1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những lễ hội và Làng nghề truyền thống Hải Dương

Chủ đề trong 'Hải Dương' bởi hoangtutrau, 05/05/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hoangtutrau

    hoangtutrau Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/02/2004
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    Lễ hội đền Kiếp Bạc


    Lễ hội Kiếp Bạc là lễ hội có quy mô quốc gia. Nó được hình thành từ sau khi Quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo qua đời, đến nay, hội ngày càng đông, giữ vai trò to lớn trong đời sống văn hoá và tín ngưỡng của dân tộc, vì vậy được các triều đại quan tâm, bảo tồn, phát huy.

    Mỗi mùa hội khách thập phương về dự có tới chục vạn người, dưới sông hàng nghìn con thuyền lớn nhỏ, trên bộ hàng vạn xe cộ ngược xuôi, trống phách vang lừng, cờ bay phất phới, không chỉ những thứ tốt đẹp nhất của thời đại được trưng diện mà thuần phong, mỹ tục, tinh hoa văn hoá dân tộc cũng được tái hiện, nâng cao.
    Thật hiếm có một di tích lịch sử, một ngôi đền nằm ở biên giới hai xã, hai tổng, hai huyện, hai phủ, hai trấn mà sau này gọi là hai tỉnh...
    Đền Kiếp Bạc nguyên là ngôi đền của quốc gia, do triều đình nhà Trần xây dựng tại phủ đệ Trần Hưng Đạo, thuộc địa phận hai xã Vạn Yên và Dược Sơn. Vạn Yên có tên nôm là Kiếp, Dược Sơn có tên nôm là Bạc, vì thế mà dân gian gọi là đền Kiếp - Bạc, nhưng tên tự của đền là Trần Hưng Đạo Vương từ. Vạn Yên từ thời Lê đến thời Nguyễn thuộc tổng Trạm Điền, huyện Phượng Nhãn ( Phượng Sơn ) phủ Lạng Giang, xứ rồi trấn Kinh Bắc . Dược Sơn thuộc tổng Chi Ngại, huyện Phượng Nhãn, đến đầu thể kỷ XVIII, cắt chuyển về trấn Hải Dương. Còn Vạn Yên đến năm 1899, mới chuyển về Hải Dương, nhưng lễ hội vẫn thuộc hai làng cùng tổ chức. Từ sau CM tháng Tám đến nay, Dược Sơn và Vạn Yên chỉ là hai thôn của một xã Hưng Đạo,nhưng việc tế lễ ở đền vẫn do hai làng song hành thực hiện.
    Căn cứ vào vị trí chiến lược của Kiếp Bạc trong sự nghiệp giữ nước, sau cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất,Trần Hưng Đạo đã lập phủ đệ ở Kiếp Bạc, đồng thời cũng là nơi ông được phong điền kiến ấp và sống ở đây cho tới khi qua đời.
    Kiếp Bạc còn là nơi diễn ra trận quyết chiến chiến lược năm 1285, trong cuộc kháng chiến chống Nguyên lần thứ hai, một trung tâm sản xuất đồ gốm ở TK XIII-XIV, một cảnh quan đẹp mặc dầu nay đã phôi pha. Chính vì thế mà nơi đây đã in dấu chân danh nhân nhiều thời đại (xem mục Di tích).
    Thời kỳ Pháp xâm lược , hội Kiếp Bạc vẫn được nhân dân tổ chức trọng thể. Sau CM tháng Tám, danh nhân được kỷ niệm đầu tiên là Trần Hưng Đạo, lễ hội được tổ chức đầu tiên là lễ hội Kiếp Bạc. Sau ngày miền Bắc được giải phóng, Kiếp Bạc là một trong những di tích được nhà nước quan tâm, liệt hạng vào đợt đầu vào ngày 28/4/1962
    Lễ hội Kiếp Bạc bắt nguồn từ kỉ niệm ngày mất của Trần Hưng Đạo, ngày 20 tháng tám năm Canh Tý ( 1300 )
    Lễ hội xưa bắt đầu từ 16.8 đến 20.8 âm lịch hằng năm. Nay đã khác, hội bắt đầu sớm hơn và kết thúc muộn hơn, tuy nhiên trọng hội vẫn là ngày 18 tháng 8 . Khách không chỉ đến Kiếp Bạc vào ngày hội mà quanh năm suốt tháng với số lượng ngày càng đông. Đền Kiếp Bạc còn ngày lễ trọng thứ hai vào 28.9 , ngày mất của Thiên Thành công chúa-phu nhân của Đại vương, nhưng ngày này không thành hội , chỉ có hai làng sở tại tổ chức tế lễ cùng vài đoàn khách xa.
    Những người được thờ trong đền Kiếp Bạc có: Trần Hưng Đạo, Thiên Thành công chúa -phu nhân đại vương, Hoàng thái hậu Quyên Thanh công chúa- phụ nhân Trần Nhân Tông, Anh Nguyên quận chúa- phu nhân Phạm Ngũ Lão. Năm vị này có tượng đồng. Ban thờ bốn con trai: Trần Quốc Hiến (Hiện), Trần Quốc Nghiễn, Trần Quốc Tảng, Trần quốc Uy(Uất), Yết Kiêu, Dã Tượng và gia tiên chỉ có bài vị và ngai thờ, quan Nam Tào, Bắc Đẩu có tượng đồng nhưng thờ trên núi Nam Tào, Bắc Đẩu.

