1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những nẻo đường Hà Nội - Băng Sơn

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi Milou, 08/07/2001.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Hồn sâu Hà Nội
    Chế Lan Viên có câu thơ hay như một định lý: Khi ta ở chỉ là nơi đất ở Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn... Chữ tâm hồn ở đây là tâm hồn thi sĩ, là day dứt, thương yêu, là nhớ nhung kỷ niệm, là sâu nặng tình người... mà thi sĩ sẽ mang nó trong hồn mình suốt một đời người. Nhưng ngoài ra cũng có thể hiểu một cách khác dù rất chủ quan: Tâm hồn của mảnh đất ấy, mỗi mảnh đất ấy đều có một tâm hồn, ai biết đến hay không, đất ấy vẫn trường tồn. Mỗi lần đi qua Hà Tĩnh, người ta hay nghĩ đến đây là quê hương của Nguyễn Du, người mang nặng đẻ đau ra cô Kiều trăm năm vẫn sống. Đi tàu Hà Nội, Hải Phòng qua ga Cẩm Giàng, nhiều người thầm nhắc lòng mình: Đây là nơi Thạch Lam sinh ra, người để lại những bài văn bất hủ như "Hà Nội ba sáu phố phường, Sợi Tóc, Đêm Giao Thừa, Nhà mẹ Lê...".
    Chỉ riêng trong lòng Hà Nội, cái nôi của văn chương văn hiến, từng mảnh đất phố hay phường cũng có thể làm tâm hồn ta rung lên như sợi dây đàn cảm ứng, nhớ một đồng điệu xa mờ bảng lảng. Hàng Bạc hay Hàng Buồm, nơi cửa sông Tô Lịch, cứ nhắc ta về một ông Phạm Đình Hổ với câu văn giản dị như lời nói thông thường: "Nhà ta ở phường Hà Khẩu". Hồn Nguyễn Văn Siêu đêm đêm có bay về mài mực và tung ngòi bút trên đài Nghiên Tháp Bút để nước Hồ Gươm sóng sánh long lanh câu thơ và câu văn trong "Tùy bút lục"? Những bài thơ ngâm vịnh tạc thù giữa bà chúa Liễu Hạnh và ông trạng làng Bùng Phùng Khắc Khoan trong đêm trăng Hồ Dâm Đàm sương phủ là những bài gì giữa phẩm tiên và nho sĩ mà nay mỗi lần ta đến Phủ Tây Hồ, cái mùi, vị bún ốc phàm trần chẳng thể đánh bạt nỗi thuyên quáên tài tử? Đời thường, ngày thường, lúc hoa đào theo người về từng phố ngõ đón xuân hay mùa hoa bằng lăng nước tím lơ mơ, lúc hoa xoan tây đệm cho dàn nhạc ve sầu nỉ non cất tiếng, giữa ngày mưa bong bóng phập phồng hay đêm thu thơm nỗi hoàng lan quí phái và hoa sữa nồng nàn... ta, người dân thường thành phố, thả bước chân vào mảnh đất kinh kỳ nghe hồn mình cũng một chút lênh đênh. Mỗi phố lặng tờ kia hay âm vang tiếng phách gõ rao món ngon "xực tắc" nọ, ta nhớ đến một người nào đã ra đi thành lữ thứ bặt tin, nửa trăm năm không trở lại, hay một bóng hình đã vĩnh viễn trong cỏ thu vàng chẳng bao giờ về lại cùng ta... ta nhớ đến một khuôn mặt trăng rằm, một đôi mắt tinh anh chơm chớp hàng mi như lá điền thanh, lá me keo, hoặc một nụ cười nửa miệng để bắt ta phải trằn trọc hiểu nhiều... Xuân Diệu từng có câu thơ đùa:
    Nhà tôi hăm bốn Cột cờ
    Ai yêu thời đến ai lờ thì thôi...
    mà sau đó cô Thúy Bắc, từng có thơ hay như rút ruột mình thành "Sợi nhớ sợi thương" để "Ngả về phương anh", kém nhan sắc nhưng tài hoa không kém, cũng mạ lại câu thơ kia thành: Nhà tôi ở xóm Hà Hồi Ai yêu thì đến, ai hời thì không... mà sau này, chị không "ra đi" từ xóm Hà Hồi quanh co chữ chi ấy, nhưng lại ra đi từ tầng 4 khu nhà tập thể Giảng võ, láng giềng nhà văn Hoàng Quốc Hội và nữ sĩ Nguyễn Thị Hồng, người có bài thơ "Lời tượng nhà mồ" ta đọc lại mà gai ghê cảm giác như lạc vào cõi âm hồn Tây Nguyên bập bùng ngọn lửa tình không bao giờ tắt... Cái phố Đình Ngang hơi chéo nơi gần Cửa Nam tức cửa Đại Hưng nhiều triều đẽi trước, Cao Bá Quát đã về đâu? Phải chăng cũng gần kề chốn này, nay có rạp chiếu bóng mang tên Tây loảng xoảng thứ kim khí Mêtal, là nơi từng có gian lều của người bị giam lỏng 10 năm giữa Đông Quan trong câu thơ: "Góc thành Nam lều một gian" từ gần 600 năm về trước? Nguyễn Vang-bóng-một-thời thường để lạc khoản dưới những bài tùy bút "Am sông Tô", cái am tranh lá bên bờ sông Tô Lịch có thật hay không có thật khi quê ông ở làng Mọc kề bên con sông vừa trong vừa mát để trai gái dừng chèo ghé sát thuyền nhau trong ca dao? Nguyễn đã khoác cái bị cói trong đựng đủ thứ rượu hợp "gu" mình đi về cõi tiêu tao mà nay có kẻ hậu sinh chê ông là không biết uống nước trà. Làng Mọc tức Giáp Nhất vẫn còn, còn cả ngôi mộ đá hoa cương của ông "vua phóng sự đất Bắc Kỳ" Vũ Trọng Phụng rời bỏ kinh thành mới 27 tuổi đầu sầu tủi. Ta đi qua con đường Điện Biên, đã nhìn thấy mấy cây đề cổ thụ, quá nhà Xuân Diệu mươi bước chân, chợt nhớ người bạn gái lớn tuổi mang họ Thạch: Thạch Trang Đạm, không hiểu bà có một chút nào dòng máu Khơ Me của dải đất miền Trung ra tập kết và đã trở lại quê mình sau giải phóng, đã mấy chục năm không còn gặp lại. Bà không phải người nổi tiếng để ai cũng biết như một Hồ-Thơ-Nôm hay Bà-Huyện-Thăng-Long-thành-hoài-cổ, nhưng ít ra bà đã Hà Nội liền mấy chục năm, có tình yêu và hạnh phúc, sinh con đẻ cái ở giữa lòng Hà Nội. Qua phố Quán Sứ, không còn một sứ quán Chiêm Thành Trung Quốc nào, mà chỉ còn ngôi chùa mới xây thế kỷ hai mươi, chợt nhớ nhà báo Thái Cương, mà sinh thời ông hướng dẫn lối vào nhà: Nhà tôi bé nhỏ nằm lọt thỏm giữa hai ngôi nhà lớn hai bên. ôi, Thái Cương, bây giờ ông ở một mình trong gian nhà dài hai mét, rộng sáu mươi phân, có chật hẹp lắm không, và đêm đêm có ngồi dậy viết thêm cho các tờ báo nào nơi ấy? Đi thêm chút nữa, qua phố Triệu Quốc Đạt ngắn ngủi, từng có nhà "lục xì" ngay trên cái sân riêng của bệnh viện Võ Tánh (nay là sân sau của bệnh viện Bà Mẹ và Trẻ em), chợt nhớ người bạn học thuở đầu xanh cùng nhau đi ăn bánh tôm hồ Tây và chia nhau viên phá xanh nóng giòn bờ Hồ Gươm. Anh Chính, anh ở xa Hà nội đúng nửa vòng trái đất. Hà Nội vẫn chờ đứa con xa xứ bằng tấm lòng bao dung và tình bè bạn, bằng tâm hồn của đất đai như ngọn cây hoàng lan đã cao vượt mái nhà, nhưng gốc vẫn nguyên chỗ cũ. Vòng xuống hồ Thuyền Quang, quặt vào ngõ Liên Trì, cái tên nhắc nhở thế kỷ trước đây là "Ao sen", có hai người con gái đã không-Hà-Nội. Một người rời bỏ chồng con về Văn Điển. Còn cô em lại theo chồng con vào xứ chim yến và trầm hương, kề bờ biển, có Tháp Bà ta gọi Nha Trang... Những người Hà Nội ra đi, lớp này tiếp theo lớp khác, để có một Hà Nội mới, người Hà Nội mới, lớp này tiếp theo lớp khác, từ những đẽi lộ thênh thang đến con ngõ u hoài tịch lặng. Chị Quì ở Phất Lộc, quán bà Tộ Béo (tục danh là Mụ Béo) kề nhà Thủy Tạ, nhà vô địch Đông Dương về bơi lội ở làng Yên Phụ Hùng Nhân, nghệ sĩ Mộng Dần sau đền Bà Kiệu, chú tàu què bán lạc rang ở sát tường đền Bạch Mã, anh em ông giáo Anh văn Lê Bá Kông, Lê Bá Khanh thường đến nhà vợ ở phố Lê Văn Hưu, gọi là hàng kem Bình Minh... hoặc hàng phở Giảng Võ ở phố Cầu Gỗ, hay quán Trung Đồ, tức quán giữa đường, nơi tạm dừng chân của những chiếc xe tang độc mã hay tam mã (260 phố Huế), nhà may Sửu giữa phố Tràng Tiền, trưng biển đề có bằng Hàn Lâm Viện Pháp hẳn hoi (sau thành bố vợ một ông Bộ trưởng của chính quáền chúng ta)... không thể một lúc mà mang hết những gì chứa nặng tâm tình giãi bầy lên trang giấy. Hồn đấy. Hồn đất đấy. Vườn Bách Thảo, nơi buổi trưa ta ngồi học trên bậc cỏ sườn ngọn núi Sưa (tức Sư Sơn), từ mấy thuở, những ai lại ngồi đấy học bài hay ai ngồi choàng vai thủ thỉ, ta bạc tóc vẫn không quên tiếng ve sầu rỉ rả, và có con ve còn động tình, thả giọt nước xuống vai ta mà nó không cần biết đời nó và đời ta, cái nào dài hơn, cái nào có lý.
    Nhiều người bận rộn, không còn thì giờ để rong du, Hà Nội hiện lên trong lòng họ ra sao, ai mà biết được. Anh tự vệ Chợ Đồng Xuân dùng dao bầu giết giặc đã thành hồn Hà Nội chìm sâu. Người chuyên viết ca dao, tác giả bài Đóng nhanh lúa tốt do Lê Lôi phổ nhạc, cũng đã rời bỏ ngôi nhà 105 phố Phùng Hưng mà ra đi vĩnh viễn, chắc cả thi nhân và nhạc sĩ đã đồng ca tác phẩm ấy trong chiều sâu Hà Nội khuất chìm...
    Đến lúc Hà Nội tròn nghìn năm, con đường Hòe Nhai, Liễu Giai hẳn đẹp hơn, dù nó không còn là đẽi diện cho một kinh thành Đông Hòe, Tây Liễu, mà tưng bừng một "Hà Nội như động tiên sa" kiểu mới, kiểu của những người thế kỷ sau đang chầm chậm đỗ vào ga Hà Nội...
  2. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Quà Hà Nội và người Hà Nội ăn quà
    Loại trừ một vài trường hợp như quà Tết, quà biếu, quà cưới... quà mang một nghĩa khác, còn thông thường quà nghĩa là một món ăn phụ, ăn cho vui, cho ngon, cho thích... chứ không phải món ăn cho no như hai bữa chính mỗi ngày. Những thành phố càng lớn thì càng có nhiều hàng quà. Những nơi càng thanh lịch thì càng có nhiều món quà ngon, đầy hấp dẫn, có khi vượt ra cả một địa phương mà trở thành nổi tiếng trong cả nước, tượng trưng cho cả một vùng. Tôi chưa được ăn nhiều món quà của Huế, thành phố Hồ Chí Minh và các vùng khác, nghe nói có nhiều món rất ngon rất lạ. Riêng quà Hà Nội thì tôi đã được thưởng thức tạm gọi là nhiều. Từ lâu rồi, Hà Nội vẫn nổi tiếng là có nhiều quà ngon, ít nơi sánh kịp. Không phải vì quá yêu thành phố của mình mà tôi thiên lệch, địa phương chủ nghĩa, nhưng từ lâu, dư luận chung và các tác phẩm văn chương, báo chí đã công nhận điều đó. Đương nhiên, Huế cũng như thành phố Hồ Chí Minh cùng nhiều nơi khác đều có quà ngon của mình như bánh bột lọc bao tôm, bánh bèo Huế, chả giò Sài Gòn (món này ra đến Hà Nội lại mang tên Nem Rán, được ghi vào từ điển Larousse), thịt bò bảy món, mì Quảng, bánh canh Đà Nẵng, bánh đậu xanh Hải Dương, bánh cuốn Lạng Sơn v.v... Những Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Vũ Bằng... đã có những trang sách chan chứa yêu mến và tâm hồn say đắm về nhiều món quà Hà Nội như nét văn hóa đáng chân trọng, bảo tồn, như giò lụa, phở, bún chả, bún bung, bún ốc, rươi, bánh dày bánh giò v.v... nói đến Hà Nội người ta liên tưởng đến hoa đào ngày Tết, thiếu nữ bên Hồ Gươm, đồng thời nghĩ ngay đến bánh cuốn Thanh Trì, cốm Vòng, mứt sen trần... Như nhớ một loài hoa là nhớ ngay đến màu sắc và hương thơm của nó. Vũ Bằng viết "thương nhớ mười hai" bằng nước mắt, ông gọi hạt rượu nếp là con rệp, con cà cuống là con rận rồng... tinh tế đến mức khó tính mà trích được ra một câu cho lọn nghĩa. Thạch Lam viết về bún ốc như sau:
    -"Có ai buổi trưa vắng hay buổi chiều, đêm khuya, đi qua các nhà cô đào và các chị em thanh lâu, thấy họ ăn cái quà ấy một cách chăm chú và tha thiết đến đâu không? Nước ốc chua làm nhăn các nét mặt tàn phấn và mệt lả, miếng ớt cay làm xuýt xoa những cặp môi héo hắt, và khiến đôi khi giỏ những giọt lệ thật thà hơn cả những giọt lệ tình..." (Hà Nội băm sáu phố phường -Thạch Lam).
    Sinh thời, Thạch Lam chê phở gà là nhạt nhẽo, và ông còn cho rằng phở thêm hương cà cuống vẫn ngon, ông viết "Rau thơm tươi, hồ tiêu bắc, giọt chanh cốm ngát lại điểm thêm một chút cà cuống thoảng nhẹ như một nghi ngờ..." (Sách đã dẫn). Câu văn ấy đến nay hầu như chưa ai vượt được ông về nghệ thuật ẩm thực và tài hoa. Dù rằng ngày nay phở gà đôi khi lấn át phở bò. Nguyễn Tuân sinh thời cũng ghét phở gà, và không bao giờ ông Nguyễn chịu ăn phở tái, mà chỉ là phở thịt chín có màu nâu, bùi, thơm, mềm... Cho đến thời điểm này, nhiều người Hà Nội vẫn không chịu chấp nhận phở tái, phở chặt tú hụ, phở trứng... Lớp người sau các ông, còn thích thú một món quà đặc biệt. Có lần nhà văn Tô Hoài viết một bài về Hà Nội cho rằng phố Mai Xuân Thưởng gần đường Cổ Ngư là ngắn nhất: 56 mét. Và ông đố xem ai tìm ra một phố ngắn hơn. Vốn là một học sinh Hà Nội, quen thuộc với món quà cực rẻ nhưng cực hấp dẫn, ăn mà chảy nước mắt, mà nồng nàn, cái lưỡi đến hàng giờ là món thịt bò khô của mấy chú Hoa Kiều bán ở một cái phố ngắn nhất Hà Nội: Phố Hồ Hoàn Kiếm, chỉ dài 52 mét, tức khoảng một cột đèn. Nó là cái ngách ngang từ hồ Hoàn Kiếm sang phố Cầu Gỗ, ít ai để ý đến dù Bờ Hồ quen thuộc đến thế.
