1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những lễ hội và Làng nghề truyền thống Hải Dương

Chủ đề trong 'Hải Dương' bởi hoangtutrau, 05/05/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hoangtutrau

    hoangtutrau Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/02/2004
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    Lễ hội Đình Vạn Niên

    Đình Vạn Niên thuộc thôn Vạn Niên , xã Nạm Nhuế, tổng Trắc Châu, hưyện Thanh Lâm thời Lê- Nguyễn. Nay thuộc thị trấn Nam Sách.

    Đình thờ Thành hoàng là Nguyễn Quý Minh, người có công trong sự nghiệp bảo vệ đất nước ở TK XVII.
    Đình được xây dựng vào cuối TK XVII, đầu XVIII khá hoành tráng , theo kiểu tiền nhất hậu đinh. Trải qua nhiều cuộc chiến tranh và biến động xã hội, di tích kiến trúc ở TK XVII vẫn còn đến nay, vì vậy được nhà nước xếp hạng từ năm 1992.
    Theo thần tích và truyền thuyết, Nguyễn Quý Minh người làng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh. Nhà nghèo , cha mẹ mất sớm nhưng ông chịu khó học hành, thi đỗ đại khoa, được vua sai cầm quân đánh giặc. Một lần về Thanh Lâm dẹp loạn, giặc dựa vào đầm lầy , lau sậy um tùm hiểm trở chống trả quyết liệt, quân triều đình đánh mãi không xong. Nguyễn Quý Minh thấy ở ven sông chỗ giếng Nghè ngày nay, có một ông già cất vó bè sống trong túp lều đơn sơ, bèn hỏi kế phá giặc. Không ngờ ông già cất vó rất hiểu quân giặc ,vẽ cho đại tướng sơ đồ vị trí trại giặc, nơi tiến nơi lui. Quý Minh cả mừng, hô quân xông trận, một lần dẹp tan. Chiến thắng trở về tìm người cất vó để trả ơn thì không thấy nữa. Về sau, trong lễ kỷ niệm Thành hoàng hằng năm, nhân dân thường tái hiện chiến thắng của tướng quân, gọi là trò xông hệ. Bên cạnh hình tượng oai hùng của tướng quân, không thể thiếu ông già cất vó bè.
    Lễ hội Đình Vạn Niên có nhiều trò vui và lễ nghi truyền thống, ở đây chỉ trình bầy trò rước Xông hệ theo phong tục cổ truyền.
    Hàng năm, vào 12 tháng giêng, nhân dân Vạn Niên tồ chức lễ hội trọng thể để nhớ ơn công lao của Thành hoàng và giáo dục con cháu tinh thần thượng võ. Phần lễ được tiến hành công phu, hấp dẫn. Trước ngày mở hội, các vị chức dịch trong làng chọn một vị cao niên dung mạo quắc thước, có uy tín đóng vai Anh dũng đại tướng quân Nguyễn Quý Minh. Thanh niên trai tráng từ 12-14 người , đóng quân sĩ, trang phục chỉnh tề.
    Trước lễ rước phải tập dượt, gọi là ngày tập ngơi. Người ta bày đỉnh hương, treo cờ thần, rước long đình, hương án từ đình trong ra đình ngoài, quét dọn, trang hoàng. Người đóng Đại tướng quân phải trai giới một tuần mới được nhập vai. Đại tướng cưỡi ngựa, có tiểu đồng giữ cương. Ông đánh trống khẩu phát lệnh. Đội quân trong đám rước chít khăn đầu rìu bằng nhiễu tím, thắt lưng xanh đỏ, tay cầm gươm, múa võ theo nhịp trống. Đi đầu đoàn rước là đoàn trống, thanh la, lão bạt, âm thanh rộn rã, tưng bừng. Tiếp theo là đoàn rước long đao, bát bửu, bạch mã oai phong. Đoàn rước đi từ đình đến nghè thì dừng lại. Các bô lão trang phục chỉnh tề, tế ba tuần rượu, đọc sắc phong, kể công trạng của tướng quân, rồi quay về đình tổ chức trò xông hệ.
    Tại đình, lão tướng điều hành thế trận. Các trai đinh thực hiện nghiêm theo khẩu lệnh và trống lệnh. Sân đình vang lên tiếng xông hệ., tương ứng với các động tác đâm gươm, múa kiếm, phất cờ, hừng hực khí thế giết quân thù. Kiệu của tướng quân đi đến đâu, pháo nổ đến đó. Hai người lính cầm đuốc xông vào đình, đi vào các góc tối như tìm bắt ai đó rồi đi ra, gọi là Xông hệ, có ý tưởng truy quét tàn quân giặc. Trò diễn kết thúc khi nào chiếm được Thành của giặc. Khi đó, tướng quân đánh trống thu quân. Bấy giờ đội hình nam thanh, nữ tú trang phục lộng lẫy trình diễn tiết mục tế an vị trong âm thanh của đàn trống nhịp nhàng. Sau trò diễn xông hệ, là các trò vui dân gian.
    Hội đình Vạn Niên kéo dài tới 7 ngày. Có thể nói đây là hội thể thao, văn hoá sôi nổi, lành mạnh, thể hiện lòng biết ơn tổ tiên, phát huy truyền thống giữ nước.
    Nay lễ hội đình Vạn Niên vẫn còn, nhưng trò xông hệ chưa tổ chức được, phần vì kinh phí, phần vì không có pháo hạn chế không khí của trò diễn.