    Thời trước Cách mạng, tuỳ từng năm mà chủ tế là quan triều hay quan tỉnh, thực hiện theo nghi thức quốc tế. Theo thông lệ thì quan tri huyện chịu trách nhiệm tổ chức lễ hội. Đây là công việc lớn, phức tạp, gồm nhiều công việc khác nhau về tiếp khách, nơi ăn, nghỉ, vui chơi, tế lễ, kiểm két, vệ sinh, an ninh cho hàng vạn khách hành hương từ mọi miền đất nước, từ quan triều cho đến thứ dân trong thời gian 5 ngày.Từ ngày 10 tháng 8, Tri huyện cùng các nhà chức trách của huyện xuống đền cắm đất, chia ô cho những người bán hàng phục vụ lễ hội, chỉ đạo việc vệ sinh, phân công trách nhiệm từng bộ phận, công bố những quy định về lễ hội.
    Về an ninh: Trương tuần hai xã phải trực tại đền cùng với số đinh tráng theo quy định. Lính khố xanh của huyện đóng tại hai nhà các, hai chánh tổng của Trạm Điền và Chi Ngãi (Ngại) trực ở hai hành lang. Mọi người làm việc tậm tâm, chu đáo, lịch sự.
    Bộ phận an ninh hướng dẫn việc dựng quán bán hàng, đậu thuyền theo quy định, giữ trật tự, vệ sinh trong quá trình lễ hội, không thu tiền bến bãi.
    Phần lễ: Ngày 10 tháng 8 làm lễ mở cửa đền, chuẩn bị cho lễ hội hằng năm, đây là môt việc làm chiếu lệ, thực tế thì đền ngày nào cũng mở cửa tiếp khách.
    Lễ vật khai hội : Làng Vạn sắm 8 mâm, mỗi mâm một lợn sống khoảng 70-80 kg, đại diện cho 8 giáp. Dược Sơn 4 mâm tương tự, đại diện cho 4 giáp. Về bánh trái có: Bánh trong, bánh bột lọc, bánh chằng gừng, bánh rán, bánh phu thê, xôi mầu và mâm ngũ quả.
    Trên đây là lễ vật của hai xã sở tại theo lệ, còn lễ vật của khách thập phương, quan lại các cấp thì có thể nói, cuộc sống đương đại có gì quý báu thì trên mâm lễ có thứ đó. Riêng dân chài lưới ở vùng duyên hải về hội, thường có lợn quay hay lợn sống để cả con, tế lễ xong mang xuống thuyền làm cỗ, ăn dần trong những ngày hội.
    Văn tế Đức thánh Trần Triều ngày trọng hội của bản xã, do chủ tế đọc:
    Bát nguyệt, nhị thập nhật, chính kỳ tế văn
    Duy:
    Tuế thứ(Can Chi), bát nguyệt, nhị thập nhật.
    Hải Dương tỉnh, Chí Linh huyện, Trạm Điền tổng, Vạn Yên xã; kỳ lão, sắc mục, lý hương dịch toàn xã, thượng hạ đẳng, cẩn dĩ khiết sinh, cụ soạn, phù lang thanh chước, thứ chi nghi cẩm kỳ cáo vu.
    Thánh vương Trần triều, khâm sai thiết chế, thống lĩnh thiên hạ thuỷ bộ chư doanh, đại nguyên soái, tổng quốc chính, Thái sư Thượng phụ, Thượng quốc công, Nhân vũ Hưng Đạo Đại vương, lịch triều phổ tặng khai quốc an trinh, hồng đồ tá tự, hiển linh trác vĩ, minh đức chí nhân, phong huân hiển liệt, chí trung, đại nghĩa, dực bảo trung hưng, thượng đẳng tôn thần, ngọc bệ tiền.
    Nguyên Từ quốc mẫu, Thiên cảm thái trưởng công chúa, ngọc bệ hạ tiền.
    Cung duy: Thanh vương sơn nhạc giáng thần, càn khôn chung khí, nãi vũ, nãi văn, chí tinh, chí tuý, nội tham thứ chính áo, trần tộ ư Thái sơn, ngoại đổng binh nhung, điển hồ nguyên ư đẳng thuỷ quốc tôn thần, gia tôn, tử thịnh, lưu đức thanh sử chi thư. Sinh danh tương, hoá danh thần, dư uy hiệp cường hồ chi quỷ, anh linh hiển hách, hạp kiếm minh nhi phạm nghiệt quỷ tiêu, đức trạch tại nhân phương độ mạc, nhi dương nhân khang,. tỉ dương dương chính khí, thiên thu chi hương hoả, nhi tân ngột ngột, sùng từ vạn cổ chi tinh linh phấy truy, từ nhân tiên khuất thu, nhật kỳ, lễ dụng trần chu nghi tái tự, phục vọng giám thử. Thành tuy chi phúc, bạ đẳng lương thiếp thế, kính vu an ninh vật ấp nhân khang, tề tư dân vụ thọ chỉ.
    Đinh loại
    Kính phối:
    Thanh vương nhiên, tướng âm phù chi đại đức dã.
    Khải thánh vương phụ, Khâm minh đại vương.
    Khải thánh vương mẫu, kiền chúa chính trị phu nhân Thiên đạo quốc mẫu.
    Tứ vương thánh tử đại vương.
    Nhị vị vương nữ Hoàng thái hậu.
    Trần triều điện suý, thịnh chưởng chiêu cảm hùng văn Phạm đại vương tôn thần.
    Tiền hậu văn võ lưỡng ban, quan lĩnh đồng phối hưởng.
    Cẩn cáo.
    Văn tế của quan triều hay quan tỉnh tuỳ từng năm mà soạn, nhưng phần căn bản vẫn phải có nội dung như trên.
    Khách thập phương đến hội, công việc đầu tiên là phải lo phần lễ. Thông thường hội rất đông, không phải lúc nào cũng tới được trước thần tượng Đại vương, tìm được chỗ đặt mâm lễ lại càng khó. Vào những ngày hội, mỗi ngày có hàng trăm đoàn tế lễ. Người ta thường cử người đội lễ, làm các lễ nghi ở tiền tế hoặc ngoài sân, rồi vào thắp hương các ban thờ. Hiện nay việc thắp hương trong cung vào những ngày ngày hội đã bị cấm, người ta chỉ có thể khấn vái cầu phúc. Những người không biết khấn có thể nhờ các ông đồng, bà cốt khấn giúp, chỉ cần cho địa chỉ, tên họ và những yêu cầu cụ thể, tất nhiên là phải mất tiền.