    Món thịt bò khô bán ở đây thành nét đặc biệt của Bờ Hồ, có lẽ không một học sinh Hà Nội nào, không một người Hà Nội trẻ nào lại không ghé vào ăn món quà chua cay mặn chát ngọt bùi ấy. Nhà văn Tô Hoài đã cười xòa, công nhận phố ấy là ngắn nhất và món quà ấy là đặc biệt, không một chỗ nào ngon bằng. Quà là món ăn mang đầy chất văn hóa, vậy thì nó cũng không là cái gì bất biến, trầm trọng. Nó luôn thay đổi, có thứ mất đi, có thứ sinh ra, có thứ thụt lùi, có thứ tiến bộ. Những năm cuối thập kỷ này, quà nằm trong quá luật ấy. Tuy nhiên, tôi xin phép được điểm qua một vài món đã có mặt từ lâu, vượt qua năm tháng, vượt phạm vi Hà Nội, nó hấp dẫn như một giai điệu trữ tình, như bài thơ được thời gian sàng lọc, như nỗi đam mê của tình trai gái, như bức tranh sơn dầu nóng bỏng cảm giác. Trước hết xin nói về Phở là món quà nơi nào cũng có. Dễ chế biến, dễ ăn, ăn lúc nào cũng được. Nhưng phở Hà Nội có cái duyên riêng, tựa như người con gái ta yêu, thế gian có triệu người con gái nhưng chỉ có một mình nàng là nàng trong sự huyền diệu, nàng mang lại cho riêng ta, ta chỉ nhận thấy ở riêng nàng. Chả thế mà nhiều địa phương làm món phở, cứ phải trương cái biển lên là: "Phở Bắc", Phở Hà Nội"... mới đông khách. Có lẽ nó cũng như món bánh bèo Huế, hủ tiếu Sài Gòn chăng? Phở là Hà Nội. Từ đầu thế kỷ này, phở còn bán rong gọi là phở gánh thì nó đã có tâm hồn và khuôn mặt riêng. Mới xuất hiện ở Hà Nội, được công nhận như anh khóa rời làng đi thi, đỗ liền một lúc mấy khoa, như cô gái chẳng cần qua vòng loại cũng được công nhận hoa khôi, hoa hậu tức thì. Bánh phở tráng không mỏng không dày. Thịt bò luộc trong thùng nước dùng, vớt ra để nguội có màu nâu, được thái ngang thớ, mỏng gần như tờ giấy pơlure, nó ngọt, ngậy, bùi, thơm, mềm, không dai, không nát. Bát phở phải đầy đủ gia vị, hành lá thái nhỏ lẫn với rau mùi ta, rau húng Láng (thứ rau chỉ làng Láng mới trồng được) hành chần tái, hạt tiêu, ớt tươi. Nó không chấp nhận mùi tỏi, rau húng dỏi hay còn gọi là húng quế hay húng chó, càng không thể có giá sống trộn lẫn. Linh hồn của Phở là "nước dùng" xương bò, xương lợn ninh từ hôm trước, sau khi sôi sùng sục thì nhỏ lửa để chỉ lăn tăn, một người đứng cạnh, liên tục hớt hết bọt, để nước dùng sẽ trong vắt như nước mưa, như một thứ trà loãng, ngà ngà vàng vì trong đó có nước mắm ngon, loại hảo hạng. Nước dùng không thể thiếu vài xâu tôm he khô, hoặc sá sùng, nhất là một cái đuôi bò.
    Mùi hương của nước dùng là lời mời gọi từ rất xa, làm nôn nao con người, khó lảng tránh nó được. Đó là một chút quế chi, một chút thảo quả (còn gọi là quả tò ho) nướng chín. Mấy tảng gừng già đã nướng, một vốc hành tái cũng nướng qua, thả vào nồi nước dùng âm ỷ sôi đến hết một ngày, hết đến bát cuối cùng, đến lúc về khuya, mấy đồ đệ Lưu Linh tìm phố phường nét đẹp đêm thành phố, ngồi lại để nhà hàng nghiêng cái thùng, dốc toàn bộ số xương đã mềm tơi cả cái đuôi bò chắc đã quẫy đến mệt mỏi trong đó, và họ ăn, họ mút, họ uống, họ khà, họ rung đùi, nhắm mắt. Món khuya ấy, gọi là món "Bốc mả", thương chỉ có cánh đàn ông thích thú. Còn mấy bà khuê các chẳng đoái hoài.
    Mỗi giai đoạn dăm bảy năm, Hà Nội lại nổi lên một vài hàng phở nổi tiếng, những Trưởng Ca hàng Bạc, Phở Giảng và Đông Mỹ phố Cầu Gỗ, phở Tình, phở Thìn phố Bờ Hồ, phở Tư Lùn phố Ngô Quáền, phở tàu bay phố Bà Triệu v.v... Nhiều hàng trong số này treo cả nửa hoặc một phần tư con bò ngay ngoài cửa, khách được chọn miếng thịt nào tùy thích. Chủ hàng huơ dao như tráng sĩ Lương Sơn Bạc, con dao phay chữ nhật, phăm phăm, rồi miết một cái cho mềm, trộn chút gừng đã thái chỉ, đặt lên bát, chan nước dùng cho thành thứ thịt tái hơi một chút hồng hồng, nằm bên miếng giò, (thứ thịt bò cả mỡ cả nạc, đem hấp chín) miếng gầu miếng nạm... Và nước béo nước trong, tùy ý khách. Cứ đứng mà ăn, ông Phán sở công, cậu ký sở tư, anh nhà báo, chủ xe hàng, chủ hiệu buôn... nối đuôi nhau mà thưởng thức thứ quà vừa nóng ran người, vừa tê đầu lưỡi, vừa ngọt cổ họng, vừa thơm điếc mũi mà giá cả chẳng đáng bao nhiêu. Nhiều nhà văn, nhà thơ rủ nhau đi ăn phở, không gọi là ăn phở, mà bảo nhau là "đi làm hỏng cái lưỡi", bởi đứng ăn xong một bát phở như thế, cái lưỡi mang cảm giác khác hẳn, không còn nhàn nhạt của sáng sớm mới dậy, không hắc mùi kem răng, và cũng nhất định không được tráng miệng bằng thứ nước trà nhạt thếch của hiệu phở cho người dễ tính súc miệng. Đi loanh quanh đâu đó khoảng nửa giờ, vị phở đã tan đi nhưng cái lưỡi còn dư vị mới "ngã" vào một quán cà phê nào đó, nhâm nhi chất nước màu nâu đỏ, sánh đặc bám vào thành tách sứ, và một khói thuốc thơm "đã đời". Đã nhiều thời gian, người Hà Nội không dùng thìa để ăn phở. Chỉ một đôi đũa, nào và, nào húp, nào mềm mại giữa hai hàm răng, nào ừng ực... không phải là tục tử phàm phu hay bất lịch sự, mà là để thưởng thức đến cuối cùng cái ngon ngọt. Nay có người cầm đũa sêu sợi bánh phở lên thìa rồi cầm thìa đưa lên miệng, miếng phở đã nguội đi quá nhiều. Thật chẳng khác nào ăn quả chuối tiêu trứng cuốc mùa thu mà chỉ ăn cái vỏ còn thịt chuối thơm lừng vị thu mây gió lại nỡ bỏ đi.
    Hà Nội hiện nay có rất nhiều hàng phở. Phở trong cửa hàng, bên quầy nhỏ, phở chõng vỉa hè, phở gánh bán rong... Phở bò, phở gà, phở ngan, phở vịt, phở chặt, phở trứng... Có người ăn cho no chứ không phải ăn cho ngon. Phở được chiêu bằng mấy chén rượu trắng, với vài vẽi bia căng bao tử... Biết nói thế nào, vì đó là sở thích, là khẩu vị, là túi tiền... Người Hà Nội đành thở dài. Phở là một món quà mặn, phổ thông, hợp với khẩu vị tất cả mọi người. n phở lúc nào cũng được. Điểm tâm buổi sáng, lỡ bữa buổi trưa, thay quà xế chiều, buổi tối rong chơi, đêm khuya cho ấm bụng hoặc mời bạn tỉnh xa về, ăn trong chợ hay ngoài cửa ga, nơi bến xe khách hay trong ngõ nhỏ... Nhưng hiện nay, nếu tôi không lầm thì Hà Nội có rất nhiều hàng phở nhưng không có một hàng nào ngon nổi bật lên, vượt xa các hàng khác. Nó giống như ca nhạc và thơ hiện nay, cứ sàn sàn bằng nhau, có nền mà không có đỉnh, cứ na ná giống nhau. Phở Thìn có đến năm bảy hàng. Phở phố Lý Quốc Sư, phố Nguyễn Hữu Huân, tạm được. Phở gà phố Lê Văn hưu từng nổi tiếng nhưng hình như người ta đến đây để khoe giàu chứ không phải để ăn một bát phở ngon ra phở. ạng Chí chuyên làm phở gà phố Trần Huyền Trân đã không còn. ạng Giảng ở phố Cầu Gỗ bán phở mấy năm đã tậu được nhà cũng đã ra đi... phở Sinh Từ đầy mà nhạt... Ngoài phở, Hà Nội còn rất nhiều món quà khác như bún thang, bún bung, bánh cuốn Thanh Trì, bánh dày bánh giò, xôi lúa xôi lạp sường cho đến chả cá Lã Vọng, bánh tôm Hồ Tây, sủi cảo phố Mai Hắc Đế, gà tần thuốc bắc phố Tống Duy Tân, các quán ốc hấp thuốc bắc và cá vùng Quảng Bá Nghi Tàm, thịt chó Nhật Tân, chân gà nướng phía Trung Tự, chân chó hầm ngõ Lê Văn Hưu, không kể những món ăn với bia như nem chua, nộm v.v... Xin đề cập đến một món quà khác cũng khá đặc biệt Hà Nội: Bún Chả. Nguyên từ những thế kỷ trước, con cá hay miếng thịt lợn đem nướng, nhắm với rượu, gọi là món Khoái Trá. Có lẽ vì khi ăn nó, người ta có cảm giác rất khoái trá chăng? Lâu dần, Trá đọc chệch ra thành Chả. Chả trong bún chả không phải là chả làm bằng thịt lợn nạc giã nhuyễn, hấp rồi rán trong món Cơm Tám Giò Chả. Chả này là thịt ba chỉ của con lợn nhỏ vừa phải, khổ mỡ không dày, hoặc thịt vai, thịt mông sấn, lẫn nạc và mỡ băm nhỏ. Đó là chả miếng và chả băm, cặp vào vỉ sắt hoặc xâu tre, nướng trên than hồng, thứ than hoa, than hầm xưa dùng cho ***g áp sưởi chân quý tộc, chứ nhất thiết không được dùng than đá hay loại than nào khác.
    Than đựng trong chiếc hộp hay chiếc chậu nhôm nhỏ, cứ phừng phừng ánh đỏ theo tay quạt nan, (nay có thể là quạt điện -mà ở phố Nguyễn Khuyến, người ta cạnh tranh nhau bằng cách nhà này quạt khói sang nhà kia, nhà kia quạt mạnh hơn, nhà này quạt mạnh hơn nữa...) ăn bún chả hình như người ta còn ăn cả kỷ niệm, vì trong làn khói mỏng màu lam kia, thức dậy cả những gì nằm im lâu nay, bây giờ nó đánh thức lên, nó gọi hồn người mở cửa. ít thì thật dễ chịu. Nhưng nhiều thì sặc sụa. Vợ giáo sư Nguyễn Tấn Gi Trọng vì sặc khói bún chả từ tầng dưới xông lên, bà góp ý, thế là cãi nhau với người thuê nhà tầng dưới, tức quá, bà đứt mạch máu não. Kết quả của bữa bún chả đó. Từng có thời kỳ bún chả bán rong. Cô hàng bún chả mặc áo dài nâu Đồng Lầm, chân đi đất, tóc bỏ đuôi gà, từ ngoại thành vào Hà Nội lúc xế trưa, chỉ một loáng đã hết gánh hàng. Cô rao không bằng lời mà bằng làn khói xanh lãng đãng mê tơi kia. Một nẹp (hay mẹt) bún chả cô bưng vào nhà cho khách gồm có một bát con lưng lửng thứ nước chấm đã pha bằng nước mắm thật ngon, thêm nước lọc, dấm, đường, đu đủ xanh vuông vắn, miếng ớt đỏ bỏ hết hạt như chiếc thoi hồng rỗng ruột, hạt tiêu đen mờ chìm lẫn dưới đáy. Rập rờn chìm nổi trong nước chấm ấy là mấy miếng chả miếng, chả băm đã cháy cạnh, màu cánh gián, vừa chín tới, thơm phức. Cạnh nó là ***g khồng ít rau sống gồm rau muống Sơn Tây xanh lá mạ, chẻ nhỏ, xoăn tít như nỗi lòng đầy tâm sự, chen vào đấy là tía tô tím thẫm, kinh giới nuột nà, ngổ ba lá đầy hương đồng nội, rau mùi ta loăn xoăn, rau húng Láng thơm dịu, đôi khi còn có lá mùi tàu cạnh răng cưa thơm mạnh. Đương nhiên phải có bún.
    Đó là những đồng bạc hoa xòe, là những bông cúc trắng ngần, thứ bún gạo tám được thửa riêng cho món này. Nó cuộn tròn, không tơi ra trong bát nước chấm, nó không là bún con cũng không là bún rối. Lát sau cô quay lại lấy mẹt lấy tiền, người bán người mua, đã quen nhau từ độ nào không rõ, giống như chiếc mẹt nhỏ bằng cái khay, đã lên nước nâu nâu, nhẹ tênh mà hấp dẫn... Lâu rồi, những cô hàng bún chả rong đã già chăng, đã đi lấy chồng hết rồi chăng, đã sang ngang để lại bến sông niềm ngơ ngẩn nhớ chăng? May sao, đã có nhiều cửa hiệu bán bún chả, mà nổi tiếng là bún chả Hàng Mành, cũng có nhiều cái chõng con bày ngay ra trên góc phố, vỉa hè món quà ngon này, và chất lượng đều được đánh giá từ trung bình trở lên, có thể ăn chơi, ăn cho vui, ăn thay một bữa cơm bụi buổi trưa cũng được. Bún chả thường được ăn vào khoảng từ trưa đến bốn giờ chiều. ít ai ăn sáng và càng không phải là món ăn đêm hay ăn khuya. Sau khi giới thiệu vài món quà mặn, bây giờ tôi xin phép mời quý vị nếm thử một vài món quà ngọt của Hà Nội cũng rất đáng được nhắc tới. Quà ngọt có nhiều thứ, có suốt ngày từ sáng đến khuya, có suốt mùa từ xuân sang hạ, qua thu đến mùa đông. Có thứ là do nơi khác đem đến, có thứ do người Hà Nội tự làm. Bánh gai Ninh Giang, bánh đậu xanh Hải Dương, bánh xu xê Đình Bảng, bánh gio của ngoại thành, bánh dầy Quán Gánh, lục tào xá của Hoa Kiều... và những thứ này đều khá phổ biến ở các địa phương. Có một món quà chỉ riêng Hà Nội, và cũng chỉ một làng ngoại ô Hà Nội làm được: Đó là cốm, cốm làng Vòng. Hà Nội có mùa thu đầy xao xuyến, một thứ thu làm kinh dị hồn thơ khi làn gió heo may thổi giạt sóng Hồ Gươm từ Hàng Đào về phía Hàng Khay, dập dềnh hoa lộc vừng đỏ làm ta tưởng mình đang sống trong không khí Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữ. Sen đã bắt đầu tàn, tiền sen đã rách, chỉ còn lấp ló những gương sen đùa trong nắng hanh mát lành rười rượi. Vai áo mỏng mùa hè khiến ta tê tê cảm giác với chiều đỏ hoàng hôn và bay bay liễu rủ. Hoa sữa phố Nguyễn Du chưa thức giấc để mộng mị chuyện tình yêu. Đó là lúc mùa cốm bắt đầu. Làng Kim Lũ tên nôm là làng Lủ cũng có nghề làm cốm: Cốm Lủ. Nhưng quê hương của Nguyễn Siêu tức thần Siêu bạn thánh Quát chỉ làm được thứ cốm già, cốm khô, lạo xạo, dày mình, bạc trắng. Chỉ có làng Dịch Vọng tên nôm là làng Vòng ở phía cửa ô Cầu Giấy tức ô Tây Dương mới có mấy trăm năm nghề cốm tài hoa. Những ruộng lúa nếp cái đã buông câu, nhưng vẫn nguyên màu xanh lá mạ, gieo cấy riêng để cho công việc này, được cắt từng bông, từng lượm, nhẹ nhàng xe gánh về làng. Đêm trăng, một khúc nhạc bỗng tưng bừng rộn rã, từ giai điệu đến tiết tấu, vang qua con đường làng lát gạch, qua lđá tre cổ sơ, qua rặng sồi biếc lá. Đó là ánh lửa rang thóc, là nhịp chày giã cốm thâu đêm. Rang từng mẻ thóc, bao nhiêu lần rang là bấy nhiêu lần giã, bấy nhiêu lần sàng sảy. Tiếng cười nói râm ran, tiếng gió thu thì thầm, ánh má hồng nàng gái, bắp tay cuồn cuộn chàng trai, nhịp quay tròn chiếc giần chiếc sàng, êm êm như hơi thở người tình...