  2. hoangtutrau

    hoangtutrau Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/02/2004
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    Lễ hội Chùa Giám

    Nghiêm Quang tự, dân gian quen gọi là chùa Giám, tại xã An Trang, thời Trần thuộc huyện Thiện Tài, thời Lê và Nguyễn thuộc huyện Lương Tài, phủ Thuận An. Cuối TK XIX, cắt chuyển về huyện Cẩm Giàng. Từ năm 1955, thuộc xã Cẩm Sơn.

    Tương truyền , chùa Nghiêm Quang có từ thời Lý, đến cuối TK XVII, chùa được tôn tạo với quy mô lớn theo kiểu nội công ngoại quốc. Các công trình bố cục theo một trục dọc, hướng tây, gồm: Tam quan, tiền đường, tam bảo, nhà phẩm, nhà tổ, hai bên là hành lang. Phía bên trái là nghè Giám. Những công trình này được xây dựng công phu với tư duy nghệ thuật cao. Tuy bị chiến tranh tàn phá nhưng những công trình chính vẫn còn đến nay như: Tiền đường, tam bảo, nhà phẩm, nghè Giám, do vậy được nhà nước xếp hạng từ năm 1974.
    Năm 1971, do yêu cầu giải phóng dòng chảy, xã Cẩm Sơn phải di chuyển về địa điểm mới cách xã cũ 7km về phía tây. Chùa Giám cũng được nhà nước cho di chuyển về địa điểm mới, tôn tạo hoàn chỉnh như trước chiến tranh, nhưng quay hướng nam. Đây là một kỳ công của ngành Văn hoá và nhân dân địa phương.
    Chùa Giám, Đền Bia và Đền Xưa là ba di tích quan hệ mật thiết đến cuộc đời và sự nghiệp của Đại danh y Tuệ Tĩnh. Lễ hội chùa Giám là một hình thức kỷ niệm Đại danh y.
    Lễ hội chùa Giám trước Cách mạng không lớn, chỉ có quy mô làng xã. Chỉ từ khi di tích được xếp hạng và vai trò của Tuệ Tĩnh được đề cao, hội mới lớn dần lên. Năm 2001, được tổ chức với quy mô quốc gia. Hội do Bộ Y tế, Hội Đông y Việt Nam và chính quyền địa phương tổ chức.
    Từ khi về địa điểm mới, hội được tổ chức trong ba ngày, từ 13-15.2. Tuy hội chỉ diễn ra trong 3 ngày nhưng công tác chuẩn bị phải làm trước hàng tháng. Ban tổ chức do UBND xã trực tiếp chỉ đạo.
    Ngày 13.2, rước tượng Tuệ Tĩnh từ chùa về nghè, đặt tại gian giữa. Lễ rước trịnh trọng theo nghi thức cổ truyền. Dân các nơi đến dự hội suốt 3 ngày có tới hàng vạn lượt người. Hàng quán chật kín hai bên đường trục của xã. Trên sân hội trường và sân chùa , các trò vui dân gian diễn ra suốt 3 ngày đêm.
    14.2, là ngày trọng hội, trời thường mưa. Buổi sáng tiến hành lễ tế danh y tại nghè. Đội tế gồm 17 cụ có khả năng về tế lễ , có uy tín và ngoại hình tốt. Sau khi tế tất, bắt đầu đến hội rước. Đoàn rước thường rất đông, gồm nhiều đội hình
    Đi đầu là đội múa kỳ lân, làm nhiệm vụ cổ động và dẹp đường.
    Thứ hai là đội hình thanh niên đồng phục, cầm vòng hoa, vừa đi vừa múa như trong hội thể thao
    Thứ ba là đội rước hồng kỳ
    Thứ tư là đội trống
    Thứ năm, đội rước ảnh Bác Hồ
    Thứ sáu là đội siêu đao, chấp kích, bát bửu
    Thứ bẩy là kiệu thuốc nam
    Thứ tám là đoàn tế nam.
    Thứ chín là đoàn tế nữ.
    Thứ mười là kiệu rước tượng Tuệ Tĩnh đặt trên đòn bát cống, có lọng che hai bên.
    Thứ mười một là đoàn tăng ny, phật tử, trang phục theo nhà phật. Tiếp đó là đoàn các già làng và thập phương. Cuối cùng là dân chúng.
    Tại nghè Giám ngày thường cũng như ngày hội đều có phòng khám bệnh và cắt thuốc nam, thuốc bắc.
    Lễ hội chùa Giám là lễ hội truyền thống được mở rộng và nâng cao, lễ nghi truyền thống và văn hoá hiện đại kết hợp hài hoà, hiệu quả

  3. hoangtutrau

    hoangtutrau Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/02/2004
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    Lễ hội Đền Sượt

    Thanh Cương linh từ hay Quang liệt miếu, nôm gọi là đền Sượt, ở tại làng Thanh Cương , phường Thanh Bình , Thành Phố Hải Dương, thờ Vũ Hựu , một danh tướng thời Lê sơ, quê tại làng Thanh Cương. Khi qua đời (16.11 năm Tân Tỵ-1521)được tôn là Thượng đẳng phúc thần, Minh quốc linh ứng, Hiển Hựu đại vương và Thành hoàng làng.

