1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những lễ hội và Làng nghề truyền thống Hải Dương

Chủ đề trong 'Hải Dương' bởi hoangtutrau, 05/05/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hoangtutrau

    hoangtutrau Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/02/2004
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    Thúng Đan Giáp

    Thúng là đồ đựng cổ truyền của người Việt. Trong xây dựng, thúng dùng để đội sỏi cát, đá...Trong một số nghề thúng được dùng như một loại bao bì như: Thúng đựng rươi, đựng cá, đựng muối...Cùng với bồ, thúng còn được dùng phổ biến trong nghề buôn chuyến, nhất là ở các chợ quê.

    Lại có loại thúng sơn để gánh nước hoặc bán cá giống. Cao cấp hơn, thúng được đan óng chuốt, sơn hoặc nhuộm mầu, có nắp đậy để đựng đồ tư trang của các bà các cô giầu có thuở xưa. Hiện nay, tuy có nhiều đồ đựng cao cấp, nhưng thúng cổ truyền vẫn được dùng phổ biến trong dân gian và thúng cao cấp vẫn được bày bán trong các cửa hàng mỹ nghệ tại những thành phố lớn. Thúng có nhiều cỡ, nhiều loại như: Thúng cái, thúng nhì, thúng ba, thúng con, thúng khảo ...
    Đan và cạp thúng không dễ, và không phải làng xã nào cũng có truyền thống, mà mỗi tỉnh chỉ tập trung ở một số làng. Trong số những làng có nghề đan thúng cổ truyền, đan Giáp là làng có truyền thống lâu đời, sản xuất đại trà, nay vẫn duy trì và phát triển.
    Đan Giáp thời phong kiến là một xã, từ năm 1955 là một thôn thuộc xã Thanh Giang, huyện Thanh Miện. đây là quê hương danh tướng Vũ Văn Dũng của nghĩa quân Tây Sơn. Năm 1991, Đan Giáp có 450 hộ thì có tới 400 hộ đan thúng. Trung bình mỗi hộ có thể đan 3 đôi thúng một ngày, như vậy mỗi tháng nông nhàn có thể đưa ra thị trường 36.000 đôi thúng các loại. Đan Giáp sản xuất hai loại thúng: thúng cái đựng được 20 kg thóc, thúng con đựng khoảng 15kg; đan bằng tre goá, theo lóng ba(cất ba đè ba) và lóng nia( cất 4, đè 3, cất 2; dân gian thường nói là cất tứ cất nhì thù thì đè ba). Thúng dù đan theo kiểu gì thì trên thị trường dân gian vẫn có thể nhận được đặc điểm của từng làng nghề.
    Hiện nay các loại bao đay và nilông phát triển, cạnh tranh với thúng trên một số lĩnh vực, nhưng không thể thay thế hoàn toàn chức năng của thúng trong đời sống nông thôn Việt Nam, vì thế nghề đan thúng của Đan Giáp vẫn tồn tại và đứng vững trên thị trường, như câu ca dao vẫn lưu truyền:
    Đồng Lại bánh đúc gạo xay,
    Trở về Đan Giáp ta quẩy nghề đan.
    Vũ Xá chẻ nứa đan vàng,
    Ba làng ba việc cơ hàn không lo.(1)

  2. hoangtutrau

    hoangtutrau Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/02/2004
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    Bánh Đa Kẻ Sặt

    Ở Hải Dương hầu như ở huyện nào cũng có người làm bánh đa nhưng chỉ là bánh đa nấu và nướng thông thường. Riêng có Kẻ Sặt có loại bánh đa nổi tiếng trở thành một loại đặc sản như bánh gai Ninh Giang, bánh đậu xanh Hải Dương.

    Kẻ Sặt thời phong kiến là một xã thuộc tổng Thị Tranh. Kẻ Sặt là tên nôm của làng Tráng Liệt. Năm 1958, tách một phần xã Tráng Liệt, lập thị trấn Kẻ Sặt.
    Bánh đa Kẻ Sặt là loại bánh đa ngọt, bánh đa cao cấp, thành phần nguyên liệu gồm : Gạo tẻ loại tốt, vừng loại tốt, trước đây thường mua loại vừng ở miền núi, hạt mẩy và nhỏ, chỉ bằng 1/3 hạt vừng đồng bằng, nhưng chất lượng cao. Đường kính hoặc đường cát tinh khiết. Lạc chọn loại già, mẩy, nhân to. Dừa loại già, cùi dầy. Gừng tươi loại già. Bánh đa được làm theo tỉ lệ nguyên liệu : Gạo 10, đường 4, vừng 1, lạc và dừa 1,5 và vài lát gừng giã nhỏ làm gia vị.
    Bánh đa Kẻ Sặt đầu thế kỷ XX rất nổi tiếng và ăn khách, người ta không chỉ bán tại quê mà còn bán buôn đi nhiều thành phố, thị xã. Bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, ngghề làm bánh đa ngọt sa sút. Sau hoà bình lập lại, 80% dân Kẻ Sặt di cư vào Nam , vì đây là dân công giáo toàn tòng. Đến năm 1991, bên cạnh nghề nông có tới 30% số hộ làm nghề buôn bán và tiểu thủ công nghiệp. bánh đa ngọt chưa tìm được thị trường nên chỉ có 4 gia đình làm bánh bằng 2% số hộ hiện có. Hiện nay, đời sống của nhân dân đã được cải thiện, khách sạn, nhà hàng phát triển nếu tiếp thị tốt và cải tiến về mặt sản xuất, bánh đa Kẻ Sặt hoàn toàn có cơ hội phục hồi và phát triển như bánh đậu, bánh gai