    Hạt thóc non ngậm sữa, qua nhiều đau đớn ấy sẽ hóa thân thành hạt ngọc lưu lá, xanh óng, xanh rờn, mịn màng và mềm mại, thơm xa như hương đồng gió nội ngoài kia... Hạt cốm mang cả bóng làng quê, mang cả nét tài tình, mang cả không khí mùa thu để sớm mai đi vào Hà Nội. Cốm đầu nia, cốm dót là thứ cốm ngon. Từng mẻ cốm ít một được nằm mơ màng giữa chăn đệm là tàu lá sen già còn giữ lại chút dư hương, là chiếc lá ráy to như cái bảng pha màu của họa sĩ, óng ánh xanh như một thứ xa tanh mờ mát lịm. Mươi lớp như thế, chúng cùng nhau nằm vào chiếc thúng đã lâu ngày, thớ tre đan cũng ảo mờ năm tháng. Chiếc đòn gánh gác trên gác bếp hay trong góc buồng được đem ra. Đấy là một gốc tre còn nguyên cả gộc, đào lên, chẻ đôi, thành chiếc đòn gánh cong một đầu, đời bà truyền cho mẹ, mẹ truyền lại cho con dâu... Nó chỉ cong một đầu như chiếc thuyền rồng, như con thuyền đuôi én. Lâu nay chiếc đòn gánh cong ấy đã mai một dần nên có họa sĩ trẻ minh họa lại vẽ nó thành cong hai đầu như cánh võng, khá buồn cười. Ai tuốt lúa, rang, giã cứ làm. Ai bện chổi cứ bện. Còn ai bán cốm thì chuẩn bị mà đi bán. Chuyến tàu điện đầu tiên Cầu Giấy -Bờ Hồ sẽ đón gánh cốm lên toa. Bến xuống tùy ý. Hàng Bông, Hàng Gai, Cửa Nam hay Bờ Hồ, cô hàng cốm tỏa vào Hà Nội không bằng lời rao mà bằng hình ảnh chiếc đòn gánh cong một đầu như thế, trên đầu quang tre có buộc thêm vài cái chổi mới bện bằng rơm mới, xanh tái chứ chưa vàng, đồng màu với bó rơm làm lạt, óng ả và thơm xa. Có gia đình thế nào cũng phải mua cốm kèm theo chiếc chổi ấy treo lên cho thơm thoảng cánh đồng hương lúa. Gánh cốm chỉ dăm bảy cân, đi mấy phố quen là hết. Gói cốm ***g khồng hệt như gói hoa cúng của cô gái hàng hoa làng Ngọc Hà, được buộc nhẹ nhàng bằng sợi rơm tươi như chiếc thắt lưng bao xanh trên nền xanh quan lục của lá sen lá ráy mịn chất quê làng. Gói cốm được giở ra, vẫn nằm nguyên trong lá, đặt trên đĩa, để lên bàn thờ thắp hương ông bà tiên tổ, dâng thứ thời trân, thứ quà đầu mùa mỗi năm chỉ có một lần... rồi mới nhón hai ngón tay, nhúm lấy mấy hạt cốm thả vào đầu lưỡi, nghe vị thanh thanh, nghe màu xanh mướt, nghe cái ngọt thơm thấm vào cơ thể trong hơi thu man mác. Không ai ăn cốm bằng đũa hay bằng thìa. Cũng không ai và cốm bằng bát ô tô. Cốm không phải là thứ ăn nhiều hay ăn trong lúc vội vàng hấp tấp, lúc đói ngấu, lúc no căng, lúc say bí tỉ... Có người ăn cốm với hồng ngọc đỏ, với chuối tiêu trứng cuốc. Nhưng nhiều người Hà Nội khác lại có thói quen chỉ ăn riêng cốm mà không kèm với bất cứ thứ gì, có thế mới thưởng thức hết được những hương vị từ ngọt ngào đến thanh mát, từ màu sắc đến cái mềm cái thơm của cốm. Nó chỉ là nó mà không cần gì bổ trợ, như cô gái đẹp chả cần đến những thứ trang sức bạc vàng nào. Cũng từ cốm làm nguyên liệu, người Hà Nội chế biến ra những món khác: bánh cốm Hàng Than, gói trong lá chuối xanh, buộc lạt cánh sen, là thứ quà Hà Nội gửi về quê biếu ông bà chú bác rất được quý trọng. Nhất là đám ăn hỏi, đám sêu, hay tết... Nó vừa là quà ngon vừa mang ý nghĩa lễ hội và cũng còn là màu sắc ấm nồng, hòa điệu. Món chè cốm thì có khác, đó là thứ chè đường, đang lẽ là đỗ xanh vỡ đôi, thổi chín, lững lờ trong chén chè, thì ở đây là những hạt cốm được nở bung như một loài hoa mai chiếu thủy. Cốm xào là cốm ngào đường, để trên đĩa như một thứ chè con ong, ngọt sắc, chỉ có thể ăn vài miếng đã chán.
    Còn một món khác nữa là chả cốm. Chả thịt lợn, trước khi đem hấp được trộn một ít cốm xanh, khi ăn, miếng chả cốm còn vương một chút hương thơm và đặc biệt là rất dẻo. Có người cho rằng nó không hợp với vị mặn mòi, mà nên để cốm giữ nguyên được chất cốm thanh tao.. Được ăn một nhúm cốm Vòng trong hương thu Hà Nội, trong gió heo may, trong làn nắng như tơ giăng mới thấy hết được cái thanh cái quý, cái tài tình, cái hương vị của món quà quê hương, sống vượt thời gian, và nó cũng đã vượt cả không gian ra với nhiều nơi. Chẳng khác nào tiếng đàn bầu phải vang trong đêm trăng thanh vắng. Câu ca trù phải có nhịp phách dồn dập. Bài thơ hay phải được ngâm lên bằng thanh đới của con chim họa mi lảnh lót, khiến cả quỷ cả thần cũng phải gật gù nghiêng ngả. Quà Hà Nội có hàng trăm món, không thể kể xiết. Tôi cũng không dám lạm bàn về kỹ thuật chế biến, bởi đã có nhiều nghệ nhân, nhiều chuyên gia bậc thầy về lĩnh vực này. Múa rìu qua mắt thợ là đắc tội. Tôi chỉ dám nhắc đến nét văn hóa ẩm thực, tức một vài cách thưởng thức món quà mà người này đồng tình nhưng cũng có thể có người khác phản bác. Tôi cũng không dám chủ quan cho quà Hà Nội là nhất, là không đâu bằng, mà chỉ nói đến một vài đặc điểm của nó, qua kinh nghiệm chủ quan của gia đình mình và bản thân mình. Nói đến quà, không thể không nhắc đến cách ăn quà của người Hà Nội. Do đời sống kinh tế khá giả, do nếp sống thanh lịch lâu ngày đã thành phong tục, lề thói, nên người Hà Nội ăn quà có khác nhiều nơi khác. Đó là sự kỹ càng, tinh khiết, ăn cho ngon chứ không phải ăn cho no. n lấy thích lấy vui chứ không phải cho đầy bụng, ăn để cảm ứng mình với trời đất thiên nhiên, mưa nắng, đêm ngày chứ không phải ăn thứ gì vào lúc nào cũng được. Từ nguyên liệu chế biến đến cách gói mở trình bày, xếp đặt đều được con mắt tinh sành chú ý. Bánh giò phải làm bằng bột lọc, lạt bánh cốm phải là màu cánh sen. Đám cưới hỏi có xôi gấc còn đám tang có xôi hoa cau. Chiếc bánh nướng bánh dẻo cắt ra được đặt trở lại nguyên hình, hoặc xếp thành bông hoa chứ không để lộn thành một đống tú hụ. Xôi vò, chè đường không bao giờ bày ra nhiều vì nó là món nước, chỉ để thưởng thức...
    Mùa nào thức nấy. Chỉ tiết thanh minh, tháng ba mới ăn bánh trôi, bánh chay, khi vương vấn chút hương hoa bưởi vừa qua mùa, ăn nó trong làn nắng mới chưa oi nồng cũng không còn lạnh giá. Mùng năm tháng năm, tết Đoan Ngọ ăn rượu nếp, mà phải ăn bằng cái bát (còn gọi là chén) bé xíu, cùng đôi đũa cũng bé xíu như một thứ đồ chơi. Trung thu mới ăn bánh nướng bánh dẻo. Mùa đông ăn ngô nướng bên vỉa hè hay lạc rang (còn gọi là phá xang) bán bên Bờ Hồ Hoàn Kiếm. Mùa hè lên đường Cổ Ngư ăn bánh tôm Hồ Tây nghe gió hồ Trúc Bạch thổi lộng ngực mình... Mùa hè ăn chuối ta, thứ chuối quả mập như cổ tay con trẻ, mùa thu mới ăn chuối tiêu trứng cuốc vì mùa này chuối mới được nhuộm màu thu, ngọt thơm như một loài hoa, gần với móng rồng, dạ hợp... Tết phần lớn ăn mứt bí, mứt sen trần ít dùng kẹo hay bánh quá, bánh ga tô... Còn trong một ngày, người Hà Nội cũng không xô bồ gặp gì ăn nấy. Xôi lúa là món ăn buổi sáng, không ai ăn buổi trưa hay chiều. Nhưng sáng lại không phải là của món bún chả. Bún ốc bún bung không ăn buổi tối, mà tối là của cháo, của mì, của lục tào xá, chí ma phù. Khuya có thể ăn xôi lạp xường tức lồ mai phàn... hoặc mì vằn thắn tức món xực tắc mà không ăn bánh mỳ ba-tê nặng bụng... Nhìn một người ăn quà, nhai nhỏ nhẹ hay nhồm nhoàm, và lùa hay thanh cảnh, nhai tóp tép hay ngậm miệng, người ta có thể đoán người đó thuộc thành phần nào, có phải là người Hà Nội gốc hay không? Và ăn món quà nào vào lúc nào, người ta cũng có thể biết đó là người sành ăn, có văn hóa hay tục tằn thô lỗ. Đương nhiên cái gì cũng chỉ tương đối. Ngày nay, người Hà Nội dã pha tạp đi nhiều, món quà thay đổi, cách ăn cũng tùy theo tính cách mỗi người, nên đôi khi khó phân biệt, không xác định được chân giá trị. Và hình như vì phải sống theo một nếp sống hình thành từ lâu rồi, nên nhiều hàng quà, làm quà và bán quà cũng phải theo quá luật ấy. Món sáng, món trưa, món tối, món khuya... đều có những hàng chuyên bán riêng. Mùa cũng vậy, có người chỉ bán bánh trôi bánh chay ít ngày tháng ba, còn mùa khác lại bán thứ khác. Có nhà sản xuất mỗi năm chỉ hoạt động vài tháng, là làm bánh Trung Thu và mứt Tết. Thời gian khác chuyển nghề.
    Như trên đã trình bày, Hà Nội cũng như toàn quốc đang đổi thay nhanh chóng, kéo theo nó là nếp sống văn hóa cũng đổi hay theo, thì chuyện ẩm thực, chuyện ăn quà không còn như xưa là điều dễ hiểu và phải chấp nhận ở một mức độ nào đó. Ví dụ nhiều người ăn xôi, ăn cháo với cả tương ớt (lạp chí chương) mà quên hạt tiêu. n phở với giá sống. n ốc lúc đêm khuya... riêng món bánh đậu xanh Hải Dương đã có tới trên bảy chục nhà sản xuất, nên Hà Nội không làm ra nữa. Mà bánh đậu không có hai loại: Khô và ướt, chỉ một loại không ra khô chẳng ra ướt... Hà Nội cho đến nay vẫn được công nhận là một trong những nơi có nhiều món quà ngon, có suốt ngày, có quanh năm, đáp ứng tất cả mọi khẩu vị khác nhau như mặt biển có thể chấp nhận mọi loại tàu thuyền. Tôi, chỉ là một con thuyền nhỏ bé trong số đó, nên đẽi diện cho nhiều người. Vì vậy, mà nếu có sai sót, nhầm lẫn hoặc chủ quan, khiêng cưỡng, cũng xin được tha thứ hoặc trao đổi thêm.
    Hà Nội tháng giêng năm Đinh Sửu-2/1997
  3. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Hoa sữa
    ở bờ Hồ Hoàn Kiếm có hai cây lộc vừng. Một cây quằn quẽi với cái thế vươn lên tránh bóng cớm của cây "mõ". Còn cây kia cứ ngả la đà chín gốc soi xuống mặt sóng hồ và xuân thu hai kỳ, thả hoa đỏ xuống mặt nước mà chơi. Đó là hai cây quí hiếm của Hà Nội. Mùa sương, thành phố gần nghìn năm còn một loài hoa khác khá đặc biệt, nó lấy hương của mình khắc vào hồn người như vết khắc không phai mờ. Vừa lạ mà cũng là thông thường, có người như bị dị ứng, không chịu được mùi hương ấy nên ghét cay, ghét đắng, mỗi mùa hoa nở chỉ mong cho thu chóng tàn để rời xa nó. Nhưng phần lớn người Hà Nội lại say nó như mối tình đầy chờ đợi, đợi cứ sang thu được đắm mình vào một thứ hương tình không nơi nào có được. Có người cứ thắc thỏm từ khi con trăng đầu tháng thu sơ, nhẩm tính xem bao giờ hoa sữa nở như hôm nào có cốm Vòng, chim ngói. Có người đặt tên nó là Hương tình yêu, là Hoa Hà Nội. Người khác nữa cho nó là hồn, là mộng của sum họp, chia lá, gần thì bâng khuâng, xa thì day dứt. Không ai lấy cây xà cừ, cây nhội, cây đa... làm cây Hà Nội, kể cả bằng lăng tím rực trời hay hoa phượng cháy đỏ mùa hè. Cứ phải là khắc khoải một mùi hương hoa sữa. Hàng cây cao vút, thân có vè có bạnh, cành đâm ngang thưa thớt, lá mọc thành chùm thành tia như hoa thị biếc xanh. Từ lòng hoa thị ấy, khi sương lam bảng lảng, lại bùng ra những ngọn lửa xanh màu lá mạ non, thả làn hương vô hình như "hữu xạ" vào đêm phường phố cho người phải tìm nhau, cho ai dùng dằng bước chân, cho ngập ngừng bánh xe quay, cho giấc ngủ thao thức đầy mộng mị như ở đâu đây quanh quất một tà áo mờ xanh của hồn ma, hồn tiên khi sống thì mang cái xác là hoa, khi tan tác hình hài thì vương vấn cợt trêu người đa tình của đất ngàn năm văn hiến...
    Mùa thu thường không có hoàng hôn mà chỉ có những buổi chiều trắng đục. Đèn đường còn đứng sững, im lìm, nhắm mắt. Đó là lúc hoa sữa như một nhà thơ, ngồi trầm tư tìm ý thơ còn mông lung chưa định, như cô gái còn mải điểm trang chưa vội đến chỗ hẹn hò, như bữa cỗ cưới mới kê bàn ghế mà bát đũa còn nằm trong rổ. Đấy là lúc những "bé em" hoa sữa cũng đang sửa soạn hành trang từ trong sâu thẳm lòng hoa để chuẩn bị lên đường, đựng đầy hương trong tà áo dệt bằng cánh hoa và sương mỏng se se cảm giác, một lần này đi, sẽ không bao giờ trở lại lòng hoa, nên hương chẳng vội vàng. Lát nữa thôi, những ngọn cỏ ven hồ chưa kịp ẩm ướt hơi thu, lá cây vàng anh đã khép rèm mi, người thợ vừa vào ca đêm, quán rượu thuốc, ốc luộc nóng bắt đầu ngả ghế ra bên hè... là lúc hương sữa đan tay, chị bên em, thả gót, đu tà áo dài nhẹ tênh của mình vào đôi vai thầm thì tâm sự và còn dư sức, thì lang thang dạo đây đó mơ hồ. Dọc con phố to rộng Trần Hưng Đạo, mướt mát tán sấu tròn xoe, theo đường Nguyễn Du bên hồ Thuyền Quang êm ả, lao xao sóng hồ, giữa phố Bà Triệu và lẻ tẻ dăm ba nơi khác... những hàng cây sữa thẳng vút, tuổi khoảng gần trăm đã thành kho nước hoa vô tận xức cho Hà Nội.
    Có lần giữa Trường Sơn bom đạn, đồng hương gặp nhau, sau khi ăn no những món tưởng tượng, nào thịt bò kho cay chua, mặn ngọt, nào lạc rang húng lìu thơm nức, nào ngô nướng đầu ngõ Tràng An, cà phê Hàng Vôi, bánh giò Đờ Măng, người ta ôm nhau mà hỏi xem hương gì là hương Hà Nội. Tất cả đã òa lên tiếng nứ nở khi đều nói chung tên một loài hoa phơ phất gió: Hoa sữa. Nếu đường Phan Đình Phùng và cuối phố Điện Biên Phủ cứ ngan ngát hoàng lan suốt đêm thu như thứ nước hoa Charnel quí phái, thì hoa sữa phàm trần hoan, thế tục hơn, đậm đặc hơn, thức gọi hơn. Hoàng lan là cô gái cấm cung hơi ẻo lả vóc mai gầy. Còn hoa sữa lại là thiếu phụ "trông mòn con mắt", mập mạp, má au lên sức sống tràn căng bừng bừng, đòi hỏi một điều gì dữ dội hơn, mê đắm hơn. Ai hay đi ngủ sớm chắc nhẹ tình cùng hoa sữa. Còn mái đầu nào thích chung đèn thi với đêm thâu, hẳn khi thành phố lên đèn còn gõ bước chân những ngã ba, ngã tư cho vai áo mình lổ đổ bóng thêu, cho tóc mình ngạt ngào loài hương tình ái ấy. Không thể đếm hết đã có bao nhiêu bài thơ tình chứa hồn hoa cùng tinh chất thứ nhớ thương, thứ kỷ niệm, như một thời của mỗi đời người ấy.
