1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những nẻo đường đến Trung Quốc

Chủ đề trong 'Du lịch' bởi 1981, 05/12/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. news22

    news22 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/03/2004
    Bài viết:
    18
    Đã được thích:
    0
    Xem html version tại http://www.geocities.com/ttdulich/China/China.html
    ------------------------------------------
    Trung Quốc
    Dựa theo ?oBeijing?, Caroline Liou & Robert Storey, Lonely Planet, 4th ed. 01-2001 và
    ?oLet?Ts Go: China?, many authors, MacMillan, 4th ed. 2003

    Content
    1. Quy ước. 1
    2. Địa lý. 1
    3. Lịch sử. 1
    4. Dân số. 5
    5. Ngôn ngữ. 6
    6. Tôn giáo. 7
    7. Kinh tế. 9
    8. Đồ ăn, uống. 9
    9. Các thông tin khác. 10
    10. WWW.. 10

    1. Quy ước
    chữ in nghiêng
    tiếng Trung Quốc phiên âm sang tiếng Anh

    (chữ trong ngoặc không in nghiêng)
    từ tiếng Anh nguyên bản

    TQ
    Trung Quốc

    Bạn có thể đọc một phần nguyên bản tiếng Anh ở http://www.letsgo.com/CHI/00-Discover-1
    2. Địa lý
    Phía tây là các rặng núi cao như Himalayan, Pamir, Kunlun, Tianshan, độ cao giảm dần về phía đông nhờ các dãy núi dạng bậc thang và các lòng chảo (basin). Ở phía bắc, sa mạc Takla Makan và Gobi chia TQ thành Bắc và Trung Á. Vùng phía trên Vạn lý trường thành trước đây có tên là Manchuria, bây giờ gọi là vùng Đông Bắc (dōngb.i). Nằm ở miền trung TQ, giữa tây và đông bắc, là lòng chảo Tứ Xuyên (Sichuan) biệt lập, màu mỡ, và giàu có.
    Sông Trường Giang / Dương Tử Giang (Chángjiâng / Yangzi river) dài 6.500km, là con sông dài nhất TQ và dài thứ 3 thế giới, bắt nguồn từ Tây Tạng, chảy qua Tứ Xuyên đổ ra biển phía đông, thuận tiện cho tàu bè đi lại (navigable), phục vụ cho các trung tâm công nghiệp ở Thượng Hải (Shanghai), Trùng Khánh (Chongqing), Vũ Hán (Wuhan), Nam Kinh (Nanjing). Con sông dài thứ 2 TQ là Hoàng Hà (Yellow river), 5.464km, là con sông chở nhiều trầm tích nhất thế giới (sedimented), chảy qua cao nguyên Hoàng Thổ (Loess Plateau), mỗi năm nó cuốn đi 1.6 tỉ tấn đất cát màu vàng ở đây.
    Cả nước TQ có chung một múi giờ với Bắc Kinh, +8 GMT, không thay đổi khi chuyển mùa (no daylight saving).
    3. Lịch sử
    Thời cổ đại
    Nền văn minh bắt đầu vào khoảng năm 2000 tr. CN khi nhà Hạ (Xia dynasty) được lập. Nhà Hạ, nhà Thương (Shang dynasty) và nhà Chu (Zhou dynasty) để lại rất ít các dấu tích khảo cổ, chuyện về các vị vua và dân chúng thời đó được truyền lại qua truyện thần thoại và các mảnh vỡ của chai lọ.
    Mỗi nền văn minh đều có huyền thoại về sự bắt đầu của mình, TQ cũng vậy. Chuyện kể rằng thế giới ngày xưa nằm gọn trong một quả trứng. Trong quả trứng có một (con ?) Pangu khổng lồ, nó nằm như vậy suốt 18.000 năm rồi mới chui ra. Với búa và đục Pangu tách trời với đất và tạo ra thế giới như ta thấy ngày nay. Một số dị bản cho rằng Pangu đã chạm ra mặt trời và mặt trăng, đại dương và cây cỏ; số khác thì bảo xác của Pangu là nguồn gốc của những cảnh vật đó. Tuy nhiên tất cả đều thống nhất ở một điểm là con người và động vật được tạo ra từ rận của Pangu !!!
    · Thời đại đồ đồng bắt đầu khoảng năm 3000 tr.CN.
    · Năm 2698 tr. CN, lịch TQ ra đời, ngày 12/02/2002 là ngày đầu năm của năm 4700 theo lịch cổ TQ.
    · Năm 2137, hiện tượng nhật/nguyệt thực (eclipse) đầu tiên được ghi lại. 2 nhà chiêm tinh đã bị xử tử vì dự đoán sai.
    Thời phong kiến
    Nhà Tần (Qin dynasty) (221 - 207 tr. CN) với quân đội hùng mạnh và tập trung đã thống nhất Trung Hoa thành một quốc gia hùng mạnh, sử dụng một đồng tiền, một chữ viết và chuẩn hoá hệ thống cai trị. Sau khi Tần Thuỷ Hoàng (Qin Shihuang) mất, dân chúng nổi dậy.
    · Năm 213 tr. CN, Tần Thuỷ Hoàng ra lệnh đốt hết các tác phẩm của Khổng Tử, chỉ để lại 1 bản, lưu ở thư viện triều đình.
    · Khoảng năm 100 tr. CN, các nhà chiêm tinh TQ đưa ra giả thiết trái đất có hình tròn. Cũng trong thời gian này, đạo Phật lưu truyền vào TQ.
    Nhà Hán (Han dynasty) (206 tr. CN - 220 sau CN) do một nông dân tên là Lưu Bang (Liu Bang), sau khi mất được gọi là Hán Cao Tổ (Han Gaozu), lập ra, cai trị đất nước dựa trên các ý tưởng của Khổng Tử và thực thi theo mô hình của nhà Chu thời cổ đại.
    Nhà Xin (Xin dynasty) (9 - 23 sau CN): Năm 9 sau CN, Wang Mang, quan nhiếp chính của vua Ping (1 tr. CN - 6 sau CN) cướp ngôi vua và lập ra. Thiên tai đã làm hỏng các chính sách của Wang Mang và đất nước rơi vào nội chiến. Dân chúng đi theo những lực lượng đối lập với triều đình, khởi đầu cho thời kỳ phân chia năm 220.
    Thời kỳ phân chia (220 - 618)
    265-617: thời Tam quốc (The Three Kingdom Period), ba nước tranh giành lãnh thổ của nhà Hán.
    Nhà Tấn[T1] (Jin dynasty) (265 - 316): TQ được thống nhất trong một thời gian ngắn, sau đó đất nước lại nhanh chóng bị phân chia. Ở phía nam, 5 triều đại (dynasty) nối tiếp nhau từ 316 đến 589 và ở phía bắc quân xâm lược cướp phá kinh thành Luoyang của nhà Tấn năm 311. Năm 386, bộ lạc Xianbei thành lập triều đại Northern Wei, triều đại này thành công trong việc thực hiện công bằng đất đai, nông dân được chia đất. Đạo Phật và nghệ thuật được hỗ trợ rất nhiều. Người ta tìm thấy ở động Longman rất nhiều các hình ảnh chạm khắc liên quan đến Phật giáo. Năm 589, triều đại này sụp đổ.
    Nhà Tuỳ (Sui dynasty) (589 - 618): Năm 589, Yang Jian, một viên tướng miền bắc gốc TQ lai Thổ Nhĩ Kỳ đánh chiếm nhà Bắc Chu (Northern Zhou) và nhà Chen ở phía nam, kết thúc hơn 300 năm phân chia. Triều đình đặt lại bộ máy cai trị, đề ra luật pháp, tăng sản lượng nông nghiệp, sửa lại Vạn lý trường thành và cho đào kênh lớn (Grand Canal).
    · Khoảng năm 600, Liu Zhuo (544 - 610) xuất bản lịch triều đình chuẩn; Các nhà toán học TQ lập ra môn đại số, ước tính được 7 chữ số đầu tiên của số pi, học cách sử dụng lượng giác.
    Nhà Đường (Tang dynasty) (618 - 907): Các vị vua đầu tiên của nhà Đường là những nhà cầm quyền khôn khéo, dũng cảm, thành lập những đội quân nhanh nhẹn chống lại kẻ địch ở Trung Á. Đỉnh cao quyền lực của triều đại nhà Đường là thế kỷ 7 khi chế độ bảo hộ kéo dài từ phía tây Iran đến Việt Nam và thiết lập liên minh với người Uighurs, Tây Tạng. Những năm tiếp theo là sự đi xuống của triều đại. Cuộc nổi loạn do An Lộc Sơn (An Lushan) cầm đầu năm 755 kéo dài chục năm khiến cho miền bắc TQ đổ nát. Thất bại ở các chiến trường bên ngoài khiến cho nhà Đường mất quyền thống trị ở Trung Á và cuộc cướp phá Tràng An (Chang?Tan - Xi?Tan / Tây An ngày nay) năm 763 càng làm triều đại này suy sụp. Khi trật tự được thiết lập thì triều đình trở nên quá yếu không cai trị được các viên tướng cứng đầu và những người nông dân đói nghèo. TQ lại rơi vào cảnh chia rẽ.
    · Năm 635, nhà truyền giáo đạo Thiên Chúa đầu tiên đến Tràng An.
    · Võ Tắc Thiên, xuất thân là cung nữ, lên ngôi hoàng đế trị vì trong khoảng thời gian 690 - 705.
    · Năm 751, quân đội nhà Đường thua trận ở sông Talas, thuộc địa phận Kyrgystan ngày nay.
    Nhà Bắc Tống (Northern Song dynasty) (960 - 1127) được lập nên khi tướng Zhao Kuangyn (vua Taizu) thống nhất TQ. Triều đình chủ trương theo giáo huấn của Khổng Tử, giới thiệu hệ thống thi cử để chọn nhân tài, quỹ phúc lợi và tiền giấy. Các trấn, với sản lượng nông nghiệp cao, hỗ trợ cho thương mại và công nghiệp sắt phất lên. Thơ ca và tranh phong cảnh được sáng tác nhiều, sự lớn mạnh của Phật giáo kéo theo việc xuất hiện hàng loạt đền chùa trong đó có chùa sắt (Iron Pagoda) ở Keifeng.
    Nhà Liêu (Liao dynasty) (916 - 1125): Tuy có những cải cách quan trọng và nền văn hoá phát triển, nhà Tống vẫn bị đe doạ bởi các bộ lạc phương bắc. Không lâu sau ngày lập triều đình, bộ lạc Khitan từ Mông Cổ đánh chiếm Bắc Kinh, Vạn lý trường thành và lập nên nhà Liêu.
    Nhà Kim (Jin dynasty) (1115 - 1234): Không đủ mạnh để tấn công lại nhà Liêu và cũng không muốn cống nạp, nhà Tống liên kết với bộ lạc Jurchen ở Manchuria, bộ lạc này tiến xuống phía nam và đánh bại nhà Liêu trước khi tấn công kinh đô nhà Tống năm 1126 để rồi lập nên nhà Kim.
    Nhà Nam Tống (Southern Song dynasty) (1127 - 1279) do hậu duệ nhà Tống, đứng đầu là vua Gaozong, lập nên, đặt kinh đô tại Hàng Châu (Hangzhou). Áp lực từ ngoại bang tăng và triều đình không chống đỡ nổi, trước sự bành trướng của nhà Kim, nhà Tống đã liên minh với một bộ lạc hùng mạnh ở phía bắc đó là người Mông Cổ.
    · Năm 1024, đồng tiền giấy đầu tiên trên thế giới được phát hành bởi nhà Tống.
    · Khoảng năm 1150, người TQ bắt đầu sử dụng thuốc nổ.
    · Năm 1163, một nhà thờ Do Thái được phép xây dựng ở Keifeng.
    · Khoảng năm 1200, người TQ điều chế và sử dụng vacxin phòng đậu mùa.
    Nhà Nguyên (Yuan dynasty) (1279 - 1368): Trước thế kỷ 13, người Mông Cổ là những bộ tộc sống rải rác theo lối du cư. Năm 1205, Genghis Khan tập hợp các bộ tộc này lại và tung hoành khắp Âu Á, cướp phá Baghdad, tấn công Moscow, bao vây thành Viên. Genghis mất khi đang tấn công Tây Hạ (Western Xia) năm 1227, con trai và cháu của Genghis thực hiện nốt công cuộc và chiếm toàn bộ TQ năm 1279. Kublai Khan, cháu của Genghis, lập nên nhà Nguyên. Các công trình như công viên Beihai, khu Trung Nam Hải ở Bắc Kinh được xây dựng, kênh đào lớn được mở rộng. Để cai trị dân chúng, triều đình sử dụng các biện pháp tàn ác. Thay vì dẹp yên được dân thì sự phân biệt đối xử của người Mông Cổ chỉ làm tăng ước muốn phục hồi nhà Tống của dân chúng. Các đảng phái nổi loạn khắp nơi.
    · Năm 1293, kênh đào lớn hoàn thành, dài 1.600 km nối sông Trường Giang với sông Hoàng Hà.
    · Năm 1344, nạn dịch hạch xảy ra ở TQ.
    · Khoảng năm 1340, 150.000 dân và 20.000 lính đào các kênh để tránh nạn lụt của sông Hoàng Hà.
    Nhà Minh (Ming dynasty) (1368 - 1643) được lập nên khi cuộc khởi nghĩa của Chu Nguyên Chương (Zhu Yanhang hay Zhu Yuanzhang) lật đổ nhà Nguyên thành công. Triều đại nhà Minh đã từng thôn tính Turkestan, Triều Tiên, Mông Cổ, Việt Nam và Miến Điện, trong khi về mặt hàng hải, tàu bè và hàng hoá đi đến được Madagascar. Các vị vua đời sau không đủ năng lực cai trị, cùng với nạn lạm phát và các cuộc chiến tranh liên miên với người Mãn Chu và người Mông Cổ, các cuộc nổi loạn trong nước xảy ra.
    · Năm 1417, các nhà thám hiểm TQ đã đặt chân đến bờ biển châu Phi.
    · Năm 1421, nhà Minh dời kinh đô đến Bắc Kinh và khởi công xây dựng Tử Cấm Thành.
    Nhà Thanh (Qing dynasty) (1644 - 1911): Năm 1644, Li Zicheng gây bạo động, tấn công Bắc Kinh, vị vua cuối cùng của nhà Minh tự tử và quân phiến loạn nhanh chóng chiếm được kinh thành. Tướng Wu Sangui, với mong muốn dẹp loạn cứu nguy cho triều đình, đã cầu cứu quân Mãn Chu. Người Mãn Chu đã dẹp được loạn, nhưng họ không có ý định từ bỏ Bắc Kinh và lập nên nhà Thanh. Nhà Thanh vẫn giữ nguyên các phong tục tập quán của TQ, hệ thống thi cử, khuyến khích văn học, nghệ thuật, bổ nhiệm các chức quan lại cho người TQ, thiết lập xã hội theo tư tưởng đạo Khổng. Vua Càn Long (Qianlong), trị vì 1736 - 1796, được xem là một trong những vị vua tài ba nhất trong lịch sử TQ, dưới thời của ông, đất nước thịnh vượng, lãnh thổ được mở rộng. Cuối thời Càn Long, các hoạt động quân sự đã làm cạn kiệt ngân khố triều đình, mâu thuẫn với người nước ngoài tăng lên càng làm cho sự khủng hoảng trở nên trầm trọng.
    Mặc dù quan hệ thương mại qua đường biển là cần thiết đối với các cộng đồng ở phía đông nam, nhà Thanh vẫn rất dè dặt. Vua Càn Long buộc các thương nhân nước ngoài chỉ được hoạt động ở Quảng Châu (Guangzhou hay Canton). Một quy định được đặt ra gọi là hệ thống Quảng Đông (Canton system) (1760 - 1842), buộc các giao dịch buôn bán phải thông qua một nhóm các thương nhân TQ, những người này giữ độc quyền trong việc buôn bán với nước ngoài. Bất chấp những hạn chế của hệ thống Quảng Đông, người Anh vẫn tiếp tục giữ quan hệ với TQ vì một lý do, đó là chè, thứ đồ uống trở nên phổ biến ở Anh. Cán cân thương mại lệch về TQ cho đến khi thuốc phiện được giới thiệu. Cho đến thập kỷ 1820, một số lượng lớn bạc đã chảy ra khỏi TQ để đổi lấy thuốc phiện, dẫn đến khủng hoảng tài chính. Năm 1836, vua Daoguang quyết định cấm thuốc phiện một cách triệt để, ai buôn bán hay tiêu thụ sẽ bị tống giam hay xử tử. Nhu cầu về thuốc phiện giảm xuống. Vài năm sau, viên quan Lin Zexu được chỉ định đến Quảng Châu, ông đình chỉ mọi buôn bán, phong toả các nhà máy, bắt giữ 250 người nước ngoài làm con tin và đề nghị người Anh từ bỏ việc buôn bán thuốc phiện. Triều đình nhà Thanh rất mãn nguyện với thành công của Lin, tuy nhiên người Anh thì không, với họ cách đáp lại thích hợp nhất là chiến tranh. Cuộc chiến tranh thuốc phiện (The Opium War) (1840 - 1842) bắt đầu với việc tàu chiến Anh phong toả Quảng Châu và tiến lên phía bắc. Sau vài cuộc đụng độ, triều đình nhà Thanh buộc phải chấp nhận các điều kiện mà phía Anh đưa ra trong hiệp ước Nam Kinh (Treaty of Nanjing). Năm cảng được mở cho buôn bán với nước ngoài và hệ thống Quảng Đông bị huỷ bỏ. Phía Anh cũng đòi có quyền trong việc đặt mức thuế và đặc quyền ngoại giao để hạn chế việc áp dụng luật của TQ đối với các vấn đề liên quan đến người Anh. Các thương nhân vẫn tiếp tục nhập thuốc phiện vào TQ cho đến năm 1917.
    Sau 1850, nạn lụt lội, đói kém, sự gia tăng dân số cộng với sự bỏ mặc của triều đình đã dẫn đến sự náo loạn trong nước. Các cuộc bạo loạn diễn ra khắp nơi, điển hình là cuộc khởi nghĩa Thái Bình (Taiping rebellion). Người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa này là Hồng Tú Toàn (Hong Xiuquan), một người truyền giáo, tự xưng là một người con khác của Đức Chúa trời (bên cạnh Jesus). Hơn 20.000 người đi theo Hồng. Đội quân này đánh chiếm Nam Kinh năm 1853, quân số lúc đó lên tới 1 triệu người. Năm 1864, tướng Zeng Guofan dẹp được cuộc khởi nghĩa.
    Việc dẹp được cuộc khởi nghĩa Thái Bình đem lại cho nhà Thanh cơ hội để củng cố quyền lực. Trong thời kỳ Tongzhi (1862 - 1874), triều đình cải cách lại hệ thống thi cử, loại trừ tham nhũng, thiết lập quan hệ ngoại giao để đối phó với các thế lực phương Tây. Phong trào Tự củng cố (Self-Strengthening Movement) (1874 - 1984) khuyến khích việc áp dụng khoa học công nghệ của phương Tây để hiện đại hoá TQ đồng thời duy trì các giá trị truyền thống. Sự thất bại của TQ trong cuộc chiến tranh với Nhật (Sino-Japanese war) năm 1894 đã dẫn đến cuộc cải cách 100 ngày (Hundred Days of Reform) do vua Guangxu khởi xướng, tuy nhiên Từ Hi Thái Hậu và phe bảo thủ đã chặn lại.
    Thời kỳ cộng hoà
    Được news22 sửa chữa / chuyển vào 20:46 ngày 14/04/2004
  2. news22