  3. hoangtutrau

    hoangtutrau Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/02/2004
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    Nghề chạm khắc đá Kính Chủ

    Đá là vật liệu sẵn có trong thiên nhiên, được con người chế tác làm công cụ lao động từ buổi bình minh của lịch sử. Trải qua hàng vạn năm, con người đã tích luỹ được tri thức và kinh nghiệm chế tác, tạo nên những nghệ nhân, những trung tâm chuyên sản xuất những sản phẩm bằng đá, trong đó có những tác phẩm vô, giá những công trình hùng vĩ, nay trở thành di sản văn hoá của nhân loại.

    Làng Kính Chủ, xã Phạm Mệnh, huyện Kinh Môn có nghề chạm khắc đá lâu đời, tác phẩm sớm nhất còn lại đến ngày nay là tấm bia bút tích Phạm Sư Mệnh, khắc năm thứ 144 triều Trần (1369) tại động Kính Chủ. Thợ đá Làng Kính Chủ có thể thực hiện hầu hết những công việc về chế tác đá như : Bắc cầu, làm quán, đục cối, tạc tượng, khắc bia, làm đá tảng, đá phiến... Trong suốt một nghìn năm theo đuổi nghề nghiệp, thợ đá làng Kính Chủ đã sản xuất biết bao công trình và sản phẩm bằng đá, trong đó có những sản phẩm trở thành di sản văn hóa tiêu biểu của dân tộc, đặc biệt là hàng vạn bia ký-những trang sử bằng đá vô cùng quý báu còn lưu lại đến nay. Nhiều công trình còn ghi rõ do thợ đá Kính Chủ thực hiện, trong đó có thành nhà Hồ ở Vĩnh Lộc Thanh Hoá, xây dựng năm 1400, bia chùa Đông Dương tự, chùa Côn Sơn...
    Qua hai cuộc chiến tranh, nghề chạm khắc đá ở Kính Chủ đã mai một nay đang phục hồi, nhưng chưa tương xứng với truyền thống mà các thế hệ trước đã có.


  4. hoangtutrau

    hoangtutrau Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/02/2004
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    Chỉ Phú Khê

    Tại các di chỉ khảo cổ học thời kỳ đồ đồng và sơ kỳ đồ sắt ở nước ta đã thấy kim khâu, dọi xe chỉ, chì lưới, dấu vết nhiều loại vải in trên đồ đồng, đồ gốm.

    Hình người trên trống đồng loại một cũng thấy trang phục được thêu thùa tỉ mỉ. Điều đó chứng tỏ trên 2000 năm trước, dân tộc ta đã biết dệt nhiều loại vải, xe chỉ may, đan lưới với óc thẩm mỹ cao. Phú Khê là một làng nhỏ ( năm 1983 có trên 400 khẩu ) thời Trần thuộc Hồng Lộ , thời Lê thuộc huyện Đường An nay là một thôn thuộc xã Thái học, huyện Bình Giang. Nghề xe chỉ ở đây có từ thời Trần, tồn tại và phát triển suốt 7 thế kỷ, lúc phồn thịnh, hầu như nhà nào cũng làm nghề. Sản phẩm gồm nhiều loại, nhưng chỉ có hai loại chính chỉ khâu và chỉ phục vụ cho nghề làm lưới của làng Vạc liền kề. Năm 1955 có 216 lao động xe chỉ hợp đồng cho nhà nước. Năm 1983 có khoảng 20 gia đình hành nghề chủ yếu xe chỉ phục vụ nghề làm lược của làng Vạc. Công nghiệp phát triển đã thay thế nghề xe chỉ thủ công tồn tại hàng nghìn năm lịch sử. Nghề xe chỉ Phú Khê nay không còn, nhưng hình ảnh và công cụ cũng như sản phẩm của họ cũng mãi mãi lưu giữ trong bảo tàng địa phương và quốc gia, chứng minh cho nền sản xuất thủ công của dân tộc một thời.