    Đền Sượt được xây dựng từ sau khi Vũ Hựu qua đời. Công trình hiện còn mang dấu ấn kiến trúc TK XIX. Di tích đã được nhà nước xếp hạng năm 1992. Lễ hội đền Sượt tổ chức vào 10.3 hàng năm , kỷ niệm ngày sinh của Đại vương. Hội kéo dài tới 20.3
    Trong những ngày lễ hội có tục đánh bệt tức đánh hổ. Đây là trò diễn dân gian độc đáo.
    Quá trình chuẩn bị lễ hội
    Trước khi vào hội, đinh tráng từ 18-54 tuổi đều phải sắm gậy đánh bệt.
    -Gậy cho dân đinh dài 7 thước ta (1 thước= 40cm).
    -Gậy cho 5 người trực tiếp đánh hổ, dài 4 thước.
    -Gậy cho nữ đồng trinh múa trước hàng quân, dài 1,2 thước.
    Nấu rượu Hoàng tửu để tiến lễ Đại vương.
    Nuôi lợn để lễ Đại vương.
    1.3 Làng họp tại đền bàn việc tổ chức lễ hội.
    Ban khánh tiết chuẩn bị nước mộc dục.
    9.3, ông hành văn lập ban thờ để chuẩn bị rước văn tế về nhà.
    Đinh tráng tập trung làm lễ cáo yết , mở cửa đền.
    Các giáp chuẩn bị làm bánh dầy, cỗ chay, cỗ mặn, mổ lợn cho ngày trọng hội. Giã bánh giầy ở đây là một mỹ tục , được cả làng hưởng ứng, gọi là Hội giã bánh.
    Sáng 10.3, rước cỗ ra đình. Khoảng 7 giờ, làm lễ mộc dục.
    11.3, làm lễ bái yết, 4 giáp tế yết tại đền, mỗi giáp làm một mâm cỗ. Bưổi tối tổ chức hát chèo.
    12.3, tế xuân, làng giết một con trâu đực, đặt trên giá. Tế lễ xong, chia theo suất đinh của cả làng.
    13.3, các ông đám và ông hoá (1) làm lễ tại đền. Lễ có gỏi cá, xôi, rượu
    Rước văn từ đền về nhà ông hành văn.
    14.3, chuẩn bị tạ rằm, mỗi giáp làm thịt một lợn cấn khoảng 50kg
    --------------------
    1). Ông Đám là người của một giáp đăng cai hộ năm đó; Ông Hoá là người của giáp cử ra thu lễ trong những ngày hội.
    15.3, tổ chức rước văn từ nhà ông hành văn ra đền.
    16,17, 18.3, làm cỗ hát tại đình, 6 người một mâm.
    19.3 , Chuẩn bị lễ tạ
    20.3, lễ tạ, tổ chức rước Đức thánh từ đình , qua lăng về đền. Hôm ấy tổ chức thả cây đám ở ao đình. Cây đám (2) nổi và trôi về phía xóm nào thì xóm đó năm ấy may mắn, cây đám chìm thì là điềm không may.

  4. hoangtutrau

    hoangtutrau Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/02/2004
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    Lễ hội Đền Quát

    Đền Quát tức là đền thờ Yết Kiêu, một gia nô trung thành của Trần Hưng Đạo, tại tả ngạn sông Đò Đáy(sông Quát) thôn Hạ Bì , xã Yết Kiêu , Gia Lộc. Nguyễn Hữu Thế , hiệu là Yết Kiêu là con ông Nguyễn Hữu Hiệu, quê tại Hạ Bì. Mẹ là Vũ Thị Duyên, người làng Lôi Động, huyện Thanh Hà.

    Sinh trưởng trong một gia đình ngư dân nghèo, cha mất sớm, từ nhỏ Phạm Hữu Thế đã phải lặn lội sông nước kiếm ăn và nuôi mẹ. Truyền thuyết kể rằng, năm 15 tuổi, trong một lần đi gánh nước, ông thấy hai con trâu trắng húc nhau trên bờ sông. Vốn có sức khoẻ, ông dùng đòn ống đánh trâu. Chúng hoảng sợ bỏ chạy. Ông nhặt được hai cái lông trâu, đặt xuống nước , nước rẽ làm đôi. Ông cho đó là lông trâu thần, liền nuốt vào bụng. Từ đó thân thể ông cường tráng, trí dũng phi thương, bơi lội dưới nước như đi trên đất bằng.
    Giai thoại trên chỉ là một cách lý giải về sức khoẻ và tài trí của Nguyễn Hữu Thế được rèn luyện qua thực tế cuộc sống. Do có biệt tài bơi lội, Nguyễn Hữu Thế được tuyển vào làm gia nô cho Trần Hưng Đạo. Ông lập công lớn trong hai cuộc khánh chiến chống Nguyên, được lịch sử ghi nhận như một danh tướng. Dân chài quê ông vốn nghèo nàn, một tấc đất phơi chài cũng không có nên trước khi qua đời, ông đề nghị vua Trần cho mỗi hộ dân chài làng ông 3 thước (72m2) đất làm nơi phơi chài lưới không mất thuế. Nhà vua y cho. Luật ấy được thi hành đến triều Nguyễn.
    Sau khi Yết Kiêu qua đời, nhân dân lập đền thờ và được tôn làm Thành hoàng, tổ chức lễ hội kỷ niệm ông vào 15 tháng giêng. Thông lệ , hội bắt đầu từ 10-20 tháng giêng. Trước cách mạng, Hạ Bì có 8 giáp và 9 hà chài. Mỗi hà làm ăn một phương, chỉ đến tết và lễ hội mới về làng.
    Lễ hội tại đình
    10/1, mở cửa đền làm lễ mộc dục.
    11/1, mỗi giáp mổ một con lợn cúng thành hoàng. Cúng xong, thịt chia làm 5 phần, chia theo thứ bậc khác nhau.
    12-14/1, làm cỗ trực nhật do những người có phẩm hàm trong làng đăng cai, cứ 6 người một mâm, mỗi ngày từng người thay nhau sắm cỗ.
    15/1, thi cỗ hộp (1)của những ông cai đám.
    Bắt đầu vào hội , thần tượng Yết Kiêu được rước từ miếu từ đền về đình. Đoàn rước có múa tứ linh, đòn bát cống rước tượng Yết Kiêu và phu nhân. Trong những ngày hội sân đình có các trò diễn dân gian.
    Lễ hội dưới sông
    Đây là lễ hội độc đáo vá hấp dẫn. Thông lệ , hội diễn ra trong ba ngày, từ 16-18/1. Ngay những ngày đầu hội, thuyền các hà chài đã trở về tập kết san sát bên sông. Sáng 16, khi mọi việc đã chuẩn bị xong, tượng Yết Kiêu và phu nhân được rước ra bờ sông, đặt trên bệ cao , nhìn ra sông nước, ddể các ngài "duyệt" con cháu thao diễn thuỷ chiến. Các hà chài dự bơi trải đều phải đến lễ trước thần tượng Thành hoàng, mong ngài phù hộ cho cuộc sống trên sông nước trong năm may mắn.
    --------------------
    1). Cỗ hộp là loại cỗ đặc biệt của Hội đền Quát, gồm có xôi nén, gà luộc, chuối, rượu, chè kho, do những giai ngoại có tài làm cỗ thực hiện.