    news22 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/03/2004
    Bài viết:
    18
    Đã được thích:
    0
    Thời kỳ cộng hoà
    Nhà Thanh suy sụp, tương lai của đất nước là chủ đề tranh luận của các phe phái. Tôn Trung Sơn (Sun Yatsen) thành lập Đồng Minh Hội (Tong Meng Hui / United League) nhằm lật đổ nhà Thanh với sự giúp đỡ của nước ngoài. Ngày 10/10/1911, cuộc nổi dậy ở Vũ Hán (Wuhan) thành công, khởi đầu cuộc cách mạng Tân Hợi (Xinhai Revolution). Năm 1912, Tôn Trung Sơn được bầu làm vị ************* đầu tiên của nước Cộng Hoà Trung Hoa (Republic of China), vua Phổ Nghi (Pu Yi), 6 tuổi, bị buộc phải thoái vị. Đồng Minh Hội đổi tên thành Quốc dân đảng (Guomindang, GMD, hay Kuomintang, KMT / Nationalist Party), ngày 10/10 trở thành ngày quốc khánh và ngày nay vẫn được kỷ niệm ở Đài Loan.
    Mặc dù cuộc cách mạng thành công, hệ thống quyền lực ở TQ không thay đổi mấy, quyền lực về chính trị vẫn nằm trong tay Viên Thế Khải (Yuan Shikai), một viên quan của triều đình nhà Thanh. Viên giành chức ************* từ tay Tôn. Tháng 12 năm 1915, Viên Thế Khải giải tán chính thể và tự phong mình làm vua. Giữa năm 1916, Viên Thế Khải mất, đất nước rơi vào tình trạng hỗn loạn.
    Khi GMD bị Viên đặt ra khỏi vòng pháp luật năm 1913, Tôn rút về Quảng Châu, thiết lập cơ sở cho GMD ở đó, chủ trương chống sự xâm lược của nước ngoài và cho rằng TQ không thể vững mạnh nếu không loại trừ được sự xâm lăng và thiết lập một nhà nước của chính người TQ.
    Tư tưởng Marxist cũng lan rộng trong giới trí thức và công nhân thành thị ở TQ, nhất là sau sự thành công của cách mạng tháng 10 Nga. Năm 1921, Đảng CS TQ (Chinese Communist Party - CCP) được thành lập ở Thượng Hải.
    Sau khi Viên mất, các nước phương Tây chỉ quan tâm đến phe nhóm nào đang nắm quyền ở Bắc Kinh mà bỏ qua các phong trào cách mạng. Ngược lại, Liên Xô thông qua Quốc tế Cộng sản (Communist International - Comintern) ngỏ ý muốn giúp TQ làm cách mạng. GMD được xem là có triển vọng nhất. Comintern chỉ thị các đảng viên CCP hợp tác với GMD. Tôn lúc đó đang cố gắng cải tổ lại đảng. Với sự giúp đỡ của các cố vấn Xô viết, ông tổ chức lại đảng, học cách tổ chức đảng và tuyên truyền theo đường lối Bolshevik, thành lập trường Võ bị Hoàng Phố (Huangpu Military Academy) ở Quảng Châu để xây dựng quân đội. Tưởng Giới Thạch (Chiang Kaishek), vừa xong khoá đào tạo ở Moscow, được cử làm hiệu trưởng, Chu Ân Lai (Zhou Enlai), một đảng viên đảng CS có năng lực, làm chính uỷ (political commissar). Tôn Trung Sơn mất năm 1925, khi mọi việc còn đang bề bộn.
    Năm 1926, GMD và CCP hợp lực với nhau tiến hành cuộc Bắc Phạt (Northern Expe***ion) để thanh toán các phe nhóm còn lại (warlord), Tưởng Giới Thạch được cử làm tổng tư lệnh. Chưa đầy một năm, các nhóm ở phía nam sông Trường Giang đã bị dẹp. Khi quân đội của Tưởng tiến đến Thượng Hải, giới công nhân theo CCP đã kiểm soát được thành phố, ý đồ loại bỏ đồng minh của Tưởng trở nên rất rõ ràng. Các đảng viên CCP và những người ủng hộ bị bắt, giết. Quân đội của Tưởng đánh chiếm Bắc Kinh năm 1928 và thiết lập chính phủ mới.
    CCP bị xáo trộn trước sự phản bội của Tưởng, những người còn lại rút về lập căn cứ ở Jinggangshan, tỉnh Jiangxi, tổ chức lại Hồng quân (Red Army) để đối phó với quân đội của Tưởng. Do lãnh đạo thay đổi, các quyết định không đúng đắn cộng với trang thiết bị nghèo nàn, Hồng quân bị lực lượng hùng mạnh 700.000 lính của GMD áp đảo. Năm 1934, Hồng quân buộc phải thực hiện cuộc rút lui Trường Chinh (Long March). Đoàn quân tơi tả lần đến Zunyi (ở Guizhou), nơi các vị lãnh đạo CCP họp để quyết định xem rút về đâu. Sau 3 ngày tranh luận gay gắt, Mao Trạch Đông (Mao Zedong) nổi bật lên và trở thành lãnh đạo đảng. Mao và đoàn quân gần 90.000 người tiếp tục cuộc hành quân dài hơn 9.000 km địa hình gồ ghề qua 18 rặng núi và 23 con sông. Một năm sau, chưa đầy 8.000 người trong số ban đầu đến được Yan?Tan.
    Nhật Bản không bỏ lỡ cơ hội trước tình hình hỗn loạn ở TQ. Bất chấp sự gây hấn của Nhật, Tưởng nhất định muốn sự hợp nhất đất nước diễn ra trước khi chống cự lại quân xâm lăng. Mặc dù Mao tỏ ý hiệp lực với GMD để chống lại Nhật, Tưởng chỉ muốn tiêu diệt CCP. Hưởng ứng lời kêu gọi của Mao, viên tướng người Mãn Chu, Zhang Xueliang, đã bắt cóc Tưởng, sự kiện này gọi là sự cố Tây An (Xi?Tan Incident), buộc GMD phải đặt chuyện tiêu diệt CCP sang một bên để chú trọng vào việc chống quân Nhật.
    Cuộc chiến tranh thế giới 2 bắt đầu ở TQ vào ngày 7/7/1937 khi quân Nhật đụng độ với lính gác TQ ở cầu Marco Polo, ngoại ô Bắc Kinh. Quân Nhật dốc toàn lực lượng và nhanh chóng chiếm miền đông TQ. Quân TQ rút lui về Sichuan. Quân Nhật tàn sát hàng ngàn tù binh, dân thường và cưỡng hiếp hàng ngàn phụ nữ ở Nam Kinh.
    Trong thời kỳ này, du kích CCP nắm quyền kiểm soát ở các vùng nông thôn, tuyển lính và tổ chức các cuộc đột kích nhỏ chống lại quân Nhật và bọn tay sai. Năm 1941, Tưởng, một lần nữa thấy mối nguy trước sự lớn mạnh nhanh chóng của CCP, liền huỷ bỏ sự liên minh và tấn công lực lượng của CCP ở miền nam TQ.
    Khi Nhật đầu hàng quân đồng minh, hai phe vội vàng đánh chiếm các vùng bị Nhật giữ trước đây. Bất chấp nỗ lực dàn xếp của Mỹ, cuộc nội chiến xảy ra năm 1947. Mặc dù phương tiện thiếu thốn hơn nhưng CCP đã giành được thắng lợi. Một ngày trước khi Thượng Hải được CCP giải phóng, Tưởng và các thành viên của GMD chạy sang Đài Loan và tiếp tục điều hành nước CH Trung Hoa (Republic of China - ROC). Ngày 1/10/1949, Mao Chủ tịch tuyên bố thành lập nước CH ND Trung Hoa (People?Ts Republic of China - PRC) tại quảng trường Thiên An Môn.
    Thời kỳ cầm quyền của Mao
    Trong những năm đầu sau ngày thành lập nước, Mao lãnh đạo đất nước cùng với các bạn chiến đấu, trong đó có Chu Ân Lai, Lưu Thiếu Kỳ (Liu Shaoqi) và Đặng Tiểu Bình (Deng Xiaoping).
    Năm 1956, Mao mở chiến dịch ?oTrăm hoa đua nở? nhằm khuyến khích giới trí thức đóng góp ý kiến cho đảng. Năm 1957, khi thấy các ý kiến không như mong muốn, Mao cho mở chiến dịch chống cánh hữu (Anti-Rightist Campaign) để dẹp các ý kiến chống đối. Hàng trăm ngàn trí thức bị bắt và đẩy vào các trại lao động để cải tạo.
    Năm 1958, Mao đề xuất và cho thực hiện ?oBước đại nhảy vọt? (The Great Leap Forward) với mong muốn đưa sản lượng nông nghiệp và công nghiệp lên cao. Mao tuyên bố ?onền công nghiệp TQ sẽ vượt Anh quốc sau 15 năm?. Kết quả là hơn 20 triệu người chết đói.
    Năm 1962, Mao nhường chức chủ tịch cho Lưu Thiếu Kỳ, ông này cùng với Đặng Tiểu Bình tìm cách vực nền kinh tế TQ, thay đổi một số chính sách. Lo sợ quyền lực bị mất, Mao liên kết với vợ là Giang Thanh (Jiang Qing) và Lâm Bưu (Lin Biao), tổng tư lệnh của Quân đội giải phóng nhân dân (People?Ts Liberation Army - PLA).
    Cách mạng Văn hoá (Cultural Revolution) (1966 - 1969): Lâm Bưu cho in các trích dẫn phát biểu của Mao thành sách (The Quotations of Chairman Mao) còn gọi là Sách Đỏ (Little Red Book). Giang Thanh và bè phái tấn công những người đã chỉ trích chính sách của Mao. Sinh viên được kêu gọi để ủng hộ Mao. Các nhóm Hồng vệ binh (Red Guard) được thành lập. Trong một thời gian ngắn, hàng triệu thanh niên hưởng ứng lời kêu gọi của Mao ?ođập bỏ trụ sở của bọn theo tư bản và xét lại?. Đồng thời, Mao buộc tội Lưu Thiếu Kỳ ?ohướng đất nước đi theo đường lối tư bản?, ? Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình buộc phải thoái nhiệm. Không có gì tránh nổi sự tấn công tàn bạo của Hồng vệ binh, trường đại học và các trường phổ thông đóng cửa; giáo viên, văn nghệ sĩ và sư sãi bị sa thải, bị giết, bị ngược đãi hay bị đẩy vào các trại lao động ở nông thôn; việc xuất bản các ấn phẩm khoa học, văn nghệ thuật bị đình chỉ; đền chùa bị lục soát (ransacked), tu viện bị giải tán (disbanded); những thứ gợi lại thời phong kiến, sự bóc lột, tư bản (bao gồm đền chùa, lăng mộ/monuments, công trình nghệ thuật) bị phá huỷ. Các nhóm Hồng vệ binh thường gây lộn với nhau và cuối cùng PLA phải nhảy vào để kiềm chế chúng.