  5. hoangtutrau

    hoangtutrau Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/02/2004
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    Gốm Cậy

    Cậy là tên nôm của làng Hương Gián và Kê Gián thuộc tổng Bình Dã thời Hậu Lê, thuộc tả ngạn sông Kẻ Sặt. Từ năm 1946, Cậy là một thôn thuộc xã Long Xuyên, huyện Bình Giang.

    Năm 1900, Hương Gián, Kệ Gián có trên 1800 khẩu. Bên cạnh nghề nông, làng Cậy làm nhiều nghề phụ, trọng tâm là sản xuất đồ gốm. Cậy là một điển hình về một làng sản xuất đồ gốm cổ truyền. Cả làng xây dựng trên những phế tích của lò gốm từ thế kỷ thứ XV, có nơi dầy tới 4-5m. Nhà xây san sát, đường làng ngõ xóm nhỏ hẹp, suốt dọc bờ sông nhà ngói nối tiếp nhau như một phố cổ, tre xanh la đà mặt nước, chợ bến lao xao, thuyền bè xuôi ngược. Điều kiện tự nhiên và xã hội tạo cho làng phát triển trên ba phương diện : Nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp. Về phương diện sản xuất gốm sứ, Cậy chỉ là một điểm trong tập đoàn sản xuất gốm ở thế kỷ XV-XVII dài trên 5 km theo tả ngạn sông Sặt và Đò Đáy
    Gốm Cậy buổi đầu nung theo lò cóc, rồi lò món, lò bầu. Sản phẩm gốm Cậy rất đa dạng , đại trà là bát, đĩa, âu, chậu, lọ bình, con giống, phục vụ tầng lớp bình dân, gốm mỹ nghệ cao cấp có nhưng không nhiều, xương gốm thô và dày. ở thế kỷ XIX, còn một loại sản phẩm độc đáo, đó là gạch Cậy . Đây chính là một loại bao nung cải tiến thành một sản phẩm hữu ích .
    Tồn tại suốt 5 thế kỷ, trải qua không ít thăng trầm, gốm Cậy vẫn tồn tại. Sản phẩm tuy chưa đạt tiêu chuẩn hàng cao cấp nhưng giá thành hạ, rất phù hợp với khả năng tiêu dùng của đại đa số nhân dân, nên ở những thế kỷ trước, gốm Cậy rất phát triển, chủ yếu phục vụ dân dụng, nội địa.
    Hiện nay gốm Cậy vẫn tồn tại tuy không phồn thịnh như xưa, nhưng sản phẩm rất đa dạng và phong phú như bát đĩa, bình lọ hoa, đồ sành, ngói cao cấp cổ truyền, phỏng chế đồ cổ, gốm mỹ nghệ...

  6. hoangtutrau

    hoangtutrau Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/02/2004
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    Chiếu Tiên Kiều

    Cói là một loại cỏ mọc nhiều ở vùng nước lợ, được dân tộc ta sớm phát hiện tính ưu việt của nó trong việc làm nguyên liệu sản xuất đồ gia dụng như : Đan bị, áo, vỉ buồm, võng, đánh gianh lợp nhà, làm dây buộc hàng...Sản phẩm quan trọng nhất của cói là chiếu, nó trở thành vật không thể thiếu trong mỗi gia đình Việt Nam giầu cũng như nghèo, thành thị cũng như thôn quê hàng ngàn năm trước, cho tới hôm nay, và mai sau, dù vải lụa có nhiều đi nữa, chiếu cói vẫn có vị trí xứng đáng trong đời sống gia đình Việt Nam.

    Tặng em đôi chiếu em nằm
    Đôi chăn em đắp đôi chằm em đeo.
    ( Ca dao )