    Ngày 16 bơi chiềng , biểu diễn cho khách xem đồng thời cũng là tập dượt.
    Ngày 17, bơi phân loại
    Ngày 18, bơi tranh giải nhất, nhì, ba.
    ngày 19, tiết tục tế lễ tại đình
    Ngày 20, kết thúc hội, các hà chài tạm biệt cố hương, trở về các con sông quen thuộc quăng chài, thả lưới, theo cuộc sống thường nhật, hẹn xuân sau trở về.
    Hội đền Yết Kiêu nay vẫn được duy trì, đây là nơi có truyền thống bơi trải xuất sắc của tỉnh

  5. hoangtutrau

    hoangtutrau Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/02/2004
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    Lễ hội Chùa Trông

    Chùa Trông nguyên có tên là Chùa Tông, Đại Nam nhất thống chí ghi là đền thờ Minh Không thiền sư, họ Nguyễn, tự Chí Thành. Thời phong kiến thuộc xã Hán Lý, tổng Văn Hội, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng. Từ năm 1947, Hán Lý là một thôn thuộc xã Hưng Long, huyện Ninh Giang.

    Chùa Trông do Minh Không thiền sư xây dựng từ thời Lý (TK XI). Chùa thờ Phật và đức thánh Nguyễn Minh Không.
    Nguyễn Minh Không sinh 14/9 năm Bính Dần , thời Lý, nguyên có tên là Nguyễn Chí Thành, quê xã Đàm Xá , huyện Trường An (Ninh Bình), quê ngoại ở Hán Triền tức Hán Lý hiện nay. Minh Không là một nhà sư nổi tiếng ở thời Lý., khi viên tịch (26.3 năm Giáp Tuất) được thờ ở nhiều nơi, trong đó có chùa Trông.
    Chùa Trông được xây dựng từ thời Lý, đến thời Nguyễn , quan thượng thư Thượng Đoàn tôn tạo theo kiểu nội công ngoại quốc gồm : Tam quan nội, tam quan ngoại, tắc môn, giải vũ, nhà mẫu, chùa kiểu chữ đinh, đền Đức Thánh kiểu chữ đinh rất đồ sộ. Công trình đã bị tàn phá trong kháng chiến chống Pháp, chỉ còn lại hệ thống tam quan và một số cổ vật. Tam quan chùa Trông là công trình kiến trúc nghệ thuật lớn ở thời Nguyễn. Chùa hiện nay đã được khôi phục nhưng chưa được như xưa.
    Hội chùa Trông bắt nguồn từ kỷ niệm ngày mất của thiền sư Nguyễn Minh Không từ thời Lý. Đây là lễ hội lớn nhất vùng Hạ Hồng xưa và đã được ghi vào lịch sử dân tộc. Hội kéo dài 16 ngày, từ 15/3-1/4.
    Ngày 15/3, lễ thỉnh kinh, rước nước, tổ chức rước kiệu rất trịnh trọng ra sông Luộc lấy nước cúng.
    Ngày16, lễ rước Thành Hoàng và tế tại chùa.
    Lễ hội chùa Trông là lễ hội chung của hai làng Hào Khê và Hán Lý, vì xa xưa nguyên là một làng. Sau khi chia tách, mỗi làng có một đình. Đình Hán Lý thờ thành hoàng là Đường Cát đại vương , một vị tướng của Khúc Thừa Dụ có công đánh giặc Đường ở TK X. Đình Hào Khê thờ thành hoàng là Lý Chiêu Hoàng, vua cuối cùng của triều Lý. Như vậy ngày hội phải tế 3 vị, gồm hai thành hoàng và một thiền sư. ở đây chỉ có tế nam, trang phục theo truyền thống gồm 3 mạnh bái, 16 bồi tế. Tên huý kiêng các từ: Minh, Lệ, Chiêu, Ứng.
    Quy trình tế gồm ngũ tuần:
    Tuần nhất: Dâng hương hoa.
    Tuần nhị: Dâng đăng trà.
    Tuần tam: Dâng quả thực.
    Tuần tứ: Đọc chúc văn.
    Tuần ngũ: Lễ Tất
    Sau lễ đức Thánh và nhị vị Đại vương là các trò vui dân gian kéo dài ba bốn ngày.
    20/3, Lễ rước xuất Đông nhập Tây. Lễ này có từ khi xây dựng tam quan. Cổng phía Bắc ghi 3 chữ Bắc địa đầu-nghĩa là làng Hán Lý ở phía bắc. Cổng phía Nam ghi 3 chữ Nam thiên động- làng Hào Khê là động ở phía nam. Đoàn rước gồm: Kiệu bát hương, kiệu Đức thánh, hai kiệu Thành hoàng, kiệu Thánh mẫu. Kiệu này do nữ thanh đồng khiêng. Đoàn rước đi qua cổng phía đông, đi quanh hai làng , về cổng phía tây.
    Tối 25/3, mỗi giáp một mâm cỗ cúng tại đền Đức thánh, đọc kệ kể tiểu sử của Người.
    26-30/3, tế lễ Đức thánh và Thành hoàng. Sau tế có lễ dâng hương do một đội múa gồm 16 người thực hiện trước tượng Đức thánh theo điệu Hoa chúc, Giao liên, mô phỏng múa cung đình. Trong những ngày lễ hội có các trò diễn dân gian
    Sáng 1/4, tổ chức rước Thành hoàng về các đình, kết thúc hội.
    Phần chia cỗ: Nếu tế bằng trâu bò, thì thủ biếu tiên chỉ một nửa, còn lại chia ba, một phần biếu già làng từ 60 tuổi trở lên, một phần biếu chức sắc, một phần biếu những người hành văn. Thịt chia theo đầu người từ hương ẩm trở lên.
    Hội chùa Trông bao giờ cũng mời đại biểu chùa Hoa Vân đền Tân La ( Quỳnh Phụ, Thái Bình). Đền Tranh, đền Trung Hoà ( Ninh Giang) . Trong những ngày hội, nhân dân Đào Phố, xã Hồng Phúc thường rước Thành hoàng lên chùa Trông dự cho hết hội, gọi là rước chạ.
    Hội chùa Trông nay vẫn đông vui, nội dung khá phong phú không kém hội xưa.

