyền thoại suối Rụng Tóc, tôi biết và hiểu thêm sự vất vả, hy sinh của nữ TNXP thời đánh Mỹ, hiểu thêm tấm lòng nhân hậu của người dân nước ta trong những ngày chiến tranh khốc liệt. Trong bài báo có đăng kèm tấm hình TNXP đang biểu diễn văn nghệ tại hiện trường (ảnh tư liệu - NV). Trong tấm hình đó, tôi linh cảm người đứng múa ở bìa trái chính là chị Tú Anh của tôi. Càng nhìn kỹ, tôi càng có cảm tưởng như chị cũng đang nhìn tôi và múa cho tôi xem.Trong bài viết có nói đến chị Nguyễn Thị Kim Thinh (Chính trị viên phó Tiểu đoàn 1, Đội TNXP Hà Tĩnh mở Đường 12 qua nước bạn Lào - NV). Chị Thinh ơi! Chị có phải là đồng đội của chị Tú Anh nhà em không? Bây giờ chị ở đâu cho em biết với? Các anh, các chị ơi, ngày ấy có đến 4.000 TNXP quê Hà Tĩnh, có ai bây giờ còn sống mà biết chị Tú Anh của em?".
    "Em phải làm thế nào đây?"
    Liên lạc với chị Lưu Thị Loan qua điện thoại (045595495), chị Loan cho biết thêm: Chị Lưu Thị Thanh Xuân đi công nhân giao thông ở Vĩnh Linh năm 1962, đến năm 1968 chuyển đến thôn Tân Sơn, xã Trường Sơn, huyện Quảng Ninh (Quảng Bình) để phục vụ cho kho dự trữ trung chuyển ở đó, lúc ấy chị đã lập gia đình và có con nhỏ. Ngày 4/5/1968, chị hy sinh tại đây, khi đó chồng chị vẫn ở Vĩnh Linh và sau đó cũng hy sinh. Sau 35 năm tìm kiếm, năm 2004, được sự giúp đỡ của đồng đội, chị Loan cùng con trai chị Xuân mới tìm được mộ và đưa hài cốt về quê.
    Chị Loan đã làm mọi thủ tục xác nhận từ xã nơi đi và nơi hy sinh, nhưng tỉnh lại đòi người xác nhận phải có trích lục hồ sơ và chứng thực được chị Xuân ở đơn vị nào, ngành nào, bộ nào... Đến đây thì chị Loan và con trai chị Xuân không có điều kiện để tiếp tục.
    Chị Tú Anh vào TNXP tháng 3/1965, đến năm 1968, UBND xã Thanh Lộc, Can Lộc gọi chị Loan lên nhận quà, chị gặng hỏi nhưng không ai cho biết người gửi và lý do vì sao lại gửi cho chị. Đến năm 1969, trên đường ra Bắc an dưỡng có ghé về thăm em và cho biết: "Chị bị bom vùi, bị thương nặng phải vào viện nên không biết gì cả. Chắc các chị biết chuyện bố mất, một mình em phải nuôi thân nhưng vẫn theo học nên các chị gửi quà để động viên em đó thôi". Năm 1970, chị Loan được đơn vị chị Tú Anh cho xe đón ra thăm chị tại khoa Tâm thần Bệnh viện Quân y 105... Sau đó chị được chuyển về trại điều dưỡng ở Tam Nông (Phú Thọ), sau nữa được đưa về trại điều dưỡng ở Nho Quan (Ninh Bình) rồi mất tích từ đó đến nay.
    Biết tin chị Tú Anh mất tích, chị Loan đã cất công đi tìm khắp nơi, chị được trại điều dưỡng cho biết cũng đã đăng báo để tìm nhưng không thấy. Chị Loan nói trong nước mắt: "Suốt bao nhiêu năm trời, trại điều dưỡng không tìm được chị tôi, tôi cũng trình bày rất rõ rằng, nếu thấy không tìm được thì cũng cho chị tôi một danh phận. Nhưng lãnh đạo trại điều dưỡng bảo tôi phải có giấy chứng nhận bị thương của chị Tú Anh mới có thể làm được. Thực tình mà nói, tôi làm sao có được bất kỳ loại giấy tờ nào của chị tôi?". Trong thư gửi báo Thanh Niên, chị Loan tha thiết: "Tôi là đứa con mồ côi, lại mất tiếp cả hai người chị; cháu tôi - con chị Xuân - cũng mồ côi, gia cảnh như thế làm sao có thể làm gì được. Thông qua báo Thanh Niên, tôi muốn tìm lại đồng đội của chị tôi. Các anh, các chị ơi! Có ai còn sống trở về mà biết hai chị của em, hãy cho em một lời khuyên, em phải làm như thế nào đây?".
    Nguyễn Thế Thịnh

Chia sẻ trang này