    Hải Dương là một miền đất có vành đai nước lợ rộng lớn, phù sa mầu mỡ, khi chưa có đê, triều lên, nước ngập mênh mông, tạo điều kiện cho cói tự nhiên phát triển thành những cánh đồng ngút ngàn dọc các triền sông Thái Bình, Văn úc, Kinh Thầy ... Trên cơ sở nguồn nguyên liệu sẵn có, nghề dệt chiếu đã hình thành rất sớm. Chiếu cói trong các mộ cổ có niên đại trên dưới 2000 năm. Đến thế kỷ XIX, nhiều làng dệt chiếu chuyên nghiệp. đã được lịch sử ghi nhận như : Uông Thượng, Uông Hạ, Chu Đậu, Mặc Xá..., Đặng Xá (Nam Sách )Nga Hoàng (Cẩm Giàng ), Quảng Uyên, Chu Uyên (Tứ Kỳ) Lập Lễ, Hạ Vĩnh (Thanh Hà) mà điển hình là Tiên Kiều - Hà Đông (Thanh Hà )
    Từ thuở xa xưa, truyền thuyết cũng không đủ sức vượt thời gian để nói về buổi đầu dựng nghiệp, chỉ biết nghề dệt chiếu bắt đầu từ Tiên Kiều (xã Thanh Hồng) rồi lan ra cả tổng, cả khu, đến nay là vùng trọng điểm cói và chiếu của tỉnh.
    Từ cói hoang, người ta đã chọn và nhân giống thành cói trồng có chất lượng cao, trong đó có loại thân tròn, dài, sợi dẻo, dai gọi là cói cơm. Năm 1985, xã Thanh Hồng có 241 ha chuyên canh cói, 570 go dệt thì làng Tiên Kiều chiếm 490 go. Như vậy là hầu hết gia đình ở đây làm nghề dệt chiếubên cạnh nghề nông. Sản lượng chiếu của Thanh Hồng mà căn bản của Tiên Kiều năm 1985 là 80000 chiếc.
    Chiếu cói có nhiều ưu việt : giá trị sử dụng hơn nhiều loại vải trải giường nay đã biết, kể cả chiếu nilông, phù hợp với hoàn cảnh sinh thái Việt Nam và nhiều nước trên thế giới, công nghệ sản xuất đơn giản, giá thành hạ, nguyên liệu có thể sản xuất nhanh với khối lượng lớn, độ bền khá. Sự có mặt của chiếu cói rộng khắp và tồn tại qua hàng nghìn năm đã khẳng định giá trị của nó. Nếu tận dụng khả năng ưu đãi của tự nhiên, tổ chức sản xuất khoa học, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mặt hàng, kinh doanh năng động thì nghề dệt chiếu của Tiên Kiều và khu vực Hà Đông và của Hải Dương sẽ phát triển và đạt hiệu quả cao về kinh tế và xã hội

  7. hoangtutrau

    hoangtutrau Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/02/2004
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    Giường chõng tre Bùi Xá

    Giường, chõng, tràng kỷ, chạn bát, giại tre là đồ dùng phổ biến và thân thuộc của mỗi gia đình nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Đóng giường , chõng tre thì làng nào cũng có thợ, nhưng đóng đúng kiểu truyền thống và đẹp như một mặt hàng mỹ nghệ thì không nhiều, thường tập trung ở một số làng, trong đó có Bùi Xá, một trong bốn làng của xã Nhân Quyền, huyện Bình Giang.

    Nghề đóng giường chõng tre của Bùi Xá có từ bao giờ không ai trả lời được, những nghệ nhân cao tuổi nhất cũng chỉ biết, khi lớn lên, đã thấy cả làng làm thợ. Thợ ở đây không có phường hội, không có khoán ước, không giữ bí mật. Mọi người học tập lẫn nhau, con nối nghiệp cha, đời này qua đời khác thành nghề cổ truyền bên cạnh nghề nông truyền thống. Một nghề không được vua quan chú ý nhưng thiết thực đối với nông thôn, thậm chí cả một bộ phận thành phố xưa, thiếu nó, làng xóm như mất đi một nét đẹp dân dã, một hệ thống đồ dùng thực dụng mà như trang trí mỹ thuật, phù hợp với sinh thái và hoàn cảnh, thiếu nó, làng xóm mất đi một làn điệu dân ca bay bổng ,đã đi vào tiềm thức, tâm hồn của dân tộc, một yếu tố xây dựng nên bản sắc văn hoá Việt Nam .
    Những người thợ ở đây hoạt động rất linh hoạt, có vốn thì mua tre về đóng các mặt hàng, mang ra chợ bán. không có thì nhận đóng theo yêu cầu của khách hàng. Vào những tháng nông nhàn, họ gồng gánh đồ nghề đến các làng nhận đóng tại chỗ. Tre thì làng nào cũng sẵn, giường chõng tràng kỷ nhà nào cũng cần, chu đáo thì đóng thêm vài cái giại dựng trước hiên, cái chạn bát kê ở đầu hè. Nhà có thợ hàng xóm đến xem, vừa ý thì đón thợ về nhà, chỉ mất tiền công, còn nguyên vật liệu chỉ có mây tre thôi, những thứ này thì hầu như nhà cũng có, thợ ra vườn vừa ý cây nào chặt cây ấy.Tre ngâm rồi đóng thì tốt hoặc đóng rồi ngâm cũng không sao. Cần nhất là tre già và đặc, vừa tầm cỡ, còn thẳng hay vẹo thì không quan trọng, thợ có mẹo sử dụng toàn bộ một cây tre, từ gốc đến ngọn, kể cả những tay tre lớn vào sản phẩm của mình một cách hợp lý và đẹp mắt với một bộ đồ nghề đơn giản và gọn nhẹ hơn nhiều so với thợ mộc .
    Sau ngày miền Bắc được giải phóng(1954), nghề đóng giường chõng tre ở Bùi Xá cực thịnh, khả năng sản xuất không đủ nhu cầu của thị trường. Giường chõng tre nếu chọn tre đạt yêu cầu, ngâm đủ chín, đóng đạt yêu cầu kỹ thuật, sử dụng hợp lý, có thể sử dụng tới 50-60 năm. Hiện nay nông thôn đã ngói hoá, nhiều gia đình xây nhà tầng , đời sống được cải thiện một bước đáng kể, do thiếu hiểu biết về văn hoá dân tộc, nhiều người sính giường ghế gỗ, kim loại, có khi rất cồng kềnh tốn kém mà phần mỹ thuật và thực dụng không hẳn đã hơn hàng tre. Không ít người đã xa lánh cái giường tre như xã lánh cái nghèo hèn truyền thống để lao vào cuộc sống xa xỉ mà quên đi nơi họ sinh ra từ chiếc giường tre giản dị, thân thuộc và bền lâu như tình làng nghĩa xóm .
    Giường chõng tre mất dần trong cuộc sống ở làng quê thì ở một số nhà hàng, khách sạn, nhà riêng của một số văn nghệ sĩ, những đồ dùng bằng tre lại được phục hồi và nâng cao như một bảo tàng dân tộc học của thời kỳ hiện đại, một nét đẹp văn hoá truyền thống được nhiều người trân trọng.

