1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những ngày hạnh phúc, NGUYỄN THỊ CHÂU GIANG

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi julie06, 29/01/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. julie06

    julie06 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/05/2003
    Bài viết:
    937
    Đã được thích:
    0
    Những ngày hạnh phúc, NGUYỄN THỊ CHÂU GIANG

    Nhà nghèo, lại đông con nên Tết đến thật đơn giản. Một vài cái bông vạn thọ cắm trên bàn, bánh chưng nhỏ bằng bàn tay và một nồi thịt hột vịt muối kho tàu ăn trọn ba ngày Tết. Nhưng thật sự vui và đầm ấm. Nhất là vào đêm giao thừa, ba tôi treo trên cây ổi trước nhà một phong pháo dài độ hai gang tay, đợi đến mười hai giờ sẽ cho hai anh em sinh đôi Thiên Tam, Thiên Tứ cầm nhang đốt. Đó là một việc làm rất đơn giản nhưng đã làm hai anh hồi hộp suốt từ buổi trưa. Khi viên pháo cuối cùng đã nổ tan xác, chúng tôi vào nhà và ngồi quây quanh bàn theo thứ tự. Đầu tiên là chị hai Thiên Khuê, đến hai anh Thiên Tam, Thiên Tứ, đến tôi - Thiên Tuệ - và sau cùng là cậu út Thiên Vi đang ngủ gà ngủ gật trong lòng mẹ. Ba tôi móc túi rút ra những phong bao mầu đỏ phát cho từng đứa, vừa cười vừa bảo: "Năm mới, các con thêm một tuổi phải ngoan và giúp mẹ nhiều hơn nữa nhé". Chúng tôi sướng lắm vì có được bao lì xì mầu đỏ, nên ba bảo gì cũng cứ dạ rân lên. Để ngay lập tức qua ngày hôm sau, hai anh Thiên Tam, Thiên Tứ u đầu sứt trán vì trèo cây và chị Thiên Khuê với tôi đi chơi với bọn bạn tối mịt mới về. Mọi việc trong nhà đều do một tay mẹ xoay xỏa.

    Thông thường khoảng một giờ sáng chúng tôi mới bắt đầu lên giường ngủ. Tôi và chị Khuê ngủ chung trên chiếc giường nhỏ, nằm hơi chếch với cửa buồng. Tôi nằm ngoài nên có lần thức dậy sau giấc ngủ dài vẫn thấy ba ngồi cặm cụi bên bàn viết. Đó giống như là một thói quen của ông sau đêm giao thừa, ngồi viết những chữ loằng ngoằng bằng mực Tàu trên giấy đỏ hoặc vẽ những con thú biểu trưng cho năm mới trên giấy lụa bồi để sáng mồng một treo lên bàn thờ. Cái hình ảnh đó tươi đẹp đến nỗi rất nhiều năm sau, nhắm mắt lại tôi vẫn thấy nó còn mới mẻ như mới xảy ra ngày hôm qua. Mùi hương từ những bông vạn thọ và nhang trầm phảng phất, ánh đèn vàng và những tờ giấy mầu đỏ bay phơ phất dưới cánh quạt trần...

    Tất cả những điều đó bây giờ đã thành kỷ niệm. Đã có một cuộc sống mới tràn vào ngôi nhà bé nhỏ này, thay đổi những điều tưởng chừng như đã trở thành vĩnh cửu.

    Ngôi nhà ẩm mốc có những cánh cửa sổ sơn xanh bỗng trở nên rộng thênh thang khi chỉ còn lại mình tôi và mẹ. Ba mất năm tôi lên mười lăm tuổi. Đó là khoảng thời gian dài nhất trong đời người. Nó làm tóc mẹ bạc trắng chỉ sau một đêm nhưng đã làm chúng tôi trưởng thành lên rất nhiều.

    Chị hai Thiên Khuê lấy chồng Việt kiều, sống xa quê hương vậy mà đã tròn bảy năm. Bảy năm đó chưa một lần nào chị về thăm lại nhà, ngoài những lá thư tràn ngập niềm vui và những gói quà đóng trong những hộp các tông đến từ San José. Hai anh Thiên Tam, Thiên Tứ đi làm ăn xa, thi thoảng lắm mới có tin về nhà bằng những mảnh giấy nhàu nhỏ còn dính mùi dầu nhớt. Nghe đâu họ mở một tiệm làm sắt, nhưng cũng không cạnh tranh nổi với các cửa tiệm lớn và tân tiến, nên khách đến đặt hàng thưa thớt. Trong nhà chỉ còn lại duy nhất em trai Thiên Vi học lên đại học. Mẹ tôi lo đóng tiền cho em bằng cách bán những mớ quà chị Khuê gửi về. Cứ độ khoảng ba thùng các tông là lo đủ cho em nửa năm học phí.

    Thỉnh thoảng mẹ lại vuốt tóc tôi an ủi: "Con gái út ít tội nghiệp của mẹ, chỉ có con là còn ở với mẹ. Mai này cái nhà này là dành cho con. Con có lấy chồng ở đâu thì cũng về đây mà ở, để còn lo khói hương cho ông bà tổ tiên nghen con". Tôi biết tôi sẽ vâng lời mẹ, vì tôi là một đứa con gái ngoan và hiền, nhưng tận trong sâu thẳm lòng mình, tôi vẫn mơ hồ cảm thấy một nỗi buồn. Ngày ngày, sau khi dọn dẹp nhà cửa, quét dọn vườn tược xong, tôi lại trèo lên một cành ổi cao nhất, vâm váp nhất nhìn ra đường lộ. Đó là lúc tôi thấy rõ nỗi buồn của tôi nhất.

    Mùa Tết lại về. Năm sau là năm Thân, là năm tuổi của tôi. Mẹ bảo, tuổi Thân thì mặc tuổi Thân, sinh phải giờ Dần thì vẫn làm quan. Tôi tuổi Thân, sinh giờ Dần, chắc chắn sẽ sướng. Nhưng sướng thế nào mẹ không nói được. Mẹ chỉ dặn, sang năm tôi phải cẩn trọng trong mọi việc. Năm tuổi, những điều không tốt hay vận vào mình. Giao thừa, mẹ sẽ cho tôi một cái bùa đeo tay để thoát khỏi mọi điều xui rủi. Với mẹ, tôi lúc nào cũng như một đứa bé gái còn rất ngây thơ.

    Anh Phiên chạy xe đạp ngang qua nhà tôi, bấm chuông kính coong. Tôi chạy ra bảo: "Anh Phiên, đi chơi với bồ à? Vô nhà em uống nước chơi". Anh Phiên luống cuống dừng xe lại, mặt mũi đỏ bừng lên nom đến tội. Anh Phiên là bạn của hai anh Thiên Tam, Thiên Tứ. Anh làm việc cho phòng văn hóa thông tin xã. Một vài lần anh có đưa cho tôi xem những bài thơ của anh đăng trên báo. Đó là những bài thơ tình khá cảm động. Nhưng không hiểu sao nhân vật con trai xưng tôi đó luôn luôn bị thất tình. Hỏi thì anh ngượng nghịu bảo, mình sao thì thơ nó làm vậy.

    À, vậy là anh hay bị thất tình. Tôi không hiểu người như anh làm sao thất tình được. Kiểu người như anh, bọn con gái choai choai như tôi chạy theo hà rầm. Anh cao một mét bảy mươi, người lúc nào cũng đứng thẳng tắp, lúc nào cũng mặc quần tây áo sơ mi bảnh tỏng, tóc lúc nào cũng chẻ ngôi giữa để lộ vầng trán phẳng và rộng và lúc nào cũng hiền lành. Mỗi lần tôi giận dỗi hay chọc tức gì anh là mặt anh lại đỏ lên, luống cuống không nói ra lời. Từ ngày hai anh Thiên Tam, Thiên Tứ đi làm ăn xa, anh cũng năng lại nhà tôi hơn. Nhưng bẵng đi một dạo, anh không lui tới nữa. Gặp tôi ngoài đường chỉ chào hỏi qua loa, mặt đỏ lựng lên rồi nhấn pê-đan đạp mải miết.

    Chúng tôi bắc ghế ngồi ngoài sân, dưới những cành ổi đang nhú ra những quả non xanh biếc. Không khí thơm mùi đất ẩm và mùi gỗ mục. Anh Phiên hít một hơi thật sâu bảo:

    - Ổi nhà mình năm nay được mùa ghê nhỉ?

    - Dà. Đợi chín chắc cũng bán được ít tiền anh ạ.

    - Thế nhà mình đã ngắt lá mai chưa?

    - Dạ chưa. Em đang đợi Thiên Vi về, ngắt vẫn còn kịp. Chứ em bắc ghế, cũng chỉ với tới cành thấp nhất thôi.

    - Ờ, tại nó cao quá mà.- Anh cười khẽ - Nếu Thiên Vi về không kịp, em cứ nhắn anh qua, anh ngắt giùm cho. Đừng ngại.

    Nghe anh nói thế tôi liền nhớ lại những lần gặp nhau ngoài đường, anh cứ vội vội vàng vàng lủi đi làm tôi tức quá. Tôi nói hờn:

    - Nhưng anh bận lắm mà. Đến chào hỏi em anh còn không có thời giờ chớ nói chi đến chuyện ngắt lá mai.

    Anh Phiên ấp úng gì đó trong miệng rồi đánh trống lảng:

    - Tết này anh chị em về chơi không?

    - Chắc là không. Em đâu có nhận được tin gì của họ. Vậy đó, mấy người đó đã đi là đi mút chỉ luôn, chẳng vương vấn gia đình chút nào đâu anh ơi. - Lạ nhỉ, họ đâu phải người bạc nghĩa vậy đâu. Chắc là do hoàn cảnh khó khăn.

    - Anh Thiên Tam, Thiên Tứ em không nói. Chớ chị Hai bên đó chắc chắn là sướng rồi.

    - Ồi, mình bên này đâu biết bên kia họ sướng khổ sao hả em.

    Chúng tôi ngồi một lát thì anh Phiên có việc phải đi. Ra đến cổng, tôi thấy mặt anh lại đỏ lên nên biết chắc anh đang có gì khó nói đây. Tôi gặng:

    - Còn gì nữa không anh?

    - Thiên Tuệ nè, cúng giao thừa xong em làm gì?

    - Như mọi năm thôi. Em sẽ vẽ một con khỉ để sớm mồng một treo lên bàn thờ. Rồi đi ngủ.

    - Anh muốn rủ em đi chùa hái lộc. Em đi được không?

    Tôi vừa bất ngờ vừa sung sướng. Lần đầu tiên có một người con trai rủ tôi đi hái lộc vào đêm ba mươi. Chỉ có những đôi lứa yêu nhau mới dắt nhau đi hái lộc đầu năm như vậy. Hay anh ấy... Tôi không dám nghĩ tiếp nên chỉ bảo:

    - Dạ, để em xin phép mẹ.

    Anh Phiên đi rồi mà tôi vẫn thấy bồi hồi. Thốt nhiên tôi nghĩ, anh Phiên chỉ tội nghiệp tôi. Anh đang thay vai trò của anh Thiên Tam, Thiên Tứ chăm sóc đứa em gái nhỏ đáng thương. Chắc trước khi đi, hai anh đã dặn dò anh Phiên làm thế. Nhiều mùa Tết qua, năm nay anh ấy mới sực nhớ đến nghĩa vụ của mình. Ý nghĩ này làm tôi thấy bình tĩnh hơn. Nhưng nỗi trống trải và cái buồn vô cớ lại ùa vào lòng.
  2. julie06

