1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những người bạn tốt của Việt Nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi sigmafx, 10/08/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ttvnol7777

    ttvnol7777 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/07/2007
    Bài viết:
    18
    Đã được thích:
    0
    Việt - Lào hai nước anh em - Phần II
    Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ trước, đồng chí Nguyễn ái Quốc với nhiệt huyết của tuổi trẻ đã bằng nhiều con đường truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Đông Dương, thức tỉnh dân tộc Việt Nam nói riêng, nhân dân các nước Đông Dương nói chung đứng lên làm cách mạng, giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức và nô dịch của chủ nghĩa thực dân Pháp. Kết quả là vào năm 1930, **********************, sau đó là Đảng Cộng sản Đông Dương, được thành lập.

    Hai dân tộc Việt và Lào từ lâu đời đã có những quan hệ anh em khăng khít với nhau.
    Gần một thế kỷ, bọn đế quốc đã cướp nước chúng ta, chia rẽ nhân dân hai nước chúng ta. Chúng ngăn cản, không để nhân dân Việt - Lào gần gũi giúp đỡ nhau. Chúng làm cho nhân dân hai nước chúng ta:
    Bức tường nô lệ chắn ngang,
    Tuy trong gang tấc, gấp ngàn quan sơn.
    Sau cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, nhân dân hai nước Việt - Lào đã anh dũng vùng lên, chiến đấu oanh liệt chống thực dân cướp nước và ủng hộ lẫn nhau trong sự nghiệp giành lại tự do, độc lập cho nước mình.
    Ngày nay, hai nước chúng ta độc lập. Chúng ta có đủ mọi điều kiện để củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị giữa hai nước chúng ta và với các nước bầu bạn khác, để giúp đỡ lẫn nhau trong công cuộc xây dựng phồn thịnh và cải thiện đời sống của nhân dân chúng ta. Ngày nay chúng ta dễ dàng đi lại thăm viễng lẫn nhau:
    Bấy lâu cách trở quan hà,
    Từ nay Lào - Việt rất là gần nhau.
    Ngày 13 tháng 3 năm 1963, vào lúc 12 giờ trưa, tại sân bay Gia Lâm, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta đưa tiễn Vua Xri Xa-vàn Vát-tha-na cùng các vị khách quý Lào lên đường về nước kết thúc chuyến thăm Việt Nam. Trong buổi tiễn Vua Lào, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát biểu:
    - Thời gian đi thăm có hạn. Tình hữu nghị khôn cùng. Tiễn đưa Nhà vua và các vị hôm nay, lòng nhân dân Việt Nam vô cùng lưu luyến.
    Cuộc đi thăm Việt Nam của Nhà vua và các vị làm cho hai nước chúng ta đã gần nhau về địa dư lại càng gần nhau về tình nghĩa. Sự hiểu biết lẫn nhau và mối quan hệ hợp tác thân thiện giữa hai dân tộc anh em đã tiến lên một giai đoạn mới mẻ và tốt đẹp.
    Đó là mấy vần thơ trữ tình, đúc kết một cách cô đọng về quan hệ đặc biệt Việt - Lào mà Bác Hồ đã để lại. Tổng bí thư Nông Đức Mạnh cũng nhấn mạnh: ?oTrong quan hệ quốc tế, thật hiếm có mối quan hệ nào thắm thiết, bền vững, thuỷ chung như quan hệ Việt Nam - Lào. Việt Nam và Lào không chỉ là hai nước giếng cùng tựa vào lưng dãy Trường Sơn hùng vĩ, cùng tắm chung dòng sông Mê Kông, mà quan hệ hữu nghị đoàn kết đặc biệt giữa hai dân tộc chúng ta còn do chính Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và chủ tịch Kaysone Phomvihan kính mến cùng các vị lãnh đạo tiền bối của hai Đảng, hai nước dày công vun đắp, được tôi luyện qua nhiều thử thách và được hun đúc bằng công sức và xương máu của các anh hùng liệt sỹ, bằng hy sinh phấn đấu của nhiều thế hệ người Việt Nam và Lào, đã trở thành mối quan hệ mẵu mực trong sáng, là tài sản vô giá của hai Đảng, hai dân tộc và là quy luật phát triển, một nhân tố đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của chúng ta?.
    Dưới ách thống trị của Thực dân Pháp, nhân dân ba nước Lào, Việt Nam, Campuchia cùng chịu chung một số phận mất nước, trở thành nô lệ của ngoại bang. Vì vậy, việc liên kết giữa ba nước càng cần thiết, đó là quy luật khách quan của sự tồn tại và phát triển của ba dân tộc.
    Trong lúc đó thực dân Pháp coi nước Lào là tiền đồn, một mặt để bảo vệ bản thân nước này nhằm không cho ảnh hưởng của Anh thâm nhập vào Lào, mặt khác để ngăn chặn ảnh hưởng của cách mạng Việt Nam đối với cách mạng Lào, vì vậy, chúng cần phải lấy Lào làm ?ohậu phương?.
    Trên các mặt trận chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hoá, giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân ta với Đảng và nhân dân Lào cũng đạt được nhiều thành tựu to lớn.
    Ngoài việc giúp cách mạng lào về hậu cần, Việt Nam còn cử nhiều phái đoàn chuyên gia kinh tế, chính trị, văn hoá sang trực tiếp làm nhiệm vụ xây dựng vùng giải phóng.