  6. hoangtutrau

    hoangtutrau Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/02/2004
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    Lễ hội Chùa Muống

    Chùa Muống tên tự là Quang Khánh tự, trước Cách mạng thuộc xã Dưỡng Mông, tổng Phù Tải, nay là một thôn thuộc xã Ngũ Phúc , huyện Kim Thành. Chùa ở tả ngạn sông Văn úc.

    Tương truyền, vào thời Lý Công Uẩn, dân đến khai khẩn vùng đất Dưỡng Mông, buổi đầu khai phá , đất chua phèn, chỉ có rau muống là nguồn thức ăn chính. Sau khi đất được cải tạo, trồng được hoa mầu và cây lương thực, cư dân đông đúc, lập thành làng. Để nhớ những ngày đầu gian khổ sống nhờ rau muống, những già làng đề nghị đặt tên là Dưỡng Mông, còn nghĩa là nhờ cây rau muống mà tồn tại.
    Chùa Quang Khánh là một trong những ngôi chuà được xây dựng sớm ở đất Kim Thành, đến thời Trần do sư Tuệ Nhẫn, một môn đệ của thiền phái Trúc Lâm chủ trì xây dựng hoành tráng. Đến thời Nguyễn chùa có trên 120 gian, có tài liệu ghi là 124 gian, 32 tháp sư, hàng trăm pho tượng cổ và nhiều bia ký có giá trị .Chùa được quy hoạch trên khuôn viên rộng 15.000m2. Quang Khánh là ngôi chùa lớn và nổi tiếng của Hải Dương. Lê Thánh Tông hai lần viếng thăm đều có thơ khắc vào bia đá. Năm 1947, do chiến tranh, chùa bị phá huỷ hoàn toàn. Sau ngày miền Bắc giải phóng, chùa bắt đầu được khôi phục, đến nay cũng chỉ đạt một phần nhỏ của kiến trúc cũ. Riêng hệ thống tháp vẫn được bảo tồn như xưa.
    Tuệ Nhẫn nguyên là Vương Thiên Huệ, hiệu Quán Viên, pháp hiệu Tuệ Nhẫn, biệt hiệu là Thánh tổ Non Đông, quê tại Dưỡng Mông. Cha mất sớm nhưng Thiên Huệ có ý chí từ nhỏ, rất chăm chỉ học hành, thấu triệt các sách. 19 tuổi di tu ở chùa Báo Ân, thụ giới sư Nghĩa Trụ, Chân Giám . Tuệ Nhẫn là một cao tăng đồng thời còn là một lương y. Ông có công xây dựng nhiều chùa lớn như: Vĩnh Nghiêm (Chí Linh), Siêu Loại (Bắc Ninh), Đông Khê, Do Nha (Hải Phòng)Ông đã chữa khỏi mắt cho vua Trần Minh Tông. Nhà sư viên tịch ngày 27 tháng giêng, năm ất Sửu, Khai Thái thứ hai(1325). Tuệ Nhẫn không chỉ là một vị cao tăng mà sau khi mất còn được tôn làm Thành hoàng làng.
    Hội chùa Muống bắt nguồn từ kỷ niệm ngày mất của sư Tuệ Nhẫn, như vậy hội đã có truyền thống từ đầu TK XIV, mang hai yếu tố Thần và Phật. Thông lệ , hội bắt đầu từ 24-26 tháng giêng, 26 là ngày trọng hội.
    Ngày 24 làm lễ nhập tịch, cỗ chay gồm hoa quả, bánh dầy, bánh nếpSư sãi tụng kinh cả đêm, không khí thật sôi nổi.
    Ngày 25, theo lệ là ngày rước bánh dầy quanh chùa trước khi đưa vào tiền đường thờ Thánh tổ. Đây là một nghi thức mong mùa màng bội thu
    Ngày 26, lễ tập ngơi, thực chất là một cuộc tập dượt chuẩn bị cho ngày đại lễ. Trong ngày tổ chức tập rước kiệu, chuẩn bị chu đáo các thứ cho trọng hội, buổi tối , các sư làm lễ mộc dục.
    Ngày 27 là ngày trọng hội, khách đến dự rất đông từ sáng sớm. Lễ rước thực hiện như ở các đền và đình làng, gồm có bát biểu, tàn , long, đòn bát cống rước tượng Thánh tổ Non Đông, Thánh phụ, Thánh mẫu. Đoàn rước diễu xung quang chùa rồi ra tam quan làm lễ, xong lại chuyển vào chùa để các thần tượng được an vị. Hội kết thúc vào đêm 27.
    Hội chùa Muống là lễ hội lớn của Hải Dương, thu hút hàng vạn người tham gia.
    Hội chùa Muống hiên nay vẫn được duy trì tuy không được như xưa. Một số thuần phong mỹ tục vẫn tồn tại như: vào những ngày hội, các cụ bà phân công nhau đứng hàng dài trước cửa chùa, bưng cơi trầu, niềm nở mời khách thập phương, gây thiện cảm từ đầu cho khách đến dự hội.