    julie06 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/05/2003
    Bài viết:
    937
    Đã được thích:
    0
    Ngày hai tám Tết, tôi và mẹ ngồi gói bánh chưng. Tôi ngồi lau lá dong còn mẹ xát đỗ, vo nếp. Mấy năm gần đây gia đình tôi đã có của ăn của để nhờ những gói hàng của chị Khuê gửi về, nên Tết nào mẹ cũng gói rất nhiều bánh chưng, làm mứt, gói giò thủ. Mẹ bảo để nhỡ anh chị tôi có về thì còn có cái mà ăn. Nhưng mấy mùa Tết qua nào có ai về đâu. Vậy mà Tết này mẹ vẫn gói nhiều bánh chưng mặc lưng mẹ đau từ suốt mấy bữa qua. Kiểu này chỉ có Thiên Vi là lời nhất. Sau Tết nó lại có thực phẩm để gồng gánh lên ký túc xá.
    Tôi gò lưng lau hết lá này đến lá khác, cho đến khi mẹ bảo "Được rồi con" tôi mới dừng lại. Tôi phụ mẹ đổ nếp vô khuôn. Phần bỏ nhân và cột lạt mẹ không cho tôi đụng vào. Mẹ bảo, khâu cuối này quan trọng nhất. Gói lỏng tay bánh sẽ nhão mà chặt tay quá bánh sẽ nứt. Coi cách mẹ chăm chút từng chiếc bánh, tôi biết mẹ trông ngóng anh chị về lắm.
    Buổi chiều bánh đã gói xong xếp đầy trên hai cái nong. Anh Phiên ghé qua nhà tôi, từ ngoài cổng đã nghe tiếng sên xe lạch cạch. Hôm nay anh bận áo thun cổ tròn, quần jean xanh nom rất lạ. Ngó anh phải trẻ ra chừng mấy tuổi. Bắt gặp ánh mắt ngạc nhiên của tôi, mặt anh Phiên lại đỏ lựng. Anh hỏi:
    - Bác có nhà không Tuệ?
    - Ở trỏng đó.- Tôi hơi thất vọng vì thấy anh chỉ nhắc đến mẹ.
    Trời đã hơi nhập nhoạng tối nên tôi phải bật đèn. Mẹ nhắc: "Lấy nước mời anh đi con". Anh Phiên xua tay: "Dạ thôi khỏi bác, con tới thăm bác chút thôi. Con có chút quà biếu bác". Anh đặt lên bàn hai gói trà sen bọc giấy đỏ rất đẹp: "Đêm giao thừa bác nhớ pha chén trà mời bác trai giùm con nghe bác". Mẹ mủm mỉm cười: "Cái thằng này chu đáo ghê. Ai có phước mới nhận được con làm rể đó Phiên". Mẹ đặt cặp trà lên bàn thờ rồi quay sang hỏi anh: "Đã có đám nào chưa con?". Tim tôi bỗng nhiên thót lên một cái. Hai bàn tay vặn vẹo vào nhau lúc nào không biết. Tôi chỉ cảm thấy dễ thở lại khi nghe anh nói: "Dạ chưa bác. Con vầy ai mà ham bác ơi".
    Tôi đưa anh ra cổng. Bóng tối len lỏi trên những tàn cây đẫm nước. Cơn mưa trái mùa hồi trưa đã gột rửa sạch sẽ những bụi bẩn bám trên lá lâu ngày. Không khí mát rười rượi. Anh Phiên ngồi lên xe đạp, bảo:
    - Nhớ nghen Tuệ.
    - Nhớ gì kia?- Tôi ngơ ngác.
    Sau giao thừa anh qua đón em đi chùa.
    Chưa kịp đợi tôi trả lời, anh đã phóng xe chạy mất.
    Chúng tôi đợi đến mười hai giờ kém năm phút thì thấy thất vọng quá. Vậy là cả năm nay nữa, chị Thiên Khuê, hai anh Thiên Tam, Thiên Tứ cũng không về. Mẹ ngồi bần thần bên cửa, cố nén tiếng thở dài. Tôi biết mẹ buồn lắm nhưng mẹ không dám giận, dám trách. Thiên Tam, Thiên Tứ là con trai, một bước đi không vấn vương quay đầu trở lại mới mong làm việc lớn. Còn chị Khuê, đâu phải chị không nhớ tới chúng tôi. Chị vẫn gửi quà về đều đặn và chúng tôi đã sống trên những gói hàng đó hằng bao năm trời. Hẳn phải có một lý do nào đó mới khiến chị không về thăm chúng tôi.
    Giao thừa lại lặng lẽ trôi qua. Mẹ và Thiên Vi đã đi ngủ. Mùi nhang trầm bay phảng phất. Tôi lấy giấy mầu, bút mực Tàu ra vẽ. Mẹ thường bảo trong mấy chị em, tôi vậy mà lại giống ba nhất. Giống dáng người, nét mặt đến tính cách. Có cái gì đó hoài cổ ở trong tôi. Như lúc này đây, trong ánh đèn vàng mơ hồ và tịch mịch, khi tôi làm tiếp công việc của ba để lại, tôi thấy nhớ người da diết. Những ký ức tuổi thơ lại trở về. Tôi lại hỏi mình, nếu tôi cũng đang ở bên trời Tây như chị, tôi có còn sự lưu luyến như thế này không?
    Con khỉ vừa vẽ xong thì có tiếng gõ cửa. Tôi mới sực nhớ khuya nay có hẹn với anh Phiên. Tôi vừa thò đầu ra thì anh Phiên hỏi:
    - Đi được không Tuệ?
    - Dạ được chớ. Anh đợi em chút, em sắp lại giấy mầu đã.
    Nhưng kỳ thực là tôi chạy vô soi gương. Tôi lấy thêm chút dầu dừa quết lên tóc cho mượt. Lần đầu tiên trong đời tôi vụng về thoa một chút son lên môi.
    Anh nhấn bàn đạp. Chiếc xe lắc lư rồi từ từ bon trên đường làng. Tiếng gió thổi vun vút qua tai. Anh quay lại dặn:
    - Em cẩn thận coi chừng té. Bám anh chắc vào.
    Tôi dạ khẽ rồi đưa tay túm chặt áo anh. Thỉnh thoảng gặp phải đoạn đường xấu, xe nẩy tưng tưng làm tay tôi chạm phải hông của anh. Người tôi gai lên. Tim đập dồn dập. Xung quanh tôi vang lên những tiếng cười nói âm i. Những ông bà già, những cặp tình nhân cũng đi hái lộc đầu xuân, cầu ước gia đình thuận hòa yên ấm, cháu con đề huề và đôi lứa sẽ bên nhau bền lâu. Còn tôi, tôi sẽ ước gì đây?
    Đến nơi, chùa đã đông nghẹt người. Chắc chắn không lọt được vào trong sân, mà có khi cũng chẳng còn lộc non nào để hái. Chúng tôi đứng trù trừ một lúc thì anh Phiên nản:
    - Thôi vậy. Mình không hái lộc ở chùa được thì ra chỗ khác hái vậy.
    Chúng tôi chở nhau về. Ngang qua hàng khuynh diệp, anh Phiên bảo:
    - Mình xuống đây hái chút lộc chơi.
    Đêm không trăng nhưng vẫn có một thứ ánh sáng mờ ảo và thơm ngát lan tỏa khắp nơi. Chân chúng tôi đạp lên cỏ lụp thụp. Chúng tôi ngồi nghỉ bên một đống rơm khô và im lặng rất lâu. Cuối cùng anh Phiên hỏi, vẻ rất khó khăn:
    - Chị Thiên Khuê dạo này sao rồi Tuệ?
    - Chị ấy vẫn vui, khỏe. Đã có hai nhóc rồi đó anh.
    - À. Chị ấy có hạnh phúc không?
    - Em không biết. Nhưng chắc là có, vì thơ chị gửi về lúc nào cũng vui. Chỉ hỏi thăm anh nữa đó.
    Không thấy anh trả lời. Tôi quay sang, thấy anh đang nghĩ gì lung lắm. Đột nhiên anh đứng phắt dậy, bảo:
    - Mình về thôi Tuệ.
    Tôi líu ríu đi theo anh. Mùi lá khuynh diệp làm tôi khó chịu quá, nên mắt và mũi cứ cay xè.
    Tới cổng nhà, chúng tôi chia tay nhau mà không nói với nhau câu nào. Tôi nán lại thêm một chút, hy vọng anh sẽ quay lại, nói một điều gì đó với tôi, như chúc mừng tôi năm mới hạnh phúc chẳng hạn. Tôi đợi luống chừng mươi phút thì anh quay lại thật. Anh luống cuống xuống xe, luống cuống cầm tay tôi, giọng bỗng khàn đi:
    - Tuệ, anh muốn nói là anh...
    Tôi gật gật đầu. Tôi biết mặt anh giờ chắc phải đỏ hơn cả gấc chín nên chẳng cần anh nói hết tôi vẫn hiểu. Tôi gật gật đầu, siết nhẹ tay anh. Đêm đó, phải hơn bốn giờ sáng tôi mới ngủ được. Một giấc ngủ thật êm đềm.
    Tôi thức dậy vì nắng rọi thẳng vô mặt và vì những tiếng ồn ã ngoài phòng khách. Vừa thấy tôi lấp ló ở cửa buồng, Thiên Vi đã hét toáng lên:
    - Chị Năm, coi ai về nè?
    Chỉ nghe nó hỏi vậy là tôi đã biết liền. Tôi chạy ào ra, sững sờ. Ngồi quây quanh mẹ có hai anh Thiên Tam, Thiên Tứ, lại có cả chị Thiên Khuê nữa. Tôi lắc mạnh đầu, không tin ở mắt mình. Cho đến khi anh Thiên Tam lại gần, vỗ đầu tôi bồm bộp như hồi tôi còn con nít và bảo: "Cha, con bé này giờ ra dáng quá ta" tôi mới tin tất cả những điều này là sự thực.
    Chị Khuê đang dụi đầu vô vai mẹ, nghe tiếng tôi vội ngẩng lên. Chị lại gần, đưa tay sửa cổ áo và vuốt lại tóc tôi cho thẳng thớm. Những cử chỉ âu yếm đó vẫn hệt như ngày xưa, khi chị thay mẹ chăm sóc cho tôi. Khuôn mặt, dáng người chị có đẫy lên nhưng vẫn thanh tao nhẹ nhõm. Chỉ có đôi tay là khác. Những đầu ngón tay nhăn nhúm, đỏ hồng như bị lột da. Thấy tôi ngó chăm chăm vào chúng, chị rụt tay lại, cười: "Bên đó đang lạnh lắm. Chị bị dị ứng thời tiết" (Về sau tôi mới biết bên đó chị đi làm móng tay, ngâm nước từ sáng sớm đến tối mịt bất kể trời nóng hay lạnh. Thuốc và nước đã hủy hoại da tay chị). Anh Thiên Tứ cũng đứng dậy hỏi: "Lớn bằng vầy rồi, lúc nào mới cho anh chị ăn kẹo đây? Không thích con trai ở đây thì anh giới thiệu cho một cậu ở thành phố, ga-lăng khỏi chê" và cười ầm ĩ khi thấy tôi đỏ mặt. Anh lúc nào cũng thế, chỉ thích chọc tôi cho đến khi tôi phát khóc mới thôi.
    Tôi hỏi: "Sao hay vậy, bộ anh chị có hẹn sao mà về nhà cùng lúc vậy? Sao không báo cho tụi này một tiếng?". Chị Khuê cười: "Thiên Tam, Thiên Tứ muốn gây bất ngờ cho cả nhà. Chị định về từ hôm hai chín Tết kìa, nhưng trễ máy bay. Chị hẹn gặp Thiên Tam, Thiên Tứ rồi mấy chị em kéo về một lúc luôn". Mẹ mê mải nhìn các anh chị, miệng lẩm bẩm liên hồi: "Cha bây, làm mẹ đứng cả tim. Làm mẹ đứng cả tim...".
    Lâu lắm rồi tôi mới thấy mẹ có một ngày vui như thế. Mẹ như trẻ ra, mắt môi rạng rỡ. Mẹ bảo các con cứ nói chuyện với nhau, để mẹ đi làm bếp. Nhưng tay mẹ cứ run lập cập vì mừng quá, đụng vào đâu đổ đấy. Tôi và chị Thiên Khuê xuống bếp, thấy nước mắt mẹ chảy ròng ròng. Chị Khuê ôm choàng lấy mẹ, cũng thút thít khóc. Lúc mẹ mang thức ăn lên phòng khách, chỉ còn lại tôi, chị bảo: "Tội nghiệp mẹ, nhưng bên đó kinh tế của chị cũng khó khăn lắm em ạ. Anh rể thất nghiệp, một mình chị xoay xỏa nuôi gia đình. Chị không thể về hàng năm được. Em giấu, đừng cho mẹ biết nhé". Tôi lặng nhìn khuôn mặt thân yêu của chị. Lúc này tôi mới biết chị không còn trẻ nữa. Những vết chân chim đã chạy lăn tăn dưới mắt chị.
    Cơm dọn xong, hai anh Thiên Tam, Thiên Tứ ở đâu chạy về. Anh rủ cả anh Phiên tới chơi. Vừa bước vô nhà, có lẽ không được báo trước nên vừa nhìn thấy chị Khuê, anh Phiên đứng sững lại. Mặt anh không đỏ mà tái đi. Tôi thấy rất rõ cái nhìn thảng thốt của anh hướng về phía chị. Chị Khuê tuồng như không biết, đon đả chào: "A, cậu Phiên. Lâu quá rồi không gặp, coi bộ cậu chững chạc ra nhiều. Cậu đã cưới vợ chưa?". Anh Phiên ngượng nghịu đáp: "Dạ chưa. Chị Khuê về lần này lâu không? Sao không dẫn anh và hai cháu về chơi?". "Ôi, ảnh bận lắm cậu ơi. Còn sắp nhỏ, chúng bận học...". Anh Thiên Tam kéo ghế mời ngồi nhưng anh Phiên từ chối. Anh viện lý do trưa nay nhà có khách phải về tiếp. Tôi đưa anh ra cổng, còn nghe tiếng anh Thiên Tứ thắc mắc: "Cái thằng lạ. Vừa bảo trưa nay rảnh có thể ngồi nhậu với bọn mình đến tận chiều. Giờ lại có khách là sao?".
    Chúng tôi đi qua vườn. Tiếng một con chim kêu lảnh lót đâu đó sau những tán ổi rậm rạp. Tôi muốn hỏi anh đã có chuyện gì xảy ra thế nhưng cổ họng nghẹn lại. Anh Phiên bảo: "Chị ấy chẳng thay đổi gì cả". Tôi cũng bảo, giọng chua chát: "Dạ, chị ấy vẫn xinh đẹp như xưa". Anh quay sang nhìn tôi, nắm tay tôi và dịu dàng lau giọt nước mắt vừa từ mắt tôi rơi xuống, bảo khẽ: "Nhưng mọi chuyện đã là quá khứ rồi, Tuệ ạ".
    Khi tôi quay trở lại, mọi người đã ngồi vào bàn. Chị hai Thiên Khuê, hai anh em sinh đôi Thiên Tam, Thiên Tứ, một ghế trống dành cho tôi rồi đến em út Thiên Vi. Tất cả mọi điều diễn ra giống hệt như ngày xưa. Chỉ còn thiếu vắng mình ba. Nhưng thật ra không phải thế. Ba vẫn ở bên chúng tôi, hằng ngày hằng giờ. Như phút giây này đây, sau làn khói nhang nghi ngút, người đang nhìn chúng tôi mỉm cười. Một nụ cười đẹp nhất, ấm áp nhất mà tôi có được trên cõi đời này.
    o0o
  3. ISA

    ISA Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/12/2002
    Bài viết:
    97
    Đã được thích:
    0
    Bay Qua Thời Gian
    Tác giả: Nguyễn Thị Châu Giang
    " Xin trả về cho nhau những dấu yêu cuối cùng. Vì thời gian trôi mau không giữ được tình ta. Dù lòng còn yêu nhau đã nói yêu mãi hoài..."
    Buổi chiều xuống rất nhanh. Chúng được báo hiệu bằng vạt mây đỏ sẫm cuối trời. Chen chúc xung quanh là những tảng mây lớn nặng nề màu hạt dẻ, trên đó bám theo những vẩy mây trắng như những cụm lông cừu nhỏ. Không nghe được tiếng chim kêu. Chỉ nhìn thấy những cái bóng bé nhỏ của đàn chim chậm rãi bay về phương Nam. Bây giờ rõ hơn một chút, phía dưới kia những ngọn cây nhọn hoắt bắt đầu ngả sang nâu đen, những con sông sáng ánh thiếc, những tòa nhà cao tầng như những bệt màu trắng sổ mạnh trên cái nền lờ nhờ xám của bóng tối đang dần phủ xuống thành phố.
    Máy bay sắp hạ cánh. Tiếng máy bay ầm ì nhọc mệt đè nặng lên trái tim tôi một cảm giác bất an và lo lắng. Tôi tưởng tượng ra một sân bay mênh mông đông nghẹt người. Những người to cao, tóc vàng mắt xanh. Những người không nói cùng ngôn ngữ. Những người xa lạ. Chắc chắn họ sẽ không để ý đến tôi. ( Thật khủng khiếp là họ sẽ không để ý đến tôi). Điều đó càng mang lại cảm giác cô độc ghê gớm giữa thế giới to rộng này.Rồi người ra đón tôi và tôi sẽ lạc vào trong đó mà không tìm được ra nhau. Tôi sẽ làm gì nếu chúng tôi không gặp nhau.
    Ở cuối chân cầu thang máy bay, cô gái trẻ có mái tóc hung đỏ đi cùng chuyến với tôi đã gặp được người yêu- một anh chàng nhỏ nhắn đeo khuyên ở mũi và tóc nhuộm một chút đỏ ở mái như một cái mào Vẹt. Họ ôm nhau, hôn nhau say đắm. Tôi đi ngang qua, len lén nhìn họ. Vô tình lúc ấy tôi trông thấy cô khóc. Nước mắt không chảy thành dòng mà viên lại thành từng giọt to, đục. Những giọt nước mắt của cô, mùi hương lài có lẽ tỏa ra từ những nếp váy nhàu nhò của cô làm tôi cảm động. Tôi liền vẽ ra trong đầu mình một câu chuyện tình lâm li bi đát. Tất nhiên không phải cứ gặp nhau, ôm nhau, hôn nhau và khóc là những tình tiết của một câu chuyện buồn. Nhưng rõ ràng bất cứ giọt nước mắt nào trong hoàn cảnh này cũng dễ dàng gợi lên sự thương cảm và sầu nhớ. Trong tình trạng hiện thời của tôi, không gì hay hơn là tưởng tượng ra một câu chuyện như thế. Bởi ngay lúc đó tôi thật sự muốn mình được khóc.
    Phòng nhận hành lý, trần thấp lè tè và tăm tối. Những chiếc bánh xe lăn kêu kót két. Hành lý đổ xuống băng chuyền ồn ĩ. Bỗng nhiên ánh sáng từ trên cao, qua những lỗ hổng trên tường, đồng loạt ào xuống. Trong ánh sáng xanh nhợt nhạt đó, tôi nhìn thấy một người đàn ông to lớn, tóc bạc, mặc áo sơ mi trắng, đeo một chiếc xà cột bằng da nâu cứng. Trên tay ông cầm một tờ giấy ghi nguệch ngoạc hai chữ " Miss Giang" và trên ngực áo đeo một tấm bảng nhỏ đề tên của ông " Robert Palmer- người dẫn đường". Chúng tôi bắt tay nhau. Bàn tay ông mập mạp và ấm áp. Đôi mắt ông ánh lên những tia lửa nhỏ màu vàng. Từ chiếc áo khoác cũ kĩ dài chấm đầu gối của ông phả ra mùi bánh mì ủ lâu ngày lên men và mùi rượu hoa quả.
    Ông đến từ New York, một thành phố ồn ào, náo nhiệt và hiện đại nhất của nước Mỹ rộng lớn. Nhưng ông hoàn toàn không cho ta cái vẻ gì là một người đã từng sinh ra, lớn lên và trải qua mấy mươi năm cuộc đời ở nơi đo,ù ngoại trừ sự nhanh nhẹn và năng động ít khi thấy có ở một ông già. Ông chỉ đi duy nhất một đôi giày to bằng da đen sờn vàmặc chiếc áo choàng cũ ngả vàng mỗi khi trời trở rét. Mỗi khi áp mặt vào tấm áo choàng, như lần đầu gặp ông ở sân bay, thoảng nghe mùi hương bánh mì và rượu quả lên chua từ chiếc áo, thậm chí từ đôi bàn tay khô nhám của ông, tôi lại tự hỏi sao mà nó quen thuộc và ấm áp. Có lẽ vì nó luôn thường xuyên gợi lại trong trí tôi những hình ảnh thân thương của ông tôi và ba tôi, trong những căn phòng tối thơm mùi mì nấu cải xanh.
    Tôi thường nghĩ về nước Mỹ qua ông. Trong cái cách đi bộ hối hả, sải chân bước dài đến cả mét, đầu chúi về trước, tay giữ chặt chiếc xà cột để nó không đập bồm bộp vào đùi. Trong cách ông luôn chọn những quán hàng ăn rẻ tiền nhất và sục sạo vào những cửa hiệu bán các đồ lặt vặt tuồng như đã tồn tại cả hàng trăm năm. Trong cách ông cười tươi tỉnh với tôi vào buổi sớm mai và dáng ngồi cô độc của ông trên ghế đá ngoài bờ sông Iowa.
    Bằng cách đó tôi đã hiểu rằng nước Mỹ không phải là thiên đường. Đằng sau bộ mặt xinh đẹp đến mê đắm của nước Mỹ còn có những cuộc đời cô đơn và buồn thảm. Sự đào thải khắc nghiệt trong công việc làm ăn, sống và tồn tại luôn làm con người căng thẳng. Họ sống lạnh lùng với nhau một phần cũng là vì đã quá mệt mỏi.
    Chúng tôi rời sân bay, bắt đầu cho chuyến viễn du dài một nghìn bảy trăm năm mươi hai giờ. Bắt đầu cho một giấc mơ có thực trong cuộc đời. Chiều vẫn còn phảng phất hơi nóng của một ngày mùa hè tràn ngập ánh mặt trời. Nhưng lúc này phía ngoài bờ sông Potomac đã thổi vào những làn gió mỏng và mát, đủ làm lay động những tàn cây xanh biếc và thổi dạt những đám mây mỡ gà trên trời xa.
    Chúng tôi ở trong một khách sạn nhỏ nhưng rất xinh đẹp số 2000 trên đường N. Nó giống như một ngôi nhà cổ nằm trầm mặc giữa vườn cây xanh với những chiếc lá con li ti ánh bạc, với những chú sóc nâu đuôi dài chỉ tìm cách leo lên cửa sổ, giương đôi mắt tròn đen nhánh tò mò nhìn vào trong phòng một cách không giấu giếm. Thỉnh thoảng chúng để lại trên bệ cửa những vỏ hạt dẻ bị cắn nham nhở hay những bông hoa lạ màu trắng xanh, bé như những cái khuy. Máy lạnh chạy rầm rĩ suốt đêm. Chẳng mấy chốc nó đã làm căn phòng có những tấm rèm hoa sặc sỡ lạnh ngắt như trong tủ lạnh.
    Trong cầu thang máy của khách sạn, tôi thường hay gặp một anh chàng người Mexico phục vụ ở phòng ăn. Nhưng đáng lẽ đứng thường trực ở phòng ăn thì anh ta luôn tìm cách chạy lăng xăng đâu đó, lên lầu xuống lầu, trong tay lúc nào cũng cầm một chiếc khay bằng bạc và một bộ nĩa cũng bằng bạc lấp lóa. Đó là một anh chàng lực lưỡng, điển trai với nước da vàng, mái tóc đen chải keo bóng nhẫy và có một bộ ria mép của Ret Butler. Mỗi lần gặp tôi anh chàng lại cười một nụ cười đẹp mê hồn và hỏi, cô thấy thoải mái chứ. Tôi thường không hy vọng gì ở trí nhớ của những người phục vụ hoặc bán hàng. Không phải vì tính đãng trí hay vô tâm mà vì những cuộc gặp gỡ trong cuộc đời họ nhiều đến độ, nó giống như một hộp thư điện tử quá tải, phải delete bớt trước khi nhận thêm thư vào hộp. Nên khi anh chàng bảo sẽ nhớ tôi lắm thì tôi bật cười thành tiếng. Điều đó làm phật lòng anh. Mặt anh ta đỏ lên và anh ta đưa ngón tay cái lên miệng tỉ mẩn gặm nó.
    Nhưng quả thật anh chàng đã không quên tôi. Sau một tháng rưỡi rong ruổi khắp mọi nơi, tôi quay trở về khách sạn. Tôi gặp lại anh ở trong cầu thang máy, tay vẫn cầm chiếc khay và bộ nĩa bạc, bàn chân nhịp nhịp như luôn muốn nhảy theo một điệu vũ nhạc nào đó trong đầu. Trông thấy tôi, miệng anh ta vo tròn lại và kêu lên bối rối, cô về hồi nào vậy. Cô trông chẳng khác chút nào cả.
    Vậy là buổi sáng đó, trong vườn hoa cúc kim nở rộ, tôi được ăn một bữa sáng khá thịnh soạn với sự phục vụ tận tình của anh ta, mặc dầu cả hai chúng tôi đều biết rằng điều đó vi phạm vào luật của khách sạn. Nhưng dù sao, đây cũng là bữa ăn sáng cuối cùng của tôi trong khách sạn Cánh đồng mùa hè số 2000 đường N.
    Anh ta luôn luôn hỏi, vậy là cô sẽ ra đi thật sao. Tôi nhìn ra ngoài hồ bơi. Có hai đứa trẻ đang nghịch trên bờ. Trời lạnh, chúng khoác những chiếc áo ấm dày và đầu đội mũ len. Một đứa mặc áo len đỏ. Một đứa khoác áo da xanh nhạt. Chúng nói gì đó và cười, và đuổi bắt nhau vui vẻ. Tôi biết chắc tôi sẽ không khóc. Nhưng vì cảm động mà tôi phải quay mặt đi hoặc chúi đầu vào dĩa thức ăn. Khi bên tôi, anh bạn vẫn lặp lại những câu hỏi buồn rầu bằng một giọng tịt mũi, cô sẽ đi thật sao. Chúng ta sẽ không còn gặp lại nhau nữa phải không? Có ai đó yêu cầu sự giúp đỡ của anh ta. Anh miễn cưỡng ra đi, sau khi để lại một nụ cười mê hồn của Alaine Delon làm tim tôi thổn thức. Từ giây phút đó trở đi, chúng tôi không còn cơ hội gặp lại nhau nữa.
    Những giờ rảnh rỗi, trong khi đợi bạn từ Virginia lên đón đi chơi, tôi thích ra ngồi ngoài ban công của khách sạn. Không khí thơm ngây ngất mùi hoa cỏ dại. Những đám mây chạy đuổi bắt nhau tung những cuộn mây nhỏ trắng xóa như những bọt sóng. Khu vườn bé có những bộ bàn ghế bằng sắt xinh xắn sơn trắng kê dọc lối đi rải sỏi, trên những bờ cỏ xanh ngắt, yên tĩnh và vắng người. Phía sau hàng rào sắt bao quanh khu vườn là con đường rậm rạp bóng cây, những chiếc xe hơi đậu một hàng dài vô tận. Phía sau đó nữa, có thể lắm chứ, là một cái hồ xanh trong như con mắt biếc hoặc chính là dòng Potomac lững lờ trôi như một chiếc băng đô bằng lụa xám cột ngang mái tóc xanh của thành phố.
    Tôi ngồi đó cho đến khi chuông trong phòng kêu lên những tiếng rụt rè. Lần này là những người đến mua tranh. Chúng tôi ngồi xệp xuống sàn trải thảm, bày tranh trên chiếc bàn gỗ nhỏ. Anh chị Trịnh Thục có vẻ xúc động. Họ mỉm cười bối rối. Và ngượng nghịu đi lại, từ phòng khách vào đến căn bếp nhỏ ( trong khách sạn này, mọi phòng đều được bố trí như một căn hộ nhỏ) và từ đó lộn trở lại phòng khách. Sự xúc động của họ đến từ nỗi nhớ Việt nam da diết. Mặc dầu mới gặp tôi cách đó vài tháng ở Sài Gòn vào những ngày nhiều mưa nhiều nắng, nhưng họ vẫn háo hức nghe những tin tức về Việt nam, tựa như họ đã không được nhìn thấy quê hương hàng chục năm trời và nghẹn ngào kêu lên, trời ơi, những bức tranh này làm tôi nhớ Việt nam ghê gớm.
    Buổi chiều, tôi đến thăm nhà anh chị ở khu Fair Fax. Trong những căn phòng ấm áp thơm mùi hoa cỏ dại và nến, những bức tranh ***g khung mạ vàng được treo trang trọng trên tường. Những bức tranh này một thời gian dài cũng đã được treo trang trọng trên tường nhà tôi. Tôi thuộc lòng từng ngày tháng, hoàn cảnh và nơi chốn ra đời của mỗi bức tranh. Chúng lưu giữ trong hồn giấy và sắc màu lung linh ấy những kỷ niệm vô cùng tươi đẹp đã đi qua cuộc đời tôi.
    Tôi đứng lặng trước chúng, lòng xao xuyến. Niềm vui sướng kỳ diệu vì không ngờ lại được gặp mặt lại những đứa con tinh thần của mình, ở một nơi cách xa nửa vòng trái đất và sự đau đớn sâu sắc vì biết chắc rằng tôi đã vĩnh viễn mất chúng làm ngực tôi nghẹn lại. Nhưng cùng lúc đó, tôi hiểu rằng mình đang được hạnh phúc. Vài chục năm nữa, vật đổi sao dời, xa cách không một lần gặp mặt tưởng có thể quên hết đi chuyện ngày qua, nhưng khi nhìn những bức tranh, họ sẽ thấy rằng Việt nam luôn bên cạnh họ và thấp thoáng sẽ có hình bóng tôi ở một nơi sâu thẳm nào đó trong nỗi nhớ da diết của họ.
    Vì lẽ đó, sự vô giá của bức tranh, ngoài giá trị nghệ thuật, còn nằm ở tính vĩnh cửu của thời gian. Trước khi vẽ một bức tranh tôi chỉ mơ hồ cảm giác được điều đó. Nhưng khi đứng giữa những căn phòng rộng lớn có mái vòm lấp lánh những chùm đèn pha lê và lộng lẫy những khung tranh phết vàng đồ sộ của các viện Bảo tàng, tôi hiểu nó rõ ràng hơn.
    Hơi thở của không khí và thời gian thổi tràn ngập trong phòng. Tôi nghe thấy tiếng kẹt cửa khe khẽ và Van Gogh lách mình bước ra ngoài phố , đầu đội một chiếc mũ dạ màu xanh dương có viền lông đen trước trán nhàu nhò và cũ bẩn. Một giờ sau ông quay trở về căn phòng nghèo nàn của mình, trên tay ôm một bó lèo tèo vài bông hướng dương sắp héo rũ. Ông cắm hoa vào lọ, ngồi vào chiếc ghế gỗ cũ kĩ đến độ nó chỉ muốn sụp xuống vào bất kì lúc nào, vừa vẽ vừa chống lại cái đói, cái rét. Sự u ám của đời sống làm sáng rực lên những mảng màu trên tranh. Sự yếu đuối và bất định trong tâm hồn làm những nét bút thêm đầy đặn và mạnh mẽ. Đó dường như là cách để chống lại nỗi đau đớn và cô đơn của tâm hồn và thể xác. Đó dường như cũng là lúc, tận cùng của nỗi thống khổ hoạ sỹ lại tìm gặp được một niềm hạnh phúc vô biên không thể nói thành lời. Nó như một tia chớp sáng rạch ngang bầu trời đêm. Và chỉ có hội hoạ mới đủ sức để nuôi dưỡng nó.
    Nếu chỉ có tài năng mà không có lòng yêu mãnh liệt đối với cuộc sống, con người và thiên nhiên, hẳn niềm hạnh phúc ấy không thể nào đến để tạo ra những tuyệt tác và đám hậu sinh chúng ta có được sự xúc động chân thành đến như vậy khi đứng trước chúng.
    Kì lạ thay là tình yêu vĩ đại ấy. Nó biến sự chết lặng của những miếng màu bẹp dí trên vải thành sự xao động của hoa lá trong vườn đêm, thành tiếng sột soạt của tơ lụa óng mịn, thành mùi hương mê đắm của biển và ánh mặt trời rực rỡ?
    Những bức tranh diễu hành qua mặt tôi. Trái tim nức nở và mắt nhòa lệ. Ngay lập tức tôi thấy mình đang đi giữa ánh sáng mờ ảo của những phòng tiệc lớn vào cái thời cách đây vài trăm năm với những chiếc lông chim và tà áo lụa dài chạm vào da mát rượi, với những bờ vai nõn nà và những lọn tóc giả bằng tơ óng, thậm chí đôi khi còn như rơi vào giữa một cuộc chiến đẫm máu với giáo mác gươm đao sáng lòe. Hoặc tự nhiên thấy mình đang lạc bước trên những đường phố tuyệt đẹp của Paris hay nằm dài trên những đụn rơm thơm nồng nàn của xứ Provence ngắm mây trời bay?
  4. ISA

