1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những người có công trong buổi đầu hình thành chữ quốc ngữ

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi fddinh, 23/08/2008.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    GỐC TÍCH CHỮ VIỆT LA TINH HÓA ​

    Sự tiếng Việt là một tiếng Á Châu được viết hoàn toàn bằng mẫu tự la tinh làm rất nhiều người ngạc nhiên. Mà ngạc nhiên cũng phải, vì đây là một trường hợp hi hữu, bởi những sự phiên âm theo lối a,b,c của các quốc gia lân cận như Trung Quốc với tiếng pinyin (phiên âm) không có mấy tác động trên quần chúng, không thay thế được chữ cũ và rốt cuộc chỉ có công hiệu trong sự liên lạc với người ngoại quốc.  
    Như ai cũng đoán được, sự la tinh hoá tiếng Việt chỉ xảy ra được tương đối mới đây thôi, vào lúc gặp gỡ giữa người Việt và người Tây phương, và trước đó người Việt có một văn tự khác. Quả thế, lịch sử chữ viết tiếngViệt thể hiện rõ định mệnh trớ trêu của dân Việt, bao phiên bị ngoại bang chi phối, phải không ngưng tranh đấu cho nền độc lập và hằng tính của mình.  
    Là một nước nhỏ bé bên cạnh một nước láng giềng vĩ đại, Việt Nam không khỏi là một con mồi luôn luôn bị dòm ngó, cho nên đã phải chịu sự đô hộ của Tàu suốt một ngàn năm, từ thế kỷ thú I đến thế kỷ thứ X. Tất nhiên, trải qua sự Hoa hóa lâu dài bó buộc kia, việc chữ Hán được chọn làm văn tự chính thức cho Việt Nam dưới lốt chữ nho - bởi tuy là chữ Hán nhưng đã được các nhà nho Việt Nam Việt hóa bằng cách đọc khác hẳn (song có thuyết cho rằng lối đọc của ta nguyên là lối đọc hơi trệch đi của người nhà Ðường) ?" không có gì lạ. 
    Có điều, tuy cuộc đô hộ đã khiến một số chữ nho thuộc về vốn chữ của người Việt, chữ ấy không ăn nhập gì với ngôn ngữ thông dụng, về ngữ vựng cũng như cấu trúc (ví dụ như thứ tự từ). Vì thế nên ngay từ thế kỷ thứ X, tức sau khi giành độc lập, các học giả Việt Nam đã chế dần ra một văn tự riêng biệt để ghi chép tiếng Việt, mênh danh là chữ nôm (tức là chữ dùng tả chuyện nôm na hàng ngày, trái với chữ nho dùng trong hành chánh, học hành cao xa), bằng cách giản dị hóa chữ Hán hoặc ghép chữ Hán với một bộ phận khác ghi âm hay ghi nghĩa. Tiếc thay, mặc dầu đã thành tựu từ thế kỷ XIII và có vị trí trong văn học, ngoài hai dự định không thành dưới triều Hồ và Tây Sơn ngắn ngủi vào cuối thế kỷ XV và XVIII, chữ nôm không tài nào chiếm được ưu thế xứng đáng đối với chữ nho.  
    Viện cớ các sách vở của người Việt xưa đều viết bằng chữ mượn của Tàu, nhiều học giả ngoại quốc cho rằng trước khi người Hán xâm lược nước ta, dân ta không có văn tự. Khẳng định như vậy có nghĩa là quên đi chính sách hủy diệt văn hóa bản xứ không để lại một chứng tích nào do triều đình Trung Hoa chủ trương đối với nước Việt nhỏ bé bướng bỉnh, đến mọi sách vở văn tự một mảnh một chữ đều đốt hết, cũng như coi thường một số chứng cứ liển quan đến một thứ chữ viết kiểu nòng nọc do người Mường (chủng tộc gần người Việt xưa nhất) từng sử dụng, đã được khắc thành hoa văn trên trống đồng tiền sử (Lũng Cú).  