  8. hoangtutrau

    hoangtutrau Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/02/2004
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    Hội hát trống quân Tào Khê- Đào Xá

    Đào Xá nguyên là một làng của tổng Ngọc Cục, huyện Đường An, tỉnh Hải Dương, cuối TK XIX, cắt chuyển về huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Đào Xá ở hữu ngạn sông Cửu Yên êm đềm, lắng đọng nhiều truyền thuyết, vang vọng những bài ca dân gian. Đối ngạn là làng Tào Khê của huyện Đường An, phía bắc giáp làng Phù ủng, quê hương danh tướng Phạm Ngũ Lão.

    Truyền thuyết kể rằng, ngày xưa Đào Xá mở hội, dân làng đón một gánh chèo về hát ở sân đình. Khi vào hát, mới có hai nhân vật ra giáo đầu đã lăn ra, "chết ngay", các cụ cho là "Thánh vật", từ đó hội làng chỉ mời các cặp hát ca trù của Tào Khê. Có lẽ từ đó mà hai làng có mối quan hệ mật thiết. Theo sự tích làng Tào Khê, vào thời Trịnh Sâm, có một bà phi tên là Nguyễn Thị Mỹ, con gái cụ Nguyễn Danh Quán, người làng Tào Khê, hát hay đứng đầu các ca công trong phủ chúa, chuyên dậy các cung nữ hát ca trù,được chúa ban ân tứ cho thu tiền hát xướng cửa đình của trấn Hải Dương. Năm 1780, bà qua đời, linh cữu được chuyển về quê, nơi mai táng sau này trở thành vùng đất cấm, cây cối um tùm như rừng, dân gian gọi là Mưỡu Tào. Tào Khê xưa nay nổi tiếng về hát ca trù và trống quân, thời nào cũng có nghệ nhân xuất sắc.
    Hằng năm, cứ vào dịp trung thu, Tào Khê và Đào Xá lại mở hội hát trống quân qua sông Cửu Yên từ chập tối cho đến quá nửa đêm, kéo dài suốt tuần trăng. Người đến xem và nghe hát chật hai bờ sông, phải kể đến con số hàng nghìn, đủ mọi tầng lớp. Đông nhất vào 9 - 10 giờ đêm. Bề rộng của sông Cửu Yên chỉ xấp xỉ 30m, rất phù hợp cho lối hát đối qua sông. Tào Khê và Đào Xá là hai làng quê giữa một vùng văn hiến, quê hương của nhiều nhân tài xuất chúng, trong đó có thơ văn (1). Những bài ca đối đáp có các loại: Hát chào, hát mời, hát gọi, hát đố, hát yêu đương, hát ca ngợi quê hương. Hát trống quân là loại hát đối đáp, là một bộ phận của hát đúm, nam hát với nữ, những lứa tuổi ngang nhau hát với nhau, người ta chia ra từng nhóm, mỗi nhóm cử vài người có giọng tốt để hát, còn lại tập trung sáng tác để kịp thời đối đáp với đối phương. Thông thường mỗi nhóm có một hai người có khả năng sáng tác, thuộc Truyện Kiều, ca dao và những truyện nôm khuyết danh để vận vào mà sáng tác. Khi vào cuộc chơi, người ta thường giao ước với nhau qua lời hát giáo đầu, tránh dùng những lời thô tục hoặc sống sượng như:
    Trống quân trống quýt trống còi,
    Ta không lấy nó, nó đòi lấy ta.
    Mà người ta thường mở đầu bằng câu:
    Tháng tám anh đi chơi xuân,
    Đồn đây có hội trống quân anh vào.
    ---------------------------
    1). Đào Xá là quê hương giáo sư Phạm Huy Thông, một nhà khoa học tài danh, một nhà thơ nổi tiếng đầu TK XX. Tào Khê nay thuộc xã Thúc Kháng, quê hương của nhiều vị đại khoa và tác gia nổi tiếng như Phạm Quý Thích, Vũ Tông Phan, Phạm Quỳnh,...