    Bài khấn nôm hiện nay cho người đến nhờ lễ.

    Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
    Hôm nay ngày ...tháng...năm(can chi)
    Con chắp tay con lạy chín phương trời, mười phương đất, chư Phật mười phương.
    Con lạy Trần triều hiển thánh Vương phụ, Vương mẫu, con lạy gia phong Nhân vũ Hưng Đạo Đại vương.
    Con lạy Trần triều hiển thánh Hưng Đạo Đại vương.
    Con lạy tứ vị thái tử Hưng Đạo Đại Vương.
    Con lạy đệ nhất vương cô Quyên Thanh công chúa, văn võ song toàn, phu nhân tướng quân Phạm Ngũ Lão.
    Con lạy tả quan Nam Tào, hữu quan Bắc Đẩu.
    Và những điều cần cầu cho chủ lễ.

    Lệ công đức: Vào dịp hội khách thập phương ít hay nhiều đều bỏ tiền công đức để tỏ lòng thành trước thần tượng đức thánh, góp phần bảo tồn di tích. Người nghèo bỏ một hai xu, người giầu có khi bỏ vài chỉ vàng vào hòm công đức, ngày nay người ta có thể công đức hàng chục triệu đồng. Đây chưa kể vào các dịp trùng tu tôn tạo, có người công đức vài lạng vàng, hàng chục lạng bạc, hàng trăm quan tiền. Ngoài tiền bạc, người ta còn công đức các đồ tế khí hoặc những đồ dùng thiết thực cho nhà đền. Đây là tài sản quan trọng góp phần làm cho đền ngày càng khang trang. Hiện nay, lệ công đức bằng tiền và hiện vật không kém thời phong kiến, có người trong lễ hội công đức tới vài chục triệu đồng. Câu đối đại tự không còn chỗ treo.
    Từ xưa tới nay, hội đền đồng thời cũng là hội chợ. Hàng quán ken dầy dọc hại bên đường từ cửa đền ra bờ sông, từ Nam Tào lên Bắc Đẩu. Người ta mang đến đây đủ loại hàng thiết yếu cho sinh hoạt gia đình và tín ngưỡng như: Đồ gốm, đồ đông, đồ gỗ sơn , quần áo, mũ , nón, võng, chiếu; các loại đồ trang sức, đồ chơi của trẻ em; các loại hàng ăn, các loại lương thực thực phẩm phục vụ sắm lễ tại chỗ.
    Việc tế lễ và rước sách được thực hiên theo một thể thức theo quy định của hai làng. Khách thập phương đến tế lễ do ban tổ chức hướng dẫn.
    Đồng bóng, mê tín dị đoan ở đền xưa khá nặng nề. Dân gian quan niệm rằng, Trần Hưng Đạo là một vị thánh, đánh thắng giặc Nguyên Mông, cứu dân độ thế, lại diệt được Phạm Nhan, tên Việt gian thường làm hại phụ nữ, vì thế cứ vào dịp hội, bất cứ việc gì khó khăn trong đời sống là người ta cầu xin đức thánh Trần phụ hộ. Dựa vào tâm lý này, mà các ông đồng bà cốt tác oai tác quái không nhỏ.
    Hội trước CM có nhiều trò vui dân gian như: Đấu vật, bơi trải, múa rối, tuồng, chèo... Bơi trải không chỉ là một trò vui mà còn như một nghi lễ để tế đức thánh, vì sinh thời, Đại vương có biệt tài thuỷ chiến. Hội vui nhất về ban đêm, vì phần lớn trò vui diễn ra ban đêm, trong đó có hàng chục chiếu chèo biểu diễn nhiều tích khác nhau tại sân đền. Khách lưu qua đêm hàng vạn người, không có nhà khách nào chứa nổi. Người ta ngủ trên thuyền, trong các nhà dân, nhưng phần lớn ngủ tại hành lang, sân đền và trong các quán hàng dọc theo bờ sông trước cửa đền. Những đêm dự hội như thế có thể trở thành kỷ niệm suốt cả đời người, thậm chí có đôi trai gái trở thành vợ chồng sau những ngày hội.
    Hội Kiếp Bạc là hội lớn của đất nước, hội lớn nhất của Hải Dương, có lịch sử 7 thế kỷ, được mọi tầng lớp nhân dân hưởng ứng nhiệt thành, được nhà nước quan tâm. Trong 10 năm lại đây, đồ tế tự nhân dân cung tiến trị giá hàng trăm triệu đồng, tiền công đức cũng tới hàng tỷ đồng, nhà nước đầu tư các hạng mục cũng rất lớn. Việc tổ chức lễ hội, quản lý các mặt hoạt động đã đạt được kết quả đáng kể, các tệ nan đã được khắc phục cơ bản. Lượng khách đến lễ hội hằng năm và tham quan di tích ngày càng tăng. Đây là cơ hội tốt để nâng cao tinh thần yêu nước, hun đúc lòng tự tin vào sức mạnh dân tộc trước hoạ xâm lăng, xây dựng nếp sống lành mạnh, tạo điều kiện cho du lịch phát triển.
  2. cool_face

    cool_face Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/05/2003
    Bài viết:
    276
    Đã được thích:
    0
    Chủ đề này hay đấy chứ, sao mod không ghép vào topic Tìm hiểu Hải Dương nhỉ
    và tên topic nên thêm vào:
    Tìm hiểu Hải Dương - Lịch sử, văn hoá, danh nhân
    Cuộc vui rồi cũng sớm tàn
    Được cool_face sửa chữa / chuyển vào 13:21 ngày 07/05/2004
  3. cool_face