    Sau Hiệp định Giơnevơ 1954, Lào trở thành quốc gia độc lập có chủ quyền. Vương quốc Lào là người nắm quyền điều hành đất nước và kiểm soát 10 tỉnh. Trong khi đó, Pathét lào được Hiệp định thừa nhận là lực lượng chính trị độc lập có hai tỉnh tập kết Sầm Nưa và Phòng Xa Lỳ. Vấn đề chính trị còn tồn tại giữa các bến hữu quan sẽ phải được giải quyết là nhằm thực hiện nền hoà bình, độc lập, thống nhất và hoà hợp dân tộc của Lào. Có thể thấy, sự đa dạng trong quan hệ Việt Nam - Lào đã góp phần tạo ra sức mạnh chung trong đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc của mối quốc gia. Nhìn chung, sự đa dạng trong mối quan hệ Việt Nam - Lào trong giai đoạn 1945-1975 được thể hiện bởi hai tuyến quan hệ sau:
    Thứ nhất là quan hệ giữa hai đảng
    ĐLĐVN và ĐNDCML là hai đảng đều từ ĐCSĐ trước đây mà ra. Mối quan hệ này do ĐCSĐD và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng được xây dựng trên cơ sở Chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa quốc tế vô sản, chủ nghĩa yêu nước chân chính, là mối quan hệ đoàn kết đặc biệt.
    Do nhận thức đúng đắn tầm quan trọng có ý nghĩa chiến lược về sự nghiệp cách mạng của mối nước và chung cả hai nước nên khi cách mạng Lào yêu cầu, Đảng và Nhà nước ta đã điều động lực lượng tình nguyện và các tổ chức chuyên gia sang làm nghĩa vụ quốc tế giúp cách mạng Lào. Đề cập đến nhiệm vụ giúp cách mạng Lào Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ:
    Phải trên cơ sở tổ chức và lãnh đạo Đảng Lào được kiện toàn chừng nào thì rút bớt cán bộ Việt Nam chừng ấy để cho Lào tự làm lấy công việc của mình. Đồng thời phải chú ý mọi cách giúp cho Lào có ý thức đúng đắn vấn đề độc lập, chủ quyền, có tinh thần tự lực tự cường, chống tư tưởng ỷ lại, nỗ lực xây dựng mọi mặt của mình kể cả chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, khoa học, kỹ thuật, nhất là phải có một Đảng Mác-Lênin, một đội ngũ cán bộ đủ sức đảm đương lấy được sự nghiệp cách mạng của nhân dân Lào.
    Do có sự thống nhất về đường lối và sự phối hợp chặt chẽ trong chiến đấu, tôn trọng đầy đủ các nguyên tắc trong quan hệ nên dưới sự lãnh đạo của hai đảng cuộc cách mạng dân tộc đã kết thúc thắng lợi trọn vẹn thuộc về nhân dân trên phạm vi cả hai nước.
    Thứ hai là quan hệ Việt Nam - Vương quốc Lào
    Như đã nêu ở trên, sau năm 1954 Lào trở thành quốc gia độc lập có chủ quyền. Việc quan hệ ngoại giao giữa hai chính phủ, hai nhà nước độc lập láng giềng được thiết lập không chỉ là xu thế phát triển mà còn góp phần vào lợi ích thiết thực bảo vệ nền độc lập của nhân dân mỗi nước.
    Về thực chất, quan hệ Việt Nam - Vương quốc Lào là quan hệ ngoại giao láng giềng thân thiện giữa hai nhà nước được xây dựng trên cơ sở 5 nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình như bản tuyên ngôn Trung - ấn 1954. Về mặt lịch sử, sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chính phủ lâm thời Lào độc lập đã ký kết với Chính phủ VNDCCH Hiệp định thành lập liên quân Lào - Việt Nam cùng nhau thực hiện nhiệm vụ chung bảo vệ độc lập dân tộc. Sự ủng hộ, giúp đỡ lẫn nhau giữa lực lượng kháng chiến của hai nước trong chống Pháp là sự biểu hiện của tình đoàn kết gắn bó giữa hai dân tộc trong đấu tranh chống kẻ thù chung. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, quan hệ Việt Nam - Vương quốc Lào được phát triển lên một bước mới bằng sự kiện tuyên bố chung tại Băng Đung thắng 4/1955. Từ đó, quan hệ Việt Nam - Vương quốc Lào được hai chính phủ, hai nhà nước xây dựng và phát triển.
    Tuy vậy, quan hệ Việt Nam - Vương quốc Lào trong giai đoạn 1954-1975 đã trải qua những bước thăng trầm lịch sử. Sau sự kiện Chính phủ Liên hiệp dân tộc Lào lần thứ hai sụp đổ (17.4.1964), phái thân Mỹ (phái hữu) thao túng quyền lực trong Chính phủ Vương quốc lái nước Lào theo chính sách xâm lược của Mỹ, chia rẽ quan hệ Lào - Việt Nam, gây ra cuộc ?ochiến tranh đặc biệt? ở Lào, làm cho mối quan hệ này bước vào thời kỳ gián đoạn
    Quan hệ Việt Nam - Lào trong giai đoạn 1954-1975 không chỉ đa dạng về nội dung, hình thức mà còn là sự kết hợp hài hoà giữa các tổ chức chính trị. Có thể thấy, sau năm 1954, Lào có 3 lực lượng chính trị chủ yếu là Pathét Lào, phái hữu thân Mỹ và lực lượng trung gian. Cuộc đấu tranh đi tới giải pháp chính trị toàn diện cho vấn đề Lào diễn ra giằng co và quyết liệt ngay từ đầu. Trong quá trình quan hệ với Lào, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn tôn trọng đầy đủ các nguyên tắc trong quan hệ vì lợi ích thiết thực của mỗi nước và cả hai nước.
    Nhìn lại mối quan hệ Việt Nam - Lào có thể thấy rằng mối quan hệ này ngày càng được củng cố và phát triển lên một bước mới. Cách mạng Lào từng bước trưởng thành, liên minh giữa các lực lượng trung lập và cách mạng Lào trở thành một bộ phận quan trọng trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của Lào. Đây cũng là thành công lớn, là bài học kinh nghiệm quý báu trong lịch sử quan hệ quốc tế của hai nước Việt Nam - Lào.
