1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những lần VN xâm lược Trung Hoa trong lịch sử ( không phải A.Q đâu nhé)

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi vinhvinh, 07/03/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. bulubuloa

    bulubuloa Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/06/2003
    Bài viết:
    4.189
    Đã được thích:
    5.423
    Tớ chả quan tâm đến chính nghĩa hay không, nhưng nói bắc tiến là không chính xác, vì chúng ta không chiếm giữ đất mà đánh rồi rút. Nên có thể gọi là "xâm lược" , "xung đột" hay "tự vệ" quái quỉ gì cũng được, xin các bạn không có thông tin nào bổ ích thì bớt tranh cãi làm loãng topic đi.
    Tớ đề nghị xoá mấy bài lèo nhèo ở trên (và cả bài này nữa)
  2. thankiemvdk

    thankiemvdk Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/11/2002
    Bài viết:
    10.532
    Đã được thích:
    372
    Dù là xâm lược theo bất kỳ lý do nào thì cũng đều làm khổ nhân dân ...
    Lịch sử sao chỉ ghi lại những chiến công giết giặc của tưỡng lĩnh mà sao chẳng thèm nhắc đến bao đời nhân dân chết thảm vì chiến tranh nhỉ???
    Thật oan uổng ...
  3. flyingmagician

    flyingmagician Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/03/2002
    Bài viết:
    1.720
    Đã được thích:
    1
    Từ trang vietkiem
    (Cổ tích Thái)
    Ngày xưa, dưới triều Lý Thái Tông (1028-1057) trong bộ tộc Thái ở vùng biên giới thượng du miền Bắc, có Nùng Tôn Phúc, tù trưởng châu Đằng Gio ở giữa Cao Bằng và Lạng Sơn, nổi lên chiếm các hạt chung quanh, tự xưng là Hoàng Đế Trường Sanh (1039), không chịu thần phục nhà Lý. Vua Lý Thái Tông phái quân đi dẹp, bắt được Nùng Tôn Phúc và con trai là Nùng Trí Tông cùng năm tùy tướng giải về kinh đô Thăng Long trị tội.
    Vợ Nùng Tôn Phúc cùng con trai là Nùng Trí Cao chạy thoát được, đến lẩn tránh ở một nhà người cậu của Trí Cao. Tục truyền rằng một hôm Trí Cao đang chăn ngựa trên núi, bỗng thấy một vầng mây đen chở một con rồng đến phủ lên một con ngựa cái trong bầy ngựa đang ăn cỏ. Đến khi ngựa con do rồng phủ sinh ra, Trí Cao bắt cỡi, thấy nó sức lực phi thường, vượt núi như bay. Được con thần mã, Trí Cao bèn nối chí cha, liên kết các châu thượng du lại, tự xưng là Hoàng Đế Đại Lịch. Bị quân triều đình đánh bại, không nỡ diệt tuyệt họ Nùng, tha cho Trí Cao về, và phủ dụ bổ cho làm tri châu cai quản ba châu Quảng Uyên, Thượng Lang và Hà Lang, cùng phong cho chức Thái Bảo.
    Song mồi quyền quý, danh vọng của triều Lý ban không làm thỏa mãn hoài bão to tát của chàng tuổi trẻ họ Nùng, nên đến năm 1052, Trí Cao lại nổi lên hùng cứ, tự xưng là Hoàng Đế Đại Nam. Quan quân triều đình phái đi không dẹp nổi. Nùng Trí Cao nuôi chí lớn mở mang bờ cõi, muốn thực hiện mộng chiếm cứ các tỉnh lân cận của Trung Quốc. Để lôi cuốn binh sĩ theo mình, chàng đốt hết doanh trại, bảo là lương thực cháy sạch, muốn sống thì phải đi chiếm lấy tỉnh Quảng Tây. Nùng Trí Cao cầm đầu năm ngàn người xuôi theo sông Bằng Giang và Quảng Tây, lần lượt chiếm các châu Ung, châu Hoanh, thủ phủ của Nam Ninh ngày nay. Trên đường chiến đấu, đạo quân của Nùng Trí Cao được tăng cường lớn lao, quân số lên tới một trăm ngàn.