    Là hiện thân cuối cùng của tiếng Việt, được chính thức hóa vào thời Pháp thuộc, chữ quốc ngữ hay tiếng nước nhà có tên như vậy vì nó diễn tả đúng khẩu ngữ của người Việt. Ðó là một lối ghi âm theo mẫu tự la tinh do các giáo sĩ dòng Tên tới Việt Nam vào đầu thế kỷ XVII sáng chế ra với sự giúp đỡ của các con chiên người Việt, cốt để nhờ nó ghi nhớ dễ dàng trong việc học tiếng bản xứ, rồi dùng nó vào việc giảng đạo. Vì các giáo sĩ thường dựa vào tiếng mẹ đẻ của họ để ghi lại âm thanh tiếng Việt, chữ quốc ngữ thể hiện kiểu viết của nhiều nước Âu Châu, đặc biệt của Bồ Ðào Nha bởi vào thời đó giáo sĩ người Bồ đông hơn cả. Tên của linh mục Alexandre de Rhodes thường được gắn liền với chữ quốc ngữ, chẳng phải vì ông là người đầu tiên nghĩ ra hay là người đầu tiên viết bằng quốc ngữ - trước ông có nhiều người khác có công hơn, ví như Gaspar de Amaral chính mới là tác giả của cuốn từ điển tiếng Việt đầu tiên ?" mà vì ông là tác giả của hai quyển sách (một từ điển Việt ?" Bồ - La tinh và một sách giảng kinh) viết chữ quốc ngữ lần đầu tiên được xuất bản (tại La Mã năm 1651) nên nổi tiếng.  
    Noi gương các cố đạo người Âu, có một số người Việt công giáo (như Benito Thiện vào thế kỷ XVII và Philippe Bỉnh vào thế kỷ XVIII) cũng học và viết quốc ngữ, nhưng trước thời Pháp thuộc quốc ngữ coi như không ra khỏi cửa đạo.  
    Cuộc chinh phục Nam Kỳ của Pháp năm 1862, rồi cuộc đặt nền thống trị Pháp trên toàn cõi Việt Nam năm 1884 đánh dấu sự phát huy của chữ quốc ngữ do các thống đốc Pháp khuyến khích. Ngay năm 1865 ra đời tại Sài Gòn tờ báo đầu tiên viết bằng quốc ngữ, tờ Gia Ðịnh báo, sau đó nhiều báo khác tiếp tục phát hành. Ðồng thời nhà cầm quyền Pháp khiến dịch và in sách quốc ngữ cùng cho mở trường tiểu học dạy quốc ngữ. Nhưng mặc sự sốt sắng viết lách của một số tân trí thức, phần đông xuất thân từ ngạch thư ký, thông dịch viên (như Petrus Ký, Nguyễn Văn Vĩnh), bước đầu tiên dân chúng không mấy hưởng ứng chữ quốc ngữ vì coi nó như biểu tượng của quân xâm lược thống trị và chống đối không cho con cái học chữ ấy.       
    Phải đợi đầu thế kỷ XX , khi các nhà kháng chiến yêu nước trong nhóm Ðông Du ý thức sự giản tiện của nó (một đứa trẻ đọc viết thông thạo sau nhiều nhất hai năm với chữ quốc ngữ, trong khi phải sau mười năm mới đọc và hiểu nổi các sách Hán-Nôm) cũng như hiệu năng của nó trong việc mở mang và nâng cao dân trí, chữ quốc ngữ mới thực sự được đón nhận là chữ nước nhà. Nhờ sự cổ võ và bảo trợ qua báo chí, thơ văn hay truyền đơn (có những câu vè kiểu như « tiếng quốc ngữ, chữ nước ta, con cái nhà đều phải học » được truyền bá khắp dân gian), nhờ từ nay đủ mặt các nhà trí thức kể cả những nhà nho cựu trào sử dụng và quảng bá, chẳng bao lâu chữ quốc ngữ trở thành chữ viết độc nhất của người Việt, trong khi chữ nho và chữ nôm bị bỏ và quên lãng dần, nhất là sau khi các cuộc thi cũ dụa trên Hán học bị bãi bỏ hẳn (1919) để nhường chỗ cho tân hệ thống giáo dục Ðông Dương do Albert Sarault qui định (1918).  