    ISA Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/12/2002
    Bài viết:
    97
    Đã được thích:
    0
    Ai là người có thể cùng một lúc đưa lại cho ta những cảm giác tuyệt vời như thế ngoài Hội họa?
    Ở những bảo tàng Mỹ thuật hiện đại như Moma ở San Francisco hay New York, tôi đã đến mà không phải để tìm thấy những cảm xúc êm ái và ngọt ngào như vậy. Thường ở những nơi này, họ trưng bày những bức tranh trừu tượng hoặc nghệ thuật xếp đặt và Video. Chỗ dòng đề chất liệu, luôn là từ "mixed" ( trộn lẫn). Kết quả của mỗi một tác phẩm là sự trộn lẫn giữa âm thanh, ánh sáng, mùi vị, đồ vật, kĩ thuật, cảm xúc?Nó bề bộn như cuộc sống hiện đại với đủ thứ lo âu và khao khát. Nó thảy chúng ta vào một cái túi tối đen rồi đột ngột lôi chúng ta ra ngoài ánh sáng chói chang. Nó dồi chúng ta trên những ngọn sóng dữ tợn nhất của bão tố, quất vào mặt ta những ngọn gió buốt nhất của giá rét, gõ vào tai ta những tiếng động ầm ĩ nhất?cho đến khi tim ta rướm máu, tay chân ta mỏi nhừ và đầu óc ta căng ra như một quả bóng thì nó tống ta ra cửa. Ấy vậy mà bỗng nhiên, như một phép màu xảy ra, khi hít thở khí trời và đối mặt với cuộc đời thực, ta bỗng thấy cuộc sống tươi đẹp lên bội phần. Đáng để cho ta yêu và sống thực đàng hoàng với những năm tháng sẽ đến. Và chúng ta ra về. Lòng tràn ngập niềm biết ơn vô hạn.
    Một lần, tôi và Vinh ghé thăm Bảo tàng Mỹ thuật ở San Francisco. Vinh là bạn cũ của tôi từ năm lớp Tám. Đến khi lên cấp Ba mỗi đứa mỗi nơi. Trong trí tôi Vinh vẫn chỉ là một cậu bé con nhỏ người, ngồi bàn cuối cùng trong một lớp học tăm tối, ẩm thấp, thỉnh thoảng bay lên mùi phân mèo và mùi mưa ướt át. Nhưng Vinh bây giờ đã khác. Cậu to cao, đẹp trai hơn với mái tóc đinh chải keo bóng loáng, với áo sơ mi trắng và áo khoác ngoài bằng da nâu thoang thoảng mùi nước hoa ( trong đêm lạnh và sương mù của San Francisco, nó trở nên vô cùng quyến rũ). Nhưng quan trọng là trông cậu tự tin hơn. Sự tự tin đó tỏa ra từ ánh mắt sáng và tiếng cười giòn giã.
    Cậu nhìn đời bằng đôi mắt háo hức của kẻ muốn chinh phục và chiến thắng. Điều đó có thể lý giải được vì có thể gọi cậu là một trong những người Việt Nam trẻ tuổi có những bước đầu thành công trên một đất nước xa lạ không phải là quê hương của mình khi được nhận bằng kỹ sư vi tính và có chân trong hãng Microsoft. Để xua tan cơn buồn ngủ, trên đường xuống Los Angeles, trong khi tôi bắt đầu gà gật, cố gắng dấu đi những tiếng thở dài cứ chực bật ra thì cậu có thể nói không biết mệt mỏi về cái mớ bòng bong giữa triết học và chính trị. Tham vọng làm chính trị của cậu không bị che giấu nên cứ sáng rực lên trong mắt, dù cậu hiểu rằng, cơ hội cho cậu ở đất Mỹ là hoàn toàn không thể.
    Giờ đây chúng tôi thay đổi vị trí cho nhau. Tôi say sưa với những tượng và tranh bao nhiêu cậu trông lại càng thảm hại bấy nhiêu. Cậu ngồi trên một ghế băng dài, mặt thẫn ra và luôn tay đưa lên che miệng ngáp, nước mắt chảy dàn dụa trên mặt. Rồi cậu thốt lên yếu ớt " Trời ơi mình đói quá. Đói đến run cả tay chân" như một lời bào chữa cho sự uể oải của mình.
    Ngoài sân, một cái sân rộng lót gạch xám dựng đứng những cây cột bằng thạch cao trắng cao vút, một đám cưới đang diễn ra dưới chân tượng " Suy tư " của Rodin. Những cô nàng phù dâu mặc những chiếc áo dài lụa xám như sương khói. Nắng tỏa một lớp bụi vàng óng ánh lên người các cô, biến các cô thành tiên nữ và khung cảnh đẹp như thần tiên. Vang trong gió những tiếng cười hồn nhiên và những chiếc chuông bạc đính trên thắt lưng của họ rung lên những tiếng trong trẻo, chúc phúc cho đôi vợ chồng son.
    Tôi ngồi xuống bậc tam cấp đá mát lạnh. Trong không khí bay lên những bọt tròn nhỏ đầy màu sắc. Chúng đột ngột vỡ ra làm bóng tối màu nâu đất phủ quanh bức tượng người đàn ông đang ngồi trầm tư chuyển sang xanh non và lấp lánh những tia lửa nhỏ. Tôi cảm giác người đàn ông sắp cử động. Chàng sẽ hạ bàn tay chống cằm xuống, đầu chàng sẽ ngẩng cao và từ khóe mắt sẽ rỉ ra hai dòng nước.
    Chàng đang nghĩ gì? Ngồi giữa trời đất bao la, trầm mình qua mưa gió, chàng nghĩ về một tình yêu bất tử hay một hạnh phúc dài lâu của đời người? Chàng nghĩ về sự bất hạnh hay nỗi đau khổ đời đời của nhân loại?
    Hay chàng đang nghĩ thời khắc thật ngắn ngủi và ngày trôi qua như gió như mây, mọi thứ danh lợi đều là phù du. Sao người với người không biết thương yêu mà cứ mãi dằn vặt nhau cho đau khổ?
    Chúng ta đứng dưới chân chàng, nghĩ về những điều chàng đang nghĩ. Bỗng nhiên từ một nơi xa xăm nào vọng lên một tiếng thở dài buồn bã. Chúng rền rĩ chạy trên đầu tôi như ngọn gió ướt đẫm sương mù từ ngoài cầu tàu Người Đánh Cá thổi lại. Thứ gió này tôi thường cảm thấy mỗi khi đi dạo ngang qua Đài tưởng niệm chiến tranh Việt Nam, nằm trong công viên Washington DC mặc dù ở đây không có biển, không có cầu cảng, không có sương mù. Chỉ có dòng Potomac trong xanh và những hàng cây xinh đẹp tỏa vào không gian hương thơm mát. Những đám đông thường đến đây đi dạo trên những đường lát ximăng xám rậm rạp cỏ hoặc đến ngồi trên những ghế đá trong ánh nắng của ban mai hay chiều tà đột ngột chuyển sang màu xanh nước biển.
    Buổi sáng đầu tiên ở nước Mỹ, Mary dẫn chúng tôi tới đây. Mary vâm váp, tóc vàng óng. Chiếc váy đen hai dây dài ngang đầu gối lộ ra đôi vai to khỏe và nước da nâu óng lốm đốm tàn nhang. Mary làm hướng dẫn viên du lịch, cô nói nhiều, nói nhanh, hàm răng sáng lên lấp lánh. Các từ cứ ríu ríu vào nhau, lại được thể hiện bằng một giọng hơi thé, cuối câu không hạ xuống thấp mà cứ mải bay lên cao nên rất khó nghe. Mỗi lần ngừng lại, cô lại thở dốc, uống một ngụm nước to và đưa khăn lên thấm mồ hôi rịn đầy trên trán. Khi biết tôi đến từ Việt Nam, cô có vẻ hào hứng, cô thường dành cho tôi những nụ cười âu yếm và những cái xiết tay mạnh mẽ trong suốt chuyến đi. Cô chỉ bức tường đá khắc tên những người lính Mỹ đã nằm xuống trong cuộc chiến tranh Việt Nam, hỏi tôi nghĩ gì?
    Tôi đã đứng nhìn những bức tường ấy rất lâu. Mặc dầu nắng lên lấp lóa trên mấy tàn cây, rọi xuống những đốm hoa nắng vàng óng như những đóa cúc nhỏ nhưng màu đen của đá lạnh vẫn mang lại cho tôi một cảm giác nặng nề. Giữa khung cảnh thanh bình, trời rất xanh, gió lại dịu dàng và không khí trong trẻo, bức tường dựng lên đột ngột như một cái gai khổng lồ, luôn sẵn sàng làm tứa máu ký ức.
    Hơn hai mươi bốn năm đã trôi qua, nhưng không phải tất cả mọi điều đều đã trôi qua. Chắc chắn rằng những vết thương trong lòng những cựu binh Mỹ và Việt Nam không bao giờ còn lành lại được nữa. Ngày hoặc đêm, nó đều đã trở thành nỗi ám ảnh. Bên những bức tường như thế này, tất cả đều là những người bại trận. Bại trận trong quá khứ và đời sống bất an của mình.
    Giờ đây, những bé em đang chạy đuổi theo quả banh trên luống cỏ, những cặp tình nhân khoác vai nhau thả bộ trên đường và ngay cả tôi cũng đứng ngoài nó, không thuộc về những mất mát và đau khổ đã khắc sâu trên bức tường đồ sộ của nước Mỹ, trên những bức tường mà nếu dựng lên ở Việt Nam, sẽ cao bao nhiêu, dài bao nhiêu và rộng lớn biết bao nhiêu.
    Trong đám đông người dự buổi tham quan ngày hôm đó, không hiểu sao tôi thấy rất quí mến cô Plack vợ của David Plack, nhân viên chương trình Viết văn quốc tế dù tôi và cô không nói chuyện với nhau nhiều, thậm chí cả tên của cô tôi cũng không kịp hỏi. Cuộc sống của tôi, tôi vẫn thường ngẫm ngợi, thấy thật lạ kỳ. Có một vài việc chỉ thoảng qua mà không cách nào quên được. Chúng day dứt và trở thành sự ám ảnh trong trí.
    Cô Plack không đẹp, giọng nói nhỏ và hơi thé, không chuẩn âm vì cô người Tây Ban Nha. Mái tóc hạt dẻ cắt ngắn, lộ khuôn mặt xương với đôi mắt to màu thép xanh có những ánh nhỏ đen thẫm nở xòe như một đóa pháo bông tí hon và hàng lông mi rậm rạp tựa bóng một hàng cây phủ xuống mặt hồ phẳng lặng. Trong chiếc váy vải hoa xanh nhạt cũ mỏng, tưởng chỉ cần vò mạnh tay chúng cũng bở vụn ra như cám, cô mảnh mai dịu dàng như những cây liễu mùa thu mọc quanh hồ công viên quốc gia Iowa. Mỗi một nụ cười của cô, mỗi một cử chỉ của cô đều rụt rè bối rối, e thẹn như một cô gái nhỏ chưa chồng.
    Mỗi lần quay lại nhìn cô, bắt gặp ánh mắt trìu mến của cô nhìn chồng, lòng tôi thấy nhẹ bỗng. Tôi hay mơ hồ về một thứ tình yêu vượt biên giới. Nó có vẻ chắp nối và không thật, ít nhất là trong sự khác biệt về ngôn ngữ và sâu xa hơn là sự khác biệt về cội nguồn dân tộc. Có thể bởi vì chúng ta là người Châu Á, chúng ta vốn thấy những điều đó là lạ lẫm. Nhưng nhiều khi chúng ta quên mất rằng tình yêu có tiếng nói bí ẩn và ma lực của nó thì vô cùng. Chúng ta là những linh hồn nhỏ lang thang cô độc trong thế giới mênh mông này. Duyên cơ may gặp nhau thật vô cùng quí hiếm. Lại cứ như gió như mây thản nhiên bay đi mất. Trong đêm khuya, cuối một ngày của sự gặp gỡ và chia ly, tôi vẫn thường một mình nhẩm đọc bốn câu thơ của Bùi Minh Quốc " Có khi nào trên đường đời tấp nập. Ta vô tình đã đi lướt qua nhau. Bước lơ đãng chẳng ngờ đang để mất. Một tâm hồn ta đợi đã từ lâu...". Khi tôi chợt nghĩ rằng đi bên cạnh David bây giờ không phải là cô ấy, mà là một người con gái Mỹ, cũng nhỏ nhắn đáng yêu, không phải như đám liễu thu bên hồ thì cũng như đám xa trục thảo trên cánh đồng và David vẫn thấy hạnh phúc thì trong sâu thẳm của tôi có một cây kim nhỏ nhô lên và cọ quạy. Tự nhiên mà thấy tình yêu có vẻ giản đơn, lớp vỏ bọc lấp lánh muôn sắc màu quanh nó giảm đi mười phần đẹp đẽ.
    Thật chẳng hay ho gì khi đứng ngắm họ mê mải để nghĩ ngợi những điều mà mọi người cho là vô lý. Nhưng tôi vẫn một mực nhất quyết rằng, trong đời có thể yêu nhiều lần nhưng trong những lần yêu đó vẫn chỉ có duy nhất một tình yêu có thể vượt lên trên hết mọi sự tầm thường của sự sống và cái chết khi gặp được đúng một nửa còn lại của mình.
    Ôi lại là cái câu "một nửa còn lại của mình", xem có vẻ sách vở và buồn cười. Nhưng chẳng phải có người suốt một đời chỉ sống trong cô đơn mặc dù đã qua nhiều lần yêu và cưới, lại có người mãi mãi hạnh phúc bền lâu với chỉ một người?
    Chúng ta xem như những nửa bóng xanh đỏ tím vàng... bay trong không trung. May mắn thì nửa vàng gặp được nửa vàng hòa hợp. Kém may mắn hơn thì nửa vàng ghép với nửa đỏ, nửa xanh ghép với nửa tím, cũng thành bóng tròn nhưng sắc màu đối chọi. Vô duyên thì nhìn thấy nhau đấy mà lại bay trượt qua nhau, hoặc suốt đời chẳng bao giờ gặp mặt nhau.
    Với những điều này, đôi khi thời gian lại chiếm một vị trí quan trọng. Trong những ngày ở Virginia, tôi được xem bộ phim Video " Cánh cửa trượt"với cô đào Gwyneth Paltrow xinh đẹp thủ vai chính- Helen, một cô gái bị mất việc làm và bạn trai ngoại tình. Nhưng số phận của Helen lại được quyết định bởi những cánh cửa trượt của chiếc tàu điện ngầm ở Luân Đôn. Từ sở làm về, nếu như lên được tàu trở về nhà, cô sẽ phát hiện người yêu đang ngủ với người con gái khác, cuộc sống của cô sẽ rẽ sang một con đường mới. Còn nếu như bị trễ tàu, tương lai của cô sẽ hoàn toàn khác hẳn. Sẽ lại sống trong sự dối trá và chán chường. Hai câu chuyện song song với nhau trong phim mô tả hai cuộc sống của Helen theo hai hướng khác nhau: nếu trễ tàu và nếu không trễ tàu...Chỉ cần một giây đồng hồ cũng có thể thay đổi cuộc đời chúng ta. Cũng có thể biến chuyện không thành có, biến sự va chạm bất hạnh này thành niềm hạnh phúc mới mẻ, tinh khôi.
  5. ISA