  7. hoangtutrau

    hoangtutrau Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/02/2004
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    Lễ hội Đền Cuối

    Đền Cối Xuyên nôm gọi là đền Cuối, thời Trần thuộc trang Cối Xuyên, năm 1672, đổi thành Hội Xuyên, sau Cách mạng thuộc xã Nghĩa Hưng, nay thuộc thị trấn Gia Lộc, huyện Gia Lộc. Đền Cối Xuyên thờ Nguyễn Chế Nghĩa, một danh tướng thời Trần , từng tham gia hai cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông. Hội đền Cuối bắt nguồn từ kỷ niệm ngày mất của Nguyễn Chế Nghĩa(27.8). Hội diễn ra trong 3 ngày, từ 26-28.8 .

    Trước vào đám 3 ngày, các thôn Cuối, Đại, Rỗ làm lễ tảo mộ tại khu lăng Đại vương. Trong 3 ngày vào đám không tổ chức rước kiệu vì kiệu đã được rước từ đầu tháng giêng. Ba làng Đại Liêu, Hội Xuyên, Vĩnh Dụ đều tổ chức rước Kiệu vào bãi Bái Quan để tế lễ, hôm sau lại rước về làng. Trong những ngày hội, có nhiều loại cỗ cúng Đại vương. Làng có 12 giáp , mỗi giáp làm một loại cỗ. Đây là một điển hình của hội đền Cuối.
    Trong 3 ngày lễ hội, ngày đầu cúng bằng cỗ ngũ quả , bày theo kiểu Thượng tam long, hạ tứ linh. Những ngày sau cúng bằng các loại cỗ.
    Cỗ đường: Gồm các loại bánh như: Bánh dầy , bánh cốm , bánh phu thê, bánh trôi, bánh chay, bánh nướng, bánh do, bánh bột lọcTrên mặt bánh dán chữ thọ bằng giấy hồng điều. Bánh cốm, bánh gio, bánh bột lọc gói bằng lá chuối tươi, buộc lạt nhuộm đổ.
    Cỗ thầu: Gồm các loại thịt: luộc, nấu đông, giò , nem, chả, nem chạo, ninh, mọcCác món đều đựng trong bát lớn.
    Cỗ tam sinh: Về tam sinh mỗi nơi quan niệm một khác, ở đây tam sinh là lợn, gà ,ngan hoặc ngỗng. Ba con vật này làm thịt xong, để thịt sống, tạo dáng như còn sống, trang trí giấy hồng điều, cúng thần xong, chia cho các giáp làm cỗ.
    Cỗ bò thui: Ngày thứ ba, mổ bò, thui. Thui xong, mang cả con bò và chậu tiết vào tế thần. Tế xong , giáp đăng cái khiêng bò về làm cỗ, chia phần.
    Ngoài các loại cỗ là trò vui dân gian như đấu vật, đập niêu, đặc biệt là trò đánh thó hay còn gọi là đánh gậy. Đây là võ thuật truyền thống có từ thời Trần mà Nguyễn Chế Nghĩa là người rất điêu luyện. Đánh thó được thực hiện hai người một , cùng lứa tuổi với cây gậy dài chừng 1,7m. Trò chời này nhằm duy trì truyền thống thượng võ từ thời Trần, đồng thời còn là một nghi lễ.
    Hiện nay hội làng cuối vẫn được duy trì, nội dung khá phong phú nhưng các loại cỗ không còn như xưa.
  8. hoangtutrau

    hoangtutrau Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/02/2004
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    Hội pháo đất Minh Đức

    Trong các trò chơi dân gian, pháo đất có lịch sử khá sớm, tồn tại trên phạm vi rộng ở đồng bằng Bắc bộ ,trọng tâm là hai huyện Tứ Kỳ và Ninh Giang. Tại xã Minh Đức, trò chơi pháo đất được toàn dân hưởng ứng và trở thành lễ hội mùa xuân hàng năm, thường tổ chức vào tháng 3, không có ngày cố định.