    Từ lúc thành hình vào năm 1620 đến giờ, chữ quốc ngữ đã trải qua nhiều cuộc thay đổi trong cách sắp chữ, đặt văn, về hình thức cũng như về văn phạm song song với những ảnh hưởng của các nền học vấn trên trí thức Việt Nam. Song le, những thay đổi đó không mấy quan trọng và chữ quốc ngữ vẫn giữ được tính chất thuần nhất, nhờ các tác giả phần lớn vẫn tôn trọng ngữ pháp ấn định bởi Giám mục Taberd trong từ điển Việt ?" la tinh La tinh ?" Việt xuất bản tại Serampour (Ấn Ðộ) năm 1838, đã được Pháp tôn làm tiêu chuẩn ngay 1873, mặc dầu trước hay sau khi Việt Nam độc lập (1945) có nhiều phong trào đòi cải cách chữ quốc ngữ.  
    Tuy là một sản phẩm ngoại lai, chữ quốc ngữ đã thấm nhuần tâm hồn Việt ; với nó tận cùng ngôn ngữ chính thức của người Việt trùng hợp vói ngôn ngữ hàng ngày, văn tự đi đôi với tiếng nói. Nếu có thể tiếc rằng vì chọn quốc ngữ dân Việt mất đi một phần rễ bởi không đọc nổi sách báo tài liệu do ông cha để lại, phải cám ơn quốc ngữ đã cho phép nền văn hóa giáo dục Việt Nam khai triển mạnh và có đà tiếp tục tiến hóa hầu mở dần cho nước Việt một con đường sáng lạn.
    Tác giả Đặng Phương Nghi
  2. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Nói về các cố đạo người Tây thì còn nhiều, nay xin chuyển qua nói một chút về những người Việt đóng góp công sức vào sự phát triển của chữ Quốc Ngữ.
    Dù họ thế nào, họ cũng có công lao, dù công lao ấy, là để giúp cho người Tây nhồi sọ dân Việt, cũng như chối bỏ ông bà tổ tiên, giúp cho người Tây xâm chiếm, đô hộ mảnh đất chữ S này.
    Trước tiên, hãy bàn về nhân vật Philippe Bỉnh.  Tài liệu được tổng hợp từ nguồn của người Công giáo, nên các bạn phi Công giáo có thể sẽ không vui lòng.
    Philippe Bỉnh và bình minh của chữ quốc ngữTừ trước đến giờ, các nhà nghiên cứu hầu hết đồng ý với lập luận rằng chữ quốc ngữ Việt Nam được khai sinh bởi Alexandre De Rhodes, Béhaine hoặc một vài vị cố đạo cùng thời . Tuy nhiên, lịch sử truyền bá, sử dụng chữ quốc ngữ như một công cụ ngôn ngữ, một cách lý âm đơn giản tiếng Việt, thì hầu như chưa có một tài liệu chính thức nào đề cập đến thật triệt để, thấu đáo . Trong một chuyến làm việc tại thư viện Toà thánh Vatican, linh mục Thanh Lãng đã phát hiện 600 trang bút tích viết bằng chữ quốc ngữ Việt Nam, tồn tại đã trên 200 năm nay .Cách đây trên 200 năm, từng có một vị thầy cả người Việt thuần chất, từ 17 tuổi vào tu ở nhà Dòng, sau đó đã đi chu du nhiều nước, viết nhiều sách, soạn và san định nhiều bộ tự điển đầu tiên cho chính người Việt dùng, bằng tức chữ quốc ngữ mà ngày nay đọc vẫn còn trôi chảy, vẫn hiểu như ngôn ngữ ta nói hiện nay, ít nhất cũng được đến 80-90% - một thứ văn xuôi như nói chuyện, nói sao viết vậy . Ông viết vừa nhật ký, vừa ghi chép biên niên, những hoạt động của dòng chúa, của nhà thờ, của giáo hội trong và ngoài nước, những chuyện sinh hoạt ngày thường của xã hội ta, xã hội tây phương, các nước ông đã đến, các nghề nghiệp lúc bấy giờ, cách ăn uống, ăn mặc, tế lễ, tang