    ISA Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/12/2002
    Bài viết:
    97
    Đã được thích:
    0
    Tôi nằm vục đầu trong chiếc chăn bông thơm mùi hồ dán, nghĩ mãi về hai từ " khoảnh khắc" mà không sao ngủ được. Ngoài cửa sổ bình minh lên loang lổ sau những rặng cây màu tím nhạt. Con chim bé xíu có chiếc mỏ đỏ hung hăng gõ tóc tóc vào mặt kính cửa sổ đẫm nước, tóc tai dứng đứng cả lên. Trời mưa nhẹ, phủ một lớp bột xám lên những đám lá phong đang nhuộm vàng. Một sớm thu thường bắt đầu trong trẻo và ướt át như thế.
    Vào những ngày tháng này đêm rất đẹp. Trờiø đôi khi xanh màu lá vì ánh vàng lấp lánh từ những rừng thu hắt lên. Đêm xanh xao thơm mùi lá và đất ẩm ướt. Gió thổi rầu rĩ qua những vòm cây. Sương bay chập chờn trong không khí thành những đám khói xám trắng, ánh lên một chút phấn hồng nhờ ánh đèn xe. Tôi thích ngồi trên xe, xuyên qua đêm, xuyên qua những con đường mòn đến tận ba bốn giờ sáng mới quay về nhà. Qua ánh đèn xe mù mịt tôi nhìn thấy những vụng nước nhỏ đọng đầy ánh trăng nằm lặng lẽ dưới những thân cây tím sẫm, sáng lên trong bóng tối như những miếng gương vỡ tráng bạc. Thấy vài chiếc lá phong màu huyết dụ hoặc vàng chanh đâm xuyên qua đám khói như một cánh **** nhỏ rồi dịu dàng chạm đất. Thấy cả nỗi buồn mơ hồ và sự cô độc của đêm tràn ngập trong lòng.
    Trong những chuyến đi này thường có Ma ( Minh Anh) đi cùng tôi. Đó là một cậu bé già dặn trước tuổi, gầy và cao với những nét đẹp hơi lạnh và đôi mắt dài đa cảm. Sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học, cậu sang đây theo chương trình du học tự túc. Vậy mà sống giữa một đất nước của quần Jean áo thun, cậu chỉ mặc quần Tây, áo sơ mi dài tay. Mùa hè xắn lên trên khuỷu tay, mùa đông cài măng séc. Tất cả mọi người ở nơi đó và chính cậu cũng tự nhận mình là người lập dị.
    Ma để tóc dài ngang vai, những sợi tóc mềm dính bết vào nhau được cột túm một chùm sau ót bằng dây thun ( nhưng nói cách nào đi nữa, nó vẫn làm cậu trông đáng yêu và lãng mạn hơn). Cô nàng da đen to béo ở Costco của Tuấn và Phú rất yêu mái tóc của cậu. Cô ấy đứng gác ở cửa ra vào, đắm đuối nhìn theo mái tóc của Ma mỗi khi cậu đi ngang qua và bối rối mỉm cười. Giây phút đầu tiên nhìn thấy cậu, mái tóc đã như là khởi đầu của một chuỗi hồi ức tươi đẹp về sau này của tôi khi nhớ đến cậu.
    Nhớ một cậu bé hè cũng như đông, chỉ đi lẹt quẹt một đôi dép lê, hở những ngón chân có lớp da hồng nhăn nheo vì lạnh và gót chân bám đầy đất. Nhớ một cậu bé thông minh nhưng lười biếng, có thể bỏ hàng chục giờ đồng hồ để chơi game nhưng chỉ cần nửa giờ đọc sách. Nhớ một cậu bé đãng trí đến độ suốt một học kì đến lớp, thi đạt điểm giỏi mà không biết mình học nhầm lớp trên. Nhớ một cậu bé với năm trăm lẻ bốn giờ của yêu thương dịu dàng êm ái. Tình cảm cậu dành cho một người con gái từ xa đến có gì thật cảm động và khác người. Và đẹp vì cậu hồn nhiên dám phơi bày nó trước mắt mọi người tình cảm của mình, mặc cho những lời chọc ghẹo và mặc cho nó đầy tuyệt vọng. Cậu chải tóc gọn gàng, chân rửa sạch sẽ, đi giày bata cột dây lịch sự, nhịn tiền tiêu vặt để mua một chiếc vé xem hát giá bốn mươi lăm đô, nấu những món ăn người con gái đó yêu thích, đứng hơn hai giờ bên một cây phong lá đỏ để chọn hái những chiếc lá đẹp nhất, rực rỡ nhất tặng cô và gần ba giờ sáng vẫn còn ngồi bên đàn dạo khúc nhạc tình của Bethoven, để đầu dây bên kia, ở một tiểu bang cách Virginia hai giờ đồng hồ, cô gái nằm ôm điện thoại ngủ ngon lành.
    Cái tình của cậu mới thật lạ lùng. Nó đắm say nhưng tỉnh táo. Nó mơ hồ như buổi chiều đầy mây mù nhưng lại rõ ràng như buổi sáng mùa hè đầy nắng. Trong cùng lúc, nó được sống rạch ròi khi như tình chị em khi như tình trai gái. Nó làm cậu đau khổ nhưng nhẹ nhõm. Nó làm người con gái cảm thấy lúng túng nhưng thật sự hạnh phúc.
    Hạnh phúc ấy đến từ sự biết ơn nên trong trẻo và dịu dàng. Mỗi khi nghĩ về nó tự thấy lòng thật ấm áp. Như là những lúc ngắm nhìn lại những chiếc lá phong ép khô còn giữ được sắc đỏ tươi, để hiểu rằng người đã xa nhưng tấm chân tình ấy vẫn còn nguyên vẹn.
    Có thể bây giờ là mãi mãi, không còn ai nhặt lá thu phong, chơi đàn giữa đêm khuya vắng. Không còn ai giận hờn, an ủi. Tóc cũng không còn dài đến ngang vai. Trên cây tình yêu hoa lại một lần nữa nở rộ. Những kỉ niệm sẽ vì thế phai nhạt dần đi. Nhưng trong trí tôi thỉnh thoảng lại vang lên hai câu thơ của cậu "Minh nguyệt mỏi mắt tìm ngọc cũ . Anh hùng khổ dạ nhớ sông xưa". Đôi mắt của cậu, người em, người bạn của tôi đêm cuối cùng mới thật to và xanh trong.
    Tôi nhớ cậu, là nhớ lại tất cả những kỷ niệm đã có với Tuấn, Phú, Nhơn, Tèo, Sơn trong một căn hộ cho thuê trên tầng một của tòa nhà số 7 300 khu Monticello. Chỉ có Phú và Tuấn là theo cha mẹ sang đây định cư. Những người còn lại, cũng như Ma, du học tự túc tại trường Nova ( riêng Sơn học ở trường Mason).
    Một phần ba thời gian của chuyến viễn du tôi trú chân tại đây. Căn phòng có hai phòng ngủ, một phòng khách, một bếp, một công trình phụ giá chín trăm đô một tháng và có khung cửa kính lớn trông xuống bãi để xe. Đứng ngoài ban công sẽ nhìn thấy được những cây cành đang trút lá và một bầu trời đêm đen thẫm lấp lánh trăng sao trong khi gió thổi như giông bão. Chỉ có một điều phiền toái là đêm khuya, việc đóng mở cánh cửa gặp khó khăn. Chúng cứ kêu lên ken két và lập tức sáng hôm sau, một cái đầu bù xù ngái ngủ sẽ thò vào cửa càu nhàu vì đêm qua bị quấy rối.
    Chỉ vào buổi tối chúng tôi mới gặp mặt nhau đầy đủ, ăn những bữa ăn nấu vội nhưng thật sự là những bữa ăn vui vẻ, ấm cúng. Thời gian đó tôi ngốn một số lượng phim khổng lồ và chỉ chịu đi ngủ khi đồng hồ chỉ ba, bốn giờ sáng. Những phim này, có cuốn tôi đã xem ở nhà, nhưng giờ coi lại, với những người bạn của tôi, bỗng nhiên tươi mới và sâu sắc hơn hẳn. Là vì sau mỗi lần coi như vậy, tôi vẫn thường hay tranh luận với Phú, cậu bạn nhỏ thó có nụ cười rất tươi làm sáng gương mặt ốm nheo, người đã bỏ hàng mấy giờ đồng hồ lái xe từ Philadelphia về Virginia để kịp gặp tôi, vào buổi tối đầu tiên tôi đặt chân lên nước Mỹ.
    Phú không đẹp trai, lại hiền lành, nhút nhát và hay khóc. Hoặc chỉ bởi vì cậu tốt quá, làm gì cũng muốn dành điều tốt đẹp nhất cho bạn bè, làm gì cũng nhường nhịn, lo lắng sợ bạn bè phật ý, thường đến cuối cuộc chơi mới tự mình lùi vào trong một góc tối, trái tim run rẩy vì tiếc nuối những điều lẽ ra phải làm thì lại để vụt bay qua mất. Vì thế mọi người chơi với cậu, cảm thấy cần cậu nhưng trong thâm tâm có chút gì coi thường cậu. Tội nghiệp cậu. Nhưng tôi không biết nói gì. Tôi chỉ ngồi im lặng bên cậu, xiết nhẹ bàn tay nóng ran như lên cơn sốt của cậu, hy vọng sẽ làm lòng cậu nhẹ nhõm hơn.
    Đôi khi tôi đột ngột quay lại và như trong bóng tối mênh mông thơm mùi bắp rang của rạp chiếu phim " ABM" bên thành phố Crystal, khi chỉ có độc hai chúng tôi ngồi coi cuốn phim " Những cậu con trai đừng khóc", tôi nhìn thấy những giọt nước mắt nóng hổi sáng long lanh trên gò má cậu.
    Tôi hiểu sự cô đơn là nỗi sợ hãi trong lòng cậu. Đó là lý do vì sao cậu không muốn mất bạn bè, vì bất cứ một lý do nhỏ nhặt nào.
    Cũng vì sự cô đơn ấy nên mỗi lần cầm điện thoại, Nhơn có thể nói chuyện hàng ba bốn giờ liền không ngừng lại được. Bọn bạn thường hay kể về Nhơn, bằng một giọng bông phèng nhưng âu yếm, về giấc ngủ và nhu cầu nói điện thoại của cô. Chỉ cần ngồi lên xe trong vòng năm phút, dù nhạc bật rock muốn vỡ cả loa, sau vài cái nhún nhảy là cô đã ngoẹo đầu ngủ ngon lành. Thỉnh thoảng cô nhỏm đầu dậy, đôi mắt đen láy nhìn không chớp qua cửa kính, thốt lên thảng thốt, trời ơi đẹp quá. Người bạn đường vội quay lại bắt chuyện, khen trời xanh mây trắng bay thật đẹp thì cô đã lại lịm sâu vào giấc ngủ. Trong cách cô bình yên ngủ, trong cách cô cười dòn khoe hàm răng sáng bóng, trong cách cô chọc ghẹo mấy cậu bạn trai, trong cách cô bạo mồm buông ra câu chửi thề đầy tự nhiên và nhẹ nhõm, chẳng ai nghi ngờ gì nữa, cô sống vô tư và đơn giản. Thậm chí đôi khi nó còn làm người ta bực cô.
    Nhưng bình minh của một ngày ấy, ánh lấp lánh màu hồng ngọc của những tia nắng rọi qua cửa kính phủ lớp bụi mỏng đã vô tình làm vỡ vỏ bọc bên ngoài của cô.
    Cô nằm run rẩy trên giường, bé bỏng và yếu ớt như một con chim non bị trúng thương. Gương mặt xinh đẹp và đôi mắt thiên thần ướt đẫm nước. Vì cố kìm tiếng khóc nên ngực cô chỉ phát ra những tiếng nấc nghẹn. Tôi ngồi bó gối nhìn cô, trên một chiếc nệm nhỏ bề bộn sách vở, không biết nói gì. Tôi chỉ biết là nên để cô khóc. Khóc cho một tuổi thơ cơ cực và mất hết tương lai. Khóc cho những ước mơ bị gãy cánh khi bước chân vào đời. Khóc cho những năm tháng cũ phải trả một giá khá đắt để có một ngày mai sáng sủa hơn. Khóc vì một tình yêu đầy tuyệt vọng. Khóc vì những điều phiền muộn này không thể nói được cùng ai. Chỉ có tôi. Nhưng tôi không ở bên cô mãi. Một vài ngày nữa tôi sẽ phải ra đi.
    Nên khi tất cả mọi người đều thấy cô cười, cười rất nhiều rất tươi thì tôi chỉ luôn thấy những giọt nước mắt ngập ngừng lăn trên gò má mịn màng của cô. Và tiếng cô thì thầm bối rối "Khóc được rồi tao thấy nhẹ như không. Ngày mai lại có thể đùa vui. Mặc ai bảo mình hời hợt cũng được. Sống ở đây, ngày nào thần kinh cũng căng ra, không biết tự làm vui mình thì chỉ suy sụp mà chết".
    Về sau, khi cô rời Virginia sang Texas học, mùa đông dường như dừng chân lại rất lâu trong căn phòng nhỏ. Mọi người không thể ngờ sẽ nhớ cô nhiều đến thế. Đôi khi lại thảng thốt bắt gặp mình đang đợi tiếng kẹt cửa và mong chờ cánh cửa sẽ mở ra. Cô sẽ bước vào mang theo ngọn gió xuân ấm áp và tiếng cười giòn tan vô tư lự.
    Lúc đó mọi người hiểu rõ ràng hơn, không phải chỉ lần này, mà rất nhiều lần khác nữa, vì vô tình họ đã đánh mất những khoảnh khắc lý ra đã rất ấm êm và hạnh phúc trong đời sống vốn đầy bất an của mình.
    Tôi thường ở nhà hoặc vào Washington DC một mình. Sáng sớm họ đã ra khỏi nhà và chỉ trở về trong buổi tối muộn. Người đi học ban ngày buổi tối về lại đi làm thêm ngoài quán ăn Nam Việt đến mười một, mười hai giờ khuya. Công việc nặng nhọc là đứng bếp, rửa chén. Nhẹ nhàng hơn như Nhơn và Tèo, làm phục vụ bàn. Tiền tip vừa đủ trả tiền nhà, tiền học. Buồn ngủ cũng chỉ dám chợp mắt một lát rồi ngồi vào máy, hì hụi học bài đến ba, bốn giờ sáng. Ngày mai sẽ lại tiếp tục như một ngày đã qua. Buồn ngủ và mệt mỏi trở thành bệnh kinh niên. Có dịp nó bùng lên, làm đảo lộn mọi sắp xếp đã có sẵn.
    Anh chị họ tôi cũng ở trong một căn hộ cho thuê ( và có lẽ suốt đời họ sẽ ở như vậy), nhưng nó nhỏ và rẻ tiền hơn trên đường Parkwood. Buổi tối hôm gặp chị, trời giá lạnh và lây rây mưa. Những sợi mưa bạc xuyên qua những tàn lá xanh sẫm, bay vướng vào người như tơ. Những kính cửa run rẩy. Mùi bữa ăn chiều vẫn còn phảng phất quanh phòng khách. Dưới ánh đèn vàng, chị nhỏ bé, xinh xắn trong chiếc áo đầm đỏ rực rỡ của một cô thiếu nữ. Hương nước hoa, có lẽ từ mái tóc nâu của chị thoảng qua rất nhanh. Chỉ khi ngồi sát bên cạnh chị tôi mới trông rõ quầng thâm dưới lớp phấn dầy và những nếp nhăn chạy vòng quanh mắt. Thời gian quả thật là chẳng tha một ai. Chị ấy đã già rồi. Chẳng mấy chốc nữa sẽ lại đến lượt tôi.
    Hầu như tất cả mọi thời gian trò chuyện của chúng tôi đều dành cho riêng chị. Thời khóa biểu của chị bảy ngày như một. Sáng tám giờ rưỡi chị đến làm việc cho một tiệm làm móng tay của người Mỹ. Tối chín, mười giờ mới về đến nhà, tay chân rã rời. Tối thứ bảy, chủ nhật lại đi hát cho những đám cưới của người Việt. Bệnh cũng không dám nghỉ vì sợ mất khách. Còn anh làm thợ hớt tóc, lượng công việc có ít hơn nhưng cũng trải dàn đều khắp tuần. Hẹn một ngày chở chị vào Washington DC xem hội hoa đào bên dòng Potomac, nhưng bảy mùa xuân qua vẫn chỉ là lời hứa với nhau. Dần dần chị tự cảm thấy mình như một cái máy. Giận dỗi, yêu thương...mọi cảm giác dường như đông cứng lại. Chỉ có nỗi lo sợ không có tiền để trả nợ nhà, xe... cùng tất cả các chi phí khác trong cuộc sống của hai vợ chồng và gửi về Việt Nam phụ giúp bố mẹ chồng đốt nóng cơ thể, giúp cho chị không quỵ ngã.
    Cho đến bây giờ, trong trí chị, Việt Nam vẫn như ngày chị đi. Cuộc sống vẫn bần hàn. Nhà cửa vẫn lụp xụp. Sợ nhất là nhà vệ sinh chật hẹp và hôi hám. Khi tôi bảo Việt Nam giờ khác nhiều. Có nhà ở còn sang hơn cả nhà Mỹ thì chị ngẩn người, luôn miệng hỏi "Really?". Rồi chị buồn bã bảo, Việt Nam bây giờ xa cách chị nhiều.
    Chị có điều gì muốn giấu tôi. Mỗi lần định nói ra lại lúng túng dừng lại. Đôi môi run rẩy. Mắt hoe đỏ như sắp khóc đến nơi. Những ngón tay xanh xao của chị níu chặt mép váy cho đến kì nổi gân lên mới thôi. Đêm cuối cùng chia tay nhau trên những bậc tam cấp tối mờ dưới sân rụng đầy lá, chị ôm tôi trong vòng tay mảnh dẻ của mình, nói khẽ, anh chị chắc sẽ chia tay nhau. Chị phát hiện ra ảnh có bồ. Tha thứ bao nhiêu lần rồi vẫn vậy. Em bảo, sống cùng nhau làm sao được nữa khi nằm bên nhau tâm trí lại thơ thẩn đến với người khác. Mà em về đừng cho ba má ảnh biết.
    Chị chỉ ngạc nhiên, chị đã làm hết tất cả mọi việc để lo toan cho cuộc sống của anh chị, lo cho cả gia đình bên chồng mà anh ấy vẫn phụ chị. Thôi để chị đi. Chị ước gì có em ở mãi đây bên cạnh chị. Hai chị em tâm sự với nhau cho đỡ buồn.
    Dùng dằng mãi chúng tôi mới chia tay. Chị đi rồi. Xe của chị đã lao vào trong đêm, nhưng mùi hương từ mái tóc chị vẫn vương vất ở lại. Nước mắt của chị bám trên má tôi thành những giọt hương mát lạnh. Tôi tưởng tượng ra một căn phòng nhỏ suốt ngày vắng bóng người. Năm này sang tháng nọ. Sự vắng lặng đó làm cho lửa cũng trở nên nguội lạnh chứ nói gì đến tình người.
  6. ISA