    Những ai từng kề vai đi trong đêm hương sữa của thu Hà Nội chắc không ai cần biết đến cái tên La tinh rất khó thuộc của nó là: alạtonia ạcholariạ (LR.Br) mà họ cứ đặt tên cho nó là cây che chở, là hoa đồng tình... bởi cây sữa như chiếc dù che, còn hương hoa như giục họ hãy ghé sát đầu vào nhau hơn nữa kẻo mai ngày sẽ nuối tiếc khôn nguôi. Đêm dài đến đâu rồi cũng phải qua. Hoa sữa mệt mỏi khi ngày mới lại bắt đầu. Như kiếp con phù du ngắn ngủi, quanh gốc cây, hoa rụng thành tấm thảm li ti dày đặc. Hình như hồn hoa đã tan vào thinh không, còn xác hoa nằm lại cứ nói không thành âm thanh: "Đừng phũ phàng, đừng nỡ giẫm lên hoa người hỡi..." sẽ lại đến buổi chiều xám bạc, đàn em nhỏ khác sinh ra, lại lang thang, lại lênh đênh tìm người mà chở che, mà phụ họa... Mùa đông rồi cũng đến, vườn hồng Lăng Bác sẽ rộ mùa hoa. Những gốc đào vội vã nở sớm một sắc hồng trước xuân, còn cô gái nhà ai mải mê tìm kiếm áo mới dầy hơn, ấm hơn nhưng không làm thân hình cô thô kệch. Mùa đông già dần từng ngày. Những cây hoa sữa buồn trong gió mùa đông bắc hắt hiu. Nó đem những cái mành tự dệt bằng hoa ra treo suốt cành cao, cành thấp, như để che bớt làn gió buốt, che bớt nỗi buồn cô đơn vắng hơi người dưới gốc.
    Những đôi người ấy đã ấm áp trong tổ uyên ương hay chia tay hai phương trời thương nhớ, hoa sữa cũng đều sẻ chia vơi đầy chuyếch choáng một mùa qua. 125 126 Prev Page 4 Next Cuối đông, người Hà Nội đi trên đường, có lúc muốn giơ tay ra bắt lấy cái bông xù hay một con gì lơ lửng trêu đùa trước mặt. Quả sữa đấy, nó lang thang vô định, chưa biết gửi thân mình vào đâu; như số phận nàng Kiều có lúc dạt trôi như thế. Cây sữa chồn chân trong tháng cuối năm, chẳng ghen với Nhật Tân, Quảng Bá rậm rịch chờ xuân, cứ im lặng lùi vào hậu trường cuộc đời như kỷ niệm mỗi trái tim Hà Nội. Hoa sữa đã hát xong khúc hát có giai điệu lãng du đầy quáến rũ. Hương sữa đã khắc xong những đường khắc vào hồn người, ở lại đây mãi mãi, dù người đang ở đây hay đã biền biệt cuối chân trời. Loài hương ngào ngạt ấy hình như đã thành một mảnh nhỏ của hồn Hà Nội, đã kết tinh thành chất đắm say trong người trai, người gái tự bao giờ... và còn đến chưa biết tận bao giờ...
    10-1996
  4. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Ngôi nhà Thạch Lam
    Tôi có quen ông Vũ Xuân Tạo ở 22 làng Yên Phụ, một người 60 tuổi mới bắt đầu nghĩ đến chuyện làm thơ, và không hề có ý định gửi thơ đi đăng báo. Muốn đến được nhà ông, phải đi qua đường Thanh Niên, vượt dốc, từng có nhà thuyền Tiểu Đồ Sơn và nhà thuyền Hùng Nhân kinh doanh cho thuê thuyền trên Hồ Tây khá quen thuộc ở Hà Nội thanh lịch một thời. Đi một đoạn khoảng cây số nữa men theo con đê phía trong, sẽ gặp cái cổng làng Yên Phụ, di tích từ trước Cách mạng sót lại. Cái cổng hình như mỏng, nó không có khối vuông mà bẹt, cứ như sẽ đổ nếu giông bão nổi lên. May mà không phải thế. Nóc cổng không mái, chỉ là một vòm cong như mảnh trăng, rất chênh vênh. Dốc thẳng, đường hẹp, nhà nhà sát ngay ra mặt bê tông, không vỉa hè, cong rồi lượn rồi lại lượn và cong, men theo Ao Vả, vượt qua cửa đình làng, sẽ đến nhà ông bạn già của tôi. Nói là già nhưng ông rất trẻ tính, vui tính, vợ đẹp, 7 con trai khôn lớn, hòa thuận.
    Nhưng ông bỏ quá cho tôi, tôi định nói về cái khúc đường cạnh đình làng. Ngôi đình làng Yên Phụ có lẽ do thế đất ven hồ hẹp, một bên đã là bờ Hồ Tây trông sang chùa Trấn Quốc, còn một bên là cái ao rất dài, hẹp, từng là một nhánh của hồ, có cái đảo con mọc lên cây vả cổ thụ nên nó được mang tên Ao Vả, khi tôi viết bài này thì cây vả không còn nữa, nó cũng đã thành một cổ nhân Hà Nội mất rồi. Đình Yên Phụ có lẽ là một trong một vài ngôi đình thờ theo chiều dọc, giống như bên Lào, khác hẳn mọi ngôi đình Việt Nam toàn thờ theo chiều ngang, hình chuôi vồ, hậu cung là cái chuôi ấy. Đầu hồi đình trông ra đường, trên nó có đôi chim phượng, chim hoàng đang múa, cũng khác các ngôi đình khác, chỉ có rồng chầu mặt nhật hoặc mặt nguyệt. Chim phượng cũng nằm trong bộ tứ linh, nhưng nó còn tượng trưng cho tình yêu cổ xưa, khúc hát Phượng Cầu Hoàng của Tư Mã Tương Như và nàng Trác Văn Quân chi đó... Cây thị già, chắc năm nào cũng ra hoa, đậu quả, những quả thị quen thuộc với tất cả người Việt Nam bằng hương thơm và bằng cổ tích, cây thị này nếu có trí nhớ, hẳn nó đã ghi vào lõi gỗ hình dáng một con người, thân xác ra đi nhưng hồn còn ở lại Thạch Lam. Qua cửa đình trăm thước thôi, có một ngôi nhà ngói nhỏ nép mình dưới gốc thị, đã mờ rêu năm tháng, có vẻ quạnh hiu giữa hai bờ sông nước.
    Chiếc cổng thấp bé, hai cánh cổng từng là những thân tre ghép nguyên cả cây, đã được thay bằng ván gỗ, vẫn còn một chiếc mắt bò nhỏ bằng miệng bát để trong nhìn ra khi có khách hỏi trước khi mở cổng. Không hiểu chủ nhà này là ai, nhưng ngôi nhà này từng có một người vừa sang, vừa nghèo cư ngụ, vừa thượng lưu, vừa trung lưu nhưng chết trong nghèo túng, Thạch Lam ơi... ạng sinh ra ở Cẩm Giàng, nơi mẹ ông có cái trang trại thuộc loại sang và đẹp nhất ở đấy, nhưng ông lại sống và chết cho Hà Nội, vào tuổi 32, có lẽ hồn ông không tan, tài ông không mất, Hà Nội vẫn luôn nhớ đến ông như một mảnh đời mình, một nét tài hoa, thanh lịch trong cuốn sổ biên niên đời mình, Nguyễn Tường Vĩnh, Nguyễn Tường Lân cũng là Thạch Lam ấy. ạng đã thuê ngôi nhà này những năm đầu 40, ở đây cùng vợ con. Khi bé Giang ra đời, cũng là lúc ông giã từ cuộc thế và rời làng Yên Phụ ra đi vĩnh viễn vì bệnh lao phổi, trong tay người em trai, trong cái chăn bông không đủ tiền mua vải làm vỏ. Hà Nội những năm ấy chưa phải đã đông đúc ồn ào lắm, cũng chỉ là băm sáu phố phường chật chội. Mấy anh em đều có học, có địa vị xã hội, vậy mà Thạch Lam không chịu ở biệt thự trong phố lại ra đây thuê nhà ở, không đi xe tay nhà mà hàng ngày đi bộ từ đây xuống 90 Quán Thánh và từ đấy đi bộ về, với nghề viết báo, viết văn cùng anh mình là Nhất Linh. Ngôi nhà được hưởng gió hồ, ông còn trồng thêm cây liễu để thêm mềm mại mắt nhìn sóng nước, cho mênh mang tiếng cá đớp trăng cùng chuông chùa Trấn Quốc vọng sang. Đời Thạch Lam ngắn ngủi. ạng viết ngắn. Nhưng có lẽ cái ông để lại thì dài cùng với Hà Nội cũng dài bất tận. Sau khi ông lịm đi trong tay người em trai, gia đình ông gồm người vợ trẻ, cô con gái mới khoảng 10 tuổi, một bé trai nữa và một hài nhi vừa ra đời...
    Không còn lưu lại đây nữa, mà về sống ở cái trại tại ga Cẩm Giàng cho đến ngày toàn quốc kháng chiến. Cây liễu ông trồng cũng không hiểu gục ngã xuống hồ thời gian nào, không ai biết. Từ bấy, hơi hướng con người cao gầy, mảnh khảnh, từng bất chấp dư luận, dám chống lại sức ép của dư luận và gia đình, kết hôn với người phụ nữ từng có một đời chồng và có con trai riêng, dù ông còn là trai tân, đẹp trai, có tài, phong lưu mã thượng. Cũng may, thân mẫu ông sau này có lẽ đã nghĩ lại chăng, nên đã cưu mang đùm bọc vợ con ông chu đáo. Chỉ riêng căn nhà ông thuê kia, đành trong cảnh hiu hắt cô đơn, chia biệt một con người đã ghi lại nhiều Hà Nội cho Hà Nội và nó cũng sẽ chìm vào quên lãng, không ai nghĩ đến chuyện giữ gìn. Rồi đây sẽ ra sao? Ai mà biết được. ạng Vũ Xuân Tạo tôi quen, cũng chỉ biết lơ mơ, lắc lắc cái đầu hói biểu lộ ngậm ngùi...
    Làng Yên Phụ ít biến thiên giông tố. Ngôi nhà bé kia như vẫn còn phảng phất một chút hồn thư sinh trong truyện Liêu Trai của Bồ Tùng Linh, một chút thơ mộng ngắn ngủi. Nó còn hơn cả cái phố Ngã Tư Sở kia đã đổi thay ghê gớm, không còn một chút nhận diện nào, không tìm ra được số nhà 71 cũ, nơi thi sĩ tửu đồ Tản Đà dã ra đi, có lẽ lên trời để than với trời rằng "Văn chương hạ giới rẻ như bèo", và số nhà 73 cạnh đấy, nơi "ông Vua phóng sự Bắc Kỳ" Vũ Trọng Phụng cũng theo bước Tản Đà sau đó chỉ mấy tháng, vào cái năm 1939 ấy. Tản Đà còn được kém một đầy năm chục tuổi. Vũ Quân ít hơn nhiều, mới 27 tóc xanh, nhưng ông kịp để lại một Xuân Tóc Đỏ, một Típ phờ nờ, một bà Đoan, một Nghị Hách mà ngày nay vẫn có... Đã hư không. Đã thành cái trôi, cái bay, cái mất... Gần đây, cô (phải gọi là bà, đúng hơn), cái em bé đỏ hỏn, con gái độc nhất của Vũ Quân, cũng ra đi ở tuổi 59 sau khi đã đền ơn cha bằng xây mộ, đưa di hài nhà văn tài ba về đất tổ tiên ngay làng Giáp Nhất, dưới bóng mấy cây xoài cổ thụ đình làng Mọc. Cạnh mộ Vũ Quân là mộ mẹ và vợ ông, cả hai đều góa bụa sớm, sống trong nghèo túng nhưng trong sạch. Bà Vũ Mỵ Hằng ra đi trong một chiều nắng quái trên con đường gập ghềnh rải đá, có mặt cả bạn cũ của Vũ Quân, bạn của bà và nhiều văn nhân Hà Nội khác... Tản Đà đã lênh đênh bộ cốt từ Sơn Tây, Xứ Đoài... rồi mới yên nghỉ gần Chùa Hương Mỹ Đức. ạng Vũ cũng yên nghỉ cạnh nhà lưu niệm do con gái xây cho. Còn Thạch Lam ông đang ở nơi nào, tôi không biết. Chỉ còn dư ảnh một ngôi nhà xưa kia ông từng cư ngụ một thời gian mà trong cơn lốc thị trường, cũng sẽ chưa biết số phận nó sẽ thế nào.
    Hà Nội, cứ bước ra đường, hình như ta đều chạm vào những bóng người, những tài năng, những hơi thở, những thăng hoa, những tâm sự và những dặn dò... của bao lớp người Hà Nội đã thiên thu...Xin được ghi lại một làn gió thoảng, còn lại hay bay đi, không biết nữa...
  5. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Thú lang thang
    Trong tập hồi ký của mình, thi sĩ Vũ Hoàng Chương có nhắc đến một kỷ niệm, một chuyến đi. ạng kể lại một cuộc lang thang cùng với thi sĩ Nguyễn Bính và văn sĩ Tô Hoài, từ Hà Nội lên Bắc Ninh Bắc giang mà khởi hành từ điểm Ga Đầu Cầu (nay gọi là ga Long Biên) do ông xếp ga Trần Nhân Cư gửi đi, không mất vé. Về sau, ông xếp ga tài tử ấy, ông Cư ấy mở một quán cà phê nhỏ ở phố Nguyễn Du, ngay chỗ ngã năm Bà Triệu, nhiều văn nghệ sĩ năng lui tới. Cách đây dăm chục năm, người ta cao hứng, có thể đi lang thang một mạch dăm bảy chục dặm đường, hoặc vài trăm, có khi hàng nghìn cây số: Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Giang, Lào Cai, Hồng Gai, Thanh Hóa, Lạng Sơn... Chả nghĩa lý gì những chặng đường xa. Nguyễn Tuân có lần nhảy lên tàu tốc hành xuyên Việt, thẳng một mạch vào Nam, khi động lòng hồ hải, bốc máu bốn phương, lang thang bất tử, mà có người nói đùa là giang hồ vặt. Lại Thế Lữ, Chu Ngọc, toàn những gương mặt một thời nổi tiếng, nên tàu hỏa, ôtô ray hầu như quen mặt họ. Xuân Diệu viết: "Yêu là chết ở trong lòng một ít"... người ta nhại thành: "Đi là chết ở trong lòng một ít...".
    Ngược lên xa xưa, các cụ nhà ta khăn đóng áo dài, từ ông khai quốc công thần Nguyễn Trãi, ông thi sĩ tài hoa số một Nguyễn Du, ông tổng đốc Nguyễn Công Trứ, cụ cử Phan Sào Nam, ông tú non Côi sông Vị, ông ấm Khắc Hiếu... cho đến bà huyện Qua Đèo Ngang và bao tăng nhân mặc khách khác... Các vị lang thang, các vị chu du... Con đường nào, mặt hồ nào, hàng cây nào đã gặp, đã chứng kiến những cái bóng người cao cao, gầy gầy, ngật ngưỡng rong chơi, lơ mơ con mắt, lầm nhầm đôi môi, khuơ khuơ bàn tay, tung tung chiếc quạt thước, rung rung búi tó... Đêm xuống, nhiều đêm xuống, những cô hồn đơn bóng của những con người tài hoa một thuở ấy, những tinh hoa trăm năm mới có một lần ấy... ngã vào ô chiếu hoa nào có nhịp phách tiếng đàn, có đứt ruột lời ca, có ỡm ờ con mắt, có thi tứ tung hoành... Nghe mà xa xôi như một cổ tích, mà bồi hồi như thấy tinh anh người cũ hiện về, bảng lảng với bóng cây thêu vào sương thu, hương hoa dệt vào gió rùng mình của những đêm nay Hà Nội. Cách một quãng biến thiên dữ dội, thú lang thang chìm vào quên lãng, không còn là tiêu khiển giải sầu hay thi hứng yên hoa...
    Người ta không nhắc đến họa sĩ đồng thời là nhạc sĩ Nguyễn Đình Phúc (ông tự nhận ông là Phúc rỗ) nhân có giải thưởng mà làm một chuyến đi suốt Đông Dương. Cũng không nhắc đến họa sĩ tướng tinh Hoàng Lập Ngôn với cái xe ngựa Mê Lá, đến Thanh Hóa đành quay lại Hà Thành, bến cũ. Người ta cũng thôi nhắc đến luật sư Dương Đức Hiền cùng nhạc sĩ Lưu Hữu Phước và các bạn thanh niên sinh viên một thời, ra tận sông Bạch Đằng lịch sử, con sông "Đằng Giang tự cổ huyết do hồng"... Múc một chai nước của con sông dân tộc oai hùng ấy về Thăng Long tặng người yêu và bè bạn... Một chất lãng mạn kỳ lạ và cũng đáng yêu, đáng yêu như dáng người con gái kiêu kỳ mà duyên dáng của Hà Nội, một đối cực của sự lang thang... Hình như màu tóc xanh cần được bay trong gió, cần được thở với trời xanh, với biển bạc, với lá ngàn... nên những cuộc lang thang dù ngắn hay dài, đều mang lại những điều trước đó không hề có. Văn Cao lang thang đêm ở ngã tư Khâm Thiên, nghe thấy tiếng vạc xương đổ sọ, nạo quách trong những chiếc xe bò chở xác người chết đói lọc xọc đi ngang qua dãy phố yên hoa mà bóng tối ngã đầy chân cây, mà ánh đèn ngã đầy thân thịt...