ma ... Ông còn để tâm quan sát rồi vẽ ra cái bàn in đơn sơ lúc bấy giờ ở các nước ấy để dạy cho người mình cách in ảnh tượng thờ, vẽ ra cái bàn nghiền bột thô sơ để lấy bột làm bánh thánh, cái máy dệt cổ sơ của Tây phương ... Có thể nói ông ghi chép và minh hoạ bằng hình vẽ tỉ mỉ mọi sinh hoạt xã hội, so sánh cách sống văn minh hơn, có khoa học hơn, vệ sinh hơn của xã hội phương Tây, với cách sống còn lạc hậu, thiếu vệ sinh, thiếu khoa học của dân ta . Từ cái nhà thoáng mát, sơn quét đẹp mắt, cái giường cái nệm trắng tinh, phòng ăn phòng ngủ tươm tất, bữa ăn nhiều đạm, nuôi con sạch sẽ, không mớm cơm nhai như các bà mẹ ta thời ấỵ*. Tất cả được viết lại bằng chữ quốc ngữ với một giọng văn nói bình dân, đầy đủ, lưu loát, dễ hiểụ Toàn bộ sách của ông viết, có cuốn đã in, có cuốn bằng chữ viết tay đều đặn nắn nót của chính ông, kể cả những bộ tự vị hơn hẳn những bộ tự vị mà ta biết của các vị cố đạo, những bộ được đánh giá là "tối cổ". Ông, một người Việt thuần chất, viết cho người Việt đọc. Chúng ta thầy như không ai biết ông. May thay, một số sách của ông còn lưu trữ kỹ càng ở Thư viện toà thánh Vatican.Ông là thầy cả Philippe Bỉnh, sinh năm 1759 ở Hải Dương.Tiếc là ông không ghi họ gì, chỉ ghi tên Thánh trước tên thật, là một thầy cả, quê ở xứ hải Dương, phủ Hạ Hoàng, huyện Vĩnh Lại, xã Ngại An, thôn Đại Linh. Năm 17 tuổi (1775) vào ở nhà Dòng Thánh, ông đã sống ở nhiều nước Tây phương và cả những nước châu Á nữaNăm 1793, ông được thụ phong linh mục và được trao phó chức vụ rất quan trọng - chức giữ việc trong Giáo hội, tức là quản lý tài sản, tiền bạc của Giáo hộ ị Cũng do chức vụ ấy mà ông có cơ hội đi đi lại lại rất nhiều giữa Việt Nam - Ma Cao Goa (thuộc ấn Độ) hoặc sang Trung Quốc lo việc Giáo hội . Uy tín ông mỗi ngày một tăng.Trong thời gian ấy, phát sinh ra việc tranh chấp cực kỳ nặng nề giữa hai phe truyền giáo : Dòng Đa Minh (Đ.C.J) và Dòng Tên. Toà thánh La Mã lại dường như nghiêng về phía Dòng Đa Minh mà bỏ rơi Dòng Tên. Ông đã cùng các thầy giảng Việt Nam làm thành một phái đoàn sang tận Bồ Đào Nha yết kiến vua nhờ can thiệp với Toà Thánh. Vì việc ấy, ông đã bị quản chế ở Lisbone hơn 30 năm và chết tại đâyTrong thời gian lưu vong ấy, ông dùng để trước tác, biên soạn tự vị, dịch thuật sao chép sách vở, viết nhật ký với ý định gửi về quê hương toàn bộ những ghi chép của mình. Ông viết rất công phu, tỉ mỉ, không có ý làm văn chương, chỉ ghi chép những việc thật ở xứ người, tả rất rõ xã hội phương Tây thời bấy giờ và so sánh với xã hội ra còn đang lạc hậu . Ông mong muốn lúc trở về sẽ truyền bá để cải tiến dân sinh cho bằng ngườị Tiếc thay, ông đã không làm được vì đã chết nơi đất khách quê ngườiNhiều sách ông viết, theo di chúc của ông, đã được gửi về quê hương, song khi ấy là thời gian Dòng Đa Minh và Dòng Tên đang đối kháng nhau kịch liệt, đến độ không khoan nhượng, đốt cả nhà thờ của nhau, bắt giáo sĩ của nhau nhốt vào chuồng trâu bò, thậm chí đã xảy ra đổ máu . Hai dòng truyền