    Sau năm 1975, hai nước Việt Nam và Lào trở thành hai quốc gia độc lập có chủ quyền. Bước vào giai đoạn mới, quan hệ Việt Nam - Lào mang những nội dung và đặc điểm mới. Nếu như trong cách mạng dân tộc, dân chủ hai dân tộc cùng có chung mục tiêu, cùng chung kẻ thù, cùng chiến đấu trên một chiến trường thống nhất thì đến giai đoạn này hai dân tộc tiếp tục cùng chung lý tưởng cách mạng, cùng chung hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Trước bối cảnh mới, quan hệ đặc biệt vẫn mang ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của mối quốc gia. Báo cáo chính trị tại Đại hội IV ĐCSVN nêu rõ:
    Ra sức bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia, tăng cường tình đoàn kết chiến đấu, lòng tin cậy, sự hợp tác lâu dài và giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt giữa nước ta với hai nước anh em, trên nguyên tắc hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, làm cho ba nước vốn đã gắn bó với nhau trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, vì độc lập phồn vinh của mỗi nước.
    Dù cho tình hình thế giới và khu vực có chuyển biến đến đâu, hai nước vẫn kiên trì và nâng niu, vun đắp mối quan hệ truyền thống. Đó là nhân tố góp phần quyết định vào thắng lợi và thành công của công cuộc bảo vệ những thành quả cách mạng và phát triển đất nước, góp phần vào sự nghiệp hoà bình, hữu nghị và hợp tác trong khu vực và trên thế giới.
    Nhìn lại chặng đường lịch sử đã qua, chúng ta tự hào vì những bước phát triển tốt đẹp của mối quan hệ hữu nghị truyền thống, tình đoàn kết đặc biệt và sự hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào.
    (Còn tiếp)
  2. cunlunluncun

    cunlunluncun Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/08/2003
    Bài viết:
    6
    Đã được thích:
    0
    Việt - Lào hai nước anh em (Phần III)
    Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào: đất nước của nhiều tên gọi 1gắn liền với lịch sử và đặc trưng văn hoá dân tộc.
    Nói đến Lào là nói đến đất nước Lạn Xạng (Triệu Voi) tên khai sinh của Lào từ khi vua Phà Ngừm dựng nước; là nói đến một Pa Thét Lào (Đất nước Lào) đã từng anh dũng chiến đấu suốt mấy chục năm chống ngoại xâm giành độc lập dân tộc.
    Nói đến đất nước Lào, người ta nhớ đến đó là đất nước của hoa Champa, của lễ hội chùa chiền, của lăm Khắp, Tợi, của Lăm vông, của những kho truyện cổ dân gian bất hủ, của xú pha xít và lời nói giao duyên.
    Nổi bật lên giữa trời xanh đầy nắng gió là Thạt Luổng, biểu tượng ý chí đoàn kết vươn lên của dân tộc Lào.
    Với diện tích 236.800 km2, Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào nằm ở vĩ độ 140 bắc đến vĩ độ 2205 bắc, dài hơn 1.700 km từ Bắc xuống Nam, rộng khoảng 100 km đến 400 km từ Đông sang Tây.
    Cùng với Việt Nam dựa lưng vào Trường Sơn, cột sống của bán đảo Đông Dương, địa bàn Lào phối trí các dạng địa hình núi cao nguyên, đồng bằng, thung lũng thành hai chiều dốc, cả hai đểu đổ về lưu vực sông Mêkông. Nằm sâu trong nội địa của Đông Nam á gió mùa, Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào có đường biên giới tiếp giáp 5 nước: Phía Đông giáp với Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phía Nam giáp với Vương quốc Campuchia, phía Tây giáp với Vương quốc Thái Lan, Tây Bắc Lào giáp Mianma và phía Bắc giáp với Cộng hoà nhân dân Trung Hoa.
    Trên đất nước Lào, núi rừng trùng điệp bao phủ 85% diện tích lãnh thổ, độ cao trung bình từ 200m đến 2,820m. Đặc tính núi đã tạo ra đặc điểm địa hình đa dạng và khá hiểm trở. Căn cứ vào địa hình, đất đai và khí hậu, nước Lào được chia làm ba vùng lớn: vùng đồi núi phía Bắc; vùng đồng bằng và đồi núi phía Tây; vùng cao nguyên ở Trung và Nam Lào. Căn cứ theo tính chất địa lý và kinh tế, nước Lào được phân ra làm hai miền: miền Bắc Lào và miền Nam Lào.
    Nửa phía Nam Lào từ vĩ độ 180 Bắc trở xuống vĩ độ 140 Bắc tiếp giáp với biên giới Campuchia. Nam Lào bao gồm 6 tỉnh: KHăm Muộn, Xavănnakhets, Xaravan, Xêkông, Chămpaxắc và Attapư. Diện tích của Nam Lào là: 82.180 km2. Trong đó, phần lớn là rừng. ở nhiều tỉnh Nam Lào, rừng bao phủ 70-80% diện tích. Chămpaxắc có diện tích rừng 72%. Xavănnakhẹt 73% diện tích là rừng và ở Xaravan là 70%. Bình độ các tỉnh Nam Lào tương đối thấp hơn, ít núi, có nhiều đồng bằng và thung lũng rộng. Phía Đông miền Nam giáp với Trường Sơn là vùng núi và cao nguyên nối tiếp nhau, bình độ cao lên về phía Nam, được phân cách bởi những thung lũng khá rộng như Nhômmarạp (3.000 ha), Mường Mây (4.000 ha), Mường Phin (1.600 ha), Xaravan (5.000 ha) và Mường Noọng (7.000 ha). Các đồng bằng lớn và quan trọng của Lào, ngoài đồng bằng Viêng Chăn (400.000 ha) là đồng bằng Xavănnakhẹt (900.000 ha) và đồng bằng Champaxắc (500.000 ha). Nam Lào cũng có núi cao như Phu Piengbolavenh ở Chămpaxắc cao 1.284 m.
    Phu Luông (dãy Trường Sơn) ở phía Đông, là biên giới thiên nhiên với Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hai dân tộc vốn có truyền thống đoàn kết hàng thế kỷ đấu tranh chống kẻ thù chung, giành tự do độc lập.