    cool_face Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/05/2003
    Bài viết:
    276
    Đã được thích:
    0
    Bổ xung thêm về chùa Côn Sơn
    Chùa Tư Phúc
    Chùa thường gọi là chùa Côn Sơn, chùa Hun, tọa lạc ở xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Hưng. Chùa được dựng từ thời Lý. Thời Trần, các vị vua thường đến chùa lễ bái. Theo sách Tự điển di tích văn hóa Việt Nam (Hà Nội, 1993), Trần Nhân Tông sau khi xuất gia cũng đến đây tham thiền nhập định. Năm 1329, Thiền sư Pháp Loa dựng am Hồ Thiên và am Chân Lạp. Sau đó, Thiền sư Huyền Quang từ chùa Vân Yên (Yên Tử) đến trụ trì. Chùa được coi là một Tổ đình của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Lúc ngài Huyền Quang mất (1334), Vua Trần Minh Tông cúng 10 lạng vàng để xây tháp thờ xá-lợi ngài ở lưng chừng núi Côn Sơn (còn gọi là núi Kỳ Lân). Điện Phật được bài trí thoáng, tôn nghiêm. Trước chùa có tấm bia khắc 3 chữ "Thanh Hư Động" là bút tích của Vua Trần Nghệ Tông (1322-1395) và tấm bia do Chiêu Dương Nguyễn Đức Minh soạn năm 1607 nói việc trùng tu chùa vào đầu thế kỷ XVII do nhà sư Thích Pháp Nhẫn thực hiện. Chùa được trùng tu vào năm 1995. Chùa đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia.
    Chùa ở chân núi Côn Sơn, phía đông huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, gần làng Chi ngại, quê hương của dòng họ nhà Văn hoá Nguyễn Trãi.
    Chùa xây từ đời Trần (1225-1400), nơi tu luyện của trạng nguyên Lý Đạo Tài, pháp danh Huyền Quang, khi ông cáo quan về ở ẩn. Nguyễn Trãi khi về hưu được vua giao chức "Đề cứ" chùa Côn Sơn cùng vợ là Trần Phu Nhân, trông coi và mở rộng thêm. Chùa thờ Phật. Trong chùa còn fu hệ thống tượng phật. Trong đó có tượng Di Đà Tam Tôn cao 1m43, tượng Trúc Lam Tam Tổ tức là Trần Nhân Tông, tượng nhà sư Huyền Quang, tượng Trần Nguyên Đán và các bà vợ. Trước đây còn có tượng Nguyễn Trãi và Trần Phu nhân, nhưng đã bị phá năm 1954.
    Trong chùa hiện còn nhiều di vật có giá trị như 8 bia thời Trần và Lê.
    Một bia bốn mặt niên hiệu Thiệu Phong thứ 18 (1397)
    Một bia có 3 chữ "Thanh Hư động" thời Long Khanh (1373-1377) năm Hoằng Định thứ 4 (1603).
    Một bia niên hiệu Hoàng Định thứ 14 (1633) - vua Lê Thế Tông
    Một bia niên hiệu Thịnh Đức nguyên niên (1653) - vua Lê Thần Tông
    Một bia niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 7 (1712) - vua Lê Dụ Tông.
    Mộtbia niên hiệu Bảo Thái thứ 2 (1721) vua Lê Dụ Tông.
    Một bia niên hiệu Vĩnh Hậu thứ 4 (1738) - vua Lê Y Tông.
  4. cool_face

    cool_face Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/05/2003
    Bài viết:
    276
    Đã được thích:
    0
    Chùa Côn Sơn và Quần thể di tích Chí Linh
    Lâu nay, nhiều du khách đến khu di tích lịch sử danh lam thắng cảnh ở huyện Chí Linh (Hải Dương) thường chỉ nghĩ đến Côn Sơn, Kiếp Bạc. Rất ít người biết rằng ở Chí Linh còn lưu giữ cả một quần thể di tích nổi tiếng - dấu ấn một thời hào hùng của dân tộc. Đó là chùa Côn Sơn, đền Kiếp Bạc, đền Cao, đền Sinh, đền Hóa, chùa Thanh Mai, đền Gốm, đình Nhân Huệ, nhà cổ Trạng nguyên, nhà cổ Thượng tổ, nhà cổ Tiền ẩn, thành cổ Phao Sơn, vườn cổ Dược Linh, chùa cổ Vân Tiên, tháp Tinh Phi, chùa Sùng Nghiêm, mộ cụ Nguyễn Phi Khanh...
    Trong số 16 di tích cổ tại Chí Linh, thì có tới 7 di tích đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử - văn hóa quốc gia. Di tích tiêu biểu và trở thành niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, trước hết là chùa Côn Sơn và đền Kiếp Bạc.
    Chùa Côn Sơn
    Di tích nhà Trần