    Năm 1969, Lâm Bưu tiến hành đảo chính nhưng thất bại, và đã chết trong tai nạn máy bay khi bỏ trốn.
    Năm 1976, Mao mất.
    TQ vẫn ở trong tình trạng lộn xộn như thế cho đến năm 1979, khi Đặng Tiểu Bình tiến hành công cuộc hiện đại hoá.
    Thời kỳ hậu Mao
    TQ thay đổi rõ rệt trong những năm 1980, kinh tế tư nhân, một thời bị cấm, nay đã được cho phép. Phần lớn đình chùa, lăng mộ, thư viện bị phá hoại hồi cách mạng văn hoá đã được tu sửa lại. Tuy nhiên, thập kỳ này khép lại với một sự kiện bi thảm vào tháng 6 năm 1989, PLA đã đàn áp phong trào ủng hộ dân chủ ở quảng trường Thiên An Môn. Ngày nay, hai sự kiện cách mạng văn hoá và vụ thảm sát ở quảng trường Thiên An Môn vẫn là những chủ đề cấm kỵ ở TQ.
    4. Dân số
    1.28 tỉ dân trên diện tích 9.5 triệu km2, ¾ dân số sống ở phía đông (1/2 diện tích TQ), mỗi năm dân số tăng khoảng 14 triệu (bằng số dân ở Thượng Hải). Dự đoán năm 2010 dân số sẽ là 1.4 tỉ và đến năm 2050 là 1.6 tỉ. Hiện nay hơn 100 thành phố có số dân vượt quá 1 triệu người. Điều tra dân số được thực hiện ở TQ từ năm 4 (sau CN), phục vụ cho việc thu thuế, dân số lúc đó là 69 triệu.
    Khi thành lập nước năm 1949, Mao đã theo đường hướng của Stalin ?ocàng đông càng vui? (the more, the merrier) trong việc sinh đẻ. Những người sinh 5 con trở lên thì được phong là ?obà mẹ cách mạng? (revolutionary mother) và được nhận trợ cấp của chính phủ. Dân số từ 550 triệu năm 1950 tăng lên 900 triệu vào cuối những năm 1970. Năm 1978, TQ ban hành chính sách ?oMột con? (One child policy). Chính sách này cùng với tâm lý chuộng con trai khiến cho tỉ lệ nam nữ chênh lệch rõ rệt, các cặp vợ chồng TQ thường phá thai hoặc bỏ con nếu trẻ là gái. Một cuộc điều tra cho thấy số nam chưa lập gia đình lần nào ở lứa tuổi 20 - 44 nhiều gấp đôi so với nữ, và cứ 4 nam ở lứa tuổi 25 - 39 thì có 1 người lấy được vợ. Năm 2000, TQ cho ban hành Sách Trắng (White Paper) bàn về quyền con người và cho phép những cặp vợ chồng là con một được phép có 2 con, những người thuộc dân tộc thiểu số cũng được hưởng quyền này.
    Phần lớn TQ là nông thôn, 30% được xem là thành thị, sau 30 năm nữa con số này sẽ tăng gấp đôi.
    91% dân TQ là người Hán, phần còn lại khoảng 108 triệu người thuộc 55 dân tộc khác, nói chung người Hán quan hệ tốt với các nhóm tương đồng như Mãn Chu, Zhuang, Triều Tiên, ? và ngược lại với các nhóm như Tây Tạng, Uighur, Xinjiang.
    Trong thời kỳ Cộng Hoà, Tôn Trung Sơn chủ trương một quốc gia điều hành bởi 5 nhóm dân tộc chính là: Hán, Mãn Chu, Tây Tạng, Mông Cổ và Uighur, tuy nhiên bị thất bại. Đến thời Mao, học tập Stalin, giao quyền tự trị cho các nhóm dân tộc thiểu số, lập thành các khu bán tự trị (semi-self rule), nhóm nào nổi loạn sẽ phải đối mặt với PLA, chính sách này chấm dứt các cuộc nổi loạn.
    Cờ TQ có màu đỏ với 5 ngôi sao, cái to nhất là biểu tượng cho dân tộc Hán, 4 cái còn lại là biểu tượng cho Tây Tạng, Mãn Chu, Hồi (Hui) và Mông Cổ.
    Khu vực Đông Bắc: Người Mãn Chu (khoảng 10 triệu) từng một thời làm chủ khu vực này. Do ảnh hưởng của người Hán, người Mãn Chu bị đồng hoá dần, ngày nay ngôn ngữ riêng của họ không còn nữa và phần lớn không khác gì người Hán. Một số lượng lớn người Triều Tiên sống ở phía đông các tỉnh Cát Lâm (Jilin), Liêu Ninh (Liaoning) và Hắc Long Giang (Heilongjiang) dọc theo sông Yalu, hầu hết những người này là con cháu của những người chạy nạn khi Nhật thôn tính bán đảo Triều Tiên năm 1895, họ sống hoà thuân và làm ăn phát đạt. Từ giữa những năm 1990, hàng ngàn người Bắc Triều Tiên gia nhập cộng động TQ - Triều Tiên để tránh nạn đói ở quê nhà. Năm 2000, TQ bắt đầu trục xuất những người nhập cư trái phép từ Bắc Triều Tiên, con số này lên đến 200.000 người.
    Khu vực miền Bắc: Người Hồi tập trung đông nhất ở tỉnh Ninh Hạ (Ningxia), Bắc Kinh và Thượng Hải. Phần lớn là nông dân, ở khu vực thành thị họ thường là những thương nhân hay thợ thủ công năng động. Mặc dù người Hồi và Hán thường chung sống rất hoà thuận, nhưng do sự khác biệt về tôn giáo đôi khi các cuộc xung đột cũng xảy ra (người Hồi không uống rượu hay ăn thịt lợn trong khi đó lại là món ăn ưa thích của người Hán). Người Mông Cổ sống chủ yếu ở khu phía bắc từ Tân Cương (Xinjiang) đến Hắc Long Giang, nhiều người sống định cư nhưng cũng có nhiều bộ tộc vẫn sống kiểu du cư và lưu giữ những phong tục cũ.
    Khu vực Tây Bắc: có các dân tộc như Uighur, Kazakh, Tatar, Tajik, Uzbek, Kyrgyz, những người này có chung tôn giáo, chủ yếu sống ở tỉnh Tân Cương, đông nhất là người Uighur (8 triệu). Từ năm 1949, số người Hán đến sống ở khu vực này tăng từ 3.7% lên hơn 60%, dẫn đến những xung đột. Trong những năm 1950, PLA đã xử tử hàng ngàn người ly khai, có cảm tình với GMD và dân du cư. Sức ép trong thời kỳ ?oBước đại nhảy vọt? dẫn đến sự ra đi của 20.000 người Uighur sang Liên Xô. Năm 1997, xảy ra các cuộc bạo động ở Yining. Ngày nay những người ly khai Uighur được gắn với các hoạt động khủng bố và bị theo dõi chặt chẽ. Chính quyền TQ đã thành công trong việc yêu cầu các nước láng giềng ở Trung Á cam kết không hỗ trợ những người Uighur ly khai.
    Khu vực Tây Nam: có hơn 30 dân tộc thiểu số sống trong các dãy núi ở phía tây nam TQ, sống chủ yếu bằng nghề trồng trọt và chăn nuôi. Nguyên sống ở vùng hạ lưu sông Trường Giang, sau bị sự bành trướng của người Hán nên họ dồn về khu vực ngày nay. Đông nhất là dân tộc Zhuang (hơn 17 triệu) sống chủ yếu ở tỉnh Quảng Tây (Guangxi), nói tiếng phổ thông, học văn học cổ điển TQ và hầu như không phân biệt với người Hán. Người Yi, chống lại sự ảnh hưởng của người Hán, cố giữ những phong tục truyền thống, tuy nhiên tập quán bắt tù nhân người Hán làm nô lệ thì bị pháp luật cấm. Người Dai ở Vân Nam (Yunnan) có chung ngôn ngữ và văn hoá với người Thái Lan, Lào và Miến Điện. Người Naxi chịu ảnh hưởng của Phật giáo Tây Tạng và các thế lực siêu tự nhiên (supernatural spirits). Người Miao và Yao ở tỉnh Quế Châu (Guizhou) thì theo Thiên Chúa giáo.
    5. Ngôn ngữ
    Ngôn ngữ chính thức là tiếng phổ thông (p"tōnghuà / Mandarin Chinese), dựa trên tiếng (dialect) Bắc Kinh. Người Hán, Hồi, Mãn Chu nói 8 thổ ngữ (dialect) khác nhau, các nhóm thiểu số còn lại có ngôn ngữ riêng. 23 nhóm có chữ viết riêng. Tiếng phổ thông được sử dụng ở hầu hết các vùng của TQ, tuy nhiên ở Hồng Kông, tiếng Quảng Đông (Cantonese), na ná tiếng phổ thông, chiếm ưu thế. Ở phía tây, tiếng địa phương được dùng nhiều hơn.
    Chữ viết thuộc loại tượng hình, các từ cơ bản thường được thể hiện bằng chính các hình vẽ của từ đó, khoảng 90% từ vừa là tượng hình vừa tượng thanh. Có khoảng 56.000 từ mà phần lớn trong đó là từ cổ. Người ta cho rằng một người TQ được học hành cẩn thận hiện nay có thể biết và sử dụng được từ 6.000 đến 8.000 từ. Để đọc báo TQ bạn cần biết khoảng 2.000 đến 3.000 từ, 1.200 đến 1.500 cũng đủ để đoán được nội dung. Viện ngôn ngữ chiến lược (The Defence Language Institute) ở Monterey (California, Mỹ) tính toán: để thành thạo tiếng TQ ở mức độ vừa phải, cần học ít nhất là 1320 giờ.
    TQ có khoảng 6.000 họ, 87% dân số dùng 100 họ. 10 họ phổ biến nhất được dùng cho 40% dân số. Chỉ có 5 họ có nhiều hơn 1 âm tiết: Quyang, Sima, Moqi, Tantai và Puyang.
    Âm giọng (tone): tiếng TQ có nhiều từ phát âm giống nhau nhưng nghĩa khác nhau, chúng được phân biệt bởi âm giọng. Có 4 âm chính (không kể âm trung ?" không dấu):
    · cao: mā (mẹ)
    · lên giọng: má (hạt vừng)
    · ngã: mă (con ngựa)
    · xuống giọng: mà (trách mắng)
    Pinyin là hệ thống tiếng TQ phiên âm sang chữ cái Latinh. Phần lớn các chữ cái được phát âm như trong tiếng Anh, ngoại trừ những trường hợp sau:
    ...
    6. Tôn giáo
  3. news22