    ISA Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/12/2002
    Bài viết:
    97
    Đã được thích:
    0
    Những ngày ở Mỹ tôi bỏ thói quen dậy muộn. Thời gian bây giờ đối với tôi thật hiếm hoi và đáng quí. Tôi luôn cảm thấy tiếc mỗi giờ phút sắp trôi qua. Tôi thường dậy khi trời còn mờ sáng. Sau tấm rèm cửa nắng xanh màu lá nõn uyển chuyển bay trên những nóc nhà cao tầng của thành phố New York và những tấm kính cửa bắt đầu sáng lên lấp lánh. Tôi mặc vội áo khoác, mở cửa bước xuống con đường vắng vẻ. Lúc này Lola vẫn ngủ say, mặt dúi vào gối. Hai cánh tay, hai cẳng chân trần to béo và đen bóng dang rộng, thò hẳn ra ngoài chăn.
    Lola không phải là một cô gái đẹp nhưng biết làm điệu. Lại hồn nhiên, vô tư mặc dù đã có đứa con trai bốn tuổi và cuộc hôn nhân lần thứ Nhất gãy đổ, tiếng Anh cũng rất chuẩn nên tất cả mọi người đều yêu quí cô.
    Tôi và Lola thuê chung phòng để tiết kiệm tiền đi chơi những nơi khác. Căn phòng nhỏ với hai chiếc giường nhỏ luôn luôn bề bộn quần áo, sách vở và tràn ngập mùi dầu thơm đặc biệt của nước Nigieria, rõ nhất là sau khi cô bước ra từ nhà tắm. Vì những cánh cửa sổ thường được khép lại nên cái mùi này không bay đi mà luẩn quẩn trong phòng cả ngày. Hôm đầu tiên nó làm tôi khó chịu, nhức đầu. Sau thành quen, thành nghiện. Những hôm về phòng đã được dọn dẹp sạch sẽ, mùi nước hoa xịt phòng át đi mùi hương của Lola, lại thấy nhớ.
    Lola thường bôi nó lên mái tóc xoăn tít. Lên bộ váy sặc sỡ. Lên nước da đen nhẫy. Tôi không thể hình dung được nếu Lola dùng một loại nước hoa nào của Lancôme hay Christine Dior sẽ ra sao. Rõ ràng với một người như cô mọi chuyện đều có thể. Nhưng tôi không mong muốn điều đó và không tin điều đó. Cho dù tháng mười này cô sẽ cưới chồng ở NewYork và trong tương lai sẽ chuyển tới Luân Đôn.
    Trong khi tất cả mọi người không thích thì tôi lại có cảm tình đặc biệt với nó. Bởi vì mùi hương này như là Nigieria của cô vậy. Người ta không thể quên hay lầm lẫn Tổ quốc được.
    Nó thơm vị hắc, đặc quánh và béo ngậy. Nhấm nháp một chút, nó bắt đầu ngọt lên dần dần. Đến khi vị ngọt đã đông lại trên đầu mũi thì đột ngột tan ra, dịu dàng trở về vị hăng hắc ban đầu. Lần này nhẹ nhàng chứ không dồn dập như lúc đầu. Thêm vài lần đặc lại và tan ra như thế, nó đưa lại cảm giác nhẹ nhàng khó tả. Trong hơi lạnh của những ngày đầu thu nó làm không khí ấm lên và đầy quyến rũ.
    Lola ồn ào và náo nhiệt. Cô ít buồn, thích ăn ngon, uống rượu mạnh, đọc thơ và hát ầm ĩ ngoài đường phố với một phong cách rất Mỹ. Mỗi khi có chuyện gì làm cô hứng thú, đôi môi dầy màu hồng nhạt lại trề xuống và đôi mắt vốn dĩ đã to của cô mở lớn, như một cái hồ sâu thẳm ai chẳng may trượt chân rơi xuống sẽ khó bơi vào được đến bờ.
    Thỉnh thoảng Lola về lại mang theo một đống áo quần hoặc sách đại hạ giá. Cô tống chúng vào trong một cái túi kéo khổng lồ. Giá cả của những thứ vật dụng tốt và đẹp ấy rẻ đến độ làm cho tôi, một người luôn nhạt nhẽo với chuyện mua sắm cũng phải phát thèm và rối rít hỏi cô cửa hàng nằm ở đâu.
    Nhưng phải may mắn mới gặp được đợt hàng giảm giá đặc biệt của các cửa hàng. Đó thường là vào những dịp lễ như Lễ Lao Động, Halloween, Giáng sinh... hay sắp tung ra một đợt mốt mới. Thời kỳ này, thời trang của các cô gái Mỹ vẫn là kiểu áo tay lỡ và đầm xẻ hai tà Hàn Quốc, màu tro, ruốc hoặc đen trắng. Ngay cả những cô nàng to béo cũng diện những chiếc áo Hàn Quốc ôm sát người, tự tin đi lại trên đường phố, mặc dù trông các cô giống một khúc giò thơm phức mùi nước hoa đang chuyển động. Trong tiệm Gab, một cái thắt lưng Ý giá hai mươi mốt đô có hôm hạ xuống giá bốn đô rưỡi, một cái mũ lưỡi trai mười lăm đô còn hai đô bảy mươi lăm...Hàng vẫn còn mới và thơm mùi hồ. Ngày nào trong siêu thị cũng có khách, nhưng vắng. Họ chỉ đi dạo theo kiểu "Window shopping" ( mua sắm qua cửa kính) như một cách để giải trí. Người Mỹ cũng như người Việt, không phải lúc nào cũng sẵn tiền để vung tay. Đợi đến đợt giảm giá họ mới mua hàng. Và mua nhiều.
    Chị họ tôi hồi mới sang, thời gian đi shopping còn nhiều hơn thời gian ở nhà và làm việc cho tiệm Mac Donald''s. Vui cũng đi. Buồn cũng đi. Rảnh rỗi cũng đi. Mà bận rộn lắm cũng phải nhín chút thời gian để đi. Không đi thì nhớ. Giống như lên cơn ghiền. Nó nhiều thứ đẹp quá mà, chị ngượng ngùng phân bua, lại to rộng đi cả ngày không hết, không chán. Mình không có được cái đẹp đẽ sung sướng thực chất của nó thì hưởng nó trên bề mặt cũng được. Tôi nghe chị nói, thấy thật thương, thật xót. Cái câu của chị hiểu rộng ra có nhiều ý. Ngẫm lại mình, trong vạn sự, trong đời sống, trong tình yêu, trong sự cô đơn, trong thời gian... đều không thể nắm bắt được thực chất của nó.
    Tôi ngồi trên một ghế băng nhỏ bằng đá trong một siêu thị nhỏ của Iowa chờ Sandy mua bánh mì. Giá cả ở Iowa so với Chicago hoặc New York giống như ở Hội An với Sài Gòn. Người dân ở đây cũng hiền lành, dễ thân thiện hơn. Hai tuần ở đó hầu như ngày nào chúng tôi cũng có một bữa tiệc tổ chức tại nhà của các nghệ sỹ hoặc giáo sư trong trường. Tôi không thích đến những buổi tiệc đông người. Nhưng chính ở đây, trong những căn nhà thơm mùi vỏ cây sấy khô này, trong những bữa tiệc của bia vàng óng và rượu vang thơm phức tôi tìm được những tình cảm vô cùng đáng quí.
    Một bà già bé nhỏ mặc một chiếc áo dài trắng bằng vải thô, trên vai khoác chiếc khăn lụa màu vàng, không hiểu sao chúng cứ sáng lên lấp lóa, hai mút khăn như hai bàn tay vẫy, đứng đón chúng tôi dưới chân cầu thang gỗ ẩm và tối. Bàn tay bà nhỏ nhắn, ấm nóng và thơm mùi dầu. Bà tên là Hualing Nieh Engle, người Mỹ gốc Hoa, sáng lập viên của chương trình viết văn quốc tế trường Đại học Iowa.
    Chúng tôi theo bà lên lầu. Trong bóng tối những nếp váy chạm vào nhau loạt soạt. Mùi dầu nóng làm tôi thấy dễ chịu, như đang được về nhà mình.
    Người đã đến rất đông, ngồi trên những ghế nệm bọc nhung đỏ trong phòng khách hoặc đứng ngoài ban công đầy gió. Họ lịch lãm và duyên dáng trong những bộ lễ phục trong khi chúng tôi áo quần xộc xệch, thậm chí Gleb còn đánh một chiếc quần cộc ngang đầu gối màu xanh lá mạ. Bà Hualing nhỏ bé, gần như là lướt đi trên sàn với tiếng loạt soạt của áo lụa mới, mời mọi người dùng bữa bằng một giọng nhẹ và trong vắt.
    Cho đến lúc này tôi đã quen với kiểu ăn của Mỹ. Thức ăn thường béo ngậy vì pho mát, vì hương vị được tổng hợp từ đủ loại thịt trộn rau quả ướp lạnh, vì màu sắc lờ nhờ không gây được cảm tình và nó nhiều bằng gấp ba lần suất ăn của một người bình thường. Có lẽ vì thế người ta bảo dân Mỹ phàm ăn và số lượng người béo phì ngày càng tăng lên đáng kể.
    Nhưng thật sự là chúng tôi đã có một bữa ăn ngon tuyệt vời ở nhà của Sandy. Đó là đêm cuối cùng ở Iowa, sau hai tuần thân thiện và gần gũi, nên ai cũng có vẻ buồn buồn. Trời bắt đầu vào thu. Những rừng sồi bao quanh khu nhà của Sandy lá vẫn xanh biếc nhưng trên các bờ dậu, những chiếc lá thon nhỏ đã bắt đầu chớm đỏ như những cặp môi son thiếu nữ. Gió thổi hơi ẩm vào nhà đánh thức những bông cúc kim vàng nhạt đang thiếp ngủ trên bệ cửa. Ánh sáng dịu dàng từ chùm đèn pha lê tỏa xuống làm bữa ăn thêm trang trọng và cảm động.
    Mọi thứ đều giản dị nhưng tao nhã như chủ nhân của nó. Trên bàn người ta bày khoai tây hấp ăn với kem pho mát trắng tươi. Sườn heo rô ti màu huyết dụ theo kiểu Ấn đặt trên một chiếc đĩa sứ có viền vàng và chân bằng bạc. Một ít xà lách trộn với những quả ô liu tím thẫm đựng trong thố thủy tinh dùng với trứng luộc. Bơ chảy vàng óng trên những khoanh bánh mì nóng hổi. Có tới hai ba loại rượu trên bàn, như trong các bữa ăn Pháp. Sandy nói tiếng Pháp rất giỏi và yêu nước Pháp. Bà thường hay mơ màng về dòng nước xanh biếc trong lòng sông Seine, về ánh mặt trời màu hoàng yến khô ráo trên nóc nhà thờ Đức Bà Paris và mưa phùn ướt đẫm khu đồi Mongmac của các nghệ sỹ. Tôi không biết Paris đẹp và thơ mộng ngần nào, nhưng nhìn vào mắt bà tôi dám chắc chắn rằng trời Paris phải có màu xanh sâu thẳm như thế.
    Bữa ăn chỉ có tôi, Sandy, Gleb và Kote. Chồng của Sandy đi công tác đã hơn một tuần. Hai đứa con trai đều đang làm việc ở Boston. Lâu lắm rồi bà không gặp chúng . Cái cảnh sống một mình, ăn một mình, ngủ cũng một mình thế này quen rồi. Đến khi ở với chồng, với con lại thấy lạ lẫm. Lại thấy gò bó. Ở đây, con cái lớn lên là đi chỗ khác. Sandy nói bằng một giọng nhẹ nhàng. Coi như nghĩa vụ của cha mẹ con cái đối với nhau chấm dứt.
    Trong lúc dùng trà, một người Nga xa xứ đến đón Kote về nhà ông. Chúng tôi cũng dọn dẹp bàn ăn. Tối nay ở Hancher có biểu diễn ba lê. Nhưng khi chúng tôi đến nơi, màn cuối đã hạ. Gleb biến đi đâu mất hút. Sandy cười ý nhị, các cậu thanh niên bao giờ cũng thế. Có khi trong buổi tối này, cậu bé ấy sẽ gặp được một người trong mộng. Thấy tôi tỏ vẻ không tin, bà cười lớn, hãy đợi mà xem. Tình yêu đến với các nhà thơ rất nhanh và ra đi cũng rất nhanh. Cậu bé ấy lại là một người tình cảm...Mắt Sandy mơ màng. Điếu thuốc trên môi bà tỏa ra những vòng khói nhỏ xíu, cay cay ở mắt.
    Mười hai giờ khuya tôi đang ngồi gà gật dưới phòng khách đợi bạn thì cánh cửa khách sạn bật mở. Gleb mặt đỏ bừng, đầu hơi chúi về trước làm đôi vai gồ lên như bị gù ( cái dáng đi này làm anh có vẻ buồn rầu và khổ sở), bước xăm xăm tới cầu thang máy. Theo sau anh là một cô gái cao ốm, tóc vàng, trang điểm nhợt nhạt, mặc bộ áo quần bằng lụa đen, trông ra còn cao hơn Gleb cả một cái đầu. Gleb không thấy tôi. Chẳng mấy chốc thì họ đã biến mất.
    Sáng hôm sau, Gleb ngồi ở một góc xe, buồn thiu. Tôi quay xuống, nửa đùa nửa thật, đêm qua anh ngủ ngon chứ ? Gleb chớp chớp hàng lông mi dài sau cặp kiếng cận, mặt đỏ bừng lên, lúng túng, ôi Khê- đek, Khê- đek. Miệng cười một nụ cười như mếu.
    Khê- đek là tên Gleb đặt cho tôi. Không hiểu sao Gleb không bao giờ nhớ và gọi được tên tôi. Chúng tôi vốn ít chuyện trò với nhau. Nhưng dường như có một lúc nào đó chúng tôi đã phải lòng nhau.
    Bởi vì Gleb là một anh chàng rất đẹp trai, tóc hung, da trắng, môi nhỏ và đỏ như con gái, ngoại trừ chiếc mũi hỉnh rất Nga xô viết và toàn thân ướp nồng mùi thuốc lá. Gleb giống như một sợi dây tình cảm gắn liền vào quá khứ, vào cái thời chúng ta say mê hát những bài hát Nga, đọc những tiểu thuyết Nga bằng một tình yêu đắm đuối và mạnh mẽ. Mỗi lần nhìn Gleb, lại thức dậy trong lòng tôi hình ảnh của những hàng thùy dương hát, của những đàn sếu bay và những đêm trắng tươi đẹp ngự trị dài lâu trên thành Leningrad.
    Bởi vì ngay buổi đầu gặp mặt, anh chàng mặt lạnh như tiền, đưa tay cho tôi bắt mà không nói tiếng nào, không cười với tôi một lần nào. Đã thế tôi cũng làm lơ, không cần bắt chuyện nữa. Cho đến buổi tối trong sân nhà Slam ở Chicago, tôi phát hiện ra một anh chàng Gleb khác: hóm hỉnh, tinh tế và hồn hậu hơn nhiều vạn lần ấn tượng ban đầu của tôi.
    Năm ngày liền ở Chicago tôi không gặp được một người Việt nào, đi đâu cũng thui thủi môt mình. Giờ ngồi giữa khu vườn nhỏ có chiếc cổng gỗ bám đầy dây trường sinh xanh biếc, trông những ngọn đuốc nhỏ cháy sáng trong các góc tối, nghe tiếng đọc thơ trong phòng vẳng ra, tôi thấy nhớ nhà không sao chịu nổi. Có một bàn tay đặt lên vai tôi nặng trĩu và một giọng nói ấm áp vang lên " Cô thấy cô đơn à?" . Tôi ngẩng lên. Trước mặt tôi là anh chàng Gleb với nét mặt vẫn khó đăm đăm. Tôi bảo, phải, tôi thấy cô đơn. Tôi nhớ nhà. Gleb choàng vai tôi, cười dịu dàng " Vậy thì đi vào uống bia đi. Bạn sẽ thấy dễ chịu hơn". " Nhưng tôi sẽ nhức đầu". Gleb bảo, à bạn sẽ bị Khê-đek và khăng khăng bắt tôi phải phát âm cho kì được chữ này trong khi tôi chẳng hiểu nghĩa của nó là gì. Về dò từ điển không có, tôi đành cho rằng đó là một từ tiếng Nga đã được bỏ quên lâu lắm từ ngày tốt nghiệp Phổ thông Trung học. Buổi sáng gặp lại, Gleb hỏi tôi vồn vã " Khow-are you?" . Thế là tôi đã hiểu. Khê- đek là headache. Ở tiếng Nga không có chữ H mà chỉ có chữ X (khờ), nên bất kì chữ nào có mẫu tự H đều được Gleb đọc trại ra thành Khờ hết. Từ đó trở đi, gặp Gleb ở đâu, Lola cũng kêu ầm lên " Khow are you, Gleb?" làm anh chàng đỏ mặt tía tai.
    Từ đó chết tên tôi là Khê-đek. Còn tôi gọi anh là Xlep ( khờ lép)- Bánh mì.
    Sự tinh tế và ân cần của anh lúc đó đã làm tôi sửng sốt và ấn tượng. Giống khi anh nói cộc lốc " Đây là mùi vị Nga" khi hai chúng tôi dùng món salad gà với vốt ca trong quán ăn nhanh ở Maryland để lấy sức tìm đường về nhà. Anh cúi mặt xuống đĩa thức ăn. Tôi để ý thấy tay anh run lên nhè nhẹ. Anh nhìn chằm chằm vào mắt tôi, nài nỉ, đây là tối cuối cùng. Hãy uống một ly với tôi. Vì ly rượu này mà cả đoàn phát hoảng tưởng tôi đã mắc phải một căn bệnh nóng sốt trầm trọng. Sau đó suốt buổi tối là sự im lặng đến khó hiểu. Thậm chí chúng tôi cũng không nhìn nhau một lần nào. Cho đến khi chúng tôi ôm hôn nhau từ biệt, Bánh mì mới nói, như là câu tôi muốn nói nhưng cổ họng cứ nghẹn lại " Tôi sẽ nhớ bạn rất nhiều"
    Và đó cũng là vì tôi đọc được một câu thơ của anh trong bài "Nỗi buồn".
  7. ISA