    Người ta kể lại rằng Trí Cao có các tướng tá tinh thông pháp thuật và chiến lược, như một vị sư tăng có phép hóa rồng khạc lửa xuống bên địch, hai nữ tướng là Đoàn Hồng Ngọc, con gái của tướng Đoàn Hồng Y, và Hoàng Lan Anh, bạn của Hồng Ngọc, có tài phép phi thường. Hai nàng đều có nhan sắc rực rỡ, quyến rũ bao nhiêu tướng trẻ của đối phương phải say mê, đem mình đến nạp dưới chân. Cả hai lại có phép thần thông, gọi gió, kêu mưa, đổi sông, dời núi, vãi đậu thành binh.
    Triều đình nhà Lý muốn liên minh với Nùng Trí Cao, gởi giúp một đạo quân to lớn do tướng Vũ Nhi cầm đầu, để phối hợp tiến đánh Trung Quốc, thế mạnh như vũ bão. Sau khi chiếm trọn tám châu Hoanh, Quí, Đang, Ngô, Khang, Đoàn, Cung và Tâm ở tỉnh Quảng Tây, liên quân Nùng-Việt sửa soạn tiến đánh luôn Quảng Đông. Các tướng Tàu là Du Tĩnh, Dương Điền và Tôn Hiến đều đại bại, Nùng Trí Cao gởi giấy đòi vua nhà Tống phong cho mình cai quản những châu đã chiếm được, bằng không thì sẽ cử quân tiến đánh Trung Quốc. Vua Tống đã toan nhượng bộ thì có tướng Địch Thanh đứng ra xin đi chinh phạt kẻ xâm lăng. Tống Địch Thanh được cử làm nguyên soái thống lãnh ba mươi vạn quân, gồm cả đại quân của các tướng Tôn Hiến và Du Tĩnh. Viên Tổng Đốc Quảng Tây mang tám ngàn quân nghênh chiến Nùng Trí Cao ở cửa ải Côn Lôn, bị đánh thua chạy về. Nguyên soái Tống Địch Thanh xuống lệnh chém đầu viên tướng bại trận để nêu gương cho quân sĩ.
    Nùng Trí Cao vẫn áp dụng chiến thuận rồng phun lửa của vị sư tăng cùng tà thuật của hai nữ tướng để chống lại đại quân nhà Tống ở Côn Lôn. Thấy khó bề chiến thắng đối phương, nếu không có phép mầu đối phó lại, Tống Địch Thanh phải nhờ đến một người đàn bà Trung Hoa có tà thuật là Đà Long Nữ. Đà Long Nữ có một cặp gọng kềm lợi hại có phép hóa thành đông rồng lửa thiêu cháy đối phương.
    Khi rồng của vị sư tăng phóng ra đối địch với cặp rồng lửa của quân Tống, thì khói lửa phun ra quày ngược trở lại đốt cháy cả quân Trí Cao. Thấy thế, Trí Cao liền cho hai nữ tướng hóa phép để dập tắt ngọn lửa đốt rồng bên mình. Đôi bên đánh nhau bất phân thắng bại.
    Tống Địch Thanh bèn nghĩ ra diệu kế để phá phép thần thông của hai nữ tướng đối phương. Từ trước đến nay, hai nữ tướng đã dùng nhan sắc kiều mị của mình để chiến thắng các tướng tài trẻ tuổi, Địch Thanh mới áp dụng ngay chiến thuật chiếm tình cảm để chiến thắng, cho hai con là Địch Long và Địch Hổ cầm quân ra trận. Hai con vị nguyên súy nhà Tống diện mạo tuấn tú, trẻ đẹp, đem lời dịu ngọt ra tán tỉnh hai nữ tướng đối phương, ngỏ lời muốn hòa hiếu giữa đôi bên để kết duyên đôi lứa, và đề nghị chấm dứt ngay cuộc xung đột. Trong phút chốc, chiến trường biến thành nơi trao đổi tình ái. Thiên anh hùng ca rực rỡ của Nùng Trí Cao đành phải nghẹn lời từ đây.