    Chùa Côn Sơn hiện nay thuộc xã Cộng Hòa, Chí Linh. Chùa được xây dựng từ thời nhà Trần, là nơi tu hành của Quốc sư Huyền Quang - vị tổ thứ 3 của Thiền phái Trúc Lâm. Ngày 22 tháng Giêng năm Giáp Tuất (1334), nhà sư Huyền Quang mất tại Côn Sơn. Vua Trần Minh Tông cho 10 lạng vàng xây Đăng Minh bảo tháp đặt xá lî của Huyền Quang vào trong đó để lưu giữ. Từ đó đến nay, ngày mất của Huyền Quang dần trở thành Hội Xuân Côn Sơn.
    Sau này, đến thời nhà Lê, quân và dân Việt Nam đại thắng quân Minh, Nguyễn trãi đã về tĩnh dưỡng tuổi già ở Côn Sơn. Người thường lên bàn cờ Tiên, Thanh Hư động và ra suối Thạch Bàn thưởng ngoạn đất trời, làm thơ cũng như suy ngẫm việc đời. Sau khi Nguyễn Trãi mất, nhân dân đã tạc tượng thờ người Anh hùng kiệt xuất của dân tộc tại nhà thờ Tổ sau chùa Côn Sơn.
    Vì thế, đến Côn Sơn ngày nay, du khách vừa thăm chùa, thăm nơi thờ 3 vị tổ của Thiền phái Trúc Lâm (Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang), vừa đến thăm một thắng cảnh, một di tích lịch sử gắn với tên tuổi người Anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi. Và trên đường đến với bàn cờ Tiên ở trên đỉnh núi, du khách đều như nghe đâu đây sang sảng lời hịch "Bình Ngô đại cáo". Từ đáy lòng mọi người đều tự hào về đức độ, tài năng của Nguyễn Trãi và đau xót trước nỗi oan nghiệt mà ông gánh chịu.
    Đền Kiếp Bạc , Đền ở xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, thờ Trần Hưng Đạo, vị anh hùng dân tộc có công lớn nhất trong ba cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông vào thế kỷ thứ 13.
    Du khách sau khi thăm khu đền và xem các màn biểu diễn của người dân địa phương về chiến công của nhà Trần do Hưng Đạo đại vương chỉ huy, đều hiểu sâu về tài thao lược của Trần Hưng Đạo. Và trầm tĩnh suy tư, mọi người đều bắt gặp tiếng sông reo và nhớ đến câu thơ tràn đầy dũng khí của "quân nhà Nam" - thời Trần; làm cho quân Nguyên Mông (thuở trước) bạt vía kinh hồn mỗi khi nghĩ đến mộng xâm lăng:
    "Trên sông Bạch Đằng, quân Nam hùng reo
    Sóng nước vang đưa mỗi con thuyền, ngàn thông reo...".