    ISA Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/12/2002
    Bài viết:
    97
    Đã được thích:
    0
    Bến Đợi Chồng
    Tác giả: Nguyễn Thị Châu Giang
    Quán nằm chỗ bến sông dựng bằng lá tranh ẩm mốc. Sau lưng là con đường nhỏ dẫn về làng um tùm cây dại. Trước mặt là con sông không thấy bờ, nước lăn tăn như bạc vụn. Những hôm thuyền rời bến, nước đục lên một tí rồi lắng lại, trong leo lẻo, thấy từng viên sỏi nhỏ óng ánh dưới đáy nước. Trên bờ những cây gỗ mục nằm chất đống, chen lấn giữa đám cỏ gà cao nhồng.
    Chủ nhân của quán cũng nhỏ bé và cô độc hơn giữa mênh mông trời đất. Nhiên có đôi mắt một mí buồn rượi, da thịt trắng xanh như bước ra từ liêu trai. Mái tóc dài để xõa che khuất gương mặt tròn và nụ cười buồn đầy quyến rũ. Mỗi buổi chiều thu dọn ghế xong ngồi tựa cửa, tranh thủ thêu những chiếc khăn lụa nhỏ có hình chim bay lượn bên nhau để kịp gửi xuống chợ bán. Nhiên đẹp như tranh Tố Nữ. Nắng vàng cuối chiều trườn nhẹ trên bờ cỏ, hắt lên má Nhiên mầu hồng ấm áp. Nhiên cất tiếng hát "Ơi chàng ơi chim có bạn có bầy, thuyền có bến có sông sao lại để em năm canh gối chiếc chăn đơn đợi chàng..." Tiếng hát kéo dài qua những rặng cây ướt đẫm nước, rồi tan ra trước khi rơi xuống con sông đang chuyển dần sang mầu xám sẫm.
    Khách của quán đa phần là dân chài da nâu bóng như hun đồng, tóc bám bụi từng mảng lớn, vô tư và ồn ã. Thảng hoặc mới có người trên huyện ghé tạt qua vì tiếng đồn cô chủ quán xinh đẹp, quán có vẻ gì rất xưa cũ hơn là dừng chân uống nước. Họ đến từng người một nhưng ngồi lẫn trong đám dân chài, trầm ngâm nhìn Nhiên, xì xào bàn tán nhỏ to. Mắt họ vẩn mây đục. Họ nhấp môi vài chén nước thấy đắng chát, tay chân rã rời mà không ngỏ được một lời nào. Họ đến rồi đi như lá bay, tuần tự, lũ lượt không để lại dấu ấn gì, cũng không trách móc gì. Như xem một bức tranh, nó đẹp quá nhưng không thể nào của riêng mình được. Vậy thì ngắm nghía đã được thỏa thích rồi.
    Còn Nhiên, càng ngày càng thấy buồn, thấy quán thêm lạnh lẽo. Mỗi lúc nhìn thấy vợ con của những người thuyền chài ra đón chồng, lòng Nhiên lại chùng xuống. Có gì đâm nhoi nhói trong tim, ứa lên mắt những giọt nước trong suốt.
    Tôi bảo: "Nhiên ơi, lấy chồng đi cho nó đỡ cô quạnh". Nhiên cười buồn bã "Lấy ai bây giờ. Bọn họ tầm thường lắm". Những ngón tay Nhiên đan vào nhau mảnh dẻ và bắt đầu ửng đỏ. "Họ có yêu mình đâu, chỉ toàn yêu vẻ ngoài của mình thôi". Tóc Nhiên xõa dài xuống bờ vai tròn lẳn. "Hồng nhan truân chuyên lắm Nhiên ạ!". Nhiên cũng nhủ, ừ hồng nhan lúc nào phận cũng bạc.
    *
    Người đó tọc tạch đi trên chiếc xe đạp rỉ sét, bàn đạp cứ rên lên ken két, sau lưng chằng buộc một hộp đồ lớn, đi từ hướng thị trấn về đến chỗ quán của Nhiên thì dừng lại, ngó quanh vài giây rồi chậm rãi bước vào. Hôm ấy trời lạnh, quán vắng khách. Người khách quỳ xuống bên bếp lửa. Ánh vàng hắt lên mặt anh lộ rõ đôi mắt sáng, vầng trán phẳng như tạc bằng đá và đôi môi mím chặt cương nghị. Cả người anh toát lên vẻ mạnh mẽ lẫn yếu đuối giữa những đường nét đối chọi nhau trên gương mặt. Anh quay lại bảo "Chị làm ơn cho tôi chén chè nóng". Anh không giật mình, không sững sờ, thậm chí không để ý đến vẻ đẹp của Nhiên. Ðiều đó làm Nhiên xúc động. Cô đặt trước mặt anh ấm chè và vài phong bánh, nhỏ nhẹ "Anh về làng chơi?". "Không, tôi không có người quen ở đây. Tôi đến vẽ bến sông này. Chị biết ở đây có ai cho thuê nhà?". "Tôi không biết. - Nhiên ngập ngừng. - Thôi anh cứ ở tạm quán tôi. Bến sông ngay dưới kia, anh tha hồ vẽ". "Ðược thế thì tốt quá". Anh bước thẳng xuống bến, không một lời cảm ơn. Nhiên không thấy buồn, thấy giận chỉ cảm giác người mình chòng chành, từng đợt sóng nhẹ nhàng trào dâng trong lòng. Nhiên bước ra cửa, mắt dõi xa xa. Bóng anh in nghiêng trên nền trời xám bạc, một lát đã lẫn vào làn sương mỏng tỏa trên mặt nước. Một vì sao đột nhiên vụt sáng cuối chân trời rồi cũng bay đi mất hút.
    Buổi tối anh dặn dò kỹ lưỡng "Chị Nhiên ạ, sáng mai nhớ gọi tôi dậy sớm. Tôi chỉ có vài ngày ở đây, phải vẽ cho bằng được bình minh trên bến sông. Nó đẹp lắm phải không chị?". "Tôi thì thấy đẹp nhưng ở đây ai cũng bảo thường". Nhiên quay lại thấy anh đã nghẹo đầu ngủ ngon lành.
    Nhiên nằm im lặng, lòng xốn xang không ngủ được. Nhiên bước ra ngoài. Ðêm lạnh. Bến sông mờ mịt tối, in những bóng thuyền lờ nhờ như những chiếc lá khô nổi lềnh phềnh trên mặt nước. Tiếng gió rền rĩ như tiếng thở than của những người đàn bà. Nhiên hỏi "Các chị buồn ư. Hãy về đây nói chuyện với em. Ðêm nay em khó ngủ quá". Nhiên gục mặt vào hai bàn tay, lòng tự nhiên bâng khuâng.
    Mặt trời đã lên cao. Sương đã tan và những con thuyền đã rời bến. Nhiên nhìn anh ngủ, không muốn đánh thức dậy. Cô lặng lẽ làm mọi việc, gắng không gây tiếng động. Nhiên cảm thấy thương anh kỳ lạ.
    Khoảng mười giờ anh bừng tỉnh hốt hoảng nhảy xuống giường. "Ðã sáng rồi hả chị?". Nhiên cười "Ðã trưa rồi". Anh vò đầu bứt tai "Trời ơi sao chị không gọi tôi. Thật là...". Nhiên phân trần "Em thấy tội anh quá - Giọng Nhiên hơi nghẹn lại vì tự ái - Em xin lỗi". Anh xua tay "Thôi không sao, không sao!". Anh xách đồ nghề ra bến sông, ở suốt dưới đó cho đến tối mịt. Anh luôn miệng nhắc "Tôi chỉ có vài ngày làm việc ở đây, sợ không kịp mất". Vô tình anh làm Nhiên đâm sợ hãi thời gian.
    Một buổi sớm thức giấc. Nhiên thấy đầu giường mình có hoa dại. Những bông hoa cánh mỏng tang phết mầu mật ong óng mượt. Vài giọt sương còn đậu trên cánh hoa, lóng lánh như ngọc. Nhiên hớt hải chạy ra bến sông "Anh ơi..." Tiếng cô lạc vào trong gió. Gió lùa vào cô lạnh buốt. Nhiên rũ xuống. Mặt sông cuộn lên như muốn dìm Nhiên mãi.
    "Nhiên!". Nhiên ngẩng phắt dậy. Anh đứng trước mặt nhìn Nhiên cười hiền lành, hai gò má tái nhợt vì lạnh. Nhiên nhào đến anh, bật khóc "Em tưởng anh đi rồi. Em nghĩ là anh đã đi rồi". "Anh làm sao đi được - Anh vuốt tóc Nhiên, dìu cô về nhà - Anh còn phải vẽ em nữa kia mà". "Em ư?". "Phải, bé yêu". Anh đặt Nhiên nằm xuống giường, hôn cô âu yếm. Sóng trong người Nhiên trào lên cuồn cuộn rồi sôi chảy êm ái. Ðến một lúc nó tan ra ngọt lừ. Nhiên thiếp đi miệng nở nụ cười sung sướng.
    Mấy ngày sau quán vẫn mở nhưng tự nhiên chẳng ai đến. Bến nước thành ra buồn tênh. Nhiên ngồi cho anh vẽ, đắm chìm trong niềm hạnh phúc bất ngờ mình đang có trong tay, mắt đẫm nước. Nắng như tấm voan bằng vàng phủ lên tóc Nhiên, lên người Nhiên chạy thành một đường diềm trên ô cửa mở rộng. Anh luôn miệng xuýt xoa "Chao ôi, Nhiên ơi, đẹp quá đi mất. Em này, bến sông này, còn gì hơn nữa". Bức tranh hoàn thành vào buổi chiều cuối thu. Mưa phùn giăng kín ô cửa. Nhiên nhìn mình trong tranh, thốt lên ngạc nhiên "Em đẹp thế này sao?". "Còn hơn thế nữa. Nhưng anh không tả hết được. Thật khó lòng mà tả hết được em". Nhiên xấu hổ, dụi đầu vào ngực anh. Tiếng anh thì thầm "Một tháng rồi Nhiên nhỉ? Vậy mà anh chẳng muốn đi đâu hết".
    Nhiên tỉnh dậy, nhìn quanh không thấy anh. Nhiên nghĩ chắc anh lại ra bến sông vẽ nên dọn hàng xong mới ra gọi anh. Nhiên gọi mãi, không thấy anh trả lời. Cô chạy dọc theo bến sông. Mưa bay tới tấp vào mặt. Bến sông lặng ngắt. Cây cỏ dúi vào nhau ướt sũng. Nhiên ráng gượng đứng lên quay về nhà. Cô hiểu thế là anh đã đi thật rồi. Ðã đi xa khỏi cô thật rồi, không một lời từ biệt. Ðáng lẽ thì không nên thế. Nếu anh phải đi thì cũng nên nói với cô một lời... Nhiên đưa tay vuốt khuôn mặt ướt đẫm nước mưa và nước mắt.
    Nhiên lặng lẽ ngồi xuống giường. Dưới gối có một tờ giấy nhỏ, chữ viết vội vàng "Nhiên yêu quý, rồi cũng phải đến ngày hôm nay. Anh rất yêu em nhưng công việc của anh bắt anh phải đi. Em thông cảm chờ anh. Hãy chờ anh nhé, bé yêu, hôn em!"
    Nhiên gục xuống. Cô không khóc. Chỉ thấy mắt bỏng rát. Nước mắt chảy ngược hết vào trong như muối xát. Nhiên không còn khóc được nữa.
    *
    Thời gian thấm thoắt trôi qua. Những lùm cỏ dại bên sông ngày càng um tùm lút mất tầm mắt nhìn về bến. Ðến mùa xuân, hoa dại lại nở vàng óng như những cánh ****. Quán lại đông khách. Dân chài lẫn với người thị trấn lại đến uống nước vì trong quán có cô chủ quán xinh đẹp như thần tiên. Nhất là sau dạo mùa đông, nét đẹp ấy càng đằm lại, hanh hao như sương khói, như thể lúc nào cũng chực như tan biến mất.
    Chiều khách vãn dần. Cô chủ quán lại ra ngồi tựa cửa, mắt dõi nhìn xuống bến sông, tay âu yếm xoa bụng. Tôi giục "Sao không lấy chồng đi cho đỡ cô quạnh?". Cô cười vô tư lự "Mình phải đợi anh ấy về". Cô cúi xuống, tiếp tục cặm cụi thêu những con chim nhỏ trên khăn lụa kịp buổi chợ ngày mai, và hát "Ơi chàng ơi, chim có bạn có bầy, thuyền có bến có sông sao lại để em gối chiếc chăn đơn đợi chàng...".
    Cũng dạo ấy, trên những tờ báo lớn đều đưa tin "Lần đầu tiên Việt Nam đoạt giải lớn Mỹ thuật quốc tế". Bức tranh Bến đợi chồng được đánh giá rất cao về mặt nghệ thuật. Kỹ thuật ánh sáng, đường nét hài hòa, chắt lọc. Mầu sắc lung linh. Nhìn vào, người ta có thể thấy những cảm xúc về tình yêu, hạnh phúc đã từng một lần trôi qua đời mà ít người nắm bắt được. Bên cạnh tấm ảnh chụp tác giả bức tranh đang tươi cười đứng bên người vợ tương lai, con một họa sĩ lão thành tiếng tăm và bức tranh Bến đợi chồng. Cô gái ngồi tựa cửa, thấp thoáng phía xa con sông rắc bạc vụn. Những chiếc thuyền đánh cá nâu sẫm nằm phơi lưng lên trời chen giữa đám gỗ mục và cỏ gà. Nắng viền đường diềm lên ô cửa, thả tấm voan khắp người cô. Tác giả của bài viết về bức tranh Bến đợi chồng kết luận: "Ðôi mắt của cô ấy đẫm nước, lúc nào cũng như thầm thì "Em ở đây. Em đang đợi anh đây...". Thật hạnh phúc cho người đàn ông nào được cô ấy yêu thương và chờ đợi".
  8. ISA