giáo kháng cự nhau ở gần khắp các nước có sự truyền giáo . Riêng nước ta, cũng vào thời gian đó, các vua triều Nguyễn bài đạo Ki Tô ráo riết. Trong bối cảnh ấy, những sách ông gửi về không biết lưu lạc phương nào ? May mắn là thư viện toà thánh Vatican còn giữ được của ông mấy cuốn, chỉ khoảng "một phần hai mươi" số lượng sách của ông. Trong đó, quan trọng hơn cả là cuốn ông viết tay với nhan đề "Sách sổ sang, chép các việc". Cuốn này rất quan trọng trong sự nghiệp trước tác của Philippe Bỉnh. Ông nói về ông, về mọi người, anh em dòng tu, bổn dạo, xã hội đương thời, cách ăn nết ở của dân ta, xứ người, phong tục tập quán về học hành in ấn, về đối nhân xử thế... Ông cẩn thận ghi chép cả giá cả những cuốn sách ông mua, những vật dụng ông sắm, giá mấy quan, mấy đồng, mấy tiền. Ăn mặc thì có bao nhiêu bộ quần áo, mua giá bao nhiêu tiền. Nơi ăn chốn ở, chăn giường, đệm gối nệm như thế nào, món ăn, bữa ăn, nhiều ít chất bổ ra sao . Rồi ông so sánh với đời sống của dân ta ở trong nước ra sao, thiếu thốn nghèo khó thế nào, ông vừa buồn cho sự thiếu thốn nghèo khổ ấy vừa muốn dân mình hiểu biết đời sống bên ngoài để thay đổi cho bằng ngườiCũng từ cuốn sách này mà ta có thể so sánh chữ quốc ngữ buổi đầu với hiện tại, cách nhau ngoài 200 năm mà dã có những biến thiên gì ? Ví dụ: nay ta viết và đọc: Đức Chúa Trời, Cũng như, Cùng nhau, Hạ Hoàng, Huyện, Thôn, dòng Chúa, Thầy Dòng, Song le .... thì lúc bấy giờ Phliphe Bỉnh viết : Đức Chúa Blời, Cũ như, Cù nhau, hạ Haòu, Huện, Tôn, Dào Chúa, Thầy Dào, Sao le ....Ông lại còn dùng nhiều chữ viết tắt như: Rg (rằng), Ng (người), Trc (trước), Chg (chẳng)...Chỉ riêng một cuốn sách đã dày trên 600 trang viết tay nắn nót cẩn thận; nếu có được tất cả sách của ông đã viết thì chúng ta có cả một kho báu văn học quốc ngữ buổi đầu đồ sộ đến nhường nào .Sự nghiệp của Philphe Bỉnh rất lớn lao, hiện Thư viện toà thánh Vatican còn lưu giữ một số sách viết tay, những sách này phần lớn là ký tên "Thầy cả Philippe Bỉnh". Sách ông để lại có 4 loại rõ rệt : trước tác, dịch thuật, sao chép có sửa chữa sách của người trước và loại ông mua sắm hoặc được biếu tặng.Trong cuốn viết tay loại nhật ký, hồi ký, biên chép "Sách sổ sang, chép các việc", từ trang 598 đến trang 602, ông kê khai các sách trong cái thư viện nhỏ của riêng ông cũng chia làm hai loại, loại in và loại viết tay . Loại sách mua sắm, ông không quên ghi cả giá cả, bộ đắt nhất là 4 quan, bộ rẻ nhất là 3 tiền 20 đồng. Ông kê khai 34 bộ sách in không ghi tên tác giả, ông ghi chú :"Các sách chg chua tiền, phần thì ng ta cho, phần thì mua, sao chang nhớ cho tỏ mà biên. Còn nhiều sách khác nữa thì tôi sẽ kê số khác là một Cu (Cùng) các sách viết mà giởi cho thầy cả bề trên Dào đem sang Annam cho anh em được dùng" (trang 599 Sách sổ sang).Có lẽ xuất phát từ lời di chúc ấy mà những sách của thư viện riêng ông đã được gửi về Việt Nam, do đấy không còn nhiều ở thư viện Vatican. Ngày nay không biết số sách ấy nằm ở trong thư viện nào ? Ai giữ kho tàng sách vở vô giá ấy của Philippe Bỉnh ?