    * Các tỉnh của hai nước có chung biên giới gồm:
    1. Điện Biên ?" Phong-xa-lỳ và Luông-pha-băng
    2. Sơn La ?" Luông-pha-băng và Hủa-phăn
    3. Thanh Hoá - Hủa-phăn
    4. Nghệ An ?" Hủa-phăn, Xiêng-khoảng và Bô-li-khăm-xay
    5. Hà Tĩnh ?" Bô-li-khăm-xay và Khăm-muộn
    6. Quảng Bình ?" Khăm-muộn và Xa-văn-na-khẹt
    7. Quảng Trị ?" Xa-văn-na-khẹt và Xa-la-van.
    8. Thừa Thiên Huế ?" Xa-la-van và Sê-công
    9. Quang Nam ?" Sê-công, A-tô-pư
    10. Kon Tum ?" A-tô-pư.
    * ý tưởng xây dựng đường biên giới Việt - Lào hoà bình, hữu nghị:
    Trước hết ta xét về tình hình thực tế: Hiện nay các thế lực thù địch đã và đang tích cực hoạt động nhằm chia rẽ tình hữu nghị và đoàn kết đặc biệt giữa hai nước bằng các thủ đoạn lợi dụng vấn đề biên giới lãnh thổ, vấn đề dân tộc, tôn giáo, mà đặc biệt ở khu vực vùng biên giới giữa hai nước có các dân tộc, bộ tộc ít người sinh sống, tình hình dân trí thấp, đời sống khó khăn, lợi dụng vấn đề đó các thế lực thù địch dùng mọi thủ đoạn để mua chuộc, kích động lôi kéo, tuyên truyền, vận động nhằm phá hoại tình đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào
    Hơn nữa tình hình hoạt động của các loại tội phạm, đặc biệt là tội phạm buôn bán vận chuyển vũ khí, ma tuý, buôn bán phụ nữ trẻ em qua biên giới; vi phạm Quy chế biên giới, tình trạng khai thác trái phép, di cư tự do và kết hôn không giá thú đang có chiều hướng gia tăng, diễn biến phức tạp ảnh hưởng không nhỏ đến quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội của mỗi nước.
    Xuất phát từ tình hình thực tế, để giải quyết tốt các vấn đề nêu trên Chính phủ hai nước cần phải.
    - Tiếp tục tăng cường công tác bảo vệ và quản lý chặt chẽ biên giới. Chú trọng nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ biên giới quốc gia thời kỳ mở cửa, giao lưu, hội nhập. Đổi mới công tác quản lý mốc giới, quản lý chặt chẽ việc lưu thông qua lại biên giới và duy trì nghiêm quy chế quản lý biên giới. Xây dựng kế hoạch chặt chẽ trong việc bảo vệ biên giới với bảo vệ nội địa và nội bộ; kết hợp chặt chẽ giữa ba tuyến: ngoại biên, biên phòng, nội địa. Muốn vậy phải thông qua các hiệp định tạo cơ sở pháp lý là Hiệp ước hoạch định biên giới, ký năm 1977; Hiệp định lãnh sự, ký năm 1985; Hiệp định về quy chế biên giới, ký năm 1990; Hiệp định về kiều dân, ký năm 1993; Hiệp định quá cảnh hàng hoá, ký năm 1994; Hiệp định bổ sung và sửa đổi quy chế biên giới, ký năm 1997; Hiệp định miễn thi thực cho công dân mang hộ chiếu phổ thông, ký năm 2004; Vấn đề Việt kiều nhập quốc tịch Lào; Lao động Việt Nam làm việc tại Lào.
    Đề ra các chủ trương chính sách phù hợp để tổ chức thực hiện chặt chẽ và có hiệu quả thiết thực các chương trình kinh tế xã hội của nhà nước với tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh phù hợp với từng tuyến biên giới tạo những điển hình về kinh tế nông lâm công nghiệp, những điểm sáng về văn hoá ở các vùng biên giới. Tăng cường phối hợp chặt chẽ hơn nữa trong việc đề ra các chính sách khuyến khích đầu tư ở khu vực biên giới nhằm hợp tác phát triển kinh tế xã hội. Đặc biệt trong lĩnh vực hợp tác phát triển sản xuất, xây dựng điện, đường, trường, trạm, xây dựng các cụm bản văn hoá để nâng cao dân trí, cải thiện và nâng cao đời sống dân cư khu vực biên giới; tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và nhân dân hai bên phát triển kinh tế thương mại, đầu tư sản xuất và buôn bán sang nhau; đầu tư thích đáng cho các khu kinh tế - quốc phòng trên các địa bàn chiến lược quan trọng.
    Xây dựng chương trình phát triển và củng cố lực lượng chính trị vũ trang tại chỗ, duy trì và nâng cao chất lượng phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc, tăng cường khuyến khích các hình thức kết nghĩa, đỡ đầu giữa các địa phương hai bên biên giới nhằm giáo dục về nghĩa vụ và quyền lợi cho mọi thế hệ công dân đối với sự nghiệp bảo vệ biên giới.
    - Đề ra các chủ trương chính sách phù hợp để giải quyết tốt các vấn đề dân tộc, tôn giáo ở khu vực vùng biên; tăng cường công tác giáo dục chính trị nâng cao cảnh giác cách mạng, tuyên truyền cho nhân dân hiểu và cảnh giác đối với các âm mưu, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch. Vận động nhân dân tích cực tham gia cùng các lực lượng an ninh, biên phòng hai nước tuần tra cảnh giác phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh và phối hợp giải quyết tốt việc vi phạm biên giới, vượt biên trái phép, di cư tự do và kết hôn không giá thú....
    Các địa phương có chung đường biên giữa hai nước phải được duy trì ngày càng chặt chẽ hơn, phối hợp tổ chức việc thực hiện Hiệp định về quy chế biên giới và các thoả thuận có liên quan giữa hai nước tốt hơn nữa đề góp phần xây dựng biên giới Việt nam - Lào trở thành biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định và hợp tác phát triển lâu dài. Đồng thời góp phần củng cố, tăng cường mối quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai dân tộc Việt Nam - Lào.