  9. hoangtutrau

    hoangtutrau Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/02/2004
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    Lễ hội ở xứ đạo Kẻ Sặt

    Làng Tráng Liệt nôm gọi là Kẻ Sặt, TK XVI thuộc huyện Đường An, phủ Thượng Hồng , trấn Hải Dương, nay thuộc thị trấn Kẻ Sặt , huyện Bình Giang. Theo lịch sử Thiên chúa giáo, cha cố đầu tiên đến đấy truyền đạo vào năm 1523. Số người theo đạo Thiên chúa ở đây phát triển khá nhanh nên đến năm 1630 đã lập thành giáo xứ Kẻ Sặt.

    Hiện nay, giáo xứ Kẻ Sặt thuộc địa phận huyện Bình Giang tỉnh Hải Dương. Kẻ Sặt lại nằm giữa hai địa phận Hà Nội, Bắc Ninh nên giáo dân ở Hưng Yên, Bắc Ninh, Hà Nội đều có thể về Sặt dự lễ hội, tạo cho lễ hội nơi đây đông vui vào bậc nhất vùng tả ngạn sông Hồng.
    Xứ đạo Kẻ Sặt cũng như những xứ đạo khác, công tác tổ chức bao giờ cũng chặt chẽ và cụ thể. Đứng đầu giáo xứ là Cha cả, dưới Cha cả có Trùm cả, dưới Trùm cả có ông Trương bà Trương phụ trách từng việc. Để giúp cha xứ hành đạo còn có Ban hành giáo. Giáo dân các khu được tổ chức như sau:
    Hội tràng hạt, tập hợp giáo dân từ 35 tuổi trở lên.
    Hội chân kiệu, mỗi khu một hội.
    Hội nghĩa binh, làm nhiệm vụ an ninh.
    Hội phường trống: Nam từ 11-15 tuổi
    Hội ca đoàn: Làm nhiệm vụ ca hát, tuổi từ 18-30
    Hội kim nhạc: Phụ trách về lễ nhạc, nhạc cụ chủ yếu là kèn đồng.
    Mỗi hội có một tổ trưởng , hàng năm bầu lại một lần.
    Mỗi năm, giáo xứ có 4 mùa lễ hội:
    Lễ giáng sinh tức lễ Nô-el vào ngày 25-12
    Lễ phục sinh vào tháng 2 hoặc 3 tuỳ theo năm nhuận hay không.
    Lễ dâng hoa vào tháng 5 tháng 6
    Lễ cầu hồn vào ngày 1 tháng 11. Trong 4 lễ của một năm chỉ có lễ giáng sinh là lễ trọng.
    Để chuẩn bị cho lễ Giáng sinh, con chiên đi làm ăn ở các nơi đều về quê mừng sinh nhật Chúa và đoàn tụ gia đình, tạo nên không khí nhộn nhịp náo nức. Nhà nhà tổng vệ sinh, đường phố ngõ xóm trang trí đèn hoa, các cửa hàng bày bán quà Nô-el, nhà thờ được tu chỉnh.
    Ngày 23, toàn thể giáo dân tập trung làm lễ đài ở nhà thờ lớn, tu tạo hang đá Bê-lem, nơi chúa ra đời, dựng cây thông Nô-el, làm ngôi sao chiếu mệnh của chúa treo giữa hai tháp nhà thờ.
    Ngày 24, rước tượng chúa từ Nhà thờ Lớn về Nhà thờ thánh An-tôn để chuẩn bị cho lễ rước đêm Noel. Các hội ca đoàn, hội kèn, đội thánh ca được tập hợp luyện tập chuẩn bị cho lễ trọng. Ngày lễ trọng, giáo dân nghỉ ngơi, vì ngày đó theo kinh thánh, phần xác chỉ cầu nguyện cho phần hồn. Mọi nhà tổ chức ăn mừng, mặc những bộ quần áo đẹp nhất, trong sinh hoạt chỉ làm những điều thiện.
    Tối 24, các ngả đường về Kẻ Sặt nườm nượp khách hành hương. Trong đó không chỉ có giáo dân mà không ít người bên lương. Họ đến đây để thưởng thức không khí hội hè. Từ 18-23 giờ, giáo dân và khách hành hương xem biểu diễn văn nghệ trước nhà thờ lớn. Trong nhà thờ hội tràng hạt, hội giáo dân cầu kinh. 23 giờ đêm, lễ Nô-el bắt đầu. Giáo dân tập trung ở nhà thờ thánh An-tôn, chuẩn bị rước tượng Chúa hài đồng. Sau khi hát thánh ca mừng chúa, lễ rước kiệu bắt đầu. Kiệu rước được chăng đèn kết hoa rực rỡ. Đoàn rước vừa đi vừa cầu kinh. Trước kiệu, có hai thiếu nữ mặc quần áo trắng , vừa đi vừa rắc hoa trước kiệu. Đi sau kiệu là cha xứ, mặc lễ phục trắng, khoác áo choàng đen, đội mũ linh mục mầu đỏ, hai bên có 4 chú giúp việc. Đi đầu đoàn rước có một tiểu đồng xách lư xích trầm thơm ngát, tạo nên không khí thiêng liêng trịnh trọng. Đi sau cha xứ là hàng ngàn giáo dân trang phục chỉnh tề, bước đi thong dong, trật tự và kính cẩn. Khi đoàn rước về đến Nhà thờ lớn, 3 quả chuông cùng dóng lên vang rền chào đón hoà với nhạc điệu hùng tráng của dàn kèn trống đẩy không khí lễ hội lên đỉnh của cao trào. Đúng 24 giờ, tượng Chúa được đặt vào bàn độc. Chuông trống ngừng lại, giáo dân ngồi xuống ghế, trật tự, yên lặng. Cha xứ bắt đầu giảng kinh trong không khí thiêng liêng trầm lắng. Giảng kinh xong, thánh ca vút lên trữ tình, tỏ lòng biết ơn Chúa đã cứu vớt chúng sinh. 1 giờ ngày 25, lễ giáng sinh kết thúc trong tiếng chuông, tiếng nhạc hùng tráng mừng một mùa giáng sinh yên vui, hạnh phúc. Nghiên cứu lễ hội thiên chúa giáo, chúng ta sẽ thu được những kinh nghiệm quý báu trong công tác tổ chức và ý thức trách nhiệm của từng thành viên trong lễ hội.