    Tống Địch Thanh thấy đối phương đã bị mắc mưu của mình, liền thừa cơ xua quân tiến đánh. Nùng Trí Cao đại bại, lui quân về đến Long Châu thì bị quân Tống đuổi theo vây bắt được. Thấy chủ tướng bị chém đầu ngay giữa trận tiền, cả quân sĩ vỡ tan mà chạy. Nùng Trí Cao hai tay ôm lấy đầu, cỡi con thần mã phóngn như bay về đến quê nhà là Sốc Giang để gặp mẹ già. Đến nơi, Trí Cao liền hỏi mẹ để hỏi: "Mé ơi, cây chuối bị chặt mất ngọn vẫn sống, người ta bị chặt đầu rồi có còn sống được không"? Bà mẹ là Hoàng A Nùng không nhìn con, đáp rằng: "Cây chuối bị chặt mất ngọn vẫn sống, nhưng người ta bị chặt mấy đầu rồi thì làm sao mà còn sống được"! Trí Cao quẳng đầu mình xuống dưới chân mẹ mà than: "Mé đã nói những lời làm chết con mất rồi"! Trí Cao quay lại bảo em là Nùng Trí Viễn, dặn chôn xác mình ở chân ngọn núi và trồng lau chung quanh mộ, rồi đốt hương luôn ngày đêm giữ cho đừng tắt, đợi cho đến khi lau mọc cao oằn cong tới đất, bấy giờ sẽ mở ngôi mộ ra, thì thấy một đạo quân với chủ tướng là Nùng Trí Cao sống lại, sẵn sàng gươm giáo, cung tên để tiến đánh quân nhà Tống mà chiếm lại đất nước.
    Nùng Trí Viễn nóng lòng muốn thấy ngày giải phóng đến sớm, mới cố ý tự tay uốn cong những cây lau cho chóng cong oằn xuống đất. Khi đầu những ngọn lau chấm đến đất, Trí Viễn bèn họp những người trong gia đình lại, bảo là đã đến lúc cải táng, rồi làm lễ cúng để khai phần mộ lên. Người ta thấy dưới đáy huyệt có cả một đạo quân đang sửa soạn hàng ngũ, song giờ chưa đến, còn phải ba hôm nữa mới đúng kỳ hạn, binh sĩ này mới có thể vùng lên đi đánh được. Thế là dự định hồi sinh của Nùng Trí Cao thất bại.
    Sau đó, dân trong vùng thường thấy Nùng Trí Cao hiện ra, cỡi con thần mã bay trên mây, bèn dựng một ngôi đền thờ ngày này hãy còn tại Sốc Giang, quê hương vị anh hùng xứ Thái. Dân hạt lân cận cũng thấy Trí Cao ứng hiện, nên cũng xây một đền thờ trên ngọn núi Kỳ Sâm, ở núi phía bắc tỉnh thành Cao Bằng. Hằng năm, đến ngày mồng mười tháng giêng, dân chúng ở quanh vùng lũ lượt trèo lên ngọn núi hai sừng Kỳ Sâm, mang lễ vật đến đền thờ họ Nùng. Người ta giết trâu, bò, heo, dê, cùng nhiều súc vật khác để cúng tế rất trọng thể. Dân chúng phải khó nhọc leo núi viếng đền, nên một hôm có người đại diện đứng ra khấn xin Nùng Trí Cao chỉ định cho một nơi khác để thờ phụng. Tức thì một trận gió lớn nổi lên bật tung mái tranh đền, thổi lên một gò cao gần làng Bản Ngôn. Người ta cho rằng đó là ý muốn của vị thần họ Nùng biểu hiện nên dân chúng họp nhau dựng lên một ngôi đền thờ mới ở giữa thắng cảnh này, đến ngày nay vẫn còn.
    Đến đời Trần, thể theo nguyện vọng của dân chúng, triều đình phong cho Nùng Trí Cao chức Kỳ Sâm Đại Vương. Tượng chiến sĩ họ Nùng được dựng lên ở miền biên giới Việt-Hoa, quanh năm hương khói, tay cầm gươm tuốt trần, ngồi trên con thần mã, như sẵn sàng chống lại người phương bắc muốn dòm ngó phương nam.