    Lại bẵng đi như một dấu lặng dài, tràn đầy một quãng bảy trên khuông nhạc; cuộc sống dồn nén, hối hả, cần mẫn, sôi sục, máu lửa... thú lang thang không là gì. Mười giờ tối đã phải về nhà, gian nhà may thì có điện, còn thường là chỉ có đèn dầu, nóng thì quạt giấy quạt nan, mưa thì lấy chậu lấy thùng mà hứng giột. Cái thú lăn phăn mưa, heo heo gió, lành lạnh vai, rờn rợn da thịt... như một ám ảnh, một lời mời của hồn ma bóng quỉ, buộc người ta phải đẩy then cửa, bước ra đường, đến một nơi nào đó. Thế là khoác tấm áo mưa, đội lên đầu chiếc mũ, hoặc chỉ là mái tóc riêng mình, cha mẹ đã cho, mặc kệ đôi chân như người chính ủy tinh khôn lẫn dại khờ, đưa ta đi đâu thì tới, không cần biết. Sóng Hồ Gươm trong trẻo lạ thường. Cây như vừa được tắm bằng những trận sương, thở đầy ***g ngực tuổi trinh nữ những làn hơi như kẹo bạc hà, như khói thuốc lá thơm hòa trộn một cách kín đáo vào giọt nước hoa Charnel trong gan bàn tay bí hiểm... Trong không gian ấy, con người lang thang kia chỉ còn biết hòa hết mình vào cây lộc vừng chín gốc, vào bãi vông già nua vặn vẹo cho trẻ trung, vào cây "mõ" hiên ngang, vào cây gạo cửa đền Ngọc Sơn sù ra trăm mắt, hoặc đám cây vàng anh tở mở hoa vàng như làm bằng vàng thật và được tắm thêm bằng nước hoa hòe cho thắm...
    Mùi cà phê túi, mùi bánh mì mới ra lò, đánh thức một cái gì gì trong lòng từ năm ngoái, từ mười năm trước, từ dĩ vãng... Thế là phải sà vào cái tủ kính của ông bán cà phê quen thuộc, bên cái phin to tướng bằng nhôm sáng loáng quen thuộc, bên cạnh bức tường quen thuộc, uống một thứ nước Hà Nội quen thuộc nhưng không hề nhàm chán. Hình như những người ưa thú lang thang như thế không thích hợp với món bíptếch ngập răng, món phở tái gầu tái nạm gây mùi mỡ bò... Họ uống khí trời là chính, nói cách khác, họ ăn âm thanh trong bước chân mình, uống cảm giác thảnh thơi tự lòng mình, có người cực đoan, còn tránh bạn, đi vòng qua nẻo khác, để tự độc thoại một mình mình, để sống với những câu chữ, những ảnh hình đang dồn dập hay khoan thai hiện lên trong não, trong tim...
    Có người lại thích lang thang đêm. Đêm Hà Nội mới huyền hoặc làm sao. Trước hết, rất an toàn. Đầu ngõ Tràng An tịch lặng, bay lên mùi thơm ngô nướng. Đầu ngõ Phất Lộc có mùi lục tào xá và cà phê kỳ dị. Nhưng lang thang đâu phải để tìm ăn là chính. Cứ mặc kệ hàng quán và những tiếng rao ma quái ấy sau lưng, từ ma quái của ngọt lừ, bùi béo đến ma quái của phấn son ngần ngật... Để giày cồm cộp, tự bước tự nghe. Bóng sương có ẩm vai thì kéo cái cổ áo lên cho đỡ cơn ho, để mà tiếp tục đi, để mà không cần đến một nơi nào cả. Con đường Tràng Thi rợp bóng bàng như tàn che lọng đỡ, át cả mùi thuốc mê, mùi thuốc vàng, mùi ête nhức óc... từ nhà thương Phủ Doãn (nay là bệnh viện Việt Đức) xông ra. Đi qua đây mà chợt nhớ đến gánh phở Thạch Lam đã mô tả mấy chục năm về trước... Cũng tạm quên cái nhà lục xì phố Triệu Quốc Đạt, trông sang tòa án... Thì rẽ sang phố Nhà Thờ. Đồng hồ điểm từng khắc một, hai ngọn tháp có gì gợi đến nguyên mẫu Nhà Thờ Đức Bà Pariạ... lấy lại thăng bằng cho thần kinh đang cùng người cũng mộng du trong cõi mộng du, mà suy ngẫm về lẽ đạo lý đời. Lại gặp Bờ Hồ Gươm đây rồi. Một vòng là gần hai cây số. Nào cỏ, nào gạch xi măng, nào bờ đất... bây giờ là lúc của hai ta, hồ nhỉ. Gót chân như trinh sạch hơn, ánh mắt ngon lành hơn...
    Tí tách những giọt cà phê màu hổ phách, hương thơm ngây ngây như có một người xưa cùng ngồi, cùng nhắp. Từng có một quán Cà phê Tuyên có bộ bàn ghế bằng gốc cây xà cừ đổ bão, không nơi nào, không ai có. Người thương binh chống Pháp, còn mang viên đạn trong bụng, người chủ quán cà phê mà ưa chuyện, có thể bàn góp với khách tất cả mọi vấn đề. ạng đã ra đi, quán cà phê toi tóp dần, bộ bàn ghế ấy nay luân lạc ở nhà ai chả biết, chắc không còn đồng bộ. Khách lại lang thang. Tháp Hòa Phong lợt lạt trong ánh đèn mờ. Ngoài kia phong sương gói Tháp Rùa vào chiếc áo lạnh của mình, không cần biết dưới đáy hồ, có những con rùa tìm nhau, tình tự, giao duyên theo kiểu rùa thỏa thích... Nhà Khai Trí Tiến Đức, rồi câu lạc bộ Thống Nhất, rồi nhà bán vé máy bay và nay thành một cơ quan có cái tên rất khó nhớ khó gọi, cũng là mặc cho gió ẩm và lá vàng thả kín những tấm ghế xi măng ngoài trời, và khách thọc hai tay vào túi, cái túi chỉ có bao thuốc lá rẻ tiền mà chưa bao giờ nhiều tiền. Lang thang như thế có hại gì cho hòa bình Đông Nam 0á và thế giới đâu. Có hai người lang thang gặp nhau. Một thanh thản, một kiếm ăn. Khách thanh thản mua của người kiếm ăn vốc ngô rang, gói lạc rang, vừa đi vừa nhấm nháp, theo bước chân, theo nhịp nhai như nhịp phách nhà trò... Từng có những con người cụ thể của lớp hôm nay, thích lang thang và buộc phải lang thang. Vân Long, nhà thơ, lang thang từ Hà Nội xuống Hải Phòng, vòng qua Hà Tây, dài bằng cả cuộc đời cô Kiều luân lạc. Nguyễn Hà, nhà phóng sự, cũng chả kém gì, mười lăm năm lên rừng núi, nghe mưa đồi cọ, nghe gió rừng thông... trở về Hà Nội thì tóc đã ngả màu râm... Trần Lê Văn lận đận nhiều năm, lang thang chạy theo ô tô vé tháng, đứt cả cúc áo, rơi cả cặp ***g cơm... về già mới tạm ổn góc phố Hàm Long, nơi giữa cái chợ đồ sứ đồ pha lê. Tạ Vũ cũng lang thang nơi biên giới, nào Lào Cai, Pom Hán, nào Hàm Rồng Thanh hóa... Quang Huy, cũng bạt vào Trung Kỳ, Nghệ Tĩnh, nay mới ngồi trong nhà xuất bản Văn Hóa... Hạnh Hoàng Thu, người có những câu thơ mượt mà, lang thang thực sự, quán chợ cửa ga, nghèo khổ mấy năm... Một hôm nào đó, ta lang thang dưới bóng cây xưa, với hình người cũ, mà tưởng nhớ, mà bồi hồi, mà gõ đế giày hoặc có khi lang thang bằng tâm tưởng, gõ ngón tay vào tường mà tưởng nhớ...
    Chợt nhớ màu hoa lộc vừng mùa thu đỏ lựng, theo gió thu, giạt về một góc hồ như máu đỏ tình oan trong chuyện Truyền Kỳ Mạn Lục của nhà văn cổ xưa Nguyễn Dữ, một cổ truyện rợn người. Thú lang thang vẫn còn. Người ưa lang thang vẫn còn. Có lẽ một thứ thú vui riêng của nhiều người Hà Nội, trên những đường dài, những phố ngắn, ngày và đêm, luân chuyển vận hồi...
    8-94
  6. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Cốm Vòng
    Những ai từng ở Hà Nội, nay đi xa, khi thu về có một lúc nào để lòng mình hoài nhớ về nơi có mùa thu kỳ lạ không nhỉ? Đời thường dân dã, không quan cách giàu sang, cũng đều cảm nhận được những làn gió heo may tràn ngập hồn mình khi liễu buông rèm xanh ngát bên Hồ Gươm, khi có những người từ đâu không biết, đi rong khắp phố phường bán từng ***g chim ngói, loài chim chỉ xuất hiện với mùa thu. Mùa trời cao lên, đất khô đi, cây tự nhuộm mình cho lá mang màu vàng màu đỏ, lòng người nhớ thương nhau, tìm đến tri âm tri kỷ thanh tao thì uống một tách cà phê, dung tục thì đến quán mộc tồn... ấy là lúc có món quà đặc biệt chỉ có Hà Nội có, và chỉ có mùa thu Hà Nội nó mới được ngon đến thế. Cốm ơi, cốm mang cả niềm truyền thống dân tộc, khéo léo tài hoa, cần cù sáng tạo, và cả cái nghèo chỉ biết trông vào hạt lúa.. để mà tái sinh vào món ngon không thể so sánh với một thứ gì khác trên thế gian này. Cũng chỉ là hạt thóc nếp mà thôi, giầm chân rễ vào bùn nước của mặt ruộng đồng quê, uống nắng và thở gió bao la trời Việt mà thôi... vậy mà khi cây lúa làm đòng, ngậm sữa non, đông đặc lại thành sữa già, thành hạt ngọc lưu xanh màu lưu lá mềm mại, óng chuốt... những bông lúa chưa có màu chín vàng của cánh đồng mùa vào vụ gặt, người ta hái từng bông, gặt từng lượm đem về, tạo ra thành sinh vật mới: cốm. Khắp đất nước, đâu chả có cánh đồng lúa chín. Ta là nông nghiệp ngàn đời. Sao thế nhỉ, chỉ có một làng ở huyện Từ Liêm, một vùng đất cổ, quá cửa ô Cầu Giấy chừng vài nghìn thước cái làng Dịch Vọng, tên dân dã nôm na là làng Vòng, mới có thứ cốm vòng như thế. Ngay cách đấy ít làng, còn có làng Kim Lũ, gọi là làng Lủ, cũng làm cốm, nhưng cốm Lủ chỉ có thể làm bỏng cho trẻ em ăn, cách xa một trời một vực với cốm Vòng. Hình như là một bí quáết thiêng liêng, một thứ "gien di truyền" trong máu những người dân cốm, nên con dâu về đây biết nghề, còn con gái ở đây đi lấy chồng nơi khác, đành chịu không biết gì về cốm. Hãy nói đến ăn cốm xong rồi mới kể về làm cốm. Cốm là quà, chứ không hề là món ăn cho no. n cốm là ăn mùa thu vào lòng, vào tâm khảm. Mùa thu Hà Nội đặc biệt ở chỗ nó trong veo như tâm hồn thiếu nữ, nó thanh sạch mát dịu như được lọc hết bụi trần của một lần con cá chép vượt Vũ Môn... Những ngày thu như thế, sáng hơi sương, chiều dìu dịu, tối êm đềm... thì những ngày như thế, khoảng giữa buổi sáng, từ cửa ô Cầu Giấy vào thành phố, trên những toa tàu điện leng keng, có những bà những chị hàng cốm bước xuống tàu, mỗi người một lối quen, đi tỏa ra khắp phố phường Hà Nội. ít người cần rao hàng. Ai cũng có một số khách hàng quen của mình, có khi quen đã hàng chục năm về trước.
    Nếu là khách lạ, thì cứ nhìn cái đòn gánh cong một đầu, phân biệt hoàn toàn với những món quà khác. Chiếc đòn gánh là một gốc cây tre, nguyên gộc, đào lên chẻ đôi, nên nó cong một đầu như dấu hỏi, hỏi lên trời, như cái câu liêm, móc vào trời lấy mùa thu xuống, ủ vào thúng cốm, dù rằng cốm đã được ủ thành từng lớp mỏng trong lá sen già, trong lá khoai ráy non để nguyên cái mềm cái dẻo, cái thơm, cái ngọt trong lòng cốm và cả ngoài thân cốm. n một dúm cốm như thế sẽ cảm nhận được hơi gió heo may, làn hương của đầm sen tỏa ngát... Chiếc đòn gánh cong một đầu, nhất thiết không phải là thứ đòn gánh thẳng để gánh những thứ khác, hoặc cong cả hai đầu như có họa sĩ sinh ra sau này, chưa hình dung được ảnh hình cô bán cốm. Chiếc đòn gánh là của rẻ tiền vào bậc nhất, nhưng nó lại là của gia bảo, quí báu bằng bậc nhất, đời bà truyền cho mẹ, mẹ truyền cho con, và bây giờ nó đang lâng lâng đi trên đường phố, dám thách thức với các thứ cao lương mỹ vị, bánh trái tây tàu nhập ngoại. Nó được gác trên gác bếp, mỗi năm chỉ có dịp này bước xuống, đi vào phố cùng vai áo đồng lầm đổi vai màu nâu non, nâng những lớp cốm non vào tay người yêu Hà Nội, biết nhai thong thả, nhẹ nhàng từng hạt, như sợ cốm đau cốm tủi. n cốm chỉ dúm lấy ít hạt thả vào lòng bàn tay, từ đấy mà lại thả nó vào miệng, vừa nhai vừa ngẫm nghĩ với mùa thu. Từng hạt ngọc lưu lá xanh óng, mềm như lụa, mát như da trinh nữ, ngọt như... không như gì cả mà chỉ như cốm... Không ai ăn cốm bằng cách xới cốm vào bát rồi dùng đũa và lùa như ăn bún, ăn bánh đúc riêu. Có thể chỉ ăn cốm không thôi, riêng nó thôi, một mình nó thôi, mới thấy cái sáng tạo tài hoa của người nghĩ ra cách biến hạt lúa non kia thành món tuyệt vời. Hương đồng gió nội, mùi thơm đường làng ngày mùa ngập đầy rơm rạ, màu xanh cánh đồng lúa rập rờn, sắc đầm sen thoảng kín nơi nào... tất cả đã nằm trong từng hạt mỏng, thanh, thơm, dẻo...
    Có người thích ăn cốm với hồng chín đỏ, loại hồng ngọc, hoặc chuối tiêu trứng cuốc, mà cả hai loại quả quí này, cũng chỉ mùa thu mới có. (Năm 94 này, Hà Nội có loại chuối tiêu vàng rất đẹp, nhưng lại rất chua, nhạt, vì người ta rấm chuối rất khéo, rất "làm hàng", chỉ có cái mã, mà cái lòng thì hỏng, phù hợp với việc lên chùa cúng bái, chứ đã mất đi một thứ quả ngon). Cũng có thể nấu thành chè cốm, cốm xào, bánh cốm, chả cốm... Trước đây (và nay mới phục hồi) có mấy nhà làm bánh cốm ở Hàng Than, Hàng Giấy, nổi tiếng: Bánh cốm Nguyên Ninh ở Hàng Than từng lừng danh khắp nước và ra cả nước ngoài.
    Hiện nhạc sĩ Duy Quang là người của gia đình này, anh viết nhạc cho các em, rất thành công. Gói bánh cốm xanh mướt màu lá chuối tươi, buộc chữ thập bằng sợi lạt dang nhuộm cánh sen hồng, tươi thắm như mối tình son sắt, có phải vì thế mà người ta dùng bánh cốm làm đồ sêu tết, dẫn cưới? Chung quá cốm chỉ là nó, mới nguyên lành là cốm. Cái duyên của cốm không cần sự điểm trang thái quá, không cần phải thêm sự điệu đàng hay nịnh bợ. Cốm là thanh cao, nó chỉ là nó, có thể ví nó với người cao thượng được không nhỉ, khi nó coi thường những sự đắp vào nó từ bên ngoài... Cô hàng cốm cứ đường quen năm trước mà đi, cứ nhà quen mà đến. Hết gánh cốm lúc nào không biết. Và chuyến tàu điện chiều đang đợi cô ở ga Bờ Hồ kia rồi, hai cái thúng chồng vào nhau, chiếc đòn gánh cong đầu quàng một bên như chiếc gậy thần, mà sáng nay, nó nâng cốm lên, nó còn đèo thêm mấy cái chổi rơm mới, những thân rơm thân rạ, những chỗ dựa của hạt thóc mềm, nay nó vào thành phố để tiễn chân hạt cốm làm cuối cùng, không bao giờ còn gặp nhau nữa. Cả sợi rơm, dùng thay lạt để gói cốm cũng thơm mùi lúa chín, cũng ngả màu lá mạ, nó quàng gói cốm ***g khồng, như các bà khéo tay Ngọc Hà gói hoa cúng cho ngày rằm mùng một, đặt lên bàn thờ tưởng nhớ tổ tiên.