    Rồi du khách lên chùa Thanh Mai xây trên núi Tam Bản, thuộc xã Hoàng Hoa Thám. Đó là nơi trụ trì của Quốc sư Pháp Loa, vị tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm và cũng là nơi sư Huyền Quang tu hành 6 năm liền. Sau khi Pháp Loa mất, Thái thượng hoàng Trần Anh Tông cho xây mộ tháp của nhà sư Pháp Loa ở sau chùa Thanh Mai, đặt xá lî của Pháp Loa vào tháp lưu giữ. Mộ tháp đá đó gọi là Viên Thông bảo tháp. ở chùa Thanh Mai còn bảo tồn một bia đá cổ "Tam Tổ thực lục" ghi khắc công tích của ba vị Tổ Thiền phái Trúc Lâm - lưu giữ đến hôm nay.
    Ngôi đền Gốm, trước đây thuộc xã Nhân Huệ, nay thuộc xã Cổ Thành, huyện Chí Linh. Đền này gắn liền với di tích "Biến cố Nham Loan" thờ tướng quân Trần Khánh Dư, một vị tướng tài thời Trần. Ông có công lớn trong 3 cuộc kháng chiến chống quân Nguyên. Trần Khánh Dư lập nhiều chiến công, được vua phong tước Nhân Huệ Vương và chức Phó Thượng tướng.
    Du khách tiếp tục cuộc hành trình đến các đình chùa, nhà thờ liên quan đến các tướng lĩnh, các văn võ bá quan nổi tiếng thời Trần, đã góp phần làm rạng rỡ non sông đất nước. Đó là đình Nhân Huệ ngày nay. Đình thờ ba vị thành hoàng. Vị thứ nhất là Hùng Duệ, người có công từ thời Hùng Vương dựng nước; vị thứ hai là Cao Sơn, vị thứ ba là Quảng Bác, cả hai đều có công với nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên. Theo văn bia ở đình còn ghi rõ: Đình Nhân Huệ xưa còn là nơi tụ hội của nhiều tướng giỏi triều Trần đến bàn việc quân cơ và chuẩn bị cho Hội nghị Bình Than. Ngôi đình này có quy mô khá lớn, còn tương đối nguyên vẹn. Về kiến thức và bài trí của ngôi đình cổ, có thể xem đình Nhân Huệ là di tích lịch sử - văn hóa vào loại quý hiếm của Việt Nam.
    Du khách dừng chân chiêm ngưỡng nhà cổ Trạng nguyên (hay Trạng nguyên cổ đường), trước kia thuộc xã Văn Từ của huyện Chí Linh, nay thuộc xã Tổng Xá, huyện Nam Thanh. Đây là nơi dạy học của Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, thời vua Trần Anh Tông (1292-1314). Mạc Đĩnh Chi là người học rộng tài cao; đặc biệt là tài ngoại giao, đã từng đễợc vua Nguyên (Trung Quốc) phong là "Trạng nguyên lưỡng quốc" - khi ông vâng lệnh Vua nhà Trần đi sứ. Những chuyện về tài ngoại giao của Mạc Đĩnh Chi đến hôm nay vẫn được lưu truyền và hình thành nhiều huyền thoại làm say mê lớp người trẻ tuổi giàu chí tiến thủ.
    Nhà cổ Thượng Tư (Thượng Tư cổ trạch), ở thôn Kinh Trung, xã Văn An ngày nay là nơi ở và dạy học của Trần Huệ Vũ Vương, Tể tướng nhà Trần. Nhà cổ Thượng Tư còn có tên gọi đền Quân Phụ. Nhà cổ Tiều ẩn (Tiều ẩn bích cổ) trên núi Phượng Hoàng cũng thuộc xã Văn An. Đây là nơi Chu Văn An - nhà tễ tưởng và học giả xuất sắc thời Trần, sau khi ông dâng sớ xin chém đầu bảy tên gian thần, không được chấp nhận, đã từ quan về đây dạy học và làm thuốc (thời vua Trần Dụ Tông, năm 1319-1349).
    Ngoài ra còn di tích khác như: thành cổ Pháp Sơn, trước đây thuộc xã Cổ Thành nay thuộc thị trấn Phả Lại, Chí Linh. Thành được xây dựng năm 1418, mở rộng vào triều Mạc, trên triền núi cao sát bờ sông Thái Bình, ngay cạnh bến phà Phả Lại bây giờ. Đây là vị trí chiến lược thủy, bộ quan trọng để bảo vệ kinh đô Thăng Long ngày trước. Vườn cổ Dược Linh nay thuộc Dược Sơn, xã Hưng Đạo, xưa có nhiều cây thuốc quý để chữa bệnh cho quân sĩ. Đặc biệt là cây thuốc Dược Linh dùng để trị vết thương, rất mau lành, nay vẫn còn sót lại trên núi. Chùa cổ Vân Tiên ở thôn Kiệt Đặc, xã Văn An. Đó là ngôi chùa cổ, xưa kia Quốc sư Phap Loa trụ trì và giảng đạo. Chùa Vân Tiên chỉ là một trong nhiều chùa mà Pháp Loa xây dựng trong suốt 19 năm tu hành.
    Và các triều đại khác
    Đồng thời tại đây, có nhiều di tích đã được tạo dựng từ trước thời nhà Trần. Chí Linh có rừng núi, sông suối hiểm trở đã trở thành vùng đất linh thiêng để các tướng lĩnh, công thần của đất nước về đây nghỉ ngơi, suy ngẫm về vận mệnh nước Việt, nhất là thời phát triển hưng thịnh (chế độ phong kiến) giai đoạn đó.
    Cổ kính nhất là đền Sinh đền Hóa, thuộc thôn An Mô, xã Lê Lợi ngày nay. Hai ngôi đền này nằm trong một quần thể di tích. Đền Sinh và đền Hóa thờ Chu Phúc Uy, người làng An Mô, một danh tướng văn võ song toàn, có công trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Lương, giành độc lập cho nước Vạn Xuân ở thế kỷ thứ VI, dưới triều vua Lý Bí (Lý Nam Đế). Ông được Lý Nam Đế phong là Uy Vũ Đại tướng quân, trấn thủ xứ Hải Dương. Tễơng truyền, đền Sinh là nơi Chu Phúc Uy ra đời. Cách đền Sinh 700 m về phía Tây Bắc là đền Hóa - nơi ông qua đời.
    Đền Cao, xã An Lạc, nơi thờ 5 anh em họ Vương là Vương Đức Minh, Vương Đức Hồng, Vương Đức Xuân, Vương Thị Đào, Vương Thị Liễu. Cả 5 người đều có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Tống ở thế kỷ thứ 10 dưới triều vua Lê Đại Hành. Kế tiếp trong vùng là tháp cổ Tinh Phi ở thôn Trại Sen xã Văn An, nơi thờ bà Nguyễn Thị Duệ, người từng giả trai đi học, thi đỗ tiến sĩ dưới triều Mạc và đã làm quan đến chức Lễ nghi học sĩ. Đây cũng là nơi bà ở, dạy học và làm thuốc chữa bệnh cho dân. Bà là nữ tiến sĩ đầu tiên của Việt Nam, từng được Chúa Trịnh phong là "Bà chúa Sao La".
    Chùa Sùng Nghiêm (Sùng Nghiêm tự) nằm phía Tây Bắc thôn Bình Dương, nay là thôn Bình Giang, thị trấn Phả Lại. Chùa được xây dựng từ triều Lý đến triều Trần, đã trở thành một trung tâm Phật giáo của Việt Nam. Các vị tổ của Thiền phái Trúc Lâm đã từng về đây giảng đạo nhiều lần. Đễơng thời chùa Sùng Nghiêm rất lớn, có tới hơn 100 gian. Các hoàng hậu, cung phi nhà Trần thường về đây ngoạn cảnh và cầu khấn đất trời ủng hộ sự thịnh trị của triều đình. Năm 1947, thực dân Pháp càn quét đốt chùa. Nay chùa chỉ còn dấu vết và một số di vật lưu truyền lại.
    Đặc biệt tại đây, du khách được dâng hương mộ cụ Nguyễn Phi Khanh, thân phụ của Nguyễn Trãi, một chí sĩ yêu nước, luôn tin tưởng vào sự trường tồn của dân tộc. Trước lúc xa con cụ đã tâm sự với Nguyễn Trãi những lời bất hủ:
    Con yêu quý chớ xuôi lòng mềm yếu
    Gác tình riêng vỗ cánh trở về Nam.
    Con về đi tận trung là tận hiếu
    Đem gươm mài bóng nguyệt dưới khăn tang
    Nếu trời muốn cho nước ta tiêu diệt
    Thì lưới thù sẽ úp xuống đầu xanh
    Trãi con ơi không bao giờ con chết
    Cha đứng đây trông suốt một ngàn thu...

    Như sử sách đã ghi lại: Sau khi Nguyễn Phi Khanh bị nhà Minh bắt cùng với quan quân nhà Hồ, Nguyễn Phi Hùng theo hầu cha sang Trung Quốc. Còn Nguyễn Trãi vào Lam Sơn theo nghĩa quân Lê Lợi. Năm 73 tuổi, Nguyễn Phi Khanh mất ở Trung Quốc. Thượng thư Hoàng Phúc của nhà Minh, do cảm cái ân nghĩa của Nguyễn Trãi đã tha tội chết cho mình, cho nên đã giúp cho Phi Hùng mang di cốt của Nguyễn Phi Khanh về nước. Nguyễn Trãi đã theo lời cha dặn táng di cốt của Nguyễn Phi Khanh trên núi Đá Bạc. Câu chuyện về đức hiếu nghĩa ấy sau này đã gây niềm xúc động và kính phục sâu sắc trong dân, người ta gọi núi ấy là núi Báo
    Đức hay Báo Ân. Và quả núi này còn được gọi là núi Bái Vọng. Ngày nay mộ cụ Nguyễn Phi Khanh đặt trên núi Báo Đức, thuộc xã Hoàng Hoa Thám.
    Chỉ qua một quần thể di tích Chí Linh, du khách đã được ôn lại cả một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc. Khí phách lẫm liệt, tài năng tuyệt vời, nghĩa tình son sắt của các bậc tiên sinh khơi dậy trong mỗi du khách lòng tự hào, ý chí quật khởi, để hôm nay mọi người cùng nhau giành tiếp thắng lợi trên con đường đổi mới, làm rạng danh tiên tổ và lễu truyền tiếng thơm cùng hậu thế.
    (nguồn thuvienhoasen.org)
    Được cool_face sửa chữa / chuyển vào 13:32 ngày 07/05/2004
  5. hoangtutrau