    ISA Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/12/2002
    Bài viết:
    97
    Đã được thích:
    0
    Bữa Tiệc
    Tác giả: Nguyễn Thị Châu Giang
    Mưa lác đác từng hạt lớn. Sao vẫn nhì nhằng con mở con tỏ trên nền trời không một gợn mây. Trăng một vầng non tơ hoà với ánh đèn rải vàng trên khắp bờ cỏ, trườn lên những hàng ghế dựa, bám đầy lên quần áo. Bạn bè ngồi vây quanh chiếc bàn nhỏ kê dưới tán cây mít. Những chiếc lá mít to, hắt bóng đen sẫm xuống khiến không khí buồn buồn, dù tiếng nói chuyện vẫn lao xao. Mến kêu: ?oSinh nhật gì thế này. Mở nhạc to lên đi?. Người ta kéo hai cái loa từ trong nhà ra, đặt trên những thùng gỗ cũ chất ở góc sân. Nhạc vỡ ra ồn ã. Tiếng đũa gõ vào chén, tiếng chân dậm thịch thịch. Bầu không khí đậm đặc loãng ra đầy hứng khởi.
    Cách cổng sắt bật mở, rít lên ken két. Hinh hỏi to: ?oPhải Ngạc không?? Tôi giật mình quay lại. Hai cái bóng mờ mờ tiến lại gần, một nam một nữ. Thôi đúng là Ngạc rồi. Dáng đi lùi lũi vai hơi khòm, lưng bè ra vạm vỡ. Anh chẳng có gì thay đổi cả.
    Tôi rời ghế, chạy lại mừng rỡ: ?oAnh Ngạc!?. Ngạc tặng hoa cho tôi, hôn nhẹ nhàng lên má tôi: ?oÔi, anh nhớ em quá!?. Tôi đờ người. Một làn hơi cay xộc lên mũi. Tôi nhủ thầm: ?oMình đã nghe lầm? và lấy lại bình tĩnh. Nhưng bàn tay của anh vẫn nắm tay tôi xiết mạnh. Rất đau. Tôi liếc sang bên cạnh. Một cô bé con nhút nhát nhìn tôi cười. Đôi mắt mở to hơi ngơ ngác. Mến đến gần quàng vai Ngạc: ?oÊ này, giới thiệu đi chứ?. Ngạc ngớ người: ?oQuên mất, đây là Thiên, bạn gái tôi?. Trán hơi cau lại vẻ tự ái nhưng cô vẫn cười. Tôi tôij nghiệp: ?oAnh Ngạc với Thiên vô nhập tiệc đi. Cũng vừa mới bắt đầu thôi?. Mến hí hửng: ?oSinh nhật của Tiên là nhất. Có người muôn năm cũ quay về?. Tôi kéo mạnh áo Mến làm cậu ta ngượng im bặt. Tôi trịnh trọng giới thiệu: ?oĐây là anh Ngạc, đây là Thiên, bạn gái anh Ngạc. Ở đây ai cũng biết anh Ngạc rồi. Còn một nhân vật quan trọng ?" Tôi dừng lại hắng giọng ?" Anh Lẫm, bạn trai em?. Mọi người gật đầu chào nhau rồi lại cắm mặt ăn như chẳng biết gì ngoài việc ấy. Tôi bối rối. Tất cả mọi người ở đây đều biết chuyện giữa tôi và Ngạc. Chỉ có Lẫm và Thiên là hai người tới sau. Họ tin tưởng hoàn toàn vào hạnh phúc họ đang có.
    Nhạc chuyển sang một bài hát buồn. Những mối tình dang dở thường rất buồn. Tôi đề nghị ?ođổi nhạc?. Lẫm can: ?oĐừng em, Anh thích nó? và lại vô tư cười, mắt mơ màng nhìn ra xa. Tôi thở phào. Thật may vì cả Thiên lẫn anh Lẫm đều chưa nhận ra điều gì khác thường cả.
    Ngạc hết nhìn tôi lai ngọ nguậy người, chén đã đầy thức ăn nhưng vẫn máy móc gắp tiếp thức ăn trên đĩa. Anh đang bối rối. Đúng là anh đang bối rối. Tôi thấy mình lại bắt đầu tò mò hệt như lần đầu tiên thấy anh ngồi một mình trong quán ăn, chén đầy ngập mà vẫn lơ đãng gắp. Tôi hỏi: ?oAnh sao thế?. Ngạc cúi đầu: ?oAnh tiếc?. Không, đúng ra là anh đang bối rối. Với cô bé con ngồi sát bên anh.
    Một vài đôi rời bàn ăn ôm nhau nhảy. Sau mỗi bữa tiệc nên nhảy như thế để dạ dày nhẹ bớt hơn là nhu cầu giao lưu tình cảm. Cô bé con háo hức. Tôi từ chối Lẫm: ?oHôm nay em không muốn, xin lỗi?. Lẫm dìu cô bé ra giữa sân. Một đám mây lớn nuốt chửng mặt trăng vào bụng. Mưa tiếp tục đầy lên. Tôi dúi miệng vào lòng bàn tay, bật cười. Lẫm ngước nhìn tôi, cau mày khó hiểu.
    Đến giờ Ngạc phải đưa Thiên về. Một lúc thì quay trở lại. Bây giờ mọi người đã tản mác hết. Ra đến cổng, Lẫm nhìn vào mắt tôi, hôn rất sâu vào môi tôi: ?oNgủ ngon nhé, bé?. Tim tôi nhói đau. Tôi không biết anh có nhận ra điều gì bất thường không.
    Tôi kéo ghế ngồi trước mặt Ngạc. Anh đăm đăm nhìn mặt đồng hồ mờ nước: ?oCòn sớm, tụi mình đi dạo chút nghe Tiên??. Tôi cười khẽ: ?oAnh hệt như xưa?. Tôi bứt mạnh môt lá cây làm nước bắn tung toé. Anh phá cười: ?oEm cũng có khác gì đâu?. Chúng tôi chậm rãi đi ra đường. Tôi không thể nào dứt ra được hình ảnh ban đầu cả anh trong quán ăn ẩm mốc. Chén ngày càng đầy thức ăn nhưng anh nhất định không ăn miếng nào.
    Nhanh thật. Đã trôi qua một năm. Mà cũng có thể là hai năm. Từng cặp tình nhân đi dạo trên những con đường nhỏ, giữa trời Noel se lạnh. Anh lơ đãng nghe tôi nói, ngẩn ngơ nhìn cô gái đi đằng trước. Một cô gái đẹp và quyến rũ. Anh hỏi: ?oĐẹp phải không??. Tôi im lặng. Cô gái sửa lại dáng. Anh ngạc nhiên: ?oEm sao thế??, ?oEm đang tự hỏi nếu cô ấy ngồi sau lưng anh lúc này, cô ấy nghĩ gì?? ?oEm lại ghen vớ vẩn?, ?oKhông, em buồn?. Anh là một người thích đẹp. Tôi chỉ là cô gái bình thường. KHông, tôi chỉ buồn. Có thể khóc lên được.
    Nhưng mẹ bảo khóc vì những chuyện như thế là ngơ ngẩn. Hãy để dành đến một lúc nào đấy. Và tôi để dành.
    Ngạc vuốt tóc tôi: ?oEm có muốn đi làm không??, ?oCông việc thế nào??, ?oRất đơn giản. Họ muốn em đưa ra những ý tưởng độc đáo để làm quảng cáo?, ?oNhưng em chưa tốt nghiệp?, ?oCòn anh đã đi làm từ năm mười sáu tuổi?, ?oEm không biết Anh văn và vi tính?, ?oAnh cũng không biết nhưng anh đã học. Bây giờ thì không gì là không biết?. Tôi nhằn: ?oLúc nào anh cũng so sánh anh với em?, ?oVì anh vào đời sớm hơn mà?. Anh vẽ ra trước mặt tôi thiên đường đầy kẹo. Tôi lạc đường đành ở lại trong đó.
    Tôi đến công ty. Sếp là một người đàn ông đẹp trai, phong trần, nụ cười bặt thiệp và duyên dáng. Sếp dẫn tôi đi các phòng, giải thích công việc, giới thiệu tôi với mọi người như tôi là nhân viên văn phòng. Trở về phòng, sếp hỏi: ?oThế nào cô??, ?oRất tuyệt ạ?. Trong bụng tôi thầm nghĩ, như thế là mình lạc nghề rồi. Quảng cáo không thể, không phải là công việc mình chọn, Tiên ạ.
    Ngạc nhăn mặt: ?oEm thật trẻ con, chứ?
    Tôi cảm thấy khó khăn khi nói câu: ?oXin lỗi?? Nhưng sếp đứng dậy và bảo: ?oTôi hiểu?. Sếp chìa tay ấm ra trước mặt. Từ đó sếp trở thành Lẫm của tôi bây giờ từ khi cả tuần Ngạc không gọi điện lại. Ngạc đi công tác xa mà không nói với tôi một tiếng nào.
    ?oCô ấy còn trẻ con lắm? - Ngạc bảo. Tôi bật cười: ?oNgày xưa anh cũng bảo em trẻ con. Người ta thì nghĩ khác. Họ bảo em già trước tuổi?, ?oVì sao??, ?oVì yêu anh. Em cảm thấy đau khổ vì yêu anh?.
    Anh luôn kể cho tôi nghe về những người bạn gái của anh. Những mẩu ký ức được nghiền nát, xay đi xay lại nhiều lần. Trong đó có Linh duyên dáng và dịu dàng. Mỗi lần nhớ đến người ấy, anh lại bối rối.Chén vẫn đầy thức ăn nhưng anh vẫn tiếp tục gắp. Anh đau đớn. Anh không biết rằng tôi cũng đau khổ không kém gì anh. Ôi, những mối tình đầu dang dở thường hay buồn và khó quên. Thật khó quên.
    ?oSao không bao giờ em nói với anh về chuyện đó?? ?oAnh cho em là nhỏ nhặt. Có bao giờ anh chịu hiểu em. Lúc nào anh cũng cho mình là đúng.? Ngạc im lặng. Điếu thuốc quơ một vòng trong bóng tối. ?oBuồn cười, hồi đó em đã nghĩ anh là một người bạn thân sẽ tốt hơn là người yêu. Bây giờ em vẫn nghĩ ?" Tôi kéo cao cổ áo ?" Anh tốt và chiều tất cả nhiều người bạn gái mà anh quí. Nhưng trong tình yêu, không có từ ?otất cả?. Còn Thiên, hy vọng cô ấy khác. Cô ấy sẽ chịu đựng được?. ?oEm đang phán xét anh?. ?oĐấy ?" Tôi cười ?" Anh lại không hiểu em rồi?.
    Chúng tôi quay trở về. Mưa nhẹ và đều hơn như phải bụi vào mặt. Tiếng chân bước trên cỏ ướt lụp phụp. Vài con côn trùng ngái ngủ, kêu rền rĩ.
    ?oEm muốn anh đối xử với Thiên đừng như với em. Đừng khơi dậy quá khứ làm gì. Cô ấy yêu anh lắm?, ?oCô ấy cũng biết là anh yêu em. Anh luôn nhớ em, Thiên không thay được chỗ của em trong anh?, ?oNhưng anh Lẫm thì thay được?. Tôi lại cay xè mũi. Tôi có nói dối mình không khi ở bên Lẫm tôi lại quay quắt nhớ Ngạc? Ôi, không thể nào dễ dàng quên đi mối tình đầu được. ?oLẫm có biết chuyện chúng mình không?? - Ngạc nhấn mạnh từ ?ochúng mình? với vẻ cay đắng hiếm có. Hai gò má đẫm nước của tôi lạnh buốt. Cả bàn tay và người cũng lạnh. Anh ấy thông cảm và bỏ qua hết những chuyện xưa của em?, ?oThế em có tiếc không??, ?oEm chỉ tiếc là không hiểu anh sớm hơn, từ lần đầu gặp anh trong quán ăn. Em đã hỏi anh sao thế. Và anh trả lời: ?oAnh tiếc??. Em thật tò mò. Nhưng thật lòng em yêu anh?. Tiếng tôi nhẹ bỗng như gió thoảng. Tôi muốn khóc.
    Bất thần Ngạc cúi xuống hôn tôi. Nụ hôn lơ lửng rơi trên trán. Tôi lách người ra, hoảng hốt: ?oĐừng anh Ngạc. Em yêu anh. Em yêu anh Lẫm. Em đã cho anh tất cả. Còn anh Lẫm thì chẳng có gì, ngoài tình yêu của em. Đừng kéo em ra khỏi anh ấy?. Nước mắt tôi chảy ra nhoè nhoẹt. Tôi thấy khó thở. Chúng tôi im lặng. Sau cùng tôi hỏi: ?oAnh giờ làm ở đâu??, ?oTháng sau anh chuyển sang công ty mới. Ba bốn công ty rồi nhưng anh chưa tìm được chỗ của mình?. Chúng tôi lại im lặng suốt quãng đường về còn lại.
    Tôi tiễn Ngạc ra cổng. Tôi nhìn rất lâu gương mặt yêu dấu của anh, vuốt lại mớ tóc bồng đẫm nước trên trán anh và bảo: ?o Anh lẫm yêu em và hiểu em khủng khiếp?.
    Nhưng tôi vẫn khôgn dứt ra được hình ảnh thiểu não cuả Ngạc bên chén thức ăn đầy ắp, tay vẫn gắp lia lịa mà không ăn một miếng nào trong quán nhỏ ẩm ướt. Ra khỏi quán, anh là người đầu tiên nói: ?oôi, anh đói quá!?.
    Và cho đến bây giờ anh ấy vẫn đang là người đói
  9. ISA