    Như thế, cốm cũng linh thiêng, nó không còn là món ăn thông thường, nó đã trở thành nét văn hóa chỉ có một vùng đất nước, một mùa đất nước được sản sinh ra. Và từ đấy, nó từng bước đi máy bay ra nước ngoài, vào tít tận cùng miền Nam, để cốm đến với nhân gian xa lạ, vẫn tươi nguyên, thơm lành, ngọt thanh, dẻo mềm niềm âu yếm của tâm hồn dân tộc.
    Người xa Hà Nội ơi, cốm có gợi nhớ về, có nhắc kỷ niệm trong nhau, có là mối tình một thời trẻ trung ta đã hơn một lần ăn cốm cùng nhau trong gió thu Hà Nội? Cốm lại về rồi đấy, người ơi. Hình như bây giờ cốm lại có mặt với Sài Gòn như nhiều năm trước. Cốm mang hương thu của Hà Nội vào cho người tri kỷ ở vùng nhiều nắng, cho mát lòng nhau, cho văn hóa và truyền thống mỗi ngày thêm thắm thêm nồng, bất chấp núi ngăn sông cách. Còn chuyện làm cốm thì sao? Không cần hiểu và nhớ nhiều làm gì những cái rối tinh kỹ thuật. Hình như không thể đem máy gặt đập liên hoàn ra đồng gặt lúa nếp về làm cốm. Cũng không thể dùng máy tuốt lúa hay nồi súp de mà chế biến cốm. Khi những bông lúa nếp uốn câu, chưa vào độ chín vàng, đã được tuốt mang về. Làng Dịch Vọng xưa nay xanh tre, tươi trúc, đầy tràn ánh nắng, ngập mênh mông gió mát, điển hình cho làng quê Việt Nam như trong ca dao, như trong cổ tích. Trong trăng thanh gió mát ấy, thóc được tuốt, rồi đem rang từng mẻ, ít một, rồi đem giã, rồi giần sàng, rồi lại giã, rồi lại giần sàng... Nhiều lượt như thế, hạt sữa kia mỏng ra, nhưng vẫn mềm, vẫn ngọt. Nó còn được hồ thêm một chút lá cây để giữ nguyên màu xanh ngọc, được ủ ngay vào lá sen lá ráy cho hương không vội bay về đồng, bay vào trong tre trúc, bay vào gió vào trăng... Mùa trăng tháng tám, qua làng Vòng, sẽ nghe tiếng chày giã cốm thâu đêm. Trẻ già trai gái mỗi người một việc, không ngừng tay mà vui như hội, nào lửa nồi rang, nào tiếng thì thầm của trấu quay trên mặt giần, nào rơm kêu loạt xoạt, nào cả em bé học bện lấy cái chổi tí hon của mình bằng rơm mới... Cốm không thể ăn nhiều. Cô hàng cốm vào thành phố cũng không gánh nhiều đến nỗi lặc lè như gánh gạo, gánh rau. Và làm cốm cũng không có thể làm nhiều, kiểu đẽi trà, sản xuất hàng loạt như nhà máy sản xuất bia hộp hay bánh bích qui. Có lẽ nét đáng trân trọng của cốm còn nằm trong nét ấy nữa. Từ hạt lúa nếp cốm được hồi sinh thành một kiếp khác.
    Đó chính là tài hoa dân tộc, sáng tạo dân gian. Cũng vì nghèo nữa, chỉ có bên mình là hạt lúa quen thuộc thôi, nên mới có bánh dày, bánh chưng, xôi nén... Nhưng cốm là độc đáo từ mặt nguyên thủy đến mặt trường tồn. Một thời cốm Vòng tưởng bị tuyệt diệt. May, nay lại có mặt với mùa thu Hà Nội, mùa thu đất nước, làm cho con người thở dài sung sướng vì gặp lại cốm như gặp lại mối tình xưa sau nhiều năm nhớ nhung xa cách, khuất mặt mà chẳng xa lòng... Người bạn ở một phương trời cách trở, mùa thu này, bạn dã được thưởng thức cốm Vòng chưa, thêm một lần cho Hà Nội sống động trong tâm linh, trong cảm giác, trong tâm hồn, trong cơ thể... Người Hà Nội còn có thói quen: mùa cốm, mớ cốm đầu tiên, bao giờ bà, hay mẹ, cũng trân trọng đặt gói cốm lên bàn thờ tiên tổ, trước khi mời cả nhà thưởng thức mùa thu, thì đã có hương hồn người xưa biết tới...
  7. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Hà Nội hơn Hà Nội kém
    Có một lần nhà thơ Hữu Thỉnh đặt câu hỏi: Hà Nội bây giờ và Hà Nội xưa hơn kém nhau như thế nào? Không thể trả lời ngay độp một cái được, dù người hỏi và người được hỏi hiểu ngầm xưa là khoảng từ đầu thế kỷ, và nay là những năm của thập niên cuối thế kỷ XX này. Hà Nội, trung tâm Bắc Hà là một cái gì đó thiêng liêng, huyền diệu, kỳ lạ mà vẫn rất quen thuộc, như người vợ Tấm Cám, bén tiếng quáện hơi, nhưng vẫn lạ lùng ngay khi nàng cho ta ăn bát canh cải cá rô nấu gừng, khi trên chiếc gối có hương mái tóc không giống bất kỳ một thứ hương gì mùi gì của bất cứ ai. Dù đã thời gian, dù đã nhiều xa khác, vẫn nhận ra nhau trong muôn vạn nghìn triệu, để mình cứ hồi hộp với mình.
    Hà Nội kinh đô, Hà Nội đô thị, Hà Nội thành phố, rất phương Đông, nó nổi lên trên nền phẳng châu thổ sông Hồng, như ngọn tháp cao giữa màu xanh lúa nông nghiệp. Đất nước của lúa nước, của sông ngòi, của lam lũ và đánh giặc, Hà Nội mang đầy đủ tính chất ấy. Một thành phố nhiều tính chất nông nghiệp, nông thôn, nông dân, vừa nghèo vừa giàu, vừa thanh lịch quí tộc, vừa dân dã, mộc mạc. Kia, phường phố nào cũng có riêng đình chùa đền miếu của xã thôn mình ngày trước, mỗi làng xã là một pháo đài khép kín, có cổng ra vào, có tuần đinh cầm tay thước gỗ lim canh gác, cùng với di tích, còn cây bưởi thơm hoa mùa xuân, vòm ngâu nở vàng mê hoặc, cây đẽi uốn mình muốn cất cánh bay lên, đường phố cong để tránh một bức tường hoa nhà ai xưa đó... và hồ ao, và con sông lượn quanh, và bè rau muống dập dềnh... và chợ hoa là bài thơ nông nghiệp cùng tâm linh bốn mùa hoa trái, đón mùa xuân tưng bừng như nghìn năm trước, con người ngơ ngác trước kỳ lạ của đất trời đổi khác khi địa cầu trở lại điểm xuất phát một năm.
    Hà Nội từng bảo lưu nếp ăn uống thanh cảnh, giản dị của người đồng bằng Bắc Bộ; rau muống, tương cà. Con cá lá rau vẫn chỉ là sản phẩm vườn nhà, không ăn hết thì đem trao đổi. Những làng ven nội Trung Phụng Đồng Lầm, Kim Liên, Thanh Lương, Bảy Mẫu... đem mớ rau ngót, quả mướp, buồng chuối, quả trứng, con gà... vào phố, mà thành cái chợ buổi chiều: Chợ Hôm cho đến ngày nay. Phố Hàng Gà cũng là nó, mấy con gia cầm, vật nuôi, ra đi, để thước vải, chai dầu trở về... Ngoài hai bữa chính, thì các món quả ngon cũng là sản vật các vùng mà nguyên liệu chủ yếu cũng từ đất ruộng đất vườn mà ra: Húng Láng, bánh cuốn Thanh Trì, nem Phùng, nem Đình Bảng, rượu Kẻ Mơ, bánh đa Ninh Giang, bún Phú Đô, tương Bần, kẹo Lủ, cốm Vòng, cá rô Đầm Sét, hoa Ngọc Hà Hữu Tiệp Nhật Tân, rau muống hồ Bảy Mẫu, Ba Mẫu, gạo Mễ Trì cùng nhiều món quen thuộc khác, nhưng cũng không phải là vây bóng thường xuyên, yến tiệc linh đình, rượu bia ngả ngốn...
    n Bắc mặc Kinh. Người Hà Nội từng nổi tiếng sành ăn sành mặc. Chỉ là trúc bâu, cát bá, hàng vân thông thường, màu nâu vải Rồng, tấm the Đình Bảng Chợ Dầu, vuông sồi La Khê... nhưng nền nã, ưa nhìn, duyên dáng, tứ thân thất vạt, buông tà, mớ ba mớ bảy, váy chùng cửa võng, gấu đỏ khêu tình khá kín đáo, yếm thắm cổ xây, khăn vuông khăn vấn đuôi gà... Đàn ông thì khăn lượt, áo the dài, áo sa, quần ống sớ... Không phải ai cũng lụa lĩnh, gấm đoạn. Nhưng ngoài đường, ai nấy chỉnh tề, có vá thì miếng vá cũng vuông vức, phẳng phiu, đường kim tăm tắp. Lĩnh Bưởi, Trích Sái, lụa Cổ Đô, Vân Hà Đông, vải Rồng Nam Định... về đến Hà Nội đều được Hà-Nội-hóa.
    Vùng ven nội còn ở ô Cầu Dền, ô Đống Mác, ô Đồng Lầm, ô Chợ Dừa, ô Yên Phụ... vẫn san sát nhà tranh đèn dầu, vườn tre, ruộng lúa, con lợn ủn ỉn, con gà te tái... quen thuộc như một vùng Sơn Nam Kinh Bắc. Một tấm ảnh chụp đầu thế kỷ này còn ghi lại được chiếc cầu ao bắc bằng mấy đoạn tre vươn ra Hồ Gươm chỗ Đền Bà Kiệu, mấy chị Hà Nội mặc váy, đội nón quai thao, ngồi rửa rau giặt chiếu? Hà Nội vẫn rất Việt Nam. Hình dung ra được cốt cách chân thành, chan hòa ấm áp trong nếp sống như là từ thời Lý Công Uẩn, Nguyễn Trãi, Cao Bá Quát... với nồi cơm nóng hổi, miếng thịt rang cháy cạnh, đĩa rau muống luộc xanh rờn, quả ớt đỏ chói, đôi đũa tre nhưng thơm tho... Chắc chắn người Hà Nội xa lạ với những thứ kiêu sa lãng phí, phô trương, hoa hòe hoa sói, với thói hãnh tiến rởm đời...
    Cũng có, nhưng chỉ là thứ nảy nòi của mấy nhà giàu xổi, hợm của hay mấy anh làm quan tắt. Sự cách biệt giàu nghèo, người Hà Nội tinh tường phân cách. Ra đường, chỉ nhìn trang phục, có thể biết đó là kẻ nhà giàu, ông đề lại, cụ nghè về hưu, ông đốc học... với anh bán mộc tồn, chị hàng cá... Không khinh ai, không dè bỉu chê bôi ai, nhưng "ăn mặc xứng kỳ đức", mỗi người giữ phận của mình, theo riêng lề thói cha ông, đua đòi làm hỏng, mất phẩm giá nhân cách là người bỏ đi... Cốt cách ấy là riêng biệt của người Hà Nội. Đẹp mà không xa hoa, từ tốn khoan thai mà không chểnh mảng, vội vàng mà không hấp tấp. Người Hà Nội ghét sự lọc lừa, giả dối; khinh thói kiêu căng, xa lánh sự dung tục cục cằn, lèo lá, thô kệch... Hình như nghèo mà vẫn sang, giàu nhưng không trọc... Nó được thể hiện qua giao tiếp ngôn ngữ, cử chỉ thông thường hàng ngày... trong mọi trường hợp, với bà hàng xóm gặp nhau hàng ngày cũng như với người khách lạ từ phương xa tới lần đầu. Cũng vì là một thành phố nhỏ, nên luật lệ giao thông là xa xỉ phẩm. Quang gánh cồng kềnh, nghênh ngang giữa phố, chỗ nào cũng có thể họp nhau thành cái chợ. Xe cộ, cáng võng là của các quan, của nhà giàu, nên đi bộ, nhất là những bàn chân trần, không giày dép, là phổ biến. Khênh vác nặng nhọc, phố xá chưa thẳng hàng, nhà cao nhà thấp, mái ngói lô xô... Hà Nội là thế. Nhà Hà Nội mang dáng vẻ riêng, đặc biệt. Phần lớn là một tầng (đáng lẽ phải nói là không tầng mới đúng), mái chồng diêm, cửa sổ bé tí tẹo, chỉ mấy ô gạch, đầu hồi có cột trụ như người độ mũ bình thiên. Nhà trông ra đường, cửa bức bàn, ban ngày ngả xuống thành chỗ đặt hàng hóa để buôn bán, tối dựng lên, lùa vào nhau thành cửa kín bưng.
    Sâu hun hút, thiếu ánh sáng, hẹp lòng. Không phải nhà nào cũng có sân, đặt núi non bộ. Tuy vậy, nếp sống đô thị vẫn tạo cho người Hà Nội lối sống ngăn nắp gọn gàng, trật tự, sạch sẽ. Đây cũng là tác phong, tâm lý lâu đời của người Hà Nội, tuy gắn bó với một vùng quê nào đó, nhưng đã hòa mình vào thành phố, là người thành phố, nên không thể luộm thuộm, tùy tiện, nhếch nhác. Hà Nội là một thành phố khiêm tốn, hiền hòa, chậm rãi. Thạch Lam là một chút hồn Hà Nội đó chăng? Nguyễn Tuân cũng thế chăng? Một chút nữa là Vũ Bằng, là Nguyễn Nhược Pháp? Khen Hà Nội có văn hóa yêu kiều, từ từ, có khi còn là ngầm chê sự chậm chạp, cảnh vẻ nữa chăng? Tái hiện lại một vài hình ảnh xưa cũ ấy, cũng chưa phải là có thể trả lời câu hỏi ở trên kia. Thoắt một cái, đã gần trăm năm. Đang có một Hà Nội rất khác, rất lạ trước mắt ta rồi. Ngạc nhiên lắm nếu ta là cô công chúa ngủ trong rừng một trăm năm, bây giờ tỉnh giấc, gặp nhà đá rửa, rồi ốp lát, rồi những tầng năm, tầng bảy, có cái tum nhọn hoắt, có ăng ten Parabon, và nhiều cái quái lạ khác. Nhớ đến cái mất đi mà giật mình. Nhìn thấy cái tân kỳ mà vui hởi. Hôm nay gạo không còn là cái lo phấp phỏng đến nỗi khách ở quê ra cũng phải đùm cân gạo theo, còn người phố thì tái mặt đến chết ngất vì lo cho cái sổ gạo. Có nhiều món ăn ngon lành, mới lạ, để chỉ cần ăn ít thôi cũng đủ. Giò lụa, chả quế, thịt gà đâu còn là thứ có khách quí mới dám có mặt trên mâm. Không phải chỉ có mộc tồn truyền thống ở Hàng Lược, Hàng Đồng mà như nhà phóng sự Nguyễn Hà cho biết, có cả một liên hiệp xí nghiệp thịt chó hàng trăm mái, mấy trăm bàn ăn, ngả ra các món "cẩu nhục" ê hề suốt một rẻo giang biên phía bắc, nơi ngày xưa chỉ có hoa đào. Ngõ Cấm Chỉ xưa, nay đổi tên thành Ngõ Hàng Bông Lờ -phải chang để lờ cái ông Chúa Chổm kia đi? -cũng là thành một ngõ đặc kịt hàng ăn, những xôi, phở, vằn thắn, sủi cảo, ốc luộc, giò chả, gà tần thuốc bắc, chim quay, cùng là các thứ uống say và không say... tha hồ mà ních chặt dạ dày cho thỏa, cho nới rộng thêm cái lỗ thắt lưng, mà chắc cô gái Hàng Bạc, mợ cả Hàng Đào, cả ông tầm quất Bạch Mai hay ông thông phán Hàng Vôi cũng không bao giờ ăn nhồm nhoàm như thế. Lại còn có những phố chuyên về ăn uống như Mai Hắc Đế, Nguyễn Du, Hàm Long v.v... Cũng không thể không nhắc đến cái chuyện lạ đời mà chắc phải làm ngạc nhiên người Hà Nội cách đây chỉ chục năm thôi. Người ta cử ra bốn năm thanh niên lực lưỡng, cả trai, cả gái, ra giữa đường lúc tan tầm chiều, giang tay, gần như bắt khách đỗ xe máy lại để vào các dãy ghế bên hè mà... nhậu...