  4. flyingmagician

    flyingmagician Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/03/2002
    Bài viết:
    1.720
    Đã được thích:
    1
    Theo wiki:

    Năm 1038, châu Quảng Nguyên (nay thuộc tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn) có Nùng Tồn Phúc làm loạn, tự xưng là Chiêu Thánh Hoàng Đế, đặt quốc hiệu là Trường Sinh, đắp thành, luyện quân, không nộp cống cho nhà Lý nữa. Vì vấn đề thống nhất quốc gia và để ngừa trước không cho xảy ra tình trạng hùng cứ địa phương, nên năm 1039, Lý Thái Tông thân chinh đi đánh dẹp, bắt được Nùng Tồn Phúc đem về kinh xử tội. Vua xuống chiếu phủ dụ toàn dân:
    Trẫm từ khi làm chủ thiên hạ tới nay, các bề tôi văn võ, không người nào dám bỏ tiết lớn; phương xa cõi lạ, không nơi nào không thần phục. Mà họ Nùng đời này qua đời khác cũng giữ yên bờ cõi được phong, hằng năm đều nộp cống phẩm.
    Nay Tồn Phúc càn rỡ, tự tôn tự đại, tiếm xưng vị hiệu, ban hành chính lệnh, tụ tập quân ong kiến, làm hại dân biên thùy. Vì thế, trẫm cung kính thi hành mệnh trời trách phạt, bắt được bọn Tồn Phúc, gồm 5 người, đều đem chém đầu ở chợ
    Nùng Tồn Phúc bị bắt sống còn A Nùng (vợ Nùng Tồn Phúc) và con là Nùng Trí Cao chạy thoát. Năm 1041, Nùng Trí Cao cùng với mẹ từ động Lôi Hỏa về châu Thảng Do (gần Quảng Nguyên) lập ra nước Đại Lịch. Thái Tông cho quân đi đánh, bắt được Trí Cao đem về kinh. Nhưng vua nghĩ trước đã giết cha, nay thương tình không giết, tha cho về và phong cho làm Quảng Nguyên mục. Tình hình được tạm yên.
    Năm 1044, Nùng Trí Cao về chầu vua Lý ở Thăng Long. Nhưng năm 1048, Nùng Trí Cao làm phản, chiếm động Vật Ác (tây bắc Cao Bằng). Vua sai quan thái uý Quách Thịnh Dật đem quân đi đánh nhưng không thắng được. Năm 1052, Nùng Trí Cao đem 5.000 quân đánh lấy Ung Châu, rồi chiếm hết vùng đất ở Quảng Đông, Quảng Tây, tự xưng là Nhân Huệ Hoàng Đế, đặt quốc hiệu Đại Nam. Nhà Tống lo sợ. Vua Lý biết quân lực nhà Tống yếu, vờ xin đem quân sang giúp. Vua Tống đồng ý. Nhưng Địch Thanh là tướng có kinh nghiệm can đi. Vua Tống không nhờ quân nhà Lý nữa.
    Năm 1053, Địch Thanh cầm quân đi đánh Trí Cao. Trí Cao chống cự không nổi, phải rút quân. Trí Cao cử Lương Châu đến triều đình Lý xin cứu viện, nhà Lý muốn nhân đó, kiềm chế cuộc tiến quân của nhà Tống, bèn cử chỉ huy sứ Vũ Nhị đem quân lên giúp. Nhưng quân Trí Cao vẫn không tiến thêm được bước nào. Thất bại liên tiếp, Trí Cao phải chạy sang nước Đại Lý rồi chết ở đó.
  5. flyingmagician

    flyingmagician Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/03/2002
    Bài viết:
    1.720
    Đã được thích:
    1
    Cái bản tin người Thái - Vân nam thì nó viết thế này.