    * Hiệp ước hoạch định biên giới Việt Nam - Lào 1977:
    Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa Việt Nam và Lào, xây dựng đường biên giới hoà bình hữu nghị lâu dài giữa hai nước. Hiệp ước xây dựng trên cơ sở những nguyên tắc hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không ngừng tăng cường đoàn kết và tin cậy lẫn nhau, hợp tác về mọi mặt, hết lòng giúp đỡ nhau. Hiệp ước được ký 18.7.1977, do ông Phạm Hưng - đại diện Chính phủ Việt Nam và Phun Xipaxơt - đại diện Chính phủ Lào. Hiệp ước đã được hai bên phối hợp thực thi.

    Thực hiện các Hiệp định trên, hai bên tăng cường giao lưu và hợp tác, cùng nhau xây dựng đường biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.
  3. ttvnol7777

    ttvnol7777 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/07/2007
    Bài viết:
    18
    Đã được thích:
    0
    Việt - Lào hai nước anh em (Phần cuối)Cùng nằm trên bán đảo Đông Dương (Inđochina) núi liền núi, sông liền sông, cùng chung uống nước dòng sông Mêkông, cùng tựa lưng vào dãy Trường Sơn, Việt Nam và Lào (Cùng với Campuchia) vốn có sự gần gũi, thân thiết cố hữu.
    Là điểm giao thoa, là cầu nối giữa nhiều phần của đại lục Châu á được các nhà địa chính trị Pháp coi là góc của Châu á, ?omột thế giới giữa hai thế giới? như cách nói của nhà xã hội học Pháp Paul Mus, hai dân tộc Việt Nam và Lào đã có sự liên hệ trong lịch sử trường kỳ dựng và giữ nước.
    Như một nhu cầu tự phát và dần hướng tới tự giác, khi hữu sự, bị đe doạ xâm lược, hoặc bị xâm lược hai dân tộc đã tìm đến nhau, giúp đỡ lần nhau.
    Thế kỷ XV đã chứng kiến sự hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa nghĩa quân Lam Sơn và nhân dân các bộ tộc Lào, cả về vũ khí, đạn dược, trang bị đến căn cứ chiến đấu.
    Sang thế kỷ thứ XIX, vận mệnh của hai dân tộc lại gắn bó với nhau khi kẻ thù chung là thực dân Pháp. Nhiều cuộc khởi nghĩa yêu nước của nhân dân Việt Nam đã được nhân dân các bộ tộc Lào che chở, giúp đỡ mỗi lần bị truy đuổi. Phong trào Cần Vương của vua quan triều đình Huế cũng đã nhận được sự hỗ trợ rất nhiều từ các bộ tộc Lào anh em nơi vùng biển. Các nghĩa quân của các bộ tộc Lào chống Pháp cũng nhận được sự giúp đỡ, phối hợp của các lực lượng yêu nước chống Pháp ở các tỉnh biên giới Việt Nam - Lào.
    Sự hợp tác tự nguyện và tự giác ban đầu đó đã đặt nền móng vững chắc cho bước phát triển mới trong quan hệ giữa hai nước, hai dân tộc ở thế kỷ XX khi hoàn cảnh lịch sử đặt ra cho mỗi dân tộc và cả hai dân tộc những thách thức hết sức khó khăn cần phải vượt qua.
    Những thắng lợi lớn của Việt Nam và Lào đều có dấu ấn của người láng giềng.
    Giành được độc lập và đi vào con đường phát triển và hội nhập, những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế và khu vực vì hoà bình, ổn định và thịnh vượng của hai dân tộc là nhưng chất keo dính mới củng cố và thúc đẩy hơn nữa quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào.
    Năm 1977, Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác toàn diện được ký kết, đưa quan hệ giữa hai dân tộc, hai Đảng, hai Nhà nước vào một khuôn khổ mới: khuôn khổ hợp tác hữu nghị, toàn diện và đặc biệt dựa trên truyền thống quan hệ gắn bó thuỷ chung giữa hai dân tộc, những nguyên tắc chung của quan hệ quốc tế và ý chí hợp tác trong hoàn cảnh mới.
    Không chỉ lần đầu tiên đặt ra khuôn khổ đầy đủ và bền vững về chính trị và pháp lý, Hiệp ước còn đưa mối quan hệ này lên một tầm cao mới cả về chất và lượng. Quan hệ giữa hai nước giờ đây không chỉ hạn chế trong các lĩnh vực an ninh - quốc phòng, chính trị..., mà còn trên các lĩnh vực hết sức quan trọng đối với sự nghiệp phát triển đất nước như kinh tế, giáo dục, văn hoá.
    Thực tiễn 30 năm qua đã chứng minh ?osức mạnh của việc ký kết hai Hiệp ước trên qua sự hợp tác về chính trị giữa hai nước, sự nhất trí cao trên tất cả những vấn đề cơ bản của cách mạng hai nước; sự phối hợp về các mặt an ninh, quốc phòng và ngoại giao và sự hợp tác trên tất cả các lĩnh vực khác mà ở những giai đoạn trước đây chưa có điều kiện để triển khai: thương mại, văn hoá, khoa học - kỹ thuật...?
    Khuôn khổ quan hệ toàn diện và đặc biệt Việt Nam - Lào được trong suốt những năm qua đã không ngừng được xây dựng, củng cố và tăng cường cả về chiều rộng lẫn chiều sâu và trên tất cả các lĩnh vực, cấp độ. Đến nay hai nước đã ký kết khoảng 40 hiệp ước, hiệp định, thoả thuận ở cấp cao làm cơ sở pháp lý để phát huy các mối quan hệ trên mọi lĩnh vực.