    Kiểu gì lạ vậy? Bia đấy, chả chó đấy, chân chó đấy, nem chua đấy, ốc nóng đấy... Một kiểu ăn uống loạn xà ngầu, một kiểu mời chào như tây bắt lính, và đã có người bị ngã xe, bị tai nạn giao thông vì kiểu níu kéo tay lái bình bịch như thế. Đã trở về thưa thoáng con cà cuống, không nhiều thì cũng đã bay thoáng trên bát bún thang đầu phố Lãn ạng. Hoa quả bốn mùa tươi ngon ngồn ngộn từng ngọn tháp nhỏ, táo đỏ, nho nâu, vải thiều tròn trịa, lê vàng ươm, nhãn ***g, thanh long, na dai... không thiếu thứ gì. Riêng chuối tiêu có loại nhuộm vàng thật đẹp nhưng ruột lại quá chua, nhàn nhạt, một thứ chuối chỉ có màu mà không có hương, khác xa loại chuối tiêu trứng cuốc có thể ăn với cốm Vòng. Các loại hoa quả, ai cũng có thể mua, trẻ em không bị thèm nhạt nữa. Riêng phở cũng đáng nói vài câu phiếm. Người ta có thể ăn phở suốt ngày, ở bất cứ chỗ nào, đắt rẻ đủ kiểu, sang, nghèo đều đủ đáp ứng. Nhưng tìm một hàng phở thật ngon, thật đúng vị, nổi tiếng liền nhiều năm, nước dùng bay xa mùi thơm quáến rũ, đánh thức con tì con vị đang ngủ say hay đang lơ mơ... phải bừng tỉnh để sà vào mà hít hà, mà bưng lên... như mấy chục năm trước, quả là quá hiếm. Người ta ăn phở để no chứ không phải để ngon, ăn cho đầy chứ không phải cho thích. Giò sống gọi bừa đi là mọc. Mấy quả trứng gà nửa sống nửa chín, tanh lòm, đánh tan ra như nước gạo, ngửi đã rùng mình. May còn có chút hạt tiêu, nhưng thiếu húng Láng, hành tây... Bát ôtô to đùng rất phù hợp với cái bụng phệ mà không hợp với cái lưỡi tinh tế, khó tính của người biết ăn phở... Bánh cuốn Thanh Trì vẫn có, nhưng không mỏng, không dai, không mát như lụa của một thời. Chợ Đồng Xuân không còn những hàng quà ngon nổi tiếng: xôi vò chè đường, bánh xu xê, bánh gấc, bún thang... Ngay một món nem chạo mà người ta thay bì lợn bằng miến rong chần dối, cũng dai nhưng vô vị... cho nên có người thích "chầu mồm" hơn là ngồi vào mà ăn những thứ dớ dẩn ấy. n rồi, thì mặc là quan trọng. n cho mình, mặc cho người. Mặc mà không có người ngắm thì phí công. Vì vậy mà người ta mặc để phô trương cái đẹp, cái hay ra cho mọi người biết, khoe cả cái giàu, cái học thức, và khốn khổ cho người Hà Nội, nhiều người khoe cả cái xấu, cái dốt, cái rởm đời, cái lố lăng kệch cỡm ra trước mắt mọi người, thế mới khổ cho thiên hạ và cho ngay bản thân người ấy. Lý gì mà tóc đen đang đẹp lại nhuộm đỏ như lông bò. Lý gì cái cẳng chân khẳng khiu, đen nhẻm, lỗ chỗ vết sẹo và muỗi đốt cũng bắt chước mặc váy khoe ra? Người thời trước chắc không thể hình dung ra con gái đàn bà lại mặc váy ngắn đi bình bịch, bá vai bá cổ nhau ngoài đường và văng ra đủ ba mươi sáu thứ "của không ngon". Thời thế thế thời thời phải thế. Hiện đẽi đấy. Cái mới đến, phải chấp nhận, nhưng quan trọng, là phải có học, biết được cái gì là hay là đẹp là phù hợp, là văn hóa... Người Hà Nội không ưa gì những kẻ chỉ là con vẹt, con đổi mầu, thứ nhai lại...
    Xưa nghèo, áo vá ra đường là thường, nhưng vẫn phẳng phiu, sạch sẽ, gọn gàng. Nay có sang hơn, vải đắt tiền hơn, không ai mặc áo vá rách ra đường, nhưng đôi khi lại có một thứ phản mỹ phẩm, phản văn hóa, rất "mô ve gu", mà ngày ấy chỉ có me tây gái nhảy, gái ăn sương mới thế. Thời ấy, một ông tây bà đầm ra đường, nước hoa thơm lừng, dân An Nam mà ngắm kỹ có khi bị bỏ tù. Nay thiếu gì tây đầm, đầm non đầm già đều có, đầm quần đùi may ô, tây ba lô nhếch nhác, không thiếu. Kể cả tây đi buôn, tây đi lừa. Hà Nội bất chấp, cứ đặt lên mặt sàng mặt cân cho thời gian trả lời, đào thải. Chắc sang đầu thế kỷ mới, con đường Hà Nội -Hà Đông, Hà Nội -Sơn Tây, Hà Nội -Hải Dương sẽ được lấp kín bằng nhà cửa, sẽ không còn một chỗ nào trống cho ao bèo ruộng rau nữa. Mừng. Nhưng hiện nay, cái ở của người Hà Nội chưa phải là sự thảnh thơi. Cơn sốt, cái nhọt bọc, khối ung thư đang đó. Lấn chiếm, cơi nới, tranh chấp mà luật pháp bó tay...
    Thế mới bật cười. Chả hiểu cán cân công lý ở đâu mà có kiểu "phạt cho tồn tại", mà không thẳng tay, kiên quáết. Luật pháp mà ra có phải để chơi đâu nhỉ? Không một ai trên đời này suốt đời ru rú ở trên giường, ở trong nhà. Phải đi lại, tức là cần đến giao thông, dù chỉ sang nhà hàng xóm hoặc ra ngoại ô hay lên đường vài trăm cây số...
    Cái đi bây giờ không ai còn thấy có thể rềnh ràng như con tầu điện sơn đỏ đi như rùa; cái xe tay ngựa người gò lưng mà kéo. Tiếc là tàu điện bóc đi quá sớm, ôtô bus lại không thay thế được. Cái gọi là xích lô không phải là thứ xe chưa xứng với thành phố có truyền thống thanh lịch. Cũng có tắc xi đấy, nhưng loại "máy chém di động" này, sẵn sàng cắt phăng cổ những ai ít tiền mà dám nhảy lên? Xe đạp rồi xe máy đang là phổ biến, hơn hẳn ngày xưa. Ra đường là vui mắt, vui đến chóng mặt, hoa đầu, chuếch choáng vì một vũ trụ quay cuồng, các điện tử quay nhanh chung quanh một cái hạt nhân nào chẳng biết, cụ già em bé ngã quay lơ còn bị mắng là thường. Người Hà Nội từng có truyền thống nhẹ nhàng, nâng đỡ người khác. Người Hà Nội bây giờ sẵn sàng xửng cồ, nổi nóng, thụi nhau, mắng nhau và còn có thể "xin tí huyết"... Thế mới là một Hà Nội không phải của người Hà Nội, một Hà Nội khác xưa rất nhiều. Giao tiếp là điều không thể thiếu của mỗi người trong cuộc sống hàng ngày. Xưa, người ít văn hóa nhất như con sen, anh xe, chị hai khâu đầm, cô bán cá... cũng không bao giờ nói ngọng. Nhưng bây giờ, váy mới nhất tốc cao nhất, tóc uốn quăn thời thượng nhất, cùng với cà vạt có kim gài sáng choang, giày tây bóng lộn, sơ mi cổ cứng, đầu chải mượt như gương tầu, lại nói: Hôm lay giời lắng quá, mà nương nậu nại nẻ noi, cái lón ló nỏng nẻo... Và lớp trẻ không biết học hành đến đâu, được dạy dỗ ở trường nào, sinh ra trong gia cảnh ra sao, bố mẹ làm nghề gì, mà ra đường là văng tục, chửi thề, nói nhảm, đưa cả mẹ nhau vào cuộc... Văn hóa là đấy chứ đâu. Hà Nội là đấy. Cả xưa và nay, nghe giọng nói, cách nói, lời nói, người ta biết thành phố ấy thế nào... Hà Nội nhỉ. "Hanoien" nguyên chất còn bao nhiêu? Hà-Nội-yên như thế có phiền lòng không, vui buồn ra sao. Đương nhiên không có gì cứ tĩnh lặng như mặt ao tù.
    Phải chuyển biến, di động. Người tứ xứ đến Hà Nội là đương nhiên, và như nhà văn Tô Hoài quan niệm: "Ai đang có mặt ở Hà Nội hôm nay; đều là người Hà Nội hết, không kể quê gốc ở đâu..." Có điều xưa nay, vợ chồng còn ảnh hưởng nhau, bè bạn còn chan hòa nhau huống chi cuộc sống chuyển vùng. Tục ngữ cũng nói: Đêm nằm năm ở. Nay hàng vạn đêm ở chứ ít gì. Đáng lẽ, phải hòa mình vào thành phố, xóa bỏ nét thô lậu, tính cách tùy tiện, tản mạn, bừa bãi... để hòa nhập vào thanh lịch, tao nhã, vào nếp sống văn minh, vệ sinh, kỷ cương... trở thành người Hà Nội... thì tiếc sao, lâu nay, nhiều hiện tượng ngược lại. Vì vậy mới thấy một Hà Nội đang chuyển động ngược vòng quay, ngược xu thế tiến hóa, với những lề thói phong tục của nông thôn, chẳng hạn đi bộ nghênh ngang giữa lòng đường, sẵn sàng đánh chém nhau, va quệt xe, có lỗi mà không thèm xin lỗi, cởi trần trùng trục ra đường, bạ đâu là phóng ra đấy, vứt xác chuột chết ra đường, đang đi xe, quay đầu nhổ ngang sang cạnh, không kể gì người đi phía sau đang đi tới; uống rượu say mèm cờ bạc hút xách và nhiều điều chướng khác. Người xưa nói biết sai mà sửa sai mới là tốt. Nay không ít người biết mình sai, nhưng nhận lỗi qua loa, để rồi theo ông Nguyễn Y Vân, phớt lờ pháp luật, nếp sống... Mọi người vì mình, mình cũng vì mình... Người kém văn hóa, quá nghèo khổ đã đành, nhưng người ta còn thấy có người oai ra phết cũng cứ làm bừa, sống ẩu như trong rừng sâu mới lạ. Hà Nội có đau ngầm không nhỉ? Nói Hà Nội xưa và Hà Nội nay, cái gì hơn, cái gì kém... thật khó vì nói thật hay mất lòng, nhưng thuốc đắng mới dã tật. Sự thật chua chát, phũ phàng đang có mặt trong một Hà Nội vặn mình, đau đẻ. Đẻ ra cái tốt cái văn minh, sự tiến bộ, niềm tự hào của cả dân tộc nhưng cũng đang đẻ ra con rắn con rết cái quái thai... Lại nữa, không ai bảo thủ đến nỗi chỉ có ngày xưa là nhất, còn phủ nhận hét mọi điều hay điều mới. Càng không thể coi Hà Nội là cái vòng tròn khép kín, xuất phát ở điểm nào thì phải trở về đúng điểm ấy. Thế là gàn, là ngốc, là dại. Một vòng tròn trôn ốc, mỗi lúc mở rộng vào không gian mới là quá luật. Hà Nội đã đông gấp năm gấp mười, rộng cũng thế, dài cũng thế, đời sống vật chất cũng thế, không thể cứ coi một Hà Nội chậm chạp, ăn cơm rau, mặc áo vá... là khuôn vàng thước ngọc. Tuy vậy, cứ có cái gì nó lục xục trong đầu. Có phải vật chất cao, dù là cao nhất, là đủ chăng? Còn tinh thần, còn nếp sống còn văn hóa, còn truyền thống, còn lịch sử... sẽ ra sao nếu con người quáng mắt lên, hoắng lên trước một ánh đèn hay viên kẹo súc cù là từ nước nảo nước nào nhập đến?
    Thịt chó át hoa đào sẽ ra sao? Chửi thề nói tục so với thưa gửi dịu dàng... sẽ ra sao? Con cái hiếu thảo, bạn bè thương nhau, anh em đùm bọc, hay là đèn nhà ai nhà ấy rạng, hay là có kẻ như một cậu thiếu niên mới mười tám tuổi, tuyên bố trong bài thơ của mình rằng: "Chẳng ai đẻ ra tôi, chỉ có con bò cái bên cạnh..." (Thơ Nguyễn Q. đăng trên báo Người Hà Nội). Hà Nội giàu hơn trước, ai cũng thấy vậy. Nhưng Hà Nội có sang hơn trước không, có văn minh lịch sự hơn không, thì tùy từng tạng người, tùy quan niệm mà mỗi người tìm ra câu trả lời mỗi khác. Sài Gòn bộc trực, bỗ bã, tốc độ... Huế đài trang kín đáo, e lệ, rụt rè. Còn Hà Nội, ngàn năm văn vật còn hay mất? Câu hỏi thật như cái đinh đóng câu rút vào thời đại. Câu hỏi của anh Hữu Thỉnh có lẽ có trăm nghìn câu trả lời khác nhau, và khi anh hỏi thế, chắc anh cũng đã tìm thấy câu trả lời của riêng mình rồi. Rồi sẽ ra sao đây, tình yêu sau ngày cưới sẽ nồng thắm hơn hay chóng phôi pha? Hà Nội giàu thời gian lên, sẽ ra sao, thật bối rối nghĩ về những năm của thiên niên kỷ đang đến, khi Hà Nội tròn nghìn tuổi...
    1994
  8. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Cây quanh hồ Gươm
    ít lâu nay xung quanh Hồ Gươm được chăm sóc, sửa sang khá đẹp, lát đường, cấy cỏ, trồng thêm cây, đặt thêm ghế đá, mắc thêm đèn... Đó là điều đáng khen, như cô gái đẹp được trang điểm thêm chút phấn son, hấp dẫn nhiều chàng trai ưa nhan sắc. Hồ Gươm đâu còn chỉ là của Hà Nội, nó đã trở thành gia tài vô giá của cả nước, là viên ngọc lưu lá, là niềm tự hào của đất nước, đồng thời còn là niềm say cho bao du khách khắp năm châu bốn biển... Sinh thời, nhà văn Nguyễn Tuân là người khó tính, tỷ mỷ, từng đếm xem cầu Hiền Lương có bao nhiêu tấm ván... vậy mà chưa thấy ông đưa vào bài viết nào của mình xem xung quanh Hồ Gươm có bao nhiêu loài cây, và mỗi loài cây có bao nhiêu cá thể cây. Cũng không hiểu hồ sơ lưu trữ của Trại ươm cây, nay là Công tá Công viên và cây xanh có ghi lại được xem trên đoạn đường dài gần hai nghìn mét xung quanh hồ, cụ thể có bao nhiêu loài cây, cây nào cao tuổi nhất, cây nào đang được trồng thêm, những cây nào bị gió bão phũ phàng quạt ngã, cây nào chịu thua những con sâu con mọt...
    Rặng liễu hơn mười cây trồng ở phía Hàng Khay, đằng sau chỗ trước đây là quán hoa, đang xanh tốt thì bão bẻ gẫy gần hết, bão không thương cả phận "liễu yếu đào tơ", nay mới trồng lại, bắt đầu buông mành xanh. Nói như một nhà thơ trước tả cây liễu hay tả người con gái đài trang: Liễu xinh xinh thon dáng Liễu cong đôi nét mày... Mong sao hàng cây lần này, gồm mấy chục cây không gặp bão, không bị những bàn tay "thiếu văn hóa" làm thui chột. Cũng khoảng quán hoa cũ này, có vài cây hoa ban trắng, loài hoa của Tây Bắc, vẫn có thể vui trong Hà Nội. Đây không phải là loài hoa ban tím như ở đường Thanh Niên. Nhà văn Vũ Ngọc Phan từng rất ngạc nhiên về thứ cây lạ mắt này. ạng gọi nó là cây "Móng bò" vì hai cái lá giống như móng chân con bò, rất cân đối, nếu úp lại, chồng khít lên nhau. Một lần vui chuyện, nhà văn Tô Hoài, người hiểu biết sâu sắc về Hà Nội có nói ông rất sung sướng và ngạc nhiên đến vui thích vì phát hiện ra bờ Hồ Gươm có cây ô môi, thứ cây chỉ có mặt ở miền Nam đất nước, hoa nở tưng bừng chói đỏ, còn hơn cả hoa phượng, hoa đào, hoa gạo...
    Tiếc sao, đến nay, tôi vẫn chưa tìm thấy cây ô môi ấy, không biết nó mọc ở quãng nào, mặc dù cả bốn mùa tôi đều có ý tìm màu hoa đỏ ấy, cả những buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều, vì sợ nhỡ nó như hoa phù dung, mỗi lúc một màu chăng? Xin được mở một đường vòng, một vòng như "vòng phấn Caucase" trong vở kịch của tác giả Đức Berton Bretch, là chỉ nói đến dẻo đất quanh Hồ Gươm, loại trừ vỉa hè phía bên kia của các phố xung quanh. Những hè phố ấy xin tạm gọi là khách, cây cối cũng là người đến chơi. Ga cho con tàu chân tôi xuất phát là Cửa đền Ngọc Sơn, ngôi đền từng có hai bức tường rất cao, tạo thành một lối đi sâu hun hút, cách biệt hẳn chốn phồn hoa đô hội với niềm u tịch lặng lẽ thiêng liêng của tiểu bồng lai.