    news22 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/03/2004
    Bài viết:
    18
    Đã được thích:
    0
    Thời kỳ cộng hoà
    Nhà Thanh suy sụp, tương lai của đất nước là chủ đề tranh luận của các phe phái. Tôn Trung Sơn (Sun Yatsen) thành lập Đồng Minh Hội (Tong Meng Hui / United League) nhằm lật đổ nhà Thanh với sự giúp đỡ của nước ngoài. Ngày 10/10/1911, cuộc nổi dậy ở Vũ Hán (Wuhan) thành công, khởi đầu cuộc cách mạng Tân Hợi (Xinhai Revolution). Năm 1912, Tôn Trung Sơn được bầu làm vị ************* đầu tiên của nước Cộng Hoà Trung Hoa (Republic of China), vua Phổ Nghi (Pu Yi), 6 tuổi, bị buộc phải thoái vị. Đồng Minh Hội đổi tên thành Quốc dân đảng (Guomindang, GMD, hay Kuomintang, KMT / Nationalist Party), ngày 10/10 trở thành ngày quốc khánh và ngày nay vẫn được kỷ niệm ở Đài Loan.
    Mặc dù cuộc cách mạng thành công, hệ thống quyền lực ở TQ không thay đổi mấy, quyền lực về chính trị vẫn nằm trong tay Viên Thế Khải (Yuan Shikai), một viên quan của triều đình nhà Thanh. Viên giành chức ************* từ tay Tôn. Tháng 12 năm 1915, Viên Thế Khải giải tán chính thể và tự phong mình làm vua. Giữa năm 1916, Viên Thế Khải mất, đất nước rơi vào tình trạng hỗn loạn.
    Khi GMD bị Viên đặt ra khỏi vòng pháp luật năm 1913, Tôn rút về Quảng Châu, thiết lập cơ sở cho GMD ở đó, chủ trương chống sự xâm lược của nước ngoài và cho rằng TQ không thể vững mạnh nếu không loại trừ được sự xâm lăng và thiết lập một nhà nước của chính người TQ.
    Tư tưởng Marxist cũng lan rộng trong giới trí thức và công nhân thành thị ở TQ, nhất là sau sự thành công của cách mạng tháng 10 Nga. Năm 1921, Đảng CS TQ (Chinese Communist Party - CCP) được thành lập ở Thượng Hải.
    Sau khi Viên mất, các nước phương Tây chỉ quan tâm đến phe nhóm nào đang nắm quyền ở Bắc Kinh mà bỏ qua các phong trào cách mạng. Ngược lại, Liên Xô thông qua Quốc tế Cộng sản (Communist International - Comintern) ngỏ ý muốn giúp TQ làm cách mạng. GMD được xem là có triển vọng nhất. Comintern chỉ thị các đảng viên CCP hợp tác với GMD. Tôn lúc đó đang cố gắng cải tổ lại đảng. Với sự giúp đỡ của các cố vấn Xô viết, ông tổ chức lại đảng, học cách tổ chức đảng và tuyên truyền theo đường lối Bolshevik, thành lập trường Võ bị Hoàng Phố (Huangpu Military Academy) ở Quảng Châu để xây dựng quân đội. Tưởng Giới Thạch (Chiang Kaishek), vừa xong khoá đào tạo ở Moscow, được cử làm hiệu trưởng, Chu Ân Lai (Zhou Enlai), một đảng viên đảng CS có năng lực, làm chính uỷ (political commissar). Tôn Trung Sơn mất năm 1925, khi mọi việc còn đang bề bộn.
    Năm 1926, GMD và CCP hợp lực với nhau tiến hành cuộc Bắc Phạt (Northern Expe***ion) để thanh toán các phe nhóm còn lại (warlord), Tưởng Giới Thạch được cử làm tổng tư lệnh. Chưa đầy một năm, các nhóm ở phía nam sông Trường Giang đã bị dẹp. Khi quân đội của Tưởng tiến đến Thượng Hải, giới công nhân theo CCP đã kiểm soát được thành phố, ý đồ loại bỏ đồng minh của Tưởng trở nên rất rõ ràng. Các đảng viên CCP và những người ủng hộ bị bắt, giết. Quân đội của Tưởng đánh chiếm Bắc Kinh năm 1928 và thiết lập chính phủ mới.
    CCP bị xáo trộn trước sự phản bội của Tưởng, những người còn lại rút về lập căn cứ ở Jinggangshan, tỉnh Jiangxi, tổ chức lại Hồng quân (Red Army) để đối phó với quân đội của Tưởng. Do lãnh đạo thay đổi, các quyết định không đúng đắn cộng với trang thiết bị nghèo nàn, Hồng quân bị lực lượng hùng mạnh 700.000 lính của GMD áp đảo. Năm 1934, Hồng quân buộc phải thực hiện cuộc rút lui Trường Chinh (Long March). Đoàn quân tơi tả lần đến Zunyi (ở Guizhou), nơi các vị lãnh đạo CCP họp để quyết định xem rút về đâu. Sau 3 ngày tranh luận gay gắt, Mao Trạch Đông (Mao Zedong) nổi bật lên và trở thành lãnh đạo đảng. Mao và đoàn quân gần 90.000 người tiếp tục cuộc hành quân dài hơn 9.000 km địa hình gồ ghề qua 18 rặng núi và 23 con sông. Một năm sau, chưa đầy 8.000 người trong số ban đầu đến được Yan?Tan.
    Nhật Bản không bỏ lỡ cơ hội trước tình hình hỗn loạn ở TQ. Bất chấp sự gây hấn của Nhật, Tưởng nhất định muốn sự hợp nhất đất nước diễn ra trước khi chống cự lại quân xâm lăng. Mặc dù Mao tỏ ý hiệp lực với GMD để chống lại Nhật, Tưởng chỉ muốn tiêu diệt CCP. Hưởng ứng lời kêu gọi của Mao, viên tướng người Mãn Chu, Zhang Xueliang, đã bắt cóc Tưởng, sự kiện này gọi là sự cố Tây An (Xi?Tan Incident), buộc GMD phải đặt chuyện tiêu diệt CCP sang một bên để chú trọng vào việc chống quân Nhật.
    Cuộc chiến tranh thế giới 2 bắt đầu ở TQ vào ngày 7/7/1937 khi quân Nhật đụng độ với lính gác TQ ở cầu Marco Polo, ngoại ô Bắc Kinh. Quân Nhật dốc toàn lực lượng và nhanh chóng chiếm miền đông TQ. Quân TQ rút lui về Sichuan. Quân Nhật tàn sát hàng ngàn tù binh, dân thường và cưỡng hiếp hàng ngàn phụ nữ ở Nam Kinh.
    Trong thời kỳ này, du kích CCP nắm quyền kiểm soát ở các vùng nông thôn, tuyển lính và tổ chức các cuộc đột kích nhỏ chống lại quân Nhật và bọn tay sai. Năm 1941, Tưởng, một lần nữa thấy mối nguy trước sự lớn mạnh nhanh chóng của CCP, liền huỷ bỏ sự liên minh và tấn công lực lượng của CCP ở miền nam TQ.
    Khi Nhật đầu hàng quân đồng minh, hai phe vội vàng đánh chiếm các vùng bị Nhật giữ trước đây. Bất chấp nỗ lực dàn xếp của Mỹ, cuộc nội chiến xảy ra năm 1947. Mặc dù phương tiện thiếu thốn hơn nhưng CCP đã giành được thắng lợi. Một ngày trước khi Thượng Hải được CCP giải phóng, Tưởng và các thành viên của GMD chạy sang Đài Loan và tiếp tục điều hành nước CH Trung Hoa (Republic of China - ROC). Ngày 1/10/1949, Mao Chủ tịch tuyên bố thành lập nước CH ND Trung Hoa (People?Ts Republic of China - PRC) tại quảng trường Thiên An Môn.
    Thời kỳ cầm quyền của Mao
    Trong những năm đầu sau ngày thành lập nước, Mao lãnh đạo đất nước cùng với các bạn chiến đấu, trong đó có Chu Ân Lai, Lưu Thiếu Kỳ (Liu Shaoqi) và Đặng Tiểu Bình (Deng Xiaoping).
    Năm 1956, Mao mở chiến dịch ?oTrăm hoa đua nở? nhằm khuyến khích giới trí thức đóng góp ý kiến cho đảng. Năm 1957, khi thấy các ý kiến không như mong muốn, Mao cho mở chiến dịch chống cánh hữu (Anti-Rightist Campaign) để dẹp các ý kiến chống đối. Hàng trăm ngàn trí thức bị bắt và đẩy vào các trại lao động để cải tạo.
    Năm 1958, Mao đề xuất và cho thực hiện ?oBước đại nhảy vọt? (The Great Leap Forward) với mong muốn đưa sản lượng nông nghiệp và công nghiệp lên cao. Mao tuyên bố ?onền công nghiệp TQ sẽ vượt Anh quốc sau 15 năm?. Kết quả là hơn 20 triệu người chết đói.
    Năm 1962, Mao nhường chức chủ tịch cho Lưu Thiếu Kỳ, ông này cùng với Đặng Tiểu Bình tìm cách vực nền kinh tế TQ, thay đổi một số chính sách. Lo sợ quyền lực bị mất, Mao liên kết với vợ là Giang Thanh (Jiang Qing) và Lâm Bưu (Lin Biao), tổng tư lệnh của Quân đội giải phóng nhân dân (People?Ts Liberation Army - PLA).
    Cách mạng Văn hoá (Cultural Revolution) (1966 - 1969): Lâm Bưu cho in các trích dẫn phát biểu của Mao thành sách (The Quotations of Chairman Mao) còn gọi là Sách Đỏ (Little Red Book). Giang Thanh và bè phái tấn công những người đã chỉ trích chính sách của Mao. Sinh viên được kêu gọi để ủng hộ Mao. Các nhóm Hồng vệ binh (Red Guard) được thành lập. Trong một thời gian ngắn, hàng triệu thanh niên hưởng ứng lời kêu gọi của Mao ?ođập bỏ trụ sở của bọn theo tư bản và xét lại?. Đồng thời, Mao buộc tội Lưu Thiếu Kỳ ?ohướng đất nước đi theo đường lối tư bản?, ? Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình buộc phải thoái nhiệm. Không có gì tránh nổi sự tấn công tàn bạo của Hồng vệ binh, trường đại học và các trường phổ thông đóng cửa; giáo viên, văn nghệ sĩ và sư sãi bị sa thải, bị giết, bị ngược đãi hay bị đẩy vào các trại lao động ở nông thôn; việc xuất bản các ấn phẩm khoa học, văn nghệ thuật bị đình chỉ; đền chùa bị lục soát (ransacked), tu viện bị giải tán (disbanded); những thứ gợi lại thời phong kiến, sự bóc lột, tư bản (bao gồm đền chùa, lăng mộ/monuments, công trình nghệ thuật) bị phá huỷ. Các nhóm Hồng vệ binh thường gây lộn với nhau và cuối cùng PLA phải nhảy vào để kiềm chế chúng.
    Năm 1969, Lâm Bưu tiến hành đảo chính nhưng thất bại, và đã chết trong tai nạn máy bay khi bỏ trốn.
    Năm 1976, Mao mất.
    TQ vẫn ở trong tình trạng lộn xộn như thế cho đến năm 1979, khi Đặng Tiểu Bình tiến hành công cuộc hiện đại hoá.
    Thời kỳ hậu Mao
    TQ thay đổi rõ rệt trong những năm 1980, kinh tế tư nhân, một thời bị cấm, nay đã được cho phép. Phần lớn đình chùa, lăng mộ, thư viện bị phá hoại hồi cách mạng văn hoá đã được tu sửa lại. Tuy nhiên, thập kỳ này khép lại với một sự kiện bi thảm vào tháng 6 năm 1989, PLA đã đàn áp phong trào ủng hộ dân chủ ở quảng trường Thiên An Môn. Ngày nay, hai sự kiện cách mạng văn hoá và vụ thảm sát ở quảng trường Thiên An Môn vẫn là những chủ đề cấm kỵ ở TQ.
    4. Dân số
    1.28 tỉ dân trên diện tích 9.5 triệu km2, ¾ dân số sống ở phía đông (1/2 diện tích TQ), mỗi năm dân số tăng khoảng 14 triệu (bằng số dân ở Thượng Hải). Dự đoán năm 2010 dân số sẽ là 1.4 tỉ và đến năm 2050 là 1.6 tỉ. Hiện nay hơn 100 thành phố có số dân vượt quá 1 triệu người. Điều tra dân số được thực hiện ở TQ từ năm 4 (sau CN), phục vụ cho việc thu thuế, dân số lúc đó là 69 triệu.
    Khi thành lập nước năm 1949, Mao đã theo đường hướng của Stalin ?ocàng đông càng vui? (the more, the merrier) trong việc sinh đẻ. Những người sinh 5 con trở lên thì được phong là ?obà mẹ cách mạng? (revolutionary mother) và được nhận trợ cấp của chính phủ. Dân số từ 550 triệu năm 1950 tăng lên 900 triệu vào cuối những năm 1970. Năm 1978, TQ ban hành chính sách ?oMột con? (One child policy). Chính sách này cùng với tâm lý chuộng con trai khiến cho tỉ lệ nam nữ chênh lệch rõ rệt, các cặp vợ chồng TQ thường phá thai hoặc bỏ con nếu trẻ là gái. Một cuộc điều tra cho thấy số nam chưa lập gia đình lần nào ở lứa tuổi 20 - 44 nhiều gấp đôi so với nữ, và cứ 4 nam ở lứa tuổi 25 - 39 thì có 1 người lấy được vợ. Năm 2000, TQ cho ban hành Sách Trắng (White Paper) bàn về quyền con người và cho phép những cặp vợ chồng là con một được phép có 2 con, những người thuộc dân tộc thiểu số cũng được hưởng quyền này.
    Phần lớn TQ là nông thôn, 30% được xem là thành thị, sau 30 năm nữa con số này sẽ tăng gấp đôi.
    91% dân TQ là người Hán, phần còn lại khoảng 108 triệu người thuộc 55 dân tộc khác, nói chung người Hán quan hệ tốt với các nhóm tương đồng như Mãn Chu, Zhuang, Triều Tiên, ? và ngược lại với các nhóm như Tây Tạng, Uighur, Xinjiang.
    Trong thời kỳ Cộng Hoà, Tôn Trung Sơn chủ trương một quốc gia điều hành bởi 5 nhóm dân tộc chính là: Hán, Mãn Chu, Tây Tạng, Mông Cổ và Uighur, tuy nhiên bị thất bại. Đến thời Mao, học tập Stalin, giao quyền tự trị cho các nhóm dân tộc thiểu số, lập thành các khu bán tự trị (semi-self rule), nhóm nào nổi loạn sẽ phải đối mặt với PLA, chính sách này chấm dứt các cuộc nổi loạn.
    Cờ TQ có màu đỏ với 5 ngôi sao, cái to nhất là biểu tượng cho dân tộc Hán, 4 cái còn lại là biểu tượng cho Tây Tạng, Mãn Chu, Hồi (Hui) và Mông Cổ.
    Khu vực Đông Bắc: Người Mãn Chu (khoảng 10 triệu) từng một thời làm chủ khu vực này. Do ảnh hưởng của người Hán, người Mãn Chu bị đồng hoá dần, ngày nay ngôn ngữ riêng của họ không còn nữa và phần lớn không khác gì người Hán. Một số lượng lớn người Triều Tiên sống ở phía đông các tỉnh Cát Lâm (Jilin), Liêu Ninh (Liaoning) và Hắc Long Giang (Heilongjiang) dọc theo sông Yalu, hầu hết những người này là con cháu của những người chạy nạn khi Nhật thôn tính bán đảo Triều Tiên năm 1895, họ sống hoà thuân và làm ăn phát đạt. Từ giữa những năm 1990, hàng ngàn người Bắc Triều Tiên gia nhập cộng động TQ - Triều Tiên để tránh nạn đói ở quê nhà. Năm 2000, TQ bắt đầu trục xuất những người nhập cư trái phép từ Bắc Triều Tiên, con số này lên đến 200.000 người.
    Khu vực miền Bắc: Người Hồi tập trung đông nhất ở tỉnh Ninh Hạ (Ningxia), Bắc Kinh và Thượng Hải. Phần lớn là nông dân, ở khu vực thành thị họ thường là những thương nhân hay thợ thủ công năng động. Mặc dù người Hồi và Hán thường chung sống rất hoà thuận, nhưng do sự khác biệt về tôn giáo đôi khi các cuộc xung đột cũng xảy ra (người Hồi không uống rượu hay ăn thịt lợn trong khi đó lại là món ăn ưa thích của người Hán). Người Mông Cổ sống chủ yếu ở khu phía bắc từ Tân Cương (Xinjiang) đến Hắc Long Giang, nhiều người sống định cư nhưng cũng có nhiều bộ tộc vẫn sống kiểu du cư và lưu giữ những phong tục cũ.
    Khu vực Tây Bắc: có các dân tộc như Uighur, Kazakh, Tatar, Tajik, Uzbek, Kyrgyz, những người này có chung tôn giáo, chủ yếu sống ở tỉnh Tân Cương, đông nhất là người Uighur (8 triệu). Từ năm 1949, số người Hán đến sống ở khu vực này tăng từ 3.7% lên hơn 60%, dẫn đến những xung đột. Trong những năm 1950, PLA đã xử tử hàng ngàn người ly khai, có cảm tình với GMD và dân du cư. Sức ép trong thời kỳ ?oBước đại nhảy vọt? dẫn đến sự ra đi của 20.000 người Uighur sang Liên Xô. Năm 1997, xảy ra các cuộc bạo động ở Yining. Ngày nay những người ly khai Uighur được gắn với các hoạt động khủng bố và bị theo dõi chặt chẽ. Chính quyền TQ đã thành công trong việc yêu cầu các nước láng giềng ở Trung Á cam kết không hỗ trợ những người Uighur ly khai.
    Khu vực Tây Nam: có hơn 30 dân tộc thiểu số sống trong các dãy núi ở phía tây nam TQ, sống chủ yếu bằng nghề trồng trọt và chăn nuôi. Nguyên sống ở vùng hạ lưu sông Trường Giang, sau bị sự bành trướng của người Hán nên họ dồn về khu vực ngày nay. Đông nhất là dân tộc Zhuang (hơn 17 triệu) sống chủ yếu ở tỉnh Quảng Tây (Guangxi), nói tiếng phổ thông, học văn học cổ điển TQ và hầu như không phân biệt với người Hán. Người Yi, chống lại sự ảnh hưởng của người Hán, cố giữ những phong tục truyền thống, tuy nhiên tập quán bắt tù nhân người Hán làm nô lệ thì bị pháp luật cấm. Người Dai ở Vân Nam (Yunnan) có chung ngôn ngữ và văn hoá với người Thái Lan, Lào và Miến Điện. Người Naxi chịu ảnh hưởng của Phật giáo Tây Tạng và các thế lực siêu tự nhiên (supernatural spirits). Người Miao và Yao ở tỉnh Quế Châu (Guizhou) thì theo Thiên Chúa giáo.
    5. Ngôn ngữ
    Ngôn ngữ chính thức là tiếng phổ thông (p"tōnghuà / Mandarin Chinese), dựa trên tiếng (dialect) Bắc Kinh. Người Hán, Hồi, Mãn Chu nói 8 thổ ngữ (dialect) khác nhau, các nhóm thiểu số còn lại có ngôn ngữ riêng. 23 nhóm có chữ viết riêng. Tiếng phổ thông được sử dụng ở hầu hết các vùng của TQ, tuy nhiên ở Hồng Kông, tiếng Quảng Đông (Cantonese), na ná tiếng phổ thông, chiếm ưu thế. Ở phía tây, tiếng địa phương được dùng nhiều hơn.
    Chữ viết thuộc loại tượng hình, các từ cơ bản thường được thể hiện bằng chính các hình vẽ của từ đó, khoảng 90% từ vừa là tượng hình vừa tượng thanh. Có khoảng 56.000 từ mà phần lớn trong đó là từ cổ. Người ta cho rằng một người TQ được học hành cẩn thận hiện nay có thể biết và sử dụng được từ 6.000 đến 8.000 từ. Để đọc báo TQ bạn cần biết khoảng 2.000 đến 3.000 từ, 1.200 đến 1.500 cũng đủ để đoán được nội dung. Viện ngôn ngữ chiến lược (The Defence Language Institute) ở Monterey (California, Mỹ) tính toán: để thành thạo tiếng TQ ở mức độ vừa phải, cần học ít nhất là 1320 giờ.
    TQ có khoảng 6.000 họ, 87% dân số dùng 100 họ. 10 họ phổ biến nhất được dùng cho 40% dân số. Chỉ có 5 họ có nhiều hơn 1 âm tiết: Quyang, Sima, Moqi, Tantai và Puyang.
    Âm giọng (tone): tiếng TQ có nhiều từ phát âm giống nhau nhưng nghĩa khác nhau, chúng được phân biệt bởi âm giọng. Có 4 âm chính (không kể âm trung ?" không dấu):
    · cao: mā (mẹ)
    · lên giọng: má (hạt vừng)
    · ngã: mă (con ngựa)
    · xuống giọng: mà (trách mắng)
    Pinyin là hệ thống tiếng TQ phiên âm sang chữ cái Latinh. Phần lớn các chữ cái được phát âm như trong tiếng Anh, ngoại trừ những trường hợp sau:
    ...
    6. Tôn giáo
  4. news22