    Nowhere else is the 11th-century rebel Nùng Trí Cao (Nong
    Zhigao ",T~) (1025? -1055?) more revered than in his own
    home region within Tai-speaking communities along the
    modern border between China's Guangxi Autonomous Region
    and Viet Nam''s Cao Băng Province. The present source of
    regional pride in Trí Cao may be found in tales of his three
    ambitious but unsuccessful attempts to establish a Sino-
    Vietnamese frontier kingdom in 1042, 1048 and 1052.
    Throughout the imperial period, both Chinese and Vietnamese
    court historians labeled Nùng Trí Cao a troublemaker. His
    public image was not rehabilitated until Marxist regimes took
    power in these countries. Nùng Trí Cao is now remembered
    officially on both sides of the border as a "hero of the people",
    although the identity of "the people" remains unclear.
  6. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    em xin trích bên Sơ lược hải sử nước ta của Trần Trọng Kim về hải quân nhà Lý trong lần đánh Ung châu , Khâm châu ...
    Hải-Quân đánh Tống
    Như mọi người đã biết, ngày 27 tháng 10 năm 1075, để phá các căn cứ xâm lược của Tống ở trên đất Tống. Lý Thường Kiệt đã cho tướng Tôn Đàn chỉ tuy quân Tầy- Nùng vượt biên giới đánh vào đất Quảng Tây, sau đó đến cuối tháng 12 năm 1075, ông thân dẫn thủy quân xuất phát từ Vĩnh An đánh Khăm Châu và Liêm Châu.
    Hoàn thành nhiệm vụ; Lý Thường Kiệt đã chủ động rút quân về nước để ngăn cản quân Tống sắp kéo sang xâm lược Đại Việt. Ông đã xây dựng một phòng tuyến rất vững chắc ở bờ Nam sông Cầu nhầm ngăn chặn quân Tống qua sông để đánh vào Thăng Long.
    Lý Thường Kiệt lại biết rằng để hỗ trợ cho bộ binh do Quách Quỳ và Triệu, Tiết chỉ huy, Tống Thần tôn và Vương An Thạch cho một đạo thủy quân do Dương Tùng Tiên chỉ huy: đạo thủy quân này có nhiệm vụ tiến vào sông Bạch Đằng rồi vào sông Lục Đầu để cuối cùng vào sông Cầu giúp bộ binh của Quách Quỳ và Triệu Tiết qua sông. Ông đã sai tướng mang chu sư đóng ở Đông Kênh để chặn đường tiến của thủy quân Tống. Tướng Lý Kế Nguyên đã hoàn thành nhiệm vụ một cách vẻ vang: ông đã đánh bại thủy quân của Dương Tùng Tiên. Chiến thắng của tướng Lý Kế Nguyên đã góp phần quan trọng vào việc làm phá sản mọi kế hoạch tiến công của Quách Quỳ, buộc họ Quách cuối cùng phải chấp nhận rút quân về nước.
    Thủy quân của nước Đại Việt dưới triều Lý là một lực lượng hùng mạnh, nó đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp phá Tống Bình Chiêm vô cùng hiển hách. Suốt thế kỷ XII và đầu thế kỷ XIII, nó vẫn là một nguồn tự hào của cả dân tộc.
    Chiến-thuật của thủy-quân Đại-Việt
    Cuộc hành quân của Lý Thánh Tôn và Lý Thường Kiệt tỏ ra phía Đại Việt nắm rất rõ việc bố trí lực lượng của nước Chiêm Thành, cho nên thủy quân Đại Việt không đánh cửa Di Luân và cũng không vào cửa Bố Chánh, mà tiếp thẳng vào cửa Nhật Lệ và đã đánh tan thủy quân Chiêm ở đây, Thủy quân Chiêm bị phá hoàn toàn ở Nhật Lệ có nghĩa là thủy quân Đại Việt có thể cứ giương buồm thuận gió tiến thẳng vào Nam, mà không sợ bất cứ lực lượng nào đánh vào lưng mình nữa. Cho nên sau khi đánh thắng thủy quân Chiêm, thủy quân Đại Việt không chiếm đất và cũng không đổ bộ: quân Đại Việt thuận buồn tiến xuống phía Nam rồi vào cửa Tư Dung để nghỉ ngơi ở đó để chuẩn bị một trận quyết chiến sắp diễn ra. Ngày 3 tháng 4 năm 1069, thủy quân Đại Việt vào cửa Thi Nại rồi đổ bộ ở ven bờ vũng Nước mặn. Sau đó quân Đại Việt tiếp đến sông Tu Mao để đánh tan quân Chiêm ở đó ...