    Năm 1952, cầu Thê Húc bị gục gẫy đêm giao thừa, tường vẫn còn, vẫn che bóng cho hàng chục cái chõng tre của những ông thày bói áo lương khăn xếp và những bà hàng hoa cúng, người của Ngọc Hà đến bán cho khách hành hương. Khoảng đầu những năm sáu mươi, thời nhà viết kịch Nguyễn Bắc làm giám đốc Sở Văn hóa, ông đã cho phá bức tường ấy đi, thay bằng bức tường thấp, mà trẻ em có thể nhảy lên, trèo qua như hiện nay. Công việc chỉ làm trong một đêm. Có lẽ ông sợ dư luận phản đối chăng, như từng phản đối quét vôi trắng cho Tháp Rùa và trồng bốn cây liễu bốn chân tháp. May mà việc xây tường "cải tiến" này, hình như không ai phản đối. Bắt đầu chuyện cây cối bằng cây sung. Bờ Hồ có hai cây sung. Một cây mọc ngay chân hòn núi đá giả, chân Tháp Bút. Có lẽ vì đá xanh cứng quá, nên cây sung cằn cỗi, mấy chục năm không thành cổ thụ. Một cây sung nữa ở quá phía dưới một chút, gần lối đi, trông sang nhà Đèn. Nhiều khi quả sung từng chùm xanh xanh đỏ đỏ, rơi lộp bộp nhưng không ai buồn nhặt, dù quả sung ăn được, chỉ phải đuổi hết đàn muỗi chui vào ruột quả từ bao giờ. Lá sung có thể ăn gỏi cá, nem chua cũng ngon, nhưng mỗi cái nem chua Đình Bảng hay Đan Phượng cũng đã có sẵn một chiếc lá sung rồi, nên cây sung này vẫn an toàn. Cổng đền Ngọc Sơn có cây hoa gạo. Chắc nó mang số tuổi mà không một người Hà Nội hôm nay nào có, có khi từ thời chỗ Đài phun nước tức quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục còn mang tên Bãi Gáo, là chỗ Tây chém đầu những người nổi dậy chống lại chúng. Cây gạo đứng đó, xù ra trăm con mắt, chớp vào đấy bao biến thiên Hà Nội, đọng lại thành thớ gỗ, mùa xuân lại đỏ một trời hoa.
    Quanh hồ cũng chỉ có hai cây gạo. Một là nó, cây thứ hai ở xa một chút, trông sang vườn hoa Găng Đi, cũng cao to, cành đâm ngang, hoa mập mạp. Hoa của cây gạo thứ hai này hình như sung sướng hơn vì mỗi khi rụng, nó được lăn mình trên cỏ xanh, ngụp lặn vào nước hồ, mát mẻ, vui tươi như các thế hệ cha ông xưa, không bị nghiến nát như những bông hoa rụng trước cổng đền, rơi trên nền xi măng lạnh cứng. Cạnh cây gạo thứ hai này, Bờ Hồ có một cây dừa dầu duy nhất, vươn cao như một cây cau khổng lồ. Đứng ở phía bờ bên kia, thấy nó nổi bật lên trên nền tán lá các cây khác. Bãi Vông là tên nhiều người đặt cho chỗ gần Tháp Bút. Trải ra một quãng rộng, có 7 gốc vông đang thành cổ thụ, mỗi gốc đang tự vặn mình mà vươn lên cho trẻ trung hơn. Những cái lá vông mập mạp múp míp, xanh óng màu quan lục, tỏa mát dịu một vùng bóng râm dễ chịu. Sau khi hoa gạo rụng hết thì hoa vông nở đón mùa hè. Một bông hoa vông không đẹp, nhưng nhìn một cây vông đón mùa hè thì khó có gì so sánh được độ rực rỡ ấy. Chỉ một cây lẻ loi, cây thứ 8, mọc cạnh nhà Thủy Tạ, chỗ người ta đun bếp, làm bánh, nhiều khi cũng đã thấy tưng bừng như hội.
    Những tán lá vông hình cây bài chuồn, có thể vò ra làm thuốc an thần cho người mất ngủ, nên có lúc thấy trẻ em hái lá vông không thương tiếc, hái thuê cho ai đó. Vượt qua bãi Vông một chút, ta gặp cây lộc vừng chín gốc. Cả chín gốc, choãi chân vào đất bờ hồ, để la cà cành thấp cành cao trên mặt nước. Cây đã được vào nhiều tranh nhiều ảnh, và là một cảnh "Bonạai" to lớn khác thường. Còn một cây lộc vừng đơn lẻ nữa, đó là cây ở quá cái "lâu đài" tuy mất mỹ quan nhưng lại rất cần thiết cho những ai cần thiết khi cần thiết. Cây lộc vừng này quằn quẽi như một cây thế trong chậu cảnh, vươn lên khó nhọc, mỗi năm hai lần, buông những chùm hoa đỏ như sợi pháo, lấp ló trong lá xanh. Gặp mùa thu, hoa rụng tơi bời, gió giạt về phía Hàng Khay như một tấm thảm đỏ trong chuyện hồ tinh. Những ai một thời trẻ tuổi, có nhớ một lần nắm tay nhau dưới bóng lộc vừng này. Cây vẫn còn đó. Tình vẫn sâu nặng hay đã phôi pha? Gặp kỳ hoa nở, nhiều nhà thơ nhà họa hẹn nhau đi ngắm lộc vừng, một điều kỳ thú của Hồ Gươm mà nhiều người không chú ý. Gần khoảng này có mấy cây cổ thụ, hơn hai người ôm, thân rất thẳng, lá rất to, nhưng hoa lại rất bé, chẳng có hương thơm, tuy vậy đây là loại gỗ quí. Bốn cây gỗ tếch đấy. Gỗ tếch có thể bán theo ki lô mà không bán cây bán tấm. Đã có lần tôi và nhà thơ Nguyễn Hà đi quanh Hồ Gươm một đêm để chia tay nhau. Anh mang Hà Nội ra đi, tôi mang Hà Nội chất vào lòng. Chúng tôi ngồi trên những "cây rễ" của gốc đa có hình chữ N hoa, một cây đa búp, những cái búp đỏ cho trẻ nhặt chơi. Cây đa đã bị đổ bão đêm 9-6-1991.
    Nay, đúng chỗ ấy, đã trồng một cụm đa thay thế. Cũng đa. Hay lắm. Nhưng mấy năm rồi, những sợi rễ bò ngổn ngang trên mặt cỏ đã lụi tàn, cây đa mới cũng chỉ bằng bắp chân. Thì ra có được một cây, thật khó, phải mất hàng trăm năm, chứ phá đi, chặt đi một cân, chỉ cần một lúc. Có được những hàng cây như nay đâu phải không tử công phu, người nhỉ? Cầu cho linh hồn cây đa kia siêu sinh tịnh độ trên thiên đàng các loài cây, cây tuy mất đi khỏi mặt đất, nhưng đã sống trong lòng người. Đa búp, đa lông, có khá nhiều. Nhiều cây có vóc dáng của người lực sĩ, già làng. Cũng có cây làm xiếc, soi bóng xuống hồ, làm thành cái cầu nhảy cho trẻ tinh nghịch, từ đây nhảy xuống hồ mà bơi. Xem bơi chải, lướt ván mà trèo ra cành, rung rung, ngồi trong tán lá, thật hấp dẫn với tuổi thơ. Lạ một điều, những cây đa xoài xuống mặt hồ luôn luôn có nõn mới, xanh mướt màu rau xà lách, ngon lành, mát rượi. Phía bờ tây, mấy cây đa sừng sững, có lúc còn tinh nghịch thả lá vàng xuống cốc kem cạnh ki ốt, nhưng khách không coi là mất vệ sinh, mà chỉ coi như bàn tay của cô gió, chị trời, nàng trinh nữ cố ý trêu mình chút đỉnh. Nhội có khá nhiều.
    Sấu cũng vậy. Phía bờ đông, chúng mọc thành hai hàng như đoàn quân danh dự, chào mỗi người Hà Nội qua đây. Cây nhội khiêm tốn, không có gì đặc biệt. Cây sấu quen thuộc hơn nhiều, từ tháng hai thay lá, tháng ba li ti hoa trắng, đầu mùa hè, quả sấu non, giữa mùa thu quả sấu già... đều là đặc sản của Hà Nội. Cạnh tháp Hòa Phong có mấy cây ôi lụ khụ, lúc nào cũng rung râu, phấn chấn. Tháp hứng rượu trời vào be trên nóc, còn ôi hứng gió vào râu, có lúc cũng ngả nghiêng, người ta phải dùng dây cáp thép để cứu cho cây khỏi đổ, như cây ôi trong đền Ngọc Sơn đã được cứu sống như thế. Quả là người không phụ cây thì cây chẳng phụ người. Cây ôi lá nhỏ nhưng chi chít những con mắt xanh, cứ nhìn ta mát mẻ. Tương phản để hòa hợp. Gần mấy cụ ôi già là lớp thiếu nữ non tơ ẩn trong hồn cây liễu. Đây là loại cây trồng lại lần thứ hai, đã bắt đầu buông mành như thắt lưng hoa lý của các nàng trinh nữ, chứ nó không buồn như thơ Xuân Diệu "Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng" một thời nao. Nhìn hàng liễu tốt tươi mà hởi dạ, như thấy cái chúm cau trên ngực tuổi dậy thì. Và cũng tiếc, có những cây bị bẻ cả cành, trụi cả lộc. Sao có người tàn ác thế?
    Dọc Hàng Khay, thay vào đường phố mang số chẵn thông lệ, thì ở đây là cây, là gió hồ, sóng hồ... rất nhiều cây xà cừ đã trưởng thành, hiên ngang rợp bóng. Xà cừ và sấu vẫn chen vai nhau, lác đác còn có một vài cây hoa sữa cũng chen vào. Cả sấu và sữa đều không xanh tốt hoặc đông vui, tròn tán như ở phố Trần Hưng Đạo hoặc phố Nguyễn Du. Sữa nở hoa âm thầm, treo mành âm thầm khi thu về, đông tới. Chỗ trước cửa Trung tâm phương pháp Câu Lạc Bộ, xà cừ khép tán, lúc nào cũng mát rượi, là chỗ đi dạo, ngồi đánh cờ lý tưởng cho các lão già Hà Nội. Có lẽ xà cừ, sấu và nhội chiếm ưu thế quanh hồ, nhưng vài ba chục năm nay, không át đi được màu bàng lang nước, mà không hiểu sao lại thành bằng lăng. Mùa hè hoa tím nở rộ bạt ngàn trên phố Thợ Nhuộm thì ở Bờ Hồ, cứ quãng quãng lại bắt gặp một chút tím bâng lâng xao xuyến, hòa sắc vào màu hoa phượng quá nóng bức, rất hợp với tuổi học trò. Thực ra phải gọi loài hoa đỏ màu xôi gấc này là hoa soan tây mới đúng, để phân biệt với loài kim phượng, cây nhỏ hơn, hoa cũng thắm hơn. ôi, thói quen, thay đổi một cách gọi, cách nói, đâu có dễ. Bàng lang nước quen mọc thẳng. Còn soan tây nhiều khi lại cứ thò cả những ngón tay lá xuống mặt nước mà đùa chơi, những chiếc lá xanh như cốm mà nhỏ như cốm. Trước đó, cuối xuân, lác đác đâu đó, màu hoa vàng của cây vàng anh cũng rộ lên, từng chùm, trong khi lá cũng từng chùm dày đặc và mỗi chiều về lá vàng anh cũng biết khép mắt đi vào giấc ngủ. Phải chăng Hà Nội tài hoa nên cây bên Hồ Gươm cũng tài hoa như thế, khoe nhiều màu sắc đậm nhạt, thấp cao, như thế? Có ai bâng khuâng trước một cây cọ cao vút nhưng đã cụt ngọn. Cây đang thành một Từ Hải chết đứng, ai là người xót xa, gửi cho nó một cái hôn gió não nùng như tiễn biệt một người bạn ra đi không bao giờ trở lại? Bờ Hồ ngoài cây cọ chết; đã chặt đi ấy, còn 11 cây cọ đang sống và một cây cũng mới chết. Chúng thường đứng cạnh mép nước, chen vai vào trời xanh, thân thẳng vút, không tốn đất, cũng không chen cành chen lá với ai. Chúng là người quân tử chăng, mặc cho gièm pha, níu áo. Cứ theo mình, chỉ nghe mình. Phía bờ tây có loài cây tên xấu nhưng dáng đẹp. Cây dái ngựa, nhiều người muốn thanh lịch, đọc chệch đi là trái ngựa. Cây cho một thứ quả giống như thế, màu như quả hồng xiêm. Lá cây xanh óng, thân nứt nẻ, gần giống như cây sao đen phố Lò Đúc. Không hiểu nó thay lá chính xác vào mùa nào mà hình như thường xanh. Lộc nõn mỏng như lụa, đỏ như lá bàng lang, khi già mới chuyển thành xanh. Cây muồng vàng thưa thớt chỗ này, chỗ khác. Màu hoa vàng chanh, vàng hoa mướp, nhỏ mà rực rỡ trong nắng, trên ngọn lá một sắc xanh rờn. Mấy năm trước, trước cửa rạp chiếu bóng Hòa Bình còn có một cây muồng đào. Mùa xuân hoa nở màu đào màu đỏ, chen cả chút trắng trinh bạch. Hoa từng chùm gióng như quả cà phê chín chưa kịp hái. Tiếc, cây muồng đào này đã biến mất. Nay đứng từ rạp Múa Rối, không còn nhìn thấy nó nữa. Chỗ gần Đài phun nước, có một cây đề độc nhất, cũng đã gần trăm tuổi. Kiếm một người thích ăn thịt chó khá dễ. Nhưng tìm một người yêu mến và đồng cảm với các loài cây không dễ chút nào. Bờ Hồ chỉ có một cây muồng đào như thế. Nó chết đi, vắng cả nỗi lòng. Chỗ bến xe điện, nay là nơi trông giữ ôtô, hàng cây mới trồng nhiều loại: sa mu, tếch... sao nó còi cọc, mãi không lớn lên được. Vì hơi xăng, hơi ma dút chăng? Không biết. Giống như mấy cây chà là (không phải loại cây chà là ả Rập cho quả ngọt) lá nhọn như kim, có thể đâm chảy máu đầu ngón tay, và rặng phi lao bị xén cụt ngọn, để che cho cái nhà "cần thiết" kia, cũng không lớn được. Con đường đôi ở bờ phía tây, là việc làm còn lại của dược sĩ Thẩm Hoàng Tín khi ông này làm Thị trưởng Hà Nội, chủ yếu là loài cây sấu, cũng là một con đường đẹp hiện nay làm Hồ Gươm ở chỗ này được thư dãn chút ít. Thử tưởng tượng nếu Bờ Hồ không có cây, hoặc qua một đêm, có ai đó điên rồ, chặt hết cây đi (ấy là nói dại như thế) thì Bờ Hồ sẽ ra sao? Nó có giống như một bà hoàng hậu xiêm y lộng lẫy, đủ lệ bộ mà lại có cái đầu trọc lốc?? Nó có giống như cô gái thi hoa hậu, mà lại có mỗi một con mắt nằm dọc trên trán? Thật không thể tưởng tượng được, như vậy càng thấy cây đã đóng vai trò quan trọng như thế nào, nhất là xung quanh Bờ Hồ Gươm. Vài năm nay, Bờ Hồ luôn được tu bổ, còn có cây trong chậu, từng khóm dặt trong khung gỗ, thay đổi chỗ, và thay cây luôn cho tươi là việc làm tốt, trong đó có các loại hoa, có cây đa lá đỏ, cây cò tòng (tức đuôi lươn), cau châu Phi, cọ non v.v... Cũng khen một bồn cây mới có núi non, những phiến đá lũa do thợ trời phải tạc bằng mưa gió triệu năm, đặt một cách mất trật tự cố ý, cho hài hòa với cây vạn tuế cao thấp non già khác nhau. Đẹp. Quanh hồ, chỉ tiếc ít loài cây tỏa hương, trừ hoa sữa và mấy khóm dạ lan hương bên vườn Chí Linh. Có thể tôi kể chưa hết những loài cây quanh Hồ Gươm.
    Khó mà thống kê chính xác, vì có thể có cây đổ do mưa, có cây được trồng mới hôm nào... Biến thiên là lẽ thường tình. Quan trọng là có nó và có người hiểu nó, yêu nó. Cây gạo, cây đa, cây ôi, cây sung, cây vông, cây tếch, cây sấu, cây lộc vừng, cây mõ, cây xoan tây, cây bàng lang nước, cây trái ngựa, cây cọ, cây sữa, cây liễu, cây vàng anh, cây muồng đào, muồng vàng, cây chà là, cây phi lao, cây cơm nguội, cây bàng, cây sa mu, cây hoa ban, cây muỗm, cây vạn tuế, cây trắc bách diệp, cây râm bụt, cây nhội... Tôi không thể chính xác và cũng không muốn chính xác như một cái máy vi tính. Cây quanh hồ đã sống cho Hà Nội, đã sống trong lòng nhiều người Hà Nội, trong lòng tôi, và mong sao, có người cũng yêu Hà Nội, yêu cây quanh hồ như thế.
    9-1994
    EBDBDBD - "That's all, folks"
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này