    news22 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/03/2004
    Bài viết:
    18
    Đã được thích:
    0
    6. Tôn giáo
    Trước thời kỳ cách mạng, đạo Khổng, đạo Lão và đạo Phật chiếm ưu thế, 3 đạo này cùng tồn tại hoà thuận, và một người có thể gia nhập nhiều đạo một lúc. Bên cạnh đó có đạo Hồi, Thiên Chúa (Christian), Do Thái. Hiện nay có khoảng 20% dân số theo đạo Khổng, 6% đạo Phật, 2% đạo Lão, 2% đạo Hồi, 1% đạo Thiên Chúa.
    Đạo Khổng (Confucianism)
    Các học giả thường tranh luận về việc coi đạo Khổng là một tôn giáo hay một trường phái triết học. Mặc dù những người theo đạo Khổng không nhất thiết tin vào sự tồn tại của kiếp sau nhưng họ đã tạo nên nhiều đền miếu và có số lượng người theo lớn hơn bất kỳ một trường phái triết học nào.
    Đạo Khổng bắt nguồn từ Khổng Phu Tử (Kŏngfūzi / Confucius), sinh năm 551 tr. CN ở Qufu. Ban đầu Khổng Tử muốn làm quan, nhưng sau khi đi khắp các nước tìm vị vua coi trọng ý tưởng của mình mà không thành, ông từ bỏ ý định này và quay sang dạy học. Sau khi ông mất, năm 479 tr. CN, học trò của ông ghi lại các bài giảng thành tuyển tập. Những thế kỷ sau, các triết gia khác, nổi tiếng nhất là Mạnh Tử (Mengzi / Mencius) và Xunzi, đã có những cống hiến lớn với học thuyết của Khổng Tử. Dưới thời nhà Tống, một hệ thống phỏng theo các ý tưởng của đạo Khổng (Neo-Confucianism) được áp dụng để quy định hành xử của mọi người trong xã hội (vua, quan và thường dân).
    Khổng Tử cho rằng chỉ có những người được học hành và có đạo đức mới tìm được con đường đúng đắn và sau đó chỉ dẫn cho đám đông. Theo ông, các lễ nghi, nghi thức đóng vai trò quan trọng trong triều đình và xã hội. Phân cấp xã hội cũng rất quan trọng: con nghe lời cha, vợ nghe lời chồng, mọi thứ phải theo khuôn phép. Hiếu thảo (filial piety) là điều kiện cần thiết cho sự hài hoà của xã hội, được xem là quan trọng hơn cả nhu cầu của bản thân. Tự trau giồi bản thân (self-cultivation) và có đạo đức, chứ không phải dòng dõi, quyết định một người là quân tử hay không. Nhân (benevolence) là đức tính quan trọng nhất.
    Đạo Khổng trở thành hệ tư tưởng quan trọng nhất. Hệ thống đào tạo và thi cử dựa hoàn toàn vào các tác phẩm của Khổng Tử, tập hợp các chủ đề từ thơ ca đến lịch sử, do Khổng Tử và các học trò của ông biên soạn. Vào cuối thế kỷ 19, giới trí thức TQ chối bỏ đạo Khổng để đến với hệ tư tưởng hiện đại hơn, tư tưởng phương Tây. Các nhà lãnh đạo CS cũng chỉ trích đạo Khổng là một hệ tư tưởng gia đình trị (nepotistic), chính thống hoá việc cai trị của tầng lớp trên với giai cấp vô sản. Tuy nhiên ảnh hưởng của đạo Khổng vẫn kéo dài qua thế kỷ 20.
    Đạo Lão (Daoism)
    Ngược với đạo Khổng chú trọng vào các quan hệ xã hội, đạo Lão quan tâm đến mối quan hệ giữa cá nhân với tự nhiên và tìm hiểu thực tế (metaphysical reality). Người ta cho rằng Đạo Đức Kinh (Dao De Jing hay Tao Te Ching) của Lão Tử (Laozi) được viết vào khoảng thế kỷ 3 tr. CN. Giống như với đạo Khổng, các học giả cũng phân biệt hai khía cạnh triết học và tôn giáo của đạo Lão, tuy nhiên ranh giới này rất mờ nhạt vì ý tưởng của khía cạnh này gắn với thực hành của khía cạnh kia. Đạo Lão về mặt triết học là dựa trên sự tìm tòi của các nhà trí thức, đôi lúc xen vào các thực hành mang tính huyền bí và thuật giả kim, đó là đạo Lão của các nhà triết học, sư sãi. Đạo Lão về mặt tôn giáo là đạo của thường dân, liên quan rất ít đến những ý tưởng được nêu ra trong sách về mặt triết học, mà nó hướng tới các hiện tượng siêu tự nhiên và đưa ra những yếu tố mà người xưa tin vào. Sự tin tưởng vào các loại thần thánh, tướng số, phép lạ, thuật giả kim là rất phổ biến. Đối với nhiều người, ngôn ngữ và việc thực hành đạo Lão rất dễ hoà hợp với đạo Phật, tạo cơ sở cho tôn giáo phổ biến ở TQ.
    Đạo Lão có thể chẳng bao giờ được nhà cầm quyền ưu ái như đạo Khổng tuy nhiên ảnh hưởng của nó tới nền văn hoá TQ là rất lớn. Những thí nghiệm về giả kim xuất phát từ đạo Lão tìm kiếm sự bất tử đã thúc đẩy sự phát triển của nền khoa học TQ ban đầu. Các khái niệm của đạo Lão về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên cũng gây ảnh hưởng đến nhiều thế hệ các hoạ sĩ vẽ phong cảnh. Thơ ca cổ điển TQ cũng thể hiện các tư tưởng triết học, nhận thức cá nhân mang dấu ấn của đạo Lão.
    Đạo Phật (Buddhism)
    Đạo Phật có nguồn gốc ngoài TQ. Siddhartha Gautama, người sau này được gọi là đức Phật (Buddha - Enlightened One), sinh vào khoảng năm 560 tr. CN tại Lumbini (Nepal ngày nay). Cuộc sống của một vị hoàng tử không cho ông cơ hội được biết về đời sống của người dân thường. Một ngày, Siddahartha đi ra ngoài cung điện và bắt gặp một người bị bệnh, một người già, một người chết và một người ăn xin. Những lý giải của đạo Hindu về sự đau khổ không làm ông thoả mãn, ông từ bỏ cuộc sống đầy đủ ở tuổi 29 và sống một cuộc sống khổ hạnh trong rừng. Sau đó ông từ bỏ chủ nghĩa khổ hạnh và chọn con đường ôn hoà hơn để suy ngẫm. Theo cách này ông đã đến được niết bàn (nirvana - enlightenment) và lên đường đi thuyết giảng về phát hiện của mình.
    Buddha chủ trương việc tách rời hoàn toàn khỏi cuộc sống trần tục (world). Những ham muốn vật chất và tinh thần có trong mỗi người chỉ là phù du và đem lại sự đau khổ. Người ta có thể chấm dứt sự đau khổ bằng cách thôi không ham muốn nữa và đi vào cõi niết bàn. Theo Buddha, sự hiểu biết đúng đắn, suy nghĩ, nói, làm, kế sinh nhai, nỗ lực, sự lưu tâm và tập trung là chìa khoá để đến được niết bàn. Ông cũng sử dụng học thuyết của Hindu về nghiệp chướng (karma) và sự đầu thai, theo đó thân phận của một người được quyết định bởi những hành động ở kiếp trước, và chủ trương một thế giới không bạo lực (non-violence).
    Đạo Phật ở TQ theo trường phái Đại Thừa (Mahayana - Great Vehicle), khác với trường phái Tiểu Thừa (Hinayana - Small Vehicle) thịnh hành ở khu vực Đông Nam Á. Trường phái Đại Thừa phát triển thành một giáo phái phổ biến vào khoảng năm 1 sau CN và trở nên thịnh hành ở Đông Bắc châu Á và Việt Nam. Trường phái này cho rằng để đến được niết bàn thì cần nỗ lực của toàn xã hội chứ không phải cá nhân (như nhận định của trường phái Tiểu Thừa), nhấn mạnh sự quan trọng trong việc quan tâm đến người khác.
    Đạo Phật đến TQ vào khoảng nửa cuối thời nhà Hán. Tín ngưỡng và việc thực hành đạo Phật ban đầu hoà trộn với đạo Lão (khi đạo Phật mới vào TQ, người ta tin rằng Buddha là hiện thân của Lão Tử). Tôn giáo này phát triển nhanh chóng và đến đời nhà Tuỳ, đạo Phật trở thành đạo của quốc gia.
    Tuy nhiên đến cuối đời nhà Đường, vua Vũ Tông (Wuzong) đàn áp các tín đồ Phật giáo vì lo sợ trước sự giàu có và quyền lực chính trị của các tăng lữ Phật giáo. Sau vụ này, Phật giáo TQ không bao giờ phục hồi lại được như trước, mặc dù nó vẫn phát triển nhưng bị kiểm soát chặt chẽ. Cách mạng văn hoá cũng giáng một đòn mạnh vào Phật giáo TQ vì Hồng vệ binh phá huỷ các đền chùa, và chính quyền giải tán các tu viện. Trong những năm gần đây, Phật giáo đã phục hồi trở lại.
    Mặc dù rất ít người TQ tự nhận là tín đồ Phật giáo thực sự, nhưng số lượng người đến đền chùa và các điểm hành hương thì rất lớn.
    Các tôn giáo khác
    Có khoảng 9 triệu tín đồ Hồi giáo ở TQ, phần lớn là con cháu của những thương gia Ba Tư, Trung Á đến TQ từ thế kỷ 7 đến 13.
    Có khoảng 20 triệu tín đồ Thiên Chúa giáo (Christian) ở TQ, tập trung chủ yếu ở vùng đông nam. Thiên Chúa giáo đến TQ vào khoảng thế kỷ 16, mặc dù các tu sĩ chủ yếu là theo Cơ đốc giáo (Catholic) nhưng phần lớn người theo đạo Thiên Chúa ở TQ hiện nay là theo đạo Tin lành (Protestant). Ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo với lịch sử TQ là không nhỏ, người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Thái Bình ở thế kỷ 19 chịu ảnh hưởng của Kinh Thánh, và cuộc khởi nghĩa Nghĩa Hoà Đoàn là sự phản ứng của người dân với những người truyền giáo của đạo Thiên Chúa.
    Khi các nhà truyền giáo Thiên Chúa tràn vào TQ hồi thế kỷ 17, họ phát hiện có một cộng đồng Do Thái nhỏ ở thành Kaifeng (thuộc tỉnh Henan ngày nay). Các nhà học giả không rõ họ đến TQ như thế nào, phần lớn cho rằng họ đến qua con đường Tơ Lụa. Cộng đồng Do Thái ở Kaifeng nay không còn nữa nhưng những dấu tích thì vẫn còn. Trong thế chiến 2, rất nhiều người Do Thái ở Đông Âu đến tạm trú ở Thượng Hải.
    CCP với vấn đề tôn giáo
    CCP ủng hộ vô thần (atheist). Cách mạng văn hoá là đỉnh cao của việc đàn áp tôn giáo ở TQ sau cách mạng. Hồng vệ binh phá huỷ đền chùa, sư sãi buộc phải từ bỏ tín ngưỡng và bị đưa vào các trại lao động hay nhà tù. Đạo Khổng bị xem là tàn dư của chế độ phong kiến áp bức, đạo Lão và đạo Phật bị quy là mê tín ********* (reactionary superstitions). đạo Thiên Chúa bị kết án là dấu tích của sự bóc lột của phương Tây.
    Sau khi Mao mất, việc bài tôn giáo mờ nhạt dần. Các tôn giáo truyền thống được chính thức công nhận là di tích (relic) quốc gia. Nhiều nơi, chính quyền chủ động sửa sang lại các đền chùa, núi thiêng thành các điểm du lịch. Tuy nhiên nhà cầm quyền vẫn kiểm soát chặt chẽ hoạt động của chùa chiền, tu viện và các vấn đề vẫn phát sinh khi các quy chế của tôn giáo mâu thuẫn trực tiếp với quy chế của chính quyền. Do đó, nhà thờ Cơ đốc (công nhận quyền lực tối cao của Giáo Hoàng), và Phật giáo Tây Tạng (coi Đà-Lai Lạt-Ma là người lãnh đạo cả về linh hồn (spiritual) lẫn chính trị) thường xuyên mâu thuẫn với chính quyền trong những năm gần đây.
    7. Kinh tế
    Có câu nói rằng nếu bạn không phải là Đảng viên trước 30 tuổi thì bạn là người không có tâm (heart) nhưng nếu bạn không phải là nhà tư bản sau khi bạn 30 tuổi thì bạn là người không có đầu óc (brain). CCP dường như đã nhập tâm câu này. Trong gần 30 năm kể từ khi thành lập nước, TQ có nền kinh tế kế hoạch tập trung dựa trên mô hình của Liên Xô theo đường lối Mác-Lê. Dưới thời Mao, đất nước hướng tới nền công nghiệp hiện đại qua một loạt các kế hoạch 5 năm (Five-Year Plan), ban đầu thành công nhưng sau đó thì dẫn đến một nền kinh tế chậm chạp và sản lượng thấp.
    Khi PRC gần tròn 30 tuổi, Đặng Tiểu Bình lên cầm quyền và ngay lập tức cho thực hiện nền kinh tế thị trường tự do (free-market economic). Năm 1979, chính quyền đặt 4 thành phố ở bờ biển phía đông nam gồm Thâm Quyến (Shenzhen), Chu Hải (Zhuhai), Hạ Môn (Xiamen) và Shantou là các đặc khu kinh tế (SEZ - Special Economic Zone). Chính quyền nhà nước cho phép chính quyền địa phương ở các đặc khu tạo thuận lợi cho kinh tế lớn mạnh và phát triển cơ sở hạ tầng (governmental infrastructures) mà không cần đợi sự chấp thuận của chính quyền trung ương. Thành công của 4 đặc khu ban đầu đã tạo điều kiện để chính quyền lập thêm các đặc khu khác dọc theo bờ biển phía đông và sông Trường Giang. Sự thành lập các đặc khu đã làm tăng GDP lên 4 lần và sản lượng nông nghiệp lên 2 lần. Tỉ lệ tăng GDP của TQ năm 2001 là khoảng 7.3%, kinh tế phát triển dẫn đầu thế giới. Tư nhân hoá tăng đã cải thiện mức sinh hoạt cho rất nhiều người dân. Số lượng nông dân nghèo qua một thập kỷ từ 200 triệu giảm xuống còn 80 triệu, và tầng lớp trung lưu hiện nay (khoảng 100 triệu) đã có thể hưởng thụ những thứ xa xỉ như đầu DVD, máy ảnh số, ?
    Tuy nhiên sự phát triển kinh tế ở TQ không phải là suôn sẻ (painless). Hệ thống kết hợp khiến cho đất nước phải chịu những vấn nạn của cả chủ nghĩa xã hội (tham nhũng / corruption, quan liêu / bloated bureaucracy) lẫn chủ nghĩa tư bản (chênh lệch về thu nhập, các sản phẩm du lịch rẻ tiền / tacky tourist goods). Bên cạnh nạn thất nghiệp, chính quyền TQ cũng phải tìm cách giải quyết các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ, các doanh nghiệp này có rất nhiều lao động nhưng điều hành kém hiệu quả.
    Bất chấp những vấn đề đó, nền kinh tế vẫn phát triển với tỉ lệ khoảng 8% một năm.
    8. Đồ ăn, uống
    Theo một câu ngạn ngữ TQ thì với một thường dân, thức ăn cũng thiêng liêng như thiên đường vậy. Câu này cũng đúng với người giàu, tất nhiên là đắt hơn. Tuy nhiên bất kể giàu nghèo, văn hoá TQ bắt đầu và kết thúc với ăn J
    Ẩm thực TQ nhấn mạnh tầm quan trọng của sự cân đối giữa fàn (ngũ cốc) và cài (rau và thịt). Nguyên liệu cho cài rất phong phú, từ những thứ quý hiếm như tôm hùm, vây cá mập, chân gấu, sừng hươu, đuôi hươu, ? đến những thứ rất mộc mạc như cỏ, vỏ cây, lá tre, ?
    Lúa là cây lương thực chính ở miền nam trong khi ở miền bắc là lúa mỳ, bữa ăn thường có mỳ (noodle) và bánh (stuffed buns). Ở Hong Kong, dimsum (món khai vị) rất phổ biến, còn phía Tây Bắc thì chịu ảnh hưởng của ẩm thực Trung Á.
    Khu vực
    Đặc sản