    Đã giành lại quyền Tự-chủ, Thủy-quân còn mở rộng Biên-cương
    Việt-Sử không những đã khiếm-khuyết trong việc trình-bày thành-tích hải-quân mà còn sai lạc khi bình-luận về vai trò của quân-chủng này về viêc mở rộng biên-cương:
    - Thủy-quân nhà Lý mạnh, biên-cương nuớc ta ăn sâu vào Trung-Quốc hàng 3, 400 cây số. Có thể vì sau này thủy-quân cứ suy-thoái, dân Việt không bao giờ còn trở lại đất xưa, ta đành cam nhận chịu ranh giới như hiện nay.
    - Sau khi Bắc-tiến bị chận lại, thủy-quân chính là nỗ-lực trong mũi dùi Nam-tiến. Nhìn chung những sử sách cận-đại dã không chấp-nhận một sự kiện hiển-nhiên rằng: Hải-quân nhà Nguyễn nối cánh tay dài, bảo vệ toàn-dân trải dài cuộc định-cư từ Quảng-Nam đến mũi Cà-Mâu. Về phía Tây, lực-lượng ấy bao trùm an-ninh tận Hà-Tiên. Phía Đông Hải-quân đã tuần-phòng Hoàng-Sa Trường-Sa, trước khi bị giặc Pháp tiêu-diệt.
    Nói tóm lại, nếu không có hải-quân hùng-mạnh, Việt-quân không thể Bắc-tiến đánh Tống và Nam-tiến bình Chiêm

    xin nói thêm về cuộc nam tiến bình chiêm
    Thủy-Quân bình Chiêm thời Lý-Thánh-Tôn
    Trong các đời vua trước, cái cớ đánh Chiêm-Thành là vì tội bỏ tiến cống. Đến đời Lý-Thánh-Tôn, vua dựa vào tội Chiêm thờ hai chủ: vừa xưng thần với Việt nay lại thần-phục nhà Tống.
    Năm 1068, vua Lý Thánh Tôn ra lệnh sửa soạn thuyền chiến dùng hải-đạo đánh Chiêm. Mỗi chiến-thuyền chở 250 quân-sĩ. Tổng số thuyền chở lương-thực có tất cả 200 chiếc. Quân viễn-chinh vào khoảng 30,000 người đặt dưới quyền điều-khiển của Lý Thường Kiệt.
    Từ biên giới Việt - Chiêm đến cửa Thị Nại tức cửa biển Quy Nhơn sau này, Chiêm Thành có các cửa biển sau đây: Cửa Di Luân tức cửa Ròn ở cực bắc. Cửa biển này nhỏ nên không thể là một căn cứ thủy quân. Cửa biển thứ hai là cửa Bồ Chánh hay cửa Gianh. Cửa biển này rộng, nhưng lại cạn, nên cũng không thể là một căn cứ thủy quân quan trọng được. Cửa biển thứ ba là cửa Nhật Lệ, sau này là cửa Đông Hà. Nhật Lệ là một cửa biển lớn. Chế Củ đã tập trung một phần quan trọng thủy quân ở đây, Cửa biển thứ tư là cửa Tư Dung sau gọi là Tư Hiền. Tại cửa biển này không có thủy quân Chiêm hay có nhưng không đáng kể. Cửa biển thứ năm là cửa Thi Nại tức cửa biển Quy Nhơn. Đây là cửa ngõ vào cánh đồng bằng Bình Định, nơi có kinh đố Chà Bàn (Vijaya) của Chế Củ.
    Một bộ phận quan trọng của thủy quân Chiêm đóng ở cửa Thi Nại. Còn đại bộ phận bộ binh đóng ở Chà Bàn và cánh đồng bằng Bình Định.