    Ngày nay, sự phát triển và hội nhập của Việt Nam sẽ là cơ hội, là chất xúc tác cho sự phát triển của Lào và ngược lại, sự thịnh vượng, ổn định của Lào sẽ là điều kiện làm cho Việt Nam phát triển và hội nhập mạnh mẽ hơn.
    Tính đến nay (tháng 7.2007) Việt Nam và Lào đã ký khoảng 50 văn bản, các văn bản chính :
    1. Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Việt - Lào (18.7.1977)
    2. Hiệp ước hoạch định biên giới (1977)
    3. Hiệp định lãnh sự (1985)
    4. Hiệp định về quy chế biên giới (1990)
    5. Hiệp định hợp tác kinh tế - văn hoá - khoa học kỹ thuật 1992 - 1995, vào tháng 2-1992
    6. Hiệp định về kiều dân (1.4.1993)
    7. Hiệp định quá cảnh hàng hoá (23.4.1994)
    8. Hiệp định hợp tác lao động (29.6.1995)
    9. Hiệp định hợp tác kinh tế - văn hoá - khoa học kỹ thuật 1996 - 2000, (ký ngày 14.1.1996)
    15.395
    10. Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư (14.1.1996)
    11. Hiệp định tránh đánh thuế 2 lần (14.1.1996)
    12. Hiệp định vận tải đường bộ (26.2.1996)
    13. Hiệp định về trao đổi nhà trụ sở và nhà ở của cơ quan đại diện (1.4.1996)
    14. Hiệp định về hợp tác nông lâm và phát triển nông thôn năm 1997 và giai đoạn 1998-2000 (ký ngày 12.8.1997
    15. Hiệp định bổ sung và sửa đổi quy chế biên giới (8.1997)
    16. Hiệp định hợp tác thương mại và du lịch (3.1998)
    17. Hiệp định Quy chế tài chính và quản lý các chương trình dự án sử dụng vốn viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Việt Nam dành cho Chính phủ Lào. (3.1998)
    18. Hiệp định tương trợ tư pháp (6.7.1998)
    19. Hiệp định hợp tác chống ma tuý (6.7.1998)
    20. Hiệp định hợp tác về năng lượng - điện (6.7.1998)
    21. Bản thoả thuận Chiến lược hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào từ nay đến năm 2000. (ký ngày 15.3.1995)
    22. Hiệp định hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật giữa hai Chính phủ Việt Nam - Lào thời kỳ 2001 - 2005 (ký ngày 6.2.2001)
    23. Hiệp định hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật giữa hai Chính phủ Việt Nam - Lào trong năm 2001 (6.2.2001)
    24. Hiệp định tín dụng xây dựng đường 18B (tháng 7.2001)
    25. Thoả thuận giữa Việt Nam và Lào về Quy chế sử dụng cảng Vũng áng (tháng 7.2001)
    26. Nghị định thư sửa đổi, bổ sung Hiệp định vận tải đường bộ ký ngày 24.2.1996 (tháng 7.2001)
    27. Nghị định thư 2001 thực hiện Hiệp định đường bộ sửa đổi (tháng 7.2001)
    28. Hiệp định hợp tác về kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật giữa hai Chính phủ năm 2002 (1.2002)
    29. Nghị định thư về hợp tác đào tạo cán bộ giữa 2 nước (1.2002)
    30. Thoả thuận về cơ chế tài chính và quản lý dự án sử dụng viện trợ của Chính phủ Việt Nam dành cho Chính phủ Lào (1.2002)
    31. Thoả thuận Viêng Chăn (8.2002)
    32. Hiệp định hợp tác về kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật giữa hai Chính phủ năm 2003.
    33. Hiệp định miễn thị thực cho công dân mang hộ chiếu phổ thông (ký ngày 5.4.2004 có hiệu lực từ ngày 1.7.2004)
    34. Hiệp định bổ sung Hiệp định tín dụng số VL - 01 giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ CHDCND Lào (7.1.2005)
    36. Thoả thuận hợp tác giữa hai Bộ Ngoại giao (ký tháng 4.2005)
    37. Hiệp định về hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật năm 2006 giữa Chính phủ CHXHCN Việt Nam và Chính phủ CHDCND Lào (4.1.2006)
    38. Hiệp định về hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật 2006-2010 giữa Chính phủ CHXHCN Việt Nam và CHDCND Lào (ký ngày 4.1.2006)
    39. Hiệp định về hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật năm 2007 giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Lào (6.1.2007).
    Ngoài ra hai bên đã ký một số hiệp định hợp tác về du lịch, hàng không; cơ chế chung về hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật; Cơ chế thanh toán; Cơ chế đào tạo cán bộ; Cơ chế quản lý thương mại, du lịch; Thoả thuận về hợp tác chuyên gia; Thoả thuận về quản lý thuế quan đối với hàng hoá và phương tiện quá cảnh và phối hợp chống buôn lậu ở biên giới hai nước; Thoả thuận hợp tác giữa Bộ Tài chính Lào và Tổng cục Hải quan Việt Nam và nhiều thoả thuận giữa các Bộ, ngành khác.
    MỘT SỐ CÔNG TRÌNH HỢP TÁC TIÊU BIỂU TRÊN CÁC LĨNH VỰC:
    1. Trường Dân tộc nội trú A-tô-pư (Gia Lai - Kon Tum giúp)
    2. Trung tâm Thương mại Nậm Cắn, Xiêng Khoảng (Nghệ An giúp)
    3. Tượng đài Hữu nghị, Bệnh viện Mường Khăm, Nhà lưu niệm cụ Phay Đang, Phó Chủ tịch Mặt trận Lào yêu nước là công trình do Nghệ An cùng Xiêng Khoảng, Bô-li-khăm-xay, Hủa Phăn xây dựng.