  10. hoangtutrau

    hoangtutrau Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/02/2004
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    Hội Đền Tranh

    Đền Tranh hay đền Quan lớn Tuần Tranh thuộc xã Tranh Xuyên, tổng Bất Bế , huyện Vĩnh Lại thời Lê và Nguyễn, đầu TK XX thuộc thị xã Ninh Giang. Đây là một ngôi đền lớn thờ nhân vật mang tính huyền thoại theo tín ngưỡng dân gian, hằng năm có hai mùa lễ hội lớn vào tháng 2 và tháng 5. Khoảng năm 1960, đền Tranh bị giải hạ để lấy đất xây dựng công trình khác.

    Đồ tế tự được chuyển về một ngôi miếu nhỏ ở phía nam thôn Tranh Xuyên, xã Đồng Tâm, cách di trích cũ khoảng 300m về phía bắc. Năm 1995, đền được phép khôi phục. Công trình hiện nay khá hoành tráng với kinh phí xây dựng ngót một tỷ đồng do nhân dân công đức. Đền Tranh xưa lập ban thờ như thế nào nay chưa có cứ liệu nghiên cứu. Đền hiện nay có 11 ban thờ:
    1- Ban thờ Phật
    2- Ban thờ Thánh mẫu
    3- Ban thờ Ngọc hoàng Thượng đế
    4- Ban thờ Ngũ vị tôn ông
    5- Ban thờ Tứ phủ chầu bà ( Thiên phủ, Địa phủ, Thuỷ phủ, Nhạc phủ)
    6- Ban thờ Quan lớn Tuần Tranh
    7- Ban thờ Sơn trang.
    8- Ban thờ Động chúa sơn lâm
    9- Ban thờ Thành hoàng: Quý Minh và Vũ Đô Mạnh
    10- Ban thờ Mẫu địa
    11- Ban thờ Đức thánh Trần
    Đền Tranh là nơi tập trung và phong phú nhất về tín ngưỡng dân gian mà điển hình là nhân vật huyền thoại Quan Lớn Tuần Tranh. Nghiên cứu thấu triệt từng nhân vật được thờ ở đây là điều không đơn giản.
    Đền Tranh một năm có ba mùa lễ hội. Hội tháng 2, từ ngày 10-20 / 2, trọng hội vào 14 - ngày sinh của quan lớn Tuần Tranh, đây là hội chính hàng năm. Hội tháng 5, từ ngày 20-26 / 5, trọng hội vào 25 - ngày hoá của Đức thánh. Lễ hội đền Tranh có quy mô rộng lớn, thu hút khách nhiều tỉnh phía Bắc, một trong những hội lớn của Hải Dương, có sức hấp dẫn lạ thường, đặc biệt với các bà các cô ở các thành phố, bởi thế khách rất đông và lộng lẫy. Không chỉ trong những ngày hội (thường kéo dài tới 7 ngày) mà những ngày thường cũng không ít khách đến lễ và không thể thiếu tiết mục hát chầu văn. Chúng ta biết rằng, một ngôi đền mới được khôi phục và chưa được xếp hạng mà đã có ngót một tỉ đồng công đức là vấn đề không bình thường.
    Phần hội ở đây rất giản dị, đặc biệt phần lễ thì vô cùng phong phú và hấp dẫn. Những lời khấn ở đây hầu hết được viết thành thơ và được thể hiện bằng điệu chầu văn rất mượt mà , sôi nổi.Có thể nói, lễ hội đền Tranh là lễ hội hát chầu văn. Dưới đây là một trong những bài chầu văn tại đền, hiện nay:

    Đọc:
    Chính quán quê nhà Ninh Giang,
    Danh lam thắng tích một toà ngôi cao.
    Lẫm liệt tung hoành uy gia,
    Trừ tà sát quỷ nổi danh tướng tài.
    Cảnh Thiên thai Quan Tuần ngự giá,
    Bộ tiên nàng thứ tự dâng huê.
    Chầu thôi lại trở ra về,
    Truyền quân dâng nước Thuỷ tề mênh mông.
    Cảnh am thanh nhiều bề lịch sự,
    Vốn đặt bầy tự cổ vu lai.
    Có phen xuất nhập trang đài,
    Đào lan quế huệ xum vầy xướng ca.
    Phú:
    Nước Văn Lang vào đời Thục Phán,
    Giặc Triệu Đà có ý xâm lăng,
    Triều đình ra lệnh tiến binh,
    Thuyền bè qua bên sông Trang rợp trời.
    Công hộ quốc gia phong thượng đẳng,
    Tước phong hầu truy tặng Đại vương,
    Bảng vàng thánh thọ vô cương
    Hiếu trung tiết nghĩa đôi đường vẹn hai.
    Đấng anh hùng cổ kim lừng lẫy,
    Khắp xa gần đã dậy thần cơ,
    Cửa sông đâu có phụng thờ,
    Ninh Giang lại nổi đền thờ Tuần Tranh.
    Gương anh hùng muôn đời soi tỏ,
    Đất Văn Lang thiên cổ anh linh,
    Bao phen đắp luỹ xây thành,
    Khắc miền duyên hải, sông Tranh nức lòng.
    Thơ:
    Sông Tranh ơi hỡi bến sông Tranh,
    Non nước còn ghi trận tung hoành,
    Lẫm liệt oai hùng gương tráng sĩ,
    Ngàn thu ghi nhớ dấu oai linh.
    Ai về qua bến sông Tranh,
    Nhớ người tráng sĩ tài danh tuyệt vời.
    Dẫu rằng nước chảy hoa trôi,
    Bến sông Tranh dù cạn, ơn người còn ghi.
    Loa đồng hỏi nước sông Tranh,
    Thanh long đao năm xưa cứu nước, anh hùng là ai?
    Sông Tranh đáp tiếng trả lời,
    Chỉ có thanh long đao Quan đệ ngũ, chính người trong phủ Ninh Giang
    Oán:
    Nhưng nào ngờ đâu khi đất trời thay đổi,
    Người anh hùng cổ mang nặng xiềng gông.
    Ngày hai nhăm tháng năm, Quan lớn bị bắt giam ở chốn Kỳ Cùng (1)
    Quan oan vì tuyết nguyệt, bởi lòng ái ân.
    Trước cung điện, triều đình xét hỏi,
    Bắt long hầu chuyển khắp mọi nơi.
    Quan lớn Tuần oan vì ong **** lả lơi,
    Chiết hoa, đoạt phụ tội trời không dung.
    Bắt đày chốn sơn cùng, thuỷ kiệt,
    Nỗi oan này thấu tỏ hỡi cao minh.
    Gió lạnh sương sa vì đời bội bạc,
    Sự ngay gian đảo lộn trắng đen.
    Hỏi cây cỏ sao mưa dầu nắng dãi,
    Lỡ hại người trong lúc phong ba.
    Cỏ cây ơi có thấu tỏ lòng ta,
    Sơn cùng thuỷ kiệt sương sa lạnh lùng.
    Đường thiên lý quan san bỡ ngỡ,
    Nợ trần hoàn quyết trả cho xong.
    Tháng hai vừa tiết trung tuần,
    Thử lòng ông lão, mộng trần ứng ngay.
    Tỉnh giấc mộng mới hay sự lạ,
    Đôi bạch xà tựa cửa hôm mai.
    Trí đã quyết khỏi vòng cương toả,
    Hay đâu còn mắc nợ oan khiên.
    Ngài vừa hay có lệnh ban truyền,
    Quan quân tầm nã khắc miền sông Tranh.
    Thà thác vinh còn hơn sống nhục,
    Cho sông Kỳ Cùng tắm ngọc Côn Sơn. (2)
    ------------------------------------
    1). Kỳ Cùng là sông Kỳ Cùng nay thuộc thị xã Lạng Sơn, tại đây cũng có đền thờ Quan lớn Tuần Tranh.
    2). Tư liệu do Ban quản lý Đền Tranh cung cấp.

Chia sẻ trang này