Ở mục sách viết tay, ông kê khai có 21 bộ. Sau đó ông còn viết thêm nhiều nữa .Ngoài ra, còn có 4 bộ tự vị trong tủ sách của ông. Một bộ có vẻ sao lại bộ tự vị của Ạ.De Rhodes, có sửa chữa là của riêng ông, không giống Ạ.De Rhodes và không có phần La tinh như của De Rhodes. Bộ thứ 3 và thứ 4 là hai bộ tự vị Việt - Bồ, Bồ - Việt. Sắp xếp hoàn toàn khác với những cuốn trên không rõ chính ông là tác giả hay ai là tác giả hai bộ này (hai bộ này cũng chép tay). Từ xưa đến giờ, nói đến tự vị chữ quốc ngữ, chỉ có 3 cuốn tự vị được coi là tối cổ: một cuốn của Ạ.De Rhodes in năm 1651. Cuốn thứ hai được coi là của Pigneau De Béhaine (từ điển Annam - La tinh) đa bị cháy ở Cà Mau đầu thế kỷ XIX (thế kỷ XIX là thời điểm bị cháy chứ không phải thời điểm in ra). Cuốn thứ 3 của Taberd tu bổ và tái thiết cuốn bị cháy ở Cà mauVậy còn hai cuốn tự điển đặc biệt Viêt - Bồ, Bồ - Việt ? Phải chăng là tối tối cổ, cổ hơn cả những cuốn trên, có trước 1651? Có phải là hai cuốn mà Ạ.De Rhodes nói đến trong bài tựa ở bộ tự điển của ông? Là hai cuốn của Gaspar De Amaral và Antonio Barbosa mà từ bao thế kỷ này người ta cho rằng đã thất lạc ? Phải chăng nó còn cái may mắn nằm trong thư viện của thầy cả Phliphe Bỉ? Việc vô cùng quan trọng này có lẽ phải chờ những nhà nghiên cứu văn học, ngôn ngữ đưa ra ánh sáng.Vì đó là những bộ sách quý giá hiếm hoi của chữ quốc ngữ ta trong buổi đầu và là các mốc của lịch sử văn học quốc ngữ.Viết bằng chữ quốc ngữ, Phliphe Bỉnh tả chân tỉ mỉ, rõ ràng. Văn ông bình dân, không chêm đệm điển tích, câu cú không cần gọt dũa hoa mỹ. Ông viết không mệt mỏi,cả đời chỉ ham viết, trên 30 năm bị nhà vua Bồ Đào Nha nghi kỵ, không giúp ông đạt ý nguyện hoà giải hai dòng tu lên Đức Giáo hoàng, lại còn gần như an trí, giảm lỏng cả phái đoàn không cho về nước, cũng chẳng giúp đi La Mã. Trong hoàn cảnh oái oăm như thế mà ông không hề viết một ý oán hận nào về việc bất như ý ấy . Ông dùng toàn bộ thời gian bị giam lỏng đó để viết sách, dịch thuật, sao chép tự điển, sửa chữa, nhuận sắc, cho hợp lý hơn, tìm cách viết chữ quốc ngữ cho hoàn chỉnh hơn, hợp lý hơn ...Trước đó, kể cả cho tới thời ông sống và còn kéo dài cả khoảng thời gian lâu dài về sau nữa, xã hội ta còn chuộng cách học từ chương, điển cố theo Trung Quốc, văn viết thì hoa mỹ, mơ màng, ít viết theo đúng thực tế, lại còn chuộng chữ Hán, rồi chữ Nôm. Thế mà ông can đảm viết ngay chữ Quốc Ngữ không e ngại gì. Ông giỏi nhiều thứ tiếng, nhất là Pháp và Latinh, nhưng không viết bằng những thứ tiếng ấy, chỉ chuyên chú viết tiếng Việt, mong muốn để lại toàn bộ sách vở cả đời ông cho người Annam dùng.Từng có một Alexandre de Rhodes mà chúng ta đã không quên công khai phá chữ quốc ngữ và cũng từng có một Philippe Bỉnh, người Việt Nam đầu tiên viết văn bằng quốc ngữ .....* Đến bây giờ, các bà mẹ vẫn còn mớm cơm cho con trẻ, đâu phải là mất vệ sinh như tài liệu này viết - chú thích của người tổng hợp.