    hoangtutrau Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/02/2004
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    Núi Phượng Hoàng và Đền thờ Chu Văn An

    Thuộc xã Văn An , huyện Chí Linh, cách khu di tích Côn Sơn khoảng 4 Km. Đây cũng là một điểm di tích văn hoá và danh thắng mà quý khách có thể đến thăm, với cảnh rừng thông trùng điệp, có đền thờ và Lăng mộ người thầy giáo của muôn đời - Thầy giáo Chu Văn An. Núi Phượng Hoàng là một thắng cảnh, có rừng thông bát ngát, suối trong rì rào, đá núi lô xô, chùa tháp cổ kính với 72 ngọn núi ngoạn mục, một vùng núi nằm giữa một quần thể di tích và danh thăng, nơi di dưỡng tinh thần của danh nhân từ thời Lý- Trần. Tại đây có Huyền Thiên tự, Lệ Kỳ tự là những ngôi chùa cổ nổi tiếng.

    Đền thờ Chu Văn An

    Chu An hay thường gọi là Chu Văn An(1292- 1370) là một nhà giáo lừng danh thời Trần, quá nửa đời người làm Tư nghiệp Quốc tử giám, học trò nhiều người thành đạt. Sau khi dâng Thất trảm sớ, tâu vua giết 7 tên nịnh thần không thành công, ồng về Phượng Hoàng ẩn dật, dậy học, bốc thuốc, làm thơ để lại cho hậu thế. Sau khi qua đời, được nhà vua tặng thụy hiệu là Văn Trinh, học trò an táng tại đây và lập đền thờ gọi là đền Phượng Hoàng. Khu di tích bị tàn phá trong kháng chiến chống Pháp, từ năm 1997, từng hạng mục công trình được khôi phục bằng tiền công đức của giáo viên và học sinh cả nước. Tại đây còn nhiều dấu tích thời Trần và bia ký nói về sự nghiệp thầy Chu và quá trình tôn tạo đền thờ Chu Văn An. Cuối triều Lê Trung Hưng được xếp vào hàng Chí Linh Bát cổ.
    Lễ hội vào tháng tám và tháng một, trọng hội vào ngày 25-8 và 26-11

  6. hoangtutrau

    hoangtutrau Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/02/2004
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    Đảo Cò Chi Lăng Nam - sản phẩm mới của du lịch Hải Dương
    Chi Lăng Nam là một xã của huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Nơi đây có cảnh quan thiên nhiên của một vùng ngập nước ven sông Hồng, đã từng là căn cứ du kích của nghĩa quân từ thời Triệu Quang Phục đến thời Tán Thuật; có đầm hồ mênh mông, đất ngập nước sình lầy với lau sậy hoang vu, với le le, mòng két, vịt trời, sâm cầm, cò, vạc... Nhiều nhất là các loài cò tập trung trên đảo cò Chi Lăng Nam nằm giữa hồ An Dương.

    Trong hồ còn có rất nhiều loài động vật: tôm, cá , ếch, nhái... và các loại cây thuỷ sinh khác; Đặc biệt còn có một số loài có tên trong Sách Đỏ Việt Nam như: con tổ đỉa, rái cá, cá ngạnh, cá vền, cá măng kìm. Cá măng kìm có con nặng tới trên 30kg... Đảo cò Chi Lăng Nam là nơi mà loài vạc và loài cò lửa làm tổ, đẻ trứng, nuôi con. Hàng năm vào tháng 9, khi gió heo may thổi về thì hàng ngàn con cò, vạc và các loài chim nước từ nhiều xứ khác dồn dập bay về sinh sống kiếm ăn, đông đúc nhộn nhịp cho đến tận tháng tư năm sau. Sáng sớm và chiều tối là lúc chúng tạo nên một bức tranh thiên nhiên cực đẹp với hàng trăm đàn cò, đàn vạc bay đi, bay về phủ kín cả khoảng không mặt hồ, tiếng kêu inh ỏi làm huyên náo cả một vùng quê yên tĩnh.

    Nhờ sự quan tâm của trung ương và của tỉnh, với sự tài trợ của Chương trình tài trợ các dự án nhỏ Quĩ môi trường toàn cầu tại Việt Nam (GEF/SGP), đảo cò Chi Lăng Nam đã được mở rộng và trồng thêm nhiều cây cối. Vì thế cò, vạc và các loài chim nước khác về ngày càng nhiều hơn, đông về số lượng cá thể, đa dạng về thành phần loài. Nếu được bảo vệ tốt Chi Lăng Nam có thể là cảnh quan nguyên sơ duy nhất còn giữ lại của vùng đất ngập nước ven sông Hồng xa xưa, trở thành điểm du lịch sinh thái đặc sắc của Hải Dương
  7. hoangtutrau

    hoangtutrau Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/02/2004
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    Cụm di tích An Phụ và Tượng đài Trần Hưng Đạo

    Cụm di tích An Phụ hiện nay thuộc xã An Sinh, huyện Kinh Môn. Đỉnh núi chia làm hai ngọn nhỏ: Ngọn phía nam có đền thờ An Sinh Vương Trần Liễu, tục gọi là Đền Cao, còn văn bia gọi là An Phụ Sơn từ. Trần Liễu sinh năm kiến Gia thứ nhất (1211) là anh ruột của Trần Cảnh, tức Trần Thái Tông (1218-1277) ông vua đầu tiên triều Trần (1225-14000), nguyên quán tại hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường, nay thuộc tỉnh Nam Định.