    ISA Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/12/2002
    Bài viết:
    97
    Đã được thích:
    0
    Biển Trên Núi
    Tác giả: Nguyễn Thị Châu Giang
    Tôi sinh ra ở biển. Lớn lên ở biển. Và sau này rồi cũng sẽ ra đi từ biển. Suốt những năm thơ ấu, tôi đứng trên bờ. Chân trời rất có thể là tấm khăn lụa xám trong đêm mù. Cũng có thể là chiếc cầu tuổi nhỏ không bao giờ tôi qua hết được.
    Cha tôi ngồi còng lưng tỉa lá sâu trên bụi hoa chưa lúc nào ra hoa, trầm ngâm: "Cuộc đời có rất nhiều... Sau lưng và trước mặt bao giờ cũng có những chiếc cầu như vậy!" Tiếng sóng vội vào vách đá như tiếng mưa rào. Một lát lại buồn buồn như tiếng ai khóc hờ trong gió. Tôi hỏi cha câu hỏi cũ như tiếng băng cassette quay lại cũ mèm: "Thế cây này không ra hoa hả cha? Thế cha đã qua được bao nhiêu chiếc cầu rồi hả cha?". Cha không trả lời. Mẹ cũng không trả lời. Chỉ có tiếng một con chim lạ bay vụt qua mái nhà. Kêu những tiếng khàn, đục như tiếng đêm.
    Một đêm tôi nhìn ra cửa sổ. Trăng lấp liếm sau bóng mây, tỏa một thứ ánh sáng mờ xuống góc vườn. Mùi hương dại ở đâu ngào ngạt, thấm vào môi, vào lưỡi ngòn ngọt. Tựa như lần đầu mình được ăn chiếc kẹo bi màu xanh đỏ. Chao ôi là thơm và ngọt. Tôi giật mình kinh ngạc. Từ bụi hoa không bao giờ ra hoa, một quầng sáng lung linh xuất hiện. Đó là một bông hoa màu đỏ rực lên như lò than, nở bung trên cành khẳng khiu. Cổ họng tôi nghẹn lại. Nỗi vui sướng vỡ ra dần thành những giọt nước mắt trong suốt. Chuyện gì xảy ra như trong mơ, như trong chuyện cổ tích thần tiên của tuổi thơ. Bởi vì sớm mai bụi hoa vẫn xanh ngắt một màu lá. Tôi ngẩn ngơ đi giữa những bụi cây. Mọi người nhìn tôi thương hại. Riêng mẹ bảo: "Con gái lớn rồi. Đi với me lên Đà Lạt. Ở với dì Ba năm bữa nửa tháng, thay đổi khí hậu!". Tôi ôm mẹ, cười mà lòng vẫn ngơ ngẫn "Thế nào cũng được. Nhưng rõ ràng đêm qua một bông hoa đã nở. Rõ ràng là mình đã thấy nó. Mình không quên là mình đã nhìn thấy nó!" Rồi tôi nghĩ, hẳn Đà Lạt cũng sẽ đẹp như quầng sáng lung linh trong đêm trăng non. Những tiếng lá thông hồn nhiên và những bờ sương mù tỏa khói. Những kỷ niệm khó quên. Nhưng quan trọng nhất, hẳn rằng Đà Lạt sẽ vui hơn vùng biển của tôi.
    Nhưng Đà Lạt thì khác hẳn! Cả thành phố như được ướp trong nước đá. Mỗi buổi chiều những tảng đá được hun nóng, nhỏ nhễu nhão vài giọt lên mái tôn. Khoảng bốn giờ chiều, đã thấy âm u và buồn. Nhất là buồn, thấy nhà dì Ba ai cũng nằm thở dài trên tràng kỷ. Con Út bảo: "Hồi nào em xuống biển chắc vui hơn!" Tôi cười trừ trong bụng "Vui gì! Cũng thế thôi. Chỉ được cái tưởng tượng..." Tôi lấy xe đạp của con Út, đạp vòng quanh thành phố. Đất gì bé bằng lòng bàn tay mà bao nhiêu là cây cối. Lá thông réo như tiếng nước sôi. Nhiều lúc giật mình tưởng mưa rào đang trút xuống. Đạp xe ngược dốc, gió thổi muốn bay cả xe mà nghe mồ hôi ra ướt đẫm áo. Tôi thò đầu qua một lỗ rào nhỏ. Cơ man nào là hoa mọc với dây tơ hồng. Những bông hoa to bằng cái bát. Sương buổi chiều bâu trên cành hoa như những giọt hương tiết ra từ nhụy. Tôi rụt người suýt nữa bị gai hàng rào cào toạc áo. Bỗng dưng thấy muốn khóc. thấy lòng nao nao. Thấy nhớ quay quắt bụi hoa không bao giờ ra hoa của cha, lúc nào cũng xanh ngắt một màu tội tội. Hẳn lúc này cha cũng đang còng lưng ngồi nhổ lá sâu vào bảo thầm: "Sau lưng và trước mặt bao giờ cũng có những chiếc cầu như vậy!" Mà cha thì chưa bao giờ thấy được bông hoa đỏ rực đã nở vào một đêm nào đó của tháng Năm. Chưa bao giờ cha được sống với một đêm kỳ ảo như thế của tháng Năm.
    Tôi nằm dài trên bãi cỏ. Không nghĩ gì, không buồn gì. Chỉ thấy lòng đương rất dễ chịu. Nắng đã làm tan hết giá, mặt đất ấm lên và tỏa mùi nhựa thông nồng nồng.
    "Mùi đất thật quen thuộc - Tôi thầm nghĩ - Nó gợi mình nhớ đến điều gì nhỉ? À, những miền đất thơ ấu. Mình đã từng nghĩ đến, càng lớn mình càng hay nghĩ về những miền thơ ấu ấy. Dù sao điều đó cũng không vô ích... ". Tiếng con Út vang lên lảnh lót như những bóng nắng chạy trên lá:
    "Anh mang hoa gì ra chợ vậy?"
    "Bông mặt trời".
    "Xạo hoài, bông bất tử đấy!".
    Tiếng cười bật lên trầm và hóm. Tôi ngóc đầu dậy. Con Út đã biến mất. Một thằng con trai với đôi mắt đen nháy nhìn tôi không chớp.
    "Chị ở đâu lên vậy?".
    Tôi cười: "Dưới biển".
    "Tốt rồi" - Nó cũng cười. Nụ cười ngộ nghĩnh. Nhưng đẹp. "Tôi cũng thích biển".
    "Thế lại khác - tôi nghĩ - ở dưới biển với thích biển thì khác nhau xa. Khác rất xa...".
    "Biển đẹp lắm phải không chị?"
    "Ừ, chắc là thế! Biển rất xanh và rộng, và có nhiều sóng tung bọt trắng xóa. Buổi trưa trên biển đầy vàng!".
    "Tôi biết rồi! Tôi đã thấy rồi!"
    "Ở đâu?". Bổng dưng lòng tôi như có sóng trào lên. Tôi nhớ những dải cát ướt mịn. Nhớ và thương những buổi chiều ngồi đợi sóng hồn nhiên đưa mặt trời vào bờ. Và những chân cầu tuổi thơ. "Đó, chị thấy chưa?" Nó đưa tay chỉ lên trời. "Biển rất xanh và có nhiều sóng. Những đám mây trắng là sóng. Sóng xô thuyền bồng bềnh". Tôi nheo nheo mắt. Đúng là biển, biển thật rồi! Chỉ có điều chiếc cầu tuổi thơ đã biến mất. Hay chính là tôi đã bước qua hết chiếc cầu tuổi nhỏ ấy? Hay chắc là chiếc cầu ấy đã ở sau lưng? "Chị ngồi chắc vào! Thuyền đang trở buồm. Và chúng mình sẽ trôi đi mãi!" Tôi cười sung sướng như đang được tung mình trong biển cả. "Chúng mình sẽ trôi đi mãi. Thấy chưa, biển rất xanh và nhiều sóng to trắng xóa". "Biển có nhiều mặt trời nữa!". "Thật à? Vậy mà tôi không biết!". Nó cười, nhìn thúng hoa bất tử. "Mỗi bông hoa là một mặt trời. Rất nhiều mặt trời". Tôi mơ màng: "Hai chúng mình cũng là hai mặt trời. Những mặt trời không sợ bão!".
    Nắng lên được một ngày nữa rồi mưa tầm tã suốt ba ngày. Tôi đứng ở cửa sổ nhìn ra ngoài. Cây cối làm mình làm mẩy trong mưa. Vật gì cũng bị bạc màu phân nửa nom ảm đạm và buồn bã. Dì Ba nhìn tôi tội nghiệp: "Năm nay trở trời mưa hoài!" Tôi cười xòa để dì vui lòng: "Cũng tốt dì ơi. Đỡ mỏi chân...". Mà thật ra lòng bứt rứt khó chịu. Tôi thò cổ ra ngoài. Lạnh ngắt như kim châm. Biển đã chuyển sang màu xám chì và lạnh ngắt như kim châm.
    "Dì với Út về đi. Mai mốt con lại lên!" Bóng mẹ con dì khuất dài sau màn mưa trắng như bụi, càng lúc càng nặng hạt. Tôi đứng chần chừ dưới mưa, rụt người trong tấm áo phông màu nước biển. Tôi không hiểu mình đang chờ đợi gì ở những con người bước lầm lũi dưới mưa kia! Chỉ biết rằng tôi mong chờ lắm như vào những đêm tháng Năm xa xôi. Có ai đó níu vai tôi rất mạnh, hơi thở phả ấm gáy: "Tặng nè". Nó đưa cho tôi một bộc hoa gói kín, cặp mắt đen buồn buồn.
    "Hoa gì vậy?".
    "Bất tử".
    "Không phải - tôi cười - Hoa mặt trời. Bông mặt trời nhỏ".
    Tôi ngó lên trời. "Hôm nay không có biển".
    "Khỏi, Biển trên áo đây rồi. Cần gì..." Nó mím miệng bước đi.
    Tôi áp mặt vào cửa kính, thấy buồn, thấy thương nó liêu xiêu trên con đường xanh ngắt một màu cỏ và cây. Mới chợt hiểu ra mình chờ đợi điều gì từ bấy đến giờ. Mai này có thể quên - Tôi nhắm mắt thầm nghĩ - Nhưng những ngày này, những kỷ niệm này đã thật đẹp hơn điều mình nghĩ!
    Tôi lại ra đứng trước biển. Thấy chân trời là chiếc cầu bằng lụa xám chưa bao giờ tôi qua được. Tôi lại ngồi nhìn cha tỉa lá sâu trên bụi hoa không bao giờ ra hoa và đêm đêm ra đứng ở cửa sổ để chờ mong một điều kỳ diệu nào đó sẽ xảy ra. Lúc ấy gió bắt đầu lên và thổi lanh như gió Đà Lạt. Tiếng cha trở mình trên chõng và nói mê: "Cuộc đời có nhiều... ".
    Một buổi chiều dọn dẹp nhà cửa, bỗng nhiên một bông bất tử lăn ra từ góc tủ. Sắc vàng của nó ánh lên như một quầng lửa đỏ. Tôi nắm chặt mặt trời nhỏ trong tay, thẫn thờ. Vì tôi chợt nhớ rằng , hình như có một lần nào đó, tôi đa đi qua và để lại sau lưng mình chiếc cầu bằng lụa xám của tuổi thơ. Và chắc chắn là đã có một lần như thế...
  10. ISA

    ISA Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/12/2002
    Bài viết:
    97
    Đã được thích:
    0
    Cửa Hiệu Đồ Cũ
    Tác giả: Nguyễn Thị Châu Giang
    Chúng tôi đến Sonoma vào một sáng sớm mùa hè. Những ngôi nhà còn thiếp ngủ. Những cửa kính của những tiệm ăn và các quầy lưu niệm đóng im ỉm với những tấm bảng bằng bìa các tông vẽ hai chữ " Ðóng cửa" bằng mực đỏ treo lơ lửng trên những tay cầm mạ vàng đã phai màu. Gió thổi làm những chiếc chuông gió kêu vang lảnh lót. Không khí tĩnh lặng và oi ả. Thậm chí thỉnh thoảng có thể nghe được tiếng ho khan của một người đàn bà vọng ra sau ô cửa hay tiếng bước chân của một chàng trai dậm thậm thịch trên những bậc tam cấp gỗ. Chỉ có một vài chiếc xe hơi chạy ngang qua đường. Tiếng máy rù rì buồn bã kéo theo những sợi khói mỏng xám nhạt phả ra từ ống khói trên nóc các ngôi nhà nhỏ.
    Chúng tôi ngồi uống cà phê trong một quán nhỏ có cái tên buồn cười " Deaf Dog" (Chó điếc) với cô hầu bàn to béo, hai má đỏ hồng như hai quả đào và hàm răng sáng lấp lánh, với những tấm kính cửa bẩn thỉu, chi chít vết xước, với khói thuốc và mùi cà phê ngào ngạt. Ðó là cái quán duy nhất phục vụ sớm và thường ưu tiên phục vụ cho các văn nghệ sỹ. Chúng tôi ngồi đó để chờ khai mạc buổi đọc thơ " Petaluma Poetry Walk" với các nhà văn địa phương, trên những chiếc ghế gỗ cũ kĩ, mà mỗi một cử động mạnh đều có thể làm chúng kêu lên rầm rĩ.
    Khoảng chín giờ, đường phố đã bắt đầu tỉnh ngủ. Ánh mặt trời chiếu nóng gay gắt, rọi qua tấm kính những tia sáng vàng ánh. Tôi đẩy cửa bước ra ngoài. Hơi nắng phả vào mặt tôi nham nháp. Những ngọn gió hiếm hoi cố gắng làm buổi sáng dịu lại. Nhưng dường như đó là một sự cố gắng vô ích khi lưng áo tôi bắt đầu ướt đẫm mồ hôi.
    Tôi rẽ ngang vào một tiệm bán đồ cổ có hai cánh cửa gỗ lên nước đen bóng và một chú chó đá nằm khoanh tròn trên bậc cửa. Một bầu không khí tranh tối tranh sáng quyện chặt với mùi hương xưa cũ , ấm áp và day dứt kéo tôi về lại những phố nhỏ yên bình ở Hội An. Bất chợt trong một giây phút nào đấy, tôi nghĩ là tôi đã không tồn tại trong con người của tôi. Con người của một thế kỷ hiện đại, tân tiến. Bởi vì bất kì đồ vật nhỏ bé nào nằm trong góc nhà hay trên những kệ gỗ mọt cũng gợi lại một thế giới cũ huyền ảo và xa xăm. Tất cả bọn chúng được thời gian khéo léo trang điểm bằng một lớp bụi màu vàng xám . Tác dụng cuối cùng của nó là luôn làm người ta có thể khóc lên vì sự xơ xác của chúng nhắc đến những năm tháng của tuổi xuân. Tươi đẹp nhưng không bền vững.
    Những con búp bê vải nhàu nát và bẩn thỉu treo tòng teng trên dãy đinh rỉ trên tường. Tóc tai chúng xổ tung ra. Những chiếc nơ đỏ tươi đã phai thành màu hồng xỉn thắt vội vã rơi hẳn xuống ngực . Có con áo rách vá chằng vá đụp bằng những miếng vải sặc sỡ nhưng nhờ thời gian đã làm chúng hòa vào nhau trong một màu xanh xám lợ nhợ. Chúng có những khuôn mặt ngờ nghệch với má đánh phấn hồng rực và môi kẻ son đỏ chót. Nhưng cặp mắt kết bằng hai chiếc cúc xanh trong veo luôn ánh lên những tia nhìn xoi mói và ranh mãnh. Những chiếc chuông gió bằng bạc treo từng chùm dưới xà gỗ cứ rung lên bần bật và thỉnh thoảng lại cười ré lên ầm ĩ làm tôi giật bắn mình. Ngay lập tức những con thú nhồi bông cũng ngả nghiêng cười và ông bán hàng to béo đập mạnh hai tay vào nhau, bộ ria mép quăn tít lại. Ông bảo, cô lên lầu coi tiếp đi. Trên đó còn nhiều vật quí giá lắm.
    Những đồ vật quí giá của ông là như thế này. Những chiếc áo lụa dài màu hồng viền đăng ten lỗ chỗ vết gián nhấm. Những chiếc áo ngủ ố vàng. Những chiếc nón thời Scarlet bằng sa tanh đen với những dây cột lụa màu hồng nhàu nhò và cũ bẩn. Những chiếc quần nỉ đi ngựa màu lông chuột. Những chiếc giày da sờn tróc loam nhoam. Những chiếc nôi mây lên nước bóng loáng với những tấm khăn lót bằng nỉ xám nhạt kẻ sọc đen. Những chiếc đèn dầu gỉ sét bám đầy muội. Tất cả bọn chúng được xếp chồng xéo lên nhau hoặc đặt trong những tủ gỗ chia thành nhiều ô nhỏ, hoặc trên những ghế bọc nhung màu mận chín. Trong một tủ kính nhỏ người ta đặt những chiếc xà tích bằng bạc, những vòng tay và hoa tai cũng bằng bạc nhận đá xaphia, những chiếc fula lông thỏ tróc từng mảng lớn để lộ lớp da màu tím nhạt. Những chùm hoa giả bằng vỏ bào và vải quấn, vì quá nhiều thành ra như bị vứt lăn lóc trong những góc tối. Cô bán hàng mặc chiếc áo thun kiểu Korea màu nõn chuỗi nhìn tôi chúm chím cười, chào "How are you ?".Cô sẵn sàng dành tặng cho tất cả các khách hàng mua hoặc không mua bất kì món hàng nào của cô nụ cười tươi xinh này, câu hỏi thăm thay lời mời chào này. Ở tất cả các cửa hàng khác trên đất Mỹ, tôi đều gặp được không khí thân thiện như vậy. Nó làm tôi tự tin và luôn luôn thoải mái.
    Tôi coi giá một chiếc áo ngắn bằng vải xô trắng tay phồng cổ cột dây, hai sợi đăng ten bị đứt rời trên ngực, chỉ còn đính một đầu mút phía trên, bay lơ phơ trong gió. Giá của nó là năm mươi tám đô. So với một chiếc sơ mi trắng hiệu Guess chỉ có hai mươi chín đô thì quả thật nó quá đắt. Nhưng ông chủ tiệm gãi đầu, nhìn tôi phật ý, sao cô so sánh thế được. Ðây là đồ cổ. Chúng có từ thời ông bà nội ngoại chúng tôi còn trẻ. Nó quí ở thời gian chứ đâu phải ở chất lượng. Trước khi quay đi, ông thòng thêm một câu, nhưng cô vẫn có thể trả giá mà. Cô bán hàng cũng bảo, phải đấy. Rồi dẫn chứng cho tôi thấy đã có bao nhiêu người tới đây mua những món đồ cổ với giá cắt cổ như thế nào và họ sung sướng như thế nào khi có được trong tay cái gì đó gọi là quá khứ.
    Ở Sonoma những cửa hiệu như vậy không nhiều. Nhưng chúng tập trung trên cùng một con đường chính của thị trấn nên tôi có cảm giác dân thị trấn sống chỉ bằng nghề buôn bán đồ cổ và souvernir. Sự trân trọng mà người ta dành cho những cổ vật , màu sắc quá khứ ngự trị trên từng bức tường kính, trên từng ô cửa sổ gỗ mọt, trên từng viên gạch lót nền, trên mỗi nụ cười hiền lành và kín đáo của những cô nàng chân dài đi dạo trên phố .làm tôi xúc động. Sự xúc động đó tôi cất giữ từ những ngày gặp Hội An, sống trong bầu không khí cổ kính rêu phong của dân phố Hội từ những năm còn đi học . Bây giờ có dịp, nó lại sống dậy như thởu nào, ở một nơi cách Hội An nửa vòng trái đất.
    Ba giờ chiều Bob dẫn chúng tôi vào một cửa hiệu nhỏ, nằm xen giữa những hiệu đồ cổ, để mua thêm quần áo ấm. Ngày mai chúng tôi sẽ rời San Francisco đi Grand Canyon. Mùa này ở Ðại vực giá lạnh, đôi khi còn có mưa và sương mù. Theo như lời Bob, đây là một tiệm cũng bán đồ cũ, nhưng giá rẻ bất ngờ.
    Là bởi vì cửa tiệm này dành cho người nghèo. Những cánh cửa kêu rên ken két. Trần nhà thấp và không hiểu sao trong những ngăn đựng quần áo lại tỏa ra mùi sát trùng. Lúc chúng tôi bước vào, tiệm đã đông khách. Chủ yếu là các bà già mặc những chiếc váy hoa sờn, nón đội bung đường chỉ, chân đi những đôi vớ ngắn ngang đầu gối. Những ông già đeo kính mát gãy gọng, áo khoác ngoài nhàu nhò, chân đi những đôi giày rẻ tiền tróc xi. Họ lần giở những bộ áo quần cũ, run run đưa chúng ướm lên người và chậm chạp móc trong túi ra những tờ bạc lẻ, những đồng một xu rỉ sét. Tuổi già làm họ càng trở nên buồn bã và cô độc. Ông già đứng bên cạnh tôi, miệng thở ra mùi rượu và khói thuốc, mặt luôn ngơ ngẩn trong khi vụng về chọn một chiếc váy con nít. Khi nghe tôi khen chiếc váy ông cầm trên tay khá đẹp, ông cười sung sướng, đôi môi kéo mỏng như hai sợi chỉ. Ông bảo, tôi mua cho cháu gái tôi. Nó là con của con gái tôi. Ông nheo mắt, Năm nay nó đã bốn tuổi rồi. Tôi bảo, bốn tuổi thì chiếc váy này lớn quá. Ông cụ cuộn chiếc váy vào cánh tay, buồn bã, tôi không biết mặt cháu tôi. Tôi hình dung nó qua hình ảnh ngày xưa của con gái tôi. Tôi hỏi, họ không ở cùng ông à? Ông bảo, tôi ở một mình. Ông lui cui chọn thêm một chiếc quần tất màu xanh sọc trắng, cho cháu gái mùa đông sắp tới, lúc lắc cái đầu to tướng và đi ra chỗ tính tiền.
    Ông đã đi rồi, nhưng nỗi buồn trên mặt ông, sự cô độc trong dáng đi của ông vẫn còn phảng phất ở lại. Trong buổi chiều đã xám lại vì sương mù và gió, nó làm lòng tôi không sao yên bình.
    Chúng tôi đi về trong màn đêm đang buông xuống mờ mịt trên thị trấn nhỏ Sonoma. Trời trở lạnh đột ngột. Ðiếu thuốc cháy đỏ trên tay Gleb và Kote không sao làm ấm khí trời lên được. Chúng tôi đi sát vào bên nhau. Giá rét làm chúng tôi gần nhau hơn.
    Quay trở về gặp bạn, tôi bảo, nếu không vì buổi đọc thơ của bạn bè hẳn tôi đã dùng hết phần còn lại của ngày để chỉ ngồi ngắm những đồ vật cũ kĩ và bụi bậm trong các cửa hiệu đồ cổ. Bạn cười, bảo đó chỉ là những thứ đồ rất linh tinh và tầm phào. Bạn có thể nhặt nhạnh nó ở khắp mọi xó xỉnh. Bạn ơi, đã có nhiều lần tôi nghĩ như bạn vậy. Giờ ngồi đây, cách bạn xa lắm rồi, ngồi ngắm món quà nhỏ bạn tặng tôi khi chia tay, tôi mới càng hiểu rõ ý nghĩa thời gian nằm trong đó. Như lời ông chủ cửa hàng nói, nó quí ở thời gian chứ phải đâu chất lượng.
    Thời gian, với bạn và tôi, chẳng phải là một chuỗi hồi ức vô cùng tươi đẹp đã ra đi thật rồi sao.

Chia sẻ trang này