    4. Dự án Thuỷ Sản Phảng Đẻng (nuôi cá)
    5. Thuỷ điện Nam Sekha-man 3 (Việt Nam giúp)
    6. Tuyến đường 18B át-ta-pư (Việt Nam giúp)
    7. Tuyến đường bộ 1.500 km ?oTam giác di sản thế giới? nối liền Hạ Long - Cố đô Luông-pha-bang (Lào) ?" U-đon Tha-ni (Thái Lan)
    8. Trường dậy tiếng Việt (Đà Nẵng giúp Xa-vẳn-na-khẹt)
    9. Trung tâm liên doanh Viêng Chăn-Hải Dương (Hải Dương và Hưng Yên giúp đỡ)
    10. Ngân hàng liên doanh Việt - Lào (Hà Nội giúp)
    11. Trung tâm dạy tiếng Việt tại Xa-vẳn-na-khẹt (Đà Nẵng giúp)
    12. Trường Phôn-xa-vẳn tại Viêng Chăn (Chính phủ Việt Nam giúp)
    13. Đào tạo hàng nghìn cử nhân, hàng trăm thạc sĩ, tiến sĩ; bồi dưỡng hàng nghìn lượt cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước, LLVT.
    14. Hoàn thành các Trường dân tộc Chăm-pa-xắc, Xa-văn-na-khẹt, U-đôn-xay.
    15. Trung tâm bồi dưỡng cán bộ kinh tế, kế hoạch Viêng Chăn
    16. Nâng cấp Trường Chính trị - Hành chính Quốc gia.
    17. Trường Năng khiếu dự bị đại học, ký túc xá sinh viên nước ngoài.
    18. Trường Dạy nghề, Bệnh viện tỉnh Bò Kẹo.
    19. Trường Dân tộc nội trú tỉnh U-đôn-xay (Chính phủ Việt Nam viện trợ).
    20. Dự án phụ đề tiếng Lào trên VTV4 (Đài Truyền hình Việt Nam viện trợ).
    21. Một số công trình hệ thống thuỷ lợi.
    22. Đài Truyền hình chuyển tiếp Viêng Chăn.
    23. Góp phần xây dựng Bảo tàng Cay-xỏn Phôm-vi-hản.
    24. Trung tâm huấn luyện thể thao quốc gia.
    * Đại học Quốc gia Lào hợp tác với 12 đối tác Việt Nam gồm Đại học Quốc gia Hà Nội; ĐH Cần Thơ; Viện Nghiên cứu Địa chất và Khoáng sản; ĐH Cơ khí Hà Nội; Viện Nghiên cứu Đông Nam á; ĐH Công nghệ Hà Nội; ĐH Kinh tế quốc dân; ĐH Vinh; Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh; ĐH Lâm nghịêp Việt Nam; ĐH Đà Nẵng; ĐH Thuỷ sản.
  4. binto

    binto Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/02/2007
    Bài viết:
    789
    Đã được thích:
    0
    390 là 1 chiếc T-59 hay còn gọi là type 59 ( kiểu 59) của tàu, nó được sản xuất dựa trên mẫu T-54 của LX, còn muốn biết sự khác biệt chi tiết hơn thì bạn qua box KTQS hỏi mấy bác bên ấy chỉ cho
  5. kidfriendct

    kidfriendct Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/02/2005
    Bài viết:
    934
    Đã được thích:
    0
    Ái nói Trung Tàu là bạn ta thế nhễ.Bạn đúng rồi,hàng ngàn năm nay lúc nào mà ko xâm lược VN.Đánh riết rồi thành bạn nhễ.potay.com
  6. bomho

    bomho Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/09/2005
    Bài viết:
    309
    Đã được thích:
    0
    Vấn đề là ta đã có làm theo khẩu hiệu "đánh Mỹ đến người VN cuối cùng" không????? Càng nghĩ đến càng ... ****!!!!
  7. mi28havooc

    mi28havooc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/08/2004
    Bài viết:
    172
    Đã được thích:
    0
    Còn nước ở bên kia bờ đại dương , khổng lồ , và có mối quan hệ không bao giờ có thể coi là bình thường ?
  8. ALEX82

    ALEX82 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/12/2004
    Bài viết:
    294
    Đã được thích:
    0
    nói Trung Tàu là bạn ta là đúng đấy!!!!!!!
    không đúng thì sao báo đài cứ nói là TQ VN hai nước anh em,hai nước láng giền hữu nghị,tq là bạn tốt.............chẳng lẻ báo đài là cơ quan ngôn luận của mà nói láo à !!!!!!!!!!
    Được ALEX82 sửa chữa / chuyển vào 01:25 ngày 05/12/2007
    Được ALEX82 sửa chữa / chuyển vào 01:26 ngày 05/12/2007
  9. lamthitdencung9999

    lamthitdencung9999 Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    23/02/2006
    Bài viết:
    889
    Đã được thích:
    5

    Nhân tiện vừa rồi "anh bạn lớn" của chúng ta vừ tuyên bố chủ quyền sổ đỏ trên vườn nhà ta xong
    em có bài này hầu các bác
    xin phép bác Hiếu nhé
    nếu bài này thấy có ảnh hưởng đến mối quan hệ Hữu Hảo với người " bạn tốt" người đồng chí tốt thì xin các mod bỏ quá cho nhé
    Khởi đi từ những bộ tộc du mục ở phía Bắc nước Tàu, mà bây giờ ta gọi là Hán tộc. Những bộ tộc du mục này giỏi về chiến tranh, duy lý, rất thực dụng, nhiều thủ đoạn, và giỏi tàn phá, cướp bóc. Khi dân số gia tăng, đất đai lại lạnh gía, khô cằn, vì nhu cầu sinh tồn và phát triển, các bộ tộc du mục này tràn xuống phương nam nắng ấm, đất đai phì nhiêu và đã chiếm được đất đai của giống Bách Việt hiền hoà, trọng lễ nghĩa, sống về nông nghiệp, có nền văn minh cao hơn văn minh du mục, nhưng không quen chinh chiến. Qua thời gian dài, giống dân du mục Hán tộc này đã dần dần tiêu diệt rồi đồng hóa 1 phần nào đó bộ phận của giống Bách Việt và cướp luôn nền văn minh cao của giống Bách Việt để tự nhận là của Hán tộc. Chính vì luôn chiến thắng trong các cuộc chiến tranh dành đất, cho nên Hán tộc làm chủ được 1 vùng rộng lớn ở Á châu, và trong hàng ngàn năm, luôn luôn kiểm soát hay có ảnh hưởng về chính trị, quyền lực lên các nước chung quanh. Vì thực dụng cho nên Hán tộc đã biết tiếp thu những tinh hoa của văn minh nông nghiệp Bách Việt và bổ sung thêm để trở thành 1 nền văn minh nổi bật Hán tộc, vì thế Hán tộc trở thành kiêu ngạo, coi mình là trung tâm văn minh của vũ trụ. Các vua chúa Hán tộc tự phong mình là con Trời, coi các nước hay dân tộc nhỏ chung quanh mình là Man, Di, Mọi, Rợ và cần được Hán tộc giáo hóa thành dân tộc văn minh dưới sự lãnh đạo của Hán tộc.