    Sau những trận mưa đầu mùa hạ, trời trong sáng lạ thường. Vào những ngày ấy, từ miền đồng bằng châu thổ xanh ngắt lúa ngô, nhìn về phía đông bắc, dãy An Phụ như gần lại, cao lên, kéo dài từ tây sang đông như một bức tường thành kỳ vĩ, ngăn cách miền núi và đồng bằng. Trên dãy núi xanh tươi hùng vĩ ấy nổi lên một đỉnh cao như chiếc nón chóp khổng lồ, xanh đậm một rừng cây, mờ ảo vài công trình kiến trúc. Đó là đỉnh An Phụ cao tới 246 mét. Cụm di tích An Phụ hiện nay thuộc xã An Sinh, huyện Kinh Môn.
    Đỉnh núi chia làm hai ngọn nhỏ: Ngọn phía nam có đền thờ An Sinh Vương Trần Liễu, tục gọi là Đền Cao, còn văn bia gọi là An Phụ Sơn từ. Trần Liễu sinh năm kiến Gia thứ nhất (1211) là anh ruột của Trần Cảnh, tức Trần Thái Tông (1218-1277) ông vua đầu tiên triều Trần (1225-1400), nguyên quán tại hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường, nay thuộc tỉnh Nam Định.
    Thái tử Sam nhà Lý lấy Trần Thị Dung hay còn gọi là cô Ngừ-một người con gái có nhan sắc và mưu lược, người có nhiều công lao sáng lập nhà Trần. Tháng 10 năm 1210, vua Lý Cao Tông qua đời, Hoàng tử Sam lên ngôi, tức Lý Huệ Tông. Năm sau Trần Thị Dung được phong làm nguyên phi. Sau một thời gian bị nguyên hoàng hậu làm nhục, tháng 1 năm 1217 bà lại được phong làm hoàng hậu. Kể từ đó, họ Trần có thế lực mạnh nhất trong triều đình nhà Lý buổi mạt kỳ. Hoàng thái hậu Trần thị Dung chỉ có hai con gái là: Công chúa Thuận Thiên, sinh năm 1216, lấy Trần Liễu; con gái thứ công chúa Chiêu Thánh, sinh năm 1218 lấy Trần Cảnh. Lý Huệ Tông không có con trai. Năm 1224 do sức ép của Trần Thủ Độ và có sự thuyết phục của Phùng Tá Chu, Lý Huệ Tông buộc phải nhường ngôi cho con gái thứ là Chiêu Thánh, tức Lý Chiêu Hoàng. Năm sau, năm 1225 Trần Thủ Độ lại ép Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, tức Trần Thái Tông. Triều Trần bắt đầu từ đây.
    Công chúa Chiêu Thánh không có con. Bấy giờ công chúa Thuận Thiên đã có mang ba tháng (sau này sinh ra Trần Quốc Khang). Năm 1237, Trần Thủ Độ lại ép Trần Liễu phải nhường vợ cho em để duy trì hoàng tộc Nhà Trần. Trần Liễu căm giận, chiêu tập quân sĩ, lấy Phùng Tá Chu làm quân sư, tiến về kinh sư, chống Trần Thủ Độ. Nhờ Hoàng Thái Hậu Trần thị Dung và cũng là mẹ vợ của Trần Liễu dàn xếp, mọi việc ổn thoả.
    Trần Liễu là thân phụ của hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn (1228-1300); người con trung hiếu, người anh hùng của dân tộc, văn võ song toàn, lập chiến công hiểu hách trong 3 lần chống Nguyên-Mông. Trần Liễu cùng bà vợ là Thiên Đạo Quốc Mẫu là người góp phần tạo nên thiên tài Trần Quốc Tuấn. Tháng tư năm nguyên phông thứ nhất (5-1251) An Sinh Vương, Trần Liễu mất, thọ 41 tuổi. Sau khi mất ông được lập đền thờ Trên núi An Phụ, kỷ niệm ngày mất của ông (1-4 âm lịch) trở thành ngày hội của đền Cao.
    Tượng đài Trần Hưng Đạo
    Được tạng bằng đá xanh núi Nhồi Thanh Hoá; Tượng và bệ cao 12,7m; Tượng ở thế đứng, tay trái tỳ đốc kiếm biểu hiện sự cảnh giác trước hoạ xâm lăng, tay phải cầm cuốn thư thể hiện tầm nhìn chiến lược, văn võ song toàn. Bên cạnh tượng là bức phù điêu được tôn tạo bằng đất nung; Phù điêu là bức tranh truyện khổng lồ, kể về cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện chống Nguyên Mông từ khi bắt đầu đến khi kết thúc. Sân và lan can được lát và xây dựng bằng gạch phỏng chế theo mẫu thời Trần và đá phiến. Công trình khánh thành vào tháng 10 năm 1998 kỷ niệm 696 năm ngày mất của Đại vương Trần Quốc Tuấn. Đây là một công trình văn hoá lớn của đất nước ở cuối thế kỷ 20.

  8. hoangtutrau

    hoangtutrau Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/02/2004
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
    Mọi người thắc mắc về danh lam thắng cảnh của Hải Dương sao? Trong này cũng có nhiều mà . Các lễ hội có thể là sự chọn lựa làm điểm đến của các du khách cũng được mà của các du khách

Chia sẻ trang này