    Ngày 8 tháng 3 năm 1086, vua Lý Thánh Tôn giao việc nước cho Ỷ Lan nguyên-phi và tể tướng Lý Đạo Thành rồi xuống thuyền xuôi dòng sông Hồng bắt đầu cuộc Nam chinh.
  7. thanhle2004

    thanhle2004 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/06/2004
    Bài viết:
    4.211
    Đã được thích:
    2.247
    Toàn là thần thoại. Theo tớ nhớ thì thế này:
    Trí Cao là một tên tướng cướp. Đánh Quân Tống chiến thắng mấy trận, vua Tống sợ, theo lời tâu của Địch Thanh, không mượn quân Đại Việt nữa mà cử Địch Thanh đi đánh. Địch Thanh đến quan sát tình hình, biết Trí Cao có ải Côn Lôn hiểm trở. Liền bày kế. Ra lệnh quân sĩ và các tướng suốt ngày đánh chén. Trí Cao biết chuyện liền trễ nải phòng bị. Thế rồi đột nhiên một hôm, giữa tiệc rượu, ĐT đứng dậy bảo "đi ra ngoài". Các tướng không ai hiểu ra sao. Đến sáng thì có tin đã lấy được ải Côn Lôn. Khi ấy mới vỡ lẽ. Trí Cao biết chuyện, liền đem quân ra nghênh địch. ĐT bày trận kiểu cổ điển. Kỵ binh đóng ở 2 cánh. Khi quân Nùng đến, sai cánh kỵ binh bên phải đánh xiên sang trái, cánh kỵ binh bên trái đánh xiên sang phải. Đại quân từ giữa tiến lên. Quân Nùng đại bại (có thể là do kỵ binh không có hoặc có nhưng mà yếu không chống nổi). Chú ý là Quân của ĐT chiến đấu với Tây Hạ nhiều lần, mà người Tây Hạ thì giỏi kỵ binh, rất dũng mãnh.
  8. vinhvinh

    vinhvinh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/09/2003
    Bài viết:
    957
    Đã được thích:
    2
    Đồng ý với bạn , đã là chiến tranh bên thắng hay bên thua nhân dân đều khổ. Nhất là bên bại trận.
    Sau khi chiến thắng quân Nguyên, sứ Nguyên là Trần Phu khi đi qua Liễu Châu, thấy dân Trung Quốc ở Liễu Châu khổ sở, Trần Phu làm bài thơ " Liễu Châu đạo trung" tỏ rõ nỗi sợ và điều mong muốn của ông ta trong đó có những câu " Dân trong xóm thôn điêu linh tang tóc đã nhiều. Kẻ làm tướng ở biên cương thôi đừng nói tới việc binh đao nữa".
  9. vinhvinh

    vinhvinh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/09/2003
    Bài viết:
    957
    Đã được thích:
    2
    Trước khi nói tiếp về mấy vụ nổi dậy của các cụ dân tộc vào thời Nguyên thì phải nói đến cái uy thắng trận của đời Trần-hào khí Đông A.
    Sau khi 3 lần thất bại thảm hại, bọn cuồng chiến vẫn chưa chịu ngồi yên, cay cú dự định trả thù. Chính vì thế trong các năm 1288,1289,1290 ta thường chủ động cho sứ sang Nguyên để thăm dò. Bọn vua chúa Nguyên dù tham vọng và cay cú đến đâu cũng chưa thể nào gượng dậy mà gây chiến với ta. Hai cuộc chiến tranh mới qua, mỗi lần xâm lược giặc đều đưa 50 vạn quân, nay muốn đánh nữa thì phải đông hơn. Giặc không thể huy động một lực lượng đông như vậy trong tình hinh Trung Quốc lúc đó. Cuộc chiến tranh với Việt Nam làm NGuyên hao người tốn của rất nhiều, dân tình hết sức khổ cực. Chiến thắng của Việt Nam làm giảm sút nghiêm trọng uy tín và thế mạnh của triều Nguyên làm khắp Trung Hoa nổi dậy chống triều đình. Trước hết là cuộc nổi dậy trong nội bộ của các chư vương Mông Thát do Hải Đô trong họ Nguyên Thái Tôn Oa Khoát Đài cầm đầu , đánh phá miền bắc Trung Quốc. Năm 1288 nhân khi Hốt Tất Liệt bị thua nặng ở Việt Nam thì bọn Hải Đô tiến công mạnh ở miền bắc. Tháng 7 năm 1289 Hốt Tất Liệt phải đích thân cầm quân lên bắc chống nhau với Hải Đô ( Nguyên sử).