    Cũng vì kiêu ngạo, coi mình là dân tộc ưu việt nhất, văn minh nhất cho nên trí thức và lãnh đạo Hán tộc luôn tự nhận là văn minh Hán tộc do chính họ sáng tạo ra chứ không phải là do Hán tộc chiếm đọat của văn minh Bách Việt. Vì vậy, Hán tộc tìm mọi cách để tiêu diệt các dân tộc Bách Việt nào còn sót lại. Thí dụ điển hình nhất là cả hàng ngàn năm nay cho tới bây giờ, lãnh đạo Hán tộc tìm đủ mọi cách tiêu diệt dân tộc Việt Nam, một hậu duệ đích truyền còn sót lại của chủng tộc Bách Việt và luôn luôn tìm cách đòi lại chủ quyền của nền văn minh Bách Việt mà Hán tộc đã cưỡng đọat. Ngay từ khi Mao Trạch Ðông chiếm được lục địa Tàu vào năm 1949, ông ta và các đảng viên lãnh đạo Cộng Sản (CS) Tàu khác đã ra lệnh vẽ lại bản đồ nước Tàu, trong đó bao gồm gần như toàn bộ Ðông Nam Á vì Mao Trạch Ðông và cán bộ cao cấp Cộng sản Tàu tự nhận là vùng Ðông Nam Á hồi xưa thuộc về nước Tàu, sau đó bị Tây Phương cưỡng chiếm. Qua việc vẽ lại bản đồ nước Tàu bao gồm cả toàn bộ vùng Ðông Nam Á, chúng ta thấy Mao và người của ông ta chỉ dùng chủ nghĩa cộng sản như là 1 phương tiện để cướp chính quyền tại lục địa rồi tiếp tục theo đuổi chính sách Ðại Hán tộc, bành trướng, chiếm các lân bang mà giới lãnh đạo Hán tộc đã làm từ mấy ngàn năm qua. Như vậy, đầu óc tự cao, tự đại, chủ nghĩa bành trướng Hán tộc luôn nằm sẵn trong tiềm thức, ăn sâu vào máu huyết của dân Tàu, nhất là giới lãnh đạo Tàu và được giới lãnh đạo Tàu đem ra xử dụng khi cần thiết
    Hãy nhìn cách giới lãnh đạo Bắc Kinh dùng tinh thần dân tộc Ðại Hán để xúi giục dân chúng, thanh niên Trung Cộng (TC) tấn công, đập phá toà đại sứ của Nhật Bản trong năm 2005 và đập phá toà đại sứ Mỹ năm 1999 để gây sức ép lên chính phủ Mỹ, Nhật là ta hiểu rõ dã tâm của lãnh đạo CS Tàu khi mang tinh thần Ðại Hán tộc ra để kích thích dân TC. Sự kiện này cho ta thấy tinh thần bành trướng Hán tộc, tự kiêu về văn minh của mình đã được cấy rất sâu vào tim óc của dân Tàu, nhất là trong giới trí thức Tàu cả hàng ngàn năm nay, không dễ gì tẩy xóa được. Tinh thần này cũng giống y hệt như tình thần tôn giáo quá khích của người Hồi giáo. Người Hồi giáo tự cho tôn giáo mình là đúng nhất, hay nhất cho nên coi các tôn giáo khác là tà đạo, cần phải bị tiêu diệt hay phải bị cải sang Hồi giáo. Chính vì tinh thần quá khích này làm cho dân Hồi giáo trở thành cực đoan và dễ bị các nhóm giáo sĩ quá khích, có đầu óc và âm mưu thâm hiểm, hạn hẹp lợi dụng họ vào các mục đích đen tối, gây ra bao đau thương chết chóc cho chính dân Hồi giáo và thế giới. Tại sao dân chúng Hồi giáo lại có tinh thần quá khích tôn giáo như vậy? Tại vì họ bị các giới giáo sĩ cuồng tín, có đầu óc thiển cận nhưng lại chứa đựng toàn những âm mưu đen tối nhồi nhét vào đầu óc họ cả hàng ngàn năm về sự tuyệt đối đúng của giáo lý Hồi giáo, rằng Hồi giáo là tôn giáo đúng nhất còn các tôn giáo khác là tà đạo, sai lầm. Nói chung, hiện nay dân Hồi giáo có trình độ dân trí thấp, rồi qua cả hàng ngàn năm bị nhồi nhét ý tưởng Hồi giáo là tôn giáo linh thiêng, siêu việt nhất, các tôn giáo khác là tà đạo, phải bị tiêu diệt, chính sự nhồi sọ này làm cho người Hồi giáo không còn suy nghĩ khác đi được nữa.
  10. duyhau2012

    duyhau2012 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/12/2004
    Bài viết:
    918
    Đã được thích:
    1
    Lào - Luôn bên bạn dù bạn ở nơi đâu
    Vì anh Cây Xỏn Phôn Vi Hãn từng có câu: "Không cần biết LX thế nào, CNXH ở VN còn thì CNXH ở Lào còn"

Chia sẻ trang này