    Bắc Kinh và tỉnh Sơn Đông (Shandong)
    Vịt Bắc Kinh (Peking duck), các bữa tiệc (elaborate banquet), bánh bao (dumpling), mỳ (noodle)

    Thượng Hải và tỉnh Giang Tô (Jiangsu)
    thuỷ - hải sản (tôm hùm, cua, cá, ?)

    Sichuan và tỉnh Hồ Nam (Hunan)
    đồ ăn nhiều gia vị

    Hong Kong và tỉnh Quảng Đông (Guangdong)
    đa dạng: khỉ, rắn, bồ câu, ếch, rùa, ?

    Tân Cương và khu Tây Bắc
    mỳ, bánh kebab thịt cừu (lamb kebab), thịt nướng

    Đôi đũa, tiếng TQ là kuàzi - fast things, tiếng Anh là chopsticks, có người cho rằng ?ochop? bắt nguồn từ việc thương nhân TQ nhầm từ chop với fast.
    Khi ăn xúp, để làm nguội nước sốt và tận hưởng tối đa hương vị, húp từng ngụm nhỏ ở thìa trong khi hít vào, tạo nên âm thanh hơi bất lịch sự nhưng người ăn thì thấy rất ngon J
    Chè TQ có đến hàng trăm vị, chia làm hai loại chính: chè xanh (lāchá - green tea) và chè đen (hóngchá - black tea), giá từ Y1 một túi đến hàng trăm đô-la một lạng. Tuy nhiên nước nóng thì rất sẵn và miễn phí. Baijiu, một loại rượu mạnh, rất phổ biến trong giới trung niên, đặc biệt là người già. Bia cũng là thứ đồ uống phổ biến, phần lớn các thành phố đều sản xuất loại bia riêng, Tsingtao là bia của Thanh Đảo (Qingdao), được bán ra cả nước ngoài. Người TQ uống khoảng 17.4 tỉ lit trà/năm; sản lượng bia 20.9 tỉ tấn/năm.
    9. Các thông tin khác
    Hệ thống đo lường
    Mặc dù TQ sử dụng hệ đo lường quốc tế, hệ đo lường cổ truyền vẫn được sử dụng:
    · 1 jīn (catty) = 0.6 kg = 16 liăng (tael) = 16 x 37.5 gram
    · 1 ping = 1.82 m2
    Tiền tệ
    Đơn vị tiền tệ của TQ là đồng nhân dân tệ (Renminbi - RMB / people?Ts money), thường gọi là yuan, ký hiệu là Y. Trong giao tiếp hàng ngày, từ kuai hay kuaiqian được dùng thay thế cho từ yuan.
    · 1 yuan = 10 jiao (jiao được đọc như mao)
    · 1 jiao = 10 fen
    Tỉ giá xấp xỉ: USD 1 ~ Y 8.3
    Tiền giấy có các loại: 1, 2, 5, 10, 50, 100 yuan; 1, 2, 5 jiao và 1, 2, 5 fen
    Tiền xu có các loại: 1 yuan; 1, 2, 5 jiao và 1, 2, 5 fen.
    Kích cỡ tiền giấy và tiền xu tăng dần theo giá trị.
    Mua bán
    Mặc cả là điều tất nhiên. Bạn nên biết vài câu TQ để hỏi giá cả, giá sẽ được đưa ra mềm hơn, dù vẫn phải mặc cả. Nên khảo giá trước khi mua vì nhiều khi đã mặc cả chán chê, bạn vẫn có thể mua đắt hơn gấp đôi so với dân bản địa.

    Đi vệ sinh: nên mang theo giấy vệ sinh. Tiếng TQ, chữ Nam (Men) có hình cái bánh chưng ở trên J

    Nhổ nước bọt ngoài đường (the national sport) rất phổ biến mặc dù bị cấm. Không nên đi gần các xe buýt đông khách, tránh xa các đám cãi nhau, khi nghe thấy tiếng đằng hắng thì phải chạy ngay J
    Không nên đề cập đến chính trị, các vấn đề về Tây Tạng, Đài Loan, ?
    10. WWW
    Beijing Transportation
    http://www.ebeijing.gov.cn/life/Transportation/
    http://www.travelchinaguide.com/cityguides/index.htm


    --------------------------------------------------------------------------------
    [T1] Tây Tấn (265 - 316), Đông Tấn (317 - 420)
  5. news22