    Minh Đức là một vùng đất cổ, có con người cư trú từ đầu công nguyên. Vào TK XVII, có ông Nguyễn Thế Mỹ là một tướng quân có nhiều công trạng với triều Lê. Ông đã hưng công tôn tạo chùa Đông Dương có quy mô 54 gian khá hoành tráng. Công trình tuy bị hư hại trong kháng chiến chống Pháp, nhưng còn nhiều cổ vật có giá trị nên đã được xếp hạng quốc gia.
    Hội pháo đất của Minh Đức theo truyền thuyết có từ thời Hai Bà Trưng. Hội diễn ra từ tháng giêng đến tháng tư âm lịch, kết hợp với hội chùa và đình đám của các làng. Sau khi tế lễ Thành hoàng xong là bắt đầu hội thi pháo. Trước hết các xóm thi với nhau, chọn đội mạnh thi đấu ở cấp xã. Xã chọn đội mạnh thi đấu với các xã của huyện. Để có thể thắng cuộc, pháo thủ phải là người khoẻ , nắm chắc kỹ thuật từ khâu chọn đất, luyện đất, nặn pháo và đánh pháo.
    Pháo nặn hình bầu dục, bằng đất luyện kỹ, dầy khoảng 4cm, dài từ 80-100cm, rộng từ 40-60cm. Tiếp theo là lên khung pháo, vê mép hay còn gọi là mông con. Nặn xong, lấy que tre rạch một đường xung quanh mông con và một gạch ngang tạo thành mõm pháo, rồi lấy tay miết lại. Khi đánh cần chọn 2-3 người phục vụ cho một người đánh, vì pháo khá nặng, mỗi quả tới 30-40kg. Người gieo pháo gọi là pháo thủ. Pháo thủ đứng thế hai chân mở rộng bằng vai, nâng pháo lên ngang vai, kẹp tay vào nách cho vững, lấy đà đập pháo về phía trước vào bàn gieo pháo. Bàn gieo pháo là một khoảng sân nhỏ đập phẳng, hơi nghiêng về phía pháo thủ. Nay bàn gieo pháo làm bằng bê tông, đến hội mang ra dùng, hết hội cất đi để năm sau dùng tiếp. Ngày xưa pháo thủ đóng khố cởi trần, nay mặc quần dài, áo cộc tay. Khi đánh pháo, đồng đội reo hò cổ vũ rất sôi nổi để tăng sức mạnh và niềm tin cho pháo thủ.
    Cách tính điểm: Pháo nổ nhưng không văng mông con hoặc có văng nhưng không đạt kích thước quy định (40cm), mông con văng ra nhưng đứt đoạn gọi là pháo bị bổ. Pháo đánh xuống không có tiếng kêu gọi là pháo xịt. Tất cả những trường hợp trên đều không được tính điểm.
    Trường hợp được tính điểm: Pháo nổ văng hết mông con, mông con ra đến đâu đo đến đó (lấy mõm xa nhất). Trong một lần đánh hay tổng số các lần đánh, người nào có số đo mông con dài nhất người ấy thắng
    Đánh pháo đất là một nghệ thuật, chỉ có người nông dân suốt đời gắn bó với đất , hiểu ngọn ngành từng thớ đất mới hy vọng trở thành pháo thủ giỏi. Giải thưởng thường rất giản dị. Xưa thường là 5 chai rượu Ông cụ, nay tuỳ theo quy định của từng xã và của từng năm. Trò chơi pháo đất hiện nay có ở xã Quang Khải (Tứ Kỳ), Nghĩa An, ứng Hoè, Bồ Dương, Hồng Thái, Kiến Quốc (Ninh Giang). Các xã này thường tổ chức đấu giao hữu nhưng sôi nổi nhất vẫn là Minh Đức
  9. hoangtutrau

    hoangtutrau Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/02/2004
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    Lễ hội chùa Minh Khánh

    Chùa Minh Khánh còn có tên là chùa Hương Đại hay chùa Hương ở thôn Bình Hà , huyện Thanh Hà. Bình Hà nguyên là trang Bình Kha thời Lý, đến TK XIII, Trần Nhân Tông đổi thành Hương Đại, nay thuộc thị trấn Thanh Bình, huyện Thanh Hà.