    Trong khi đó phong trào khởi nghĩa của các nước nam Trung Quốc được chiến thắng của Việt Nam cổ vũ đã nổi lên chống triều đình Nguyên khắp nơi. Đặc biệt là phong trào của người Tày đã liên kết được người Tày ở bắc Việt Nam và người Tày ở những vùng Nguyên chiếm được cùng nổi lên đánh phá Hoa Nam quân số hàng vạn người do một thủ lĩnh người Tày ở châu Thượng Tư, miền bắc Việt Nam ( tức là huyện Thượng Lang tỉnh Cao Bằng ngày nay ) là Hoàng Thắng Hứa lãnh đạo.
    Chắc trong này nhiều bác đã đi Móng Cái sang bên kia là khu tự trị của người Choang, nhưng ít bác biết rằng người Choang chính là đồng bào Tày của ta. Người Tày vùng Cao Bằng , Lạng Sơn, Quảng Ninh và người Tày ở Quảng Tây vốn cùng một dân tộc, sống tập trung ở miền Bắc nước ta và ta gọi là người Thổ. Biên giới nước ta bị các triều đại phương bắc đẩy lùi xuống phía nam, cắt đôi khu vực của người Tày, tách một bộ phận về Trung Quốc. Lúc đầu Trung Quốc vẫn gọi họ là người Thổ, cuối đời Tống trở đi gọi là người Chàng, đọc theo âm Bắc Kinh là người Choang. Sự chia cắt về địa lý lúc này không chia cắt được tình cảm dân tộc của người Tày. Họ luôn đấu tranh chống các triều đại Trung Quốc và chống chính quyền Ung Châu. Người Tày có mấy dòng họ lớn, có thế lực trong nhân dân là họ Hoàng, họ Nông, họ Vi, họ Thân, họ Chu. Mấy dòng họ này rải rác ở nhiều địa phương, ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh cũng có mà ở Quảng Tây cũng có. Từ xa xưa mấy dòng họ này đời nào cũng có người nổi lên chống Trung Quốc. Riêng họ Hoàng, từ thế kỉ XIII trở đi , thời nào cũng có người lãnh đạo dân Tày khởi nghĩa.
  10. eskimot09

    eskimot09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/08/2005
    Bài viết:
    249
    Đã được thích:
    0
    Nếu căn cứ theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư thì đoạn này không hoàn toàn chính xác:
    - Thứ nhất là năm 1048 khi Trí Cao làm phản, Thái Úy Quách Thịnh Dật đi đánh, Trí Cao phải hàng chứ không phải là không Thắng được.
    - Thứ 2, tháng 4 năm 1052, Trí Cao lại làm phản và xưng là Nhân Huệ Hoàng Đế trước chứ không phải là sau khi đem quân sang các Châu Ung, Hoành... của nhà Tống. Và cũng không phải là chiếm hết cả Nhị Quảng mà là sau 5 tuần vây đánh thành Quảng Châu không được lại quay về đánh phá Ung Châu, giết hơn 3 nghìn lính Tống, bắt dân hàng vạn.
    - Thứ 3, chuyện Thái Tông xuống chiếu sai chỉ huy sứ Vũ Nhị đem quân cứu Trí Cao có được ghi lại nhưng kèm theo chú thích của Ngô Sĩ Liên là: "việc quân của Vũ Nhị cứu viện cho Nùng Trí Cao đánh quân Tống không thấy tài liệu nào nói đến, có thể chỉ mới có dự định, chưa kịp thực hiện thì Trí Cao đã chết"

Chia sẻ trang này