    news22 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/03/2004
    Bài viết:
    18
    Đã được thích:
    0
    6. Tôn giáo
    Trước thời kỳ cách mạng, đạo Khổng, đạo Lão và đạo Phật chiếm ưu thế, 3 đạo này cùng tồn tại hoà thuận, và một người có thể gia nhập nhiều đạo một lúc. Bên cạnh đó có đạo Hồi, Thiên Chúa (Christian), Do Thái. Hiện nay có khoảng 20% dân số theo đạo Khổng, 6% đạo Phật, 2% đạo Lão, 2% đạo Hồi, 1% đạo Thiên Chúa.
    Đạo Khổng (Confucianism)
    Các học giả thường tranh luận về việc coi đạo Khổng là một tôn giáo hay một trường phái triết học. Mặc dù những người theo đạo Khổng không nhất thiết tin vào sự tồn tại của kiếp sau nhưng họ đã tạo nên nhiều đền miếu và có số lượng người theo lớn hơn bất kỳ một trường phái triết học nào.
    Đạo Khổng bắt nguồn từ Khổng Phu Tử (Kŏngfūzi / Confucius), sinh năm 551 tr. CN ở Qufu. Ban đầu Khổng Tử muốn làm quan, nhưng sau khi đi khắp các nước tìm vị vua coi trọng ý tưởng của mình mà không thành, ông từ bỏ ý định này và quay sang dạy học. Sau khi ông mất, năm 479 tr. CN, học trò của ông ghi lại các bài giảng thành tuyển tập. Những thế kỷ sau, các triết gia khác, nổi tiếng nhất là Mạnh Tử (Mengzi / Mencius) và Xunzi, đã có những cống hiến lớn với học thuyết của Khổng Tử. Dưới thời nhà Tống, một hệ thống phỏng theo các ý tưởng của đạo Khổng (Neo-Confucianism) được áp dụng để quy định hành xử của mọi người trong xã hội (vua, quan và thường dân).
    Khổng Tử cho rằng chỉ có những người được học hành và có đạo đức mới tìm được con đường đúng đắn và sau đó chỉ dẫn cho đám đông. Theo ông, các lễ nghi, nghi thức đóng vai trò quan trọng trong triều đình và xã hội. Phân cấp xã hội cũng rất quan trọng: con nghe lời cha, vợ nghe lời chồng, mọi thứ phải theo khuôn phép. Hiếu thảo (filial piety) là điều kiện cần thiết cho sự hài hoà của xã hội, được xem là quan trọng hơn cả nhu cầu của bản thân. Tự trau giồi bản thân (self-cultivation) và có đạo đức, chứ không phải dòng dõi, quyết định một người là quân tử hay không. Nhân (benevolence) là đức tính quan trọng nhất.
    Đạo Khổng trở thành hệ tư tưởng quan trọng nhất. Hệ thống đào tạo và thi cử dựa hoàn toàn vào các tác phẩm của Khổng Tử, tập hợp các chủ đề từ thơ ca đến lịch sử, do Khổng Tử và các học trò của ông biên soạn. Vào cuối thế kỷ 19, giới trí thức TQ chối bỏ đạo Khổng để đến với hệ tư tưởng hiện đại hơn, tư tưởng phương Tây. Các nhà lãnh đạo CS cũng chỉ trích đạo Khổng là một hệ tư tưởng gia đình trị (nepotistic), chính thống hoá việc cai trị của tầng lớp trên với giai cấp vô sản. Tuy nhiên ảnh hưởng của đạo Khổng vẫn kéo dài qua thế kỷ 20.
    Đạo Lão (Daoism)
    Ngược với đạo Khổng chú trọng vào các quan hệ xã hội, đạo Lão quan tâm đến mối quan hệ giữa cá nhân với tự nhiên và tìm hiểu thực tế (metaphysical reality). Người ta cho rằng Đạo Đức Kinh (Dao De Jing hay Tao Te Ching) của Lão Tử (Laozi) được viết vào khoảng thế kỷ 3 tr. CN. Giống như với đạo Khổng, các học giả cũng phân biệt hai khía cạnh triết học và tôn giáo của đạo Lão, tuy nhiên ranh giới này rất mờ nhạt vì ý tưởng của khía cạnh này gắn với thực hành của khía cạnh kia. Đạo Lão về mặt triết học là dựa trên sự tìm tòi của các nhà trí thức, đôi lúc xen vào các thực hành mang tính huyền bí và thuật giả kim, đó là đạo Lão của các nhà triết học, sư sãi. Đạo Lão về mặt tôn giáo là đạo của thường dân, liên quan rất ít đến những ý tưởng được nêu ra trong sách về mặt triết học, mà nó hướng tới các hiện tượng siêu tự nhiên và đưa ra những yếu tố mà người xưa tin vào. Sự tin tưởng vào các loại thần thánh, tướng số, phép lạ, thuật giả kim là rất phổ biến. Đối với nhiều người, ngôn ngữ và việc thực hành đạo Lão rất dễ hoà hợp với đạo Phật, tạo cơ sở cho tôn giáo phổ biến ở TQ.
    Đạo Lão có thể chẳng bao giờ được nhà cầm quyền ưu ái như đạo Khổng tuy nhiên ảnh hưởng của nó tới nền văn hoá TQ là rất lớn. Những thí nghiệm về giả kim xuất phát từ đạo Lão tìm kiếm sự bất tử đã thúc đẩy sự phát triển của nền khoa học TQ ban đầu. Các khái niệm của đạo Lão về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên cũng gây ảnh hưởng đến nhiều thế hệ các hoạ sĩ vẽ phong cảnh. Thơ ca cổ điển TQ cũng thể hiện các tư tưởng triết học, nhận thức cá nhân mang dấu ấn của đạo Lão.
    Đạo Phật (Buddhism)
    Đạo Phật có nguồn gốc ngoài TQ. Siddhartha Gautama, người sau này được gọi là đức Phật (Buddha - Enlightened One), sinh vào khoảng năm 560 tr. CN tại Lumbini (Nepal ngày nay). Cuộc sống của một vị hoàng tử không cho ông cơ hội được biết về đời sống của người dân thường. Một ngày, Siddahartha đi ra ngoài cung điện và bắt gặp một người bị bệnh, một người già, một người chết và một người ăn xin. Những lý giải của đạo Hindu về sự đau khổ không làm ông thoả mãn, ông từ bỏ cuộc sống đầy đủ ở tuổi 29 và sống một cuộc sống khổ hạnh trong rừng. Sau đó ông từ bỏ chủ nghĩa khổ hạnh và chọn con đường ôn hoà hơn để suy ngẫm. Theo cách này ông đã đến được niết bàn (nirvana - enlightenment) và lên đường đi thuyết giảng về phát hiện của mình.
    Buddha chủ trương việc tách rời hoàn toàn khỏi cuộc sống trần tục (world). Những ham muốn vật chất và tinh thần có trong mỗi người chỉ là phù du và đem lại sự đau khổ. Người ta có thể chấm dứt sự đau khổ bằng cách thôi không ham muốn nữa và đi vào cõi niết bàn. Theo Buddha, sự hiểu biết đúng đắn, suy nghĩ, nói, làm, kế sinh nhai, nỗ lực, sự lưu tâm và tập trung là chìa khoá để đến được niết bàn. Ông cũng sử dụng học thuyết của Hindu về nghiệp chướng (karma) và sự đầu thai, theo đó thân phận của một người được quyết định bởi những hành động ở kiếp trước, và chủ trương một thế giới không bạo lực (non-violence).
    Đạo Phật ở TQ theo trường phái Đại Thừa (Mahayana - Great Vehicle), khác với trường phái Tiểu Thừa (Hinayana - Small Vehicle) thịnh hành ở khu vực Đông Nam Á. Trường phái Đại Thừa phát triển thành một giáo phái phổ biến vào khoảng năm 1 sau CN và trở nên thịnh hành ở Đông Bắc châu Á và Việt Nam. Trường phái này cho rằng để đến được niết bàn thì cần nỗ lực của toàn xã hội chứ không phải cá nhân (như nhận định của trường phái Tiểu Thừa), nhấn mạnh sự quan trọng trong việc quan tâm đến người khác.
    Đạo Phật đến TQ vào khoảng nửa cuối thời nhà Hán. Tín ngưỡng và việc thực hành đạo Phật ban đầu hoà trộn với đạo Lão (khi đạo Phật mới vào TQ, người ta tin rằng Buddha là hiện thân của Lão Tử). Tôn giáo này phát triển nhanh chóng và đến đời nhà Tuỳ, đạo Phật trở thành đạo của quốc gia.
    Tuy nhiên đến cuối đời nhà Đường, vua Vũ Tông (Wuzong) đàn áp các tín đồ Phật giáo vì lo sợ trước sự giàu có và quyền lực chính trị của các tăng lữ Phật giáo. Sau vụ này, Phật giáo TQ không bao giờ phục hồi lại được như trước, mặc dù nó vẫn phát triển nhưng bị kiểm soát chặt chẽ. Cách mạng văn hoá cũng giáng một đòn mạnh vào Phật giáo TQ vì Hồng vệ binh phá huỷ các đền chùa, và chính quyền giải tán các tu viện. Trong những năm gần đây, Phật giáo đã phục hồi trở lại.
    Mặc dù rất ít người TQ tự nhận là tín đồ Phật giáo thực sự, nhưng số lượng người đến đền chùa và các điểm hành hương thì rất lớn.
    Các tôn giáo khác
    Có khoảng 9 triệu tín đồ Hồi giáo ở TQ, phần lớn là con cháu của những thương gia Ba Tư, Trung Á đến TQ từ thế kỷ 7 đến 13.
    Có khoảng 20 triệu tín đồ Thiên Chúa giáo (Christian) ở TQ, tập trung chủ yếu ở vùng đông nam. Thiên Chúa giáo đến TQ vào khoảng thế kỷ 16, mặc dù các tu sĩ chủ yếu là theo Cơ đốc giáo (Catholic) nhưng phần lớn người theo đạo Thiên Chúa ở TQ hiện nay là theo đạo Tin lành (Protestant). Ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo với lịch sử TQ là không nhỏ, người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Thái Bình ở thế kỷ 19 chịu ảnh hưởng của Kinh Thánh, và cuộc khởi nghĩa Nghĩa Hoà Đoàn là sự phản ứng của người dân với những người truyền giáo của đạo Thiên Chúa.
    Khi các nhà truyền giáo Thiên Chúa tràn vào TQ hồi thế kỷ 17, họ phát hiện có một cộng đồng Do Thái nhỏ ở thành Kaifeng (thuộc tỉnh Henan ngày nay). Các nhà học giả không rõ họ đến TQ như thế nào, phần lớn cho rằng họ đến qua con đường Tơ Lụa. Cộng đồng Do Thái ở Kaifeng nay không còn nữa nhưng những dấu tích thì vẫn còn. Trong thế chiến 2, rất nhiều người Do Thái ở Đông Âu đến tạm trú ở Thượng Hải.
    CCP với vấn đề tôn giáo
    CCP ủng hộ vô thần (atheist). Cách mạng văn hoá là đỉnh cao của việc đàn áp tôn giáo ở TQ sau cách mạng. Hồng vệ binh phá huỷ đền chùa, sư sãi buộc phải từ bỏ tín ngưỡng và bị đưa vào các trại lao động hay nhà tù. Đạo Khổng bị xem là tàn dư của chế độ phong kiến áp bức, đạo Lão và đạo Phật bị quy là mê tín ********* (reactionary superstitions). đạo Thiên Chúa bị kết án là dấu tích của sự bóc lột của phương Tây.
    Sau khi Mao mất, việc bài tôn giáo mờ nhạt dần. Các tôn giáo truyền thống được chính thức công nhận là di tích (relic) quốc gia. Nhiều nơi, chính quyền chủ động sửa sang lại các đền chùa, núi thiêng thành các điểm du lịch. Tuy nhiên nhà cầm quyền vẫn kiểm soát chặt chẽ hoạt động của chùa chiền, tu viện và các vấn đề vẫn phát sinh khi các quy chế của tôn giáo mâu thuẫn trực tiếp với quy chế của chính quyền. Do đó, nhà thờ Cơ đốc (công nhận quyền lực tối cao của Giáo Hoàng), và Phật giáo Tây Tạng (coi Đà-Lai Lạt-Ma là người lãnh đạo cả về linh hồn (spiritual) lẫn chính trị) thường xuyên mâu thuẫn với chính quyền trong những năm gần đây.
    7. Kinh tế
    Có câu nói rằng nếu bạn không phải là Đảng viên trước 30 tuổi thì bạn là người không có tâm (heart) nhưng nếu bạn không phải là nhà tư bản sau khi bạn 30 tuổi thì bạn là người không có đầu óc (brain). CCP dường như đã nhập tâm câu này. Trong gần 30 năm kể từ khi thành lập nước, TQ có nền kinh tế kế hoạch tập trung dựa trên mô hình của Liên Xô theo đường lối Mác-Lê. Dưới thời Mao, đất nước hướng tới nền công nghiệp hiện đại qua một loạt các kế hoạch 5 năm (Five-Year Plan), ban đầu thành công nhưng sau đó thì dẫn đến một nền kinh tế chậm chạp và sản lượng thấp.
    Khi PRC gần tròn 30 tuổi, Đặng Tiểu Bình lên cầm quyền và ngay lập tức cho thực hiện nền kinh tế thị trường tự do (free-market economic). Năm 1979, chính quyền đặt 4 thành phố ở bờ biển phía đông nam gồm Thâm Quyến (Shenzhen), Chu Hải (Zhuhai), Hạ Môn (Xiamen) và Shantou là các đặc khu kinh tế (SEZ - Special Economic Zone). Chính quyền nhà nước cho phép chính quyền địa phương ở các đặc khu tạo thuận lợi cho kinh tế lớn mạnh và phát triển cơ sở hạ tầng (governmental infrastructures) mà không cần đợi sự chấp thuận của chính quyền trung ương. Thành công của 4 đặc khu ban đầu đã tạo điều kiện để chính quyền lập thêm các đặc khu khác dọc theo bờ biển phía đông và sông Trường Giang. Sự thành lập các đặc khu đã làm tăng GDP lên 4 lần và sản lượng nông nghiệp lên 2 lần. Tỉ lệ tăng GDP của TQ năm 2001 là khoảng 7.3%, kinh tế phát triển dẫn đầu thế giới. Tư nhân hoá tăng đã cải thiện mức sinh hoạt cho rất nhiều người dân. Số lượng nông dân nghèo qua một thập kỷ từ 200 triệu giảm xuống còn 80 triệu, và tầng lớp trung lưu hiện nay (khoảng 100 triệu) đã có thể hưởng thụ những thứ xa xỉ như đầu DVD, máy ảnh số, ?
    Tuy nhiên sự phát triển kinh tế ở TQ không phải là suôn sẻ (painless). Hệ thống kết hợp khiến cho đất nước phải chịu những vấn nạn của cả chủ nghĩa xã hội (tham nhũng / corruption, quan liêu / bloated bureaucracy) lẫn chủ nghĩa tư bản (chênh lệch về thu nhập, các sản phẩm du lịch rẻ tiền / tacky tourist goods). Bên cạnh nạn thất nghiệp, chính quyền TQ cũng phải tìm cách giải quyết các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ, các doanh nghiệp này có rất nhiều lao động nhưng điều hành kém hiệu quả.
    Bất chấp những vấn đề đó, nền kinh tế vẫn phát triển với tỉ lệ khoảng 8% một năm.
    8. Đồ ăn, uống
    Theo một câu ngạn ngữ TQ thì với một thường dân, thức ăn cũng thiêng liêng như thiên đường vậy. Câu này cũng đúng với người giàu, tất nhiên là đắt hơn. Tuy nhiên bất kể giàu nghèo, văn hoá TQ bắt đầu và kết thúc với ăn J
    Ẩm thực TQ nhấn mạnh tầm quan trọng của sự cân đối giữa fàn (ngũ cốc) và cài (rau và thịt). Nguyên liệu cho cài rất phong phú, từ những thứ quý hiếm như tôm hùm, vây cá mập, chân gấu, sừng hươu, đuôi hươu, ? đến những thứ rất mộc mạc như cỏ, vỏ cây, lá tre, ?
    Lúa là cây lương thực chính ở miền nam trong khi ở miền bắc là lúa mỳ, bữa ăn thường có mỳ (noodle) và bánh (stuffed buns). Ở Hong Kong, dimsum (món khai vị) rất phổ biến, còn phía Tây Bắc thì chịu ảnh hưởng của ẩm thực Trung Á.
    Khu vực
    Đặc sản

    Bắc Kinh và tỉnh Sơn Đông (Shandong)
    Vịt Bắc Kinh (Peking duck), các bữa tiệc (elaborate banquet), bánh bao (dumpling), mỳ (noodle)

    Thượng Hải và tỉnh Giang Tô (Jiangsu)
    thuỷ - hải sản (tôm hùm, cua, cá, ?)

    Sichuan và tỉnh Hồ Nam (Hunan)
    đồ ăn nhiều gia vị

    Hong Kong và tỉnh Quảng Đông (Guangdong)
    đa dạng: khỉ, rắn, bồ câu, ếch, rùa, ?