    Hội chùa Minh Khánh bắt nguồn từ kỷ niệm ngày mất của Trần Nhân Tông(1/11âl). Hội bắt đầu vào ngày 30/10, kết thúc vào chiều 1.11, nhưng công tác chuẩn bị thực hiện trước đó hàng tuần không chỉ của Bình Hà mà của 5 xã kế cận. Thông lệ, chiều 29.10 làm lễ mộc dục, rước sắc từ đình Ngự Dội về chùa để mở hội. Hội có tục thi mâm ngũ quả và 5 loại bánh: Bánh dầy, bánh mật, bánh ít, bánh tày, bánh gấc. Sáng 30/10, các giáp rước cỗ và bánh về chùa cúng Vua và đức Phật, tổ chức trò diễn dân gian. Chiều 1.11, tế lễ xong, chấm giải cỗ , bánh, rước sắc về đình Ngự Dội, kết thúc hội.
    Trước Cách mạng, xã chia làm 12 giáp, đại diện cho 12 dòng họ. Mỗi giáp có 21 mẫu, 9 sào, 10 thước ruộng họ. Hoa lợi của ruộng họ được dùng vào việc họ và lễ hội. Trong những ngày hội, ông đám chịu trách nhiệm về các loại bánh và mâm ngũ quả.
    Mâm ngũ quả có tới trên 10 đề tài khác nhau như: Cửu long tranh châu, Cửu long bảo tháp, Long phượng kình quyền, Lưỡng long hồi đáp; Thượng tam long, hạ tứ linh; tử tòng mẫuđược tạo bằng các loại hoa quả của địa phương. Qua bàn tay nghệ nhân, mâm ngũ quả trở thành những hình tượng sinh động. Đây là phong tục độc đáo của một vùng hoa trái trù phú gắn liền với tục thờ vua còn duy trì đến nay.
    Hội chùa Hương và tục thi mâm ngũ quả cùng năm loại bánh đang được bảo tồn, duy trì và phát huy. Hiện nay, nghệ nhân am hiểu nghệ thuật cổ truyền phần lớn đã qua đời. Lớp trẻ không được hướng dẫn đến nơi đến chốn nên hình tượng tứ linh thường không sinh động, ngô nghê và thiếu tính nghệ thuật.
    Hội chùa đồng thời cũng là hội chợ của một vùng, vì chùa liền với chợ
  10. hoangtutrau

    hoangtutrau Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/02/2004
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    Lễ hội Côn Sơn


    Côn Sơn là một di tích và danh thắng được lịch sử ghi nhận từ bẩy thế kỷ trước. Đây là chốn Phật tổ của thiền phái Trúc Lâm Việt Nam, nơi Đại tư đồ Trần Nguyên Đán dựng Thanh Hư động, vào thời Long Khánh(1373-1377), nơi Nguyễn Trãi sống thuở niên thiếu và những năm tháng cuối đời.

    Côn Sơn thời Trần thuộc xã Chi Ngại, huyện Phượng Sơn (Phượng Nhãn), phủ Lạng Giang, xứ Kinh Bắc. Đầu TK XVIII, được cắt chuyển về huyện Chi Linh, trấn Hải Dương. Sau Cách mạng tháng Tám, thuộc xã Cộng Hoà , huyện Chí Linh .
    Côn Sơn một năm có hai mùa hội,
    Hội mùa xuân bắt nguồn từ kỷ niệm ngày mất của Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang(22/1). Hội mùa thu bắt nguồn từ kỷ niệm ngày mất của Nguyễn Trãi (16/8). Hội xuân có từ sau khi Huyền Quang qua đời(1334), hội thu hình thành từ năm 1962, thực sự trở thành hội lớn từ năm 1980, khi Nguyễn Trãi được tôn vinh là Danh nhân văn hoá thế giới.
    Quy mô hội thời Trần chưa rõ, từ thời Lê đến trước năm 1945, hội xuân không lớn nhưng giữ vai trò quan trọng của Phật giáo Việt Nam nên đã được Đại Nam nhất thống chí ghi nhận. Hội không chỉ của tín đồ Phật giáo mà còn dịp du xuân của thanh niên. Hội bắt đầu vào rằm tháng giêng, kết thúc vào 22 tháng giêng. Nay hội kéo dài suốt tháng giêng nhưng trọng hội vẫn vào ngày 18. Hội thuần tuý về tôn giáo. Các cụ bà đến đây tụng kinh niệm Phật, thanh niên leo núi du xuân. Buổi tối có các trò diễn dân gian. Hội xuân tuy là hội chùa nhưng khách đến chủ yếu là thanh niên, nên có thể nói Hội xuân Côn Sơn là hội của thanh niên. Hội khá đông, mỗi năm có tới hàng chục vạn khách, tuy thế số khách sang Kiếp Bạc rất ít , chỉ bằng 1/5 khách của Côn Sơn
    Hội thu trùng với hội Kiếp Bạc, đây là một thứ hội kép, hội liên danh Côn Sơn -Kiếp Bạc, bởi hai di tích chỉ cách nhau 6km và đường qua lại khá thuận tiện. Trong số khách đến Hội Kiếp Bạc có tới 2/3 sang Côn Sơn, ngược lại , khách đến hội thu Côn sơn đều sang Kiếp Bạc. Như vậy khách đến hội thu Côn Sơn chỉ bằng 2/3 lượng khách của Kiếp Bạc. Hội thu Côn Sơn kéo dài suốt tháng 8, trọng hội là ngày 18 , mặc dầu giỗ Nguyễn Trãi vào ngày 16.
    Hội xuân và hội thu Côn Sơn là hai lễ hội bắt nguồn từ kỷ niệm ngày mất của danh nhân, nhưng tính kỷ niêm rất mờ nhạt mà chỉ nặng về du lịch và tín ngưỡng.
    Hội xuân và hội thu Côn Sơn rất lớn nhưng ở đây không có truyền thống hội chợ. Hàng quán tuy có nhưng chủ yếu phục vụ ăn uống và lưu niệm mà thôi.

Chia sẻ trang này