    Tân Cương và khu Tây Bắc
    mỳ, bánh kebab thịt cừu (lamb kebab), thịt nướng

    Đôi đũa, tiếng TQ là kuàzi - fast things, tiếng Anh là chopsticks, có người cho rằng ?ochop? bắt nguồn từ việc thương nhân TQ nhầm từ chop với fast.
    Khi ăn xúp, để làm nguội nước sốt và tận hưởng tối đa hương vị, húp từng ngụm nhỏ ở thìa trong khi hít vào, tạo nên âm thanh hơi bất lịch sự nhưng người ăn thì thấy rất ngon J
    Chè TQ có đến hàng trăm vị, chia làm hai loại chính: chè xanh (lāchá - green tea) và chè đen (hóngchá - black tea), giá từ Y1 một túi đến hàng trăm đô-la một lạng. Tuy nhiên nước nóng thì rất sẵn và miễn phí. Baijiu, một loại rượu mạnh, rất phổ biến trong giới trung niên, đặc biệt là người già. Bia cũng là thứ đồ uống phổ biến, phần lớn các thành phố đều sản xuất loại bia riêng, Tsingtao là bia của Thanh Đảo (Qingdao), được bán ra cả nước ngoài. Người TQ uống khoảng 17.4 tỉ lit trà/năm; sản lượng bia 20.9 tỉ tấn/năm.
    9. Các thông tin khác
    Hệ thống đo lường
    Mặc dù TQ sử dụng hệ đo lường quốc tế, hệ đo lường cổ truyền vẫn được sử dụng:
    · 1 jīn (catty) = 0.6 kg = 16 liăng (tael) = 16 x 37.5 gram
    · 1 ping = 1.82 m2
    Tiền tệ
    Đơn vị tiền tệ của TQ là đồng nhân dân tệ (Renminbi - RMB / people?Ts money), thường gọi là yuan, ký hiệu là Y. Trong giao tiếp hàng ngày, từ kuai hay kuaiqian được dùng thay thế cho từ yuan.
    · 1 yuan = 10 jiao (jiao được đọc như mao)
    · 1 jiao = 10 fen
    Tỉ giá xấp xỉ: USD 1 ~ Y 8.3
    Tiền giấy có các loại: 1, 2, 5, 10, 50, 100 yuan; 1, 2, 5 jiao và 1, 2, 5 fen
    Tiền xu có các loại: 1 yuan; 1, 2, 5 jiao và 1, 2, 5 fen.
    Kích cỡ tiền giấy và tiền xu tăng dần theo giá trị.
    Mua bán
    Mặc cả là điều tất nhiên. Bạn nên biết vài câu TQ để hỏi giá cả, giá sẽ được đưa ra mềm hơn, dù vẫn phải mặc cả. Nên khảo giá trước khi mua vì nhiều khi đã mặc cả chán chê, bạn vẫn có thể mua đắt hơn gấp đôi so với dân bản địa.

    Đi vệ sinh: nên mang theo giấy vệ sinh. Tiếng TQ, chữ Nam (Men) có hình cái bánh chưng ở trên J

    Nhổ nước bọt ngoài đường (the national sport) rất phổ biến mặc dù bị cấm. Không nên đi gần các xe buýt đông khách, tránh xa các đám cãi nhau, khi nghe thấy tiếng đằng hắng thì phải chạy ngay J
    Không nên đề cập đến chính trị, các vấn đề về Tây Tạng, Đài Loan, ?
    10. WWW
    Beijing Transportation
    http://www.ebeijing.gov.cn/life/Transportation/
    http://www.travelchinaguide.com/cityguides/index.htm


    --------------------------------------------------------------------------------
    [T1] Tây Tấn (265 - 316), Đông Tấn (317 - 420)
  6. Minh__ngoc

    Minh__ngoc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/02/2004
    Bài viết:
    4
    Đã được thích:
    0
    Rất cám ơn các bác đã tận tình chia xẻ kinh nghiệm và thông tin về TQ.
    Sau khi đã thu thập thêm thông tin ỏ trên web, tôi dự tính chương trình như sau và rất mong các Bác tham gia ý kiến. Phần nằm trong ngoặc là dự kiến của tôi. Còn phần còn lại là nằm trong chương trình tham quan. Tôi cũng có địa chỉ khách sạn để các Bác có thể xem hộ là nên đi chỗ nào thuận tiện nhất. Ngoài ra là không biết ỏ TQ thì có thể mua thẻ điện thoại giá rê để gọi về VN được không nhỉ.
    Ngày 1: Hà Nội / Bắc Kinh
    HAN/ BACKINH (HK Việt Nam). VN900 (10h10-14h35). Khách sạn Hạ Đức Môn. (Hademen hotel - 2jia bigstreet chongwen gate beijing). Buổi tối xem xiếc đặc sắc của Trung Quốc.

    [Tôi dự định đi thăm Hồng Lâu Mộng (Prince?Ts Gong Residence) và khu phố Huatong (Bell ?" Drum Tower) vào buổi chiều.]
    Ngày 2: Bắc Kinh / Thượng Hải (Ăn sáng, trưa và tối)
    Thăm Qung trường Thiên An Môn, Thăm Lăng Mao Chủ Tịch (bên ngoài), Đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ, thăm Cố Cung. Lên tầu đi Thượng Hi. T103 (20h00).
    Ngày 3 (20/04): Thượng Hải (Ăn sáng, trưa, tối)
    Đến Thượng Hải 10h00 sáng về khách sạn MOTAI ?" 678 ANYUAN. Buổi chiều thăm chùa Ngọc Phật , cửa hàng Ngọc trai, lên tháp truyền hình Đông Phưng
    [Trong 3 ngày ở Thượng hải , tôi dự định đi Tô châu và/hoặc Hàng Châu (mỗi nơi một ngày) bằng tầu hỏa hoặc xe bus và không theo chương trình của đoàn du lịch. Vậy Bác nào đã từng đi 2 địa điểm trên có thể cho gợi ý nên đi vào ngày nào - thứ 3 (chỉ có thể sau 10h), ngày thứ 4 (trọn ngày), và ngày thứ 5 (chỉ đến cỡ 15h). Nếu có thể các Bác có thể cho biết chi tiết hơn về việc nên đi phương tiện nào, và những nơi nào nên đến thăm.
    Ngày còn lại theo các Bác nên đi thăm nơi nào ở thượng hải. Vì tôi chủ yếu lấy thông tin trên Internet nên không biết các tên sau có đúng hay không
    Chùa Ngọc Phật (Jade Temple)
    Miếu Thành Hoàng (không thấy có chỉ dẫn trên mạng)
    Dự viên (Yuyuan Garden)
    Bến Thượng Hải (the Bund)
    Tôi có 2 buổi tối ở TH, dự định đi Phố Nam Kinh, Bến sông Hoành Phố và Khu Phố Đông theo gợi ý của hoankiem. Không biết ở TH thì có chợ đêm không các Bác ơi.]
    Ngày 4 (21/04): Thượng Hải (Ăn sáng, TRƯA, TốI)
    Thăm Miếu Thành Hoàng, nhà máy tơ lụa, tự do mua sắm trên khu phố Nam Kinh sầm uất.
    Ngày 5 (22/04): Thượng Hải / Bắc Kinh (Ăn sáng, TRƯA, TốI)
    Ăn sáng khách sạn. Thăm Dự viên, Bến Thượng Hải. Lên tàu quay về Bắc Kinh. Tàu T86 (17h00).
    Ngày 6 (23/04): Bắc Kinh (Ăn sáng, trưa và tối)
    Tới Bắc Kinh. về khách sạn NEW RAIN BOW - 11xijing road xuanwu area nhận phòng. Thăm Thiên đàn, Thăm Di Hoà Viên với cung Từ Hy, Vạn Thọ đường, hồ Côn Minh. Cửa hàng thuốc bắc Đồng Minh Đường.
    [Buổi tối: Tôi dự định đến chỗ Sanlitun theo gợi ý của Junbk và Hoa_trang_nguyen, cũng có thể đi mấy cái chợ đêm.]
    Ngày 7 (24/04): Bắc Kinh (Ăn sáng, trưa, tối)
    thăm Vạn Lý Trường Thành. Buổi chiều thăm Định Lăng, cửa hàng bán đồ mỹ nghệ. Tự do mua sắm tại khu phố thưng mại Vưng Phủ Tỉnh.
    [Buổi tối: Chưa có chương trình. Ngoài Vương Phủ Tỉnh thì có thể đến khu mua bán nào giá cả bình dân?]
    Ngày 8 (25/04): Bắc Kinh / Hà Nội (ăn sáng, trưa)
    Chiều thăm Cảnh Thái Lam trước khi ra sân bay đáp chuyến bay Bắc Kinh / Hà Nội VN901 (15h45-18h25)
    [KHông biết buổi sáng cuối cùng này nên đi đâu nhỉ? Nếu muốn mua đồ điện tử - máy tính thì nên mua ở đâu là tiện nhất?]
    Cám ơn các Bác nhiều
  7. Minh__ngoc

    Minh__ngoc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/02/2004
    Bài viết:
    4
    Đã được thích:
    0
    Rất cám ơn các bác đã tận tình chia xẻ kinh nghiệm và thông tin về TQ.
    Sau khi đã thu thập thêm thông tin ỏ trên web, tôi dự tính chương trình như sau và rất mong các Bác tham gia ý kiến. Phần nằm trong ngoặc là dự kiến của tôi. Còn phần còn lại là nằm trong chương trình tham quan. Tôi cũng có địa chỉ khách sạn để các Bác có thể xem hộ là nên đi chỗ nào thuận tiện nhất. Ngoài ra là không biết ỏ TQ thì có thể mua thẻ điện thoại giá rê để gọi về VN được không nhỉ.
    Ngày 1: Hà Nội / Bắc Kinh
    HAN/ BACKINH (HK Việt Nam). VN900 (10h10-14h35). Khách sạn Hạ Đức Môn. (Hademen hotel - 2jia bigstreet chongwen gate beijing). Buổi tối xem xiếc đặc sắc của Trung Quốc.

    [Tôi dự định đi thăm Hồng Lâu Mộng (Prince?Ts Gong Residence) và khu phố Huatong (Bell ?" Drum Tower) vào buổi chiều.]
    Ngày 2: Bắc Kinh / Thượng Hải (Ăn sáng, trưa và tối)
    Thăm Qung trường Thiên An Môn, Thăm Lăng Mao Chủ Tịch (bên ngoài), Đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ, thăm Cố Cung. Lên tầu đi Thượng Hi. T103 (20h00).
    Ngày 3 (20/04): Thượng Hải (Ăn sáng, trưa, tối)
    Đến Thượng Hải 10h00 sáng về khách sạn MOTAI ?" 678 ANYUAN. Buổi chiều thăm chùa Ngọc Phật , cửa hàng Ngọc trai, lên tháp truyền hình Đông Phưng
    [Trong 3 ngày ở Thượng hải , tôi dự định đi Tô châu và/hoặc Hàng Châu (mỗi nơi một ngày) bằng tầu hỏa hoặc xe bus và không theo chương trình của đoàn du lịch. Vậy Bác nào đã từng đi 2 địa điểm trên có thể cho gợi ý nên đi vào ngày nào - thứ 3 (chỉ có thể sau 10h), ngày thứ 4 (trọn ngày), và ngày thứ 5 (chỉ đến cỡ 15h). Nếu có thể các Bác có thể cho biết chi tiết hơn về việc nên đi phương tiện nào, và những nơi nào nên đến thăm.
    Ngày còn lại theo các Bác nên đi thăm nơi nào ở thượng hải. Vì tôi chủ yếu lấy thông tin trên Internet nên không biết các tên sau có đúng hay không
    Chùa Ngọc Phật (Jade Temple)
    Miếu Thành Hoàng (không thấy có chỉ dẫn trên mạng)
    Dự viên (Yuyuan Garden)
    Bến Thượng Hải (the Bund)
    Tôi có 2 buổi tối ở TH, dự định đi Phố Nam Kinh, Bến sông Hoành Phố và Khu Phố Đông theo gợi ý của hoankiem. Không biết ở TH thì có chợ đêm không các Bác ơi.]
    Ngày 4 (21/04): Thượng Hải (Ăn sáng, TRƯA, TốI)
    Thăm Miếu Thành Hoàng, nhà máy tơ lụa, tự do mua sắm trên khu phố Nam Kinh sầm uất.
    Ngày 5 (22/04): Thượng Hải / Bắc Kinh (Ăn sáng, TRƯA, TốI)
    Ăn sáng khách sạn. Thăm Dự viên, Bến Thượng Hải. Lên tàu quay về Bắc Kinh. Tàu T86 (17h00).
    Ngày 6 (23/04): Bắc Kinh (Ăn sáng, trưa và tối)
    Tới Bắc Kinh. về khách sạn NEW RAIN BOW - 11xijing road xuanwu area nhận phòng. Thăm Thiên đàn, Thăm Di Hoà Viên với cung Từ Hy, Vạn Thọ đường, hồ Côn Minh. Cửa hàng thuốc bắc Đồng Minh Đường.
    [Buổi tối: Tôi dự định đến chỗ Sanlitun theo gợi ý của Junbk và Hoa_trang_nguyen, cũng có thể đi mấy cái chợ đêm.]
    Ngày 7 (24/04): Bắc Kinh (Ăn sáng, trưa, tối)
    thăm Vạn Lý Trường Thành. Buổi chiều thăm Định Lăng, cửa hàng bán đồ mỹ nghệ. Tự do mua sắm tại khu phố thưng mại Vưng Phủ Tỉnh.
    [Buổi tối: Chưa có chương trình. Ngoài Vương Phủ Tỉnh thì có thể đến khu mua bán nào giá cả bình dân?]
    Ngày 8 (25/04): Bắc Kinh / Hà Nội (ăn sáng, trưa)
    Chiều thăm Cảnh Thái Lam trước khi ra sân bay đáp chuyến bay Bắc Kinh / Hà Nội VN901 (15h45-18h25)
    [KHông biết buổi sáng cuối cùng này nên đi đâu nhỉ? Nếu muốn mua đồ điện tử - máy tính thì nên mua ở đâu là tiện nhất?]
    Cám ơn các Bác nhiều
  8. nqhvn

    nqhvn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/03/2002
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    Sang Trung Quốc lên đi xem xiếc, Xiếc Trung Quốc đáng xem lắm.
    Còn vào của hàng ngọc thì tồi tệ lắm.Vì các cty Du lịch được các cty kinh doanh trả % lên họ hay cho đi tour mua sắm liểu vậy.
  9. nqhvn

    nqhvn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/03/2002
    Bài viết:
    80
    Đã được thích:
    0
    Sang Trung Quốc lên đi xem xiếc, Xiếc Trung Quốc đáng xem lắm.
    Còn vào của hàng ngọc thì tồi tệ lắm.Vì các cty Du lịch được các cty kinh doanh trả % lên họ hay cho đi tour mua sắm liểu vậy.
  10. junbk

    junbk Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    22/05/2003
    Bài viết:
    844
    Đã được thích:
    0
    Ngoài khu Vương phủ tỉnh thì BK còn vô số những khu trung tâm mua sắm đồ khác tầm cỡ gấp 3-4 lần cái Tràng tiền nhà mình! Nhưng hay ho nhất thì có lẽ vẫn là Xi Dan(Tây đơn)
    Đồ điện tử thì ở phố Vương phủ tỉnh có vô số những building bán, bạn nên mua ở đây thì hơn nhất là đồ điện tử Rất khó để tìm ở Bắc Kinh những mác hàng TQ ở VN có như Qisheng,AVG... Bạn có thể đến nhưng khu bán đồ điện máy Da Zhong Dian Ji(có rất nhiều ở khắp BK) để mua và chắc chắn là rẻ hơn ở những nơi như Vương phủ tỉnh!
    Chúc bạn có một chuyến đi vui vẻ!

Chia sẻ trang này