  3. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193
    Thâm và độc thật đấy ! Khẽ khàng, kiên nhẫn lay động...Từ đây có thể tạo nên một sự vu khống dây chuyền...
    Cái ông Phi-lip Bỉnh này cũng là một người tầm thường như tui đây . Đọc xong cũng thấy hay hay vì cách đây những 200 năm có một người VN đã đi du ngoạn khắp nơi...Cứ tưởng chỉ có ***** là người vĩ đại duy nhất mở rộng tầm nhìn...
  4. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Đó là 2 người và 2 việc khác nhau, 1 người vì đến cầu nước mẹ giúp đỡ mà bị giam lỏng 30 năm trời, chết nơi đất khách, không thấy quê hương, không lấy việc sưu tầm sách vở, ghi chép mọi việc thì biết làm gì cho qua ngày đoạn tháng?
    1 người vì tìm 1 con mà đi khắp mọi nơi cũng gần 30 năm rồi trở về đất tổ, mang lại một trang tự chủ cho một quốc gia nô lệ.
    2 người đó khác nhau hoàn toàn.
  5. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Pétrus Jean Baptiste Trương Vĩnh Ký 張永~ (6/12/1837 ?" 1/9/1898)
    Theo Huỳnh Ái Tông, các tác phẩm của Trương Vĩnh Ký, trong khoảng thời gian 33 năm với 119 tác phẩm được biết đến, có thể có những tác phẩm đã bị thất lạc nên không có trong danh sách nầy.
    Văn nghiệp để lại đồ sộ, phong phú, đa dạng, gồm nhiều địa hạt như : Triết học, Văn học, Sử học, Địa lý... Riêng về ngành ngôn ngữ học, ông đã viết nhiều sách dạy tiếng Á Châu như : Trung Hoa, Lào, Kam pu chia, Thái Lan, Miến Điện, Mã lai, Ấn Độ chứng tỏ ông là nhà thông thái hiếm có, danh tiếng của ông chẳng những chỉ có ở trong nước mà còn có ở nước ngoài thời bấy giờ.
     
    [​IMG]

    Tên thật của ông, là Trương Chánh Ký sau đổi thành Trương Vĩnh Ký, tên thánh là Jean Baptiste, tên chữ là Pétrus, tự Sĩ Tải. Vì vậy người ta thường viết tên ông là Pétrus Jean Baptiste Trương Vĩnh Ký, sanh ngày 6 tháng 12 năm 1837 tại làng Vĩnh Thành (tục danh Cái Mơn), tổng Minh Lý, huyện Tân Minh, phủ Hoằng An, tỉnh Vĩnh Long, sau nầy thuộc tỉnh Bến Tre.
    Ông là con thứ ba của Lãnh binh Trương Chánh Thi và Nguyễn Thị Châu, năm 1842, được 5 tuổi, ông học chữ hán với ông giáo Học. Năm 1847, cha ông qua đời trong khi trấn nhậm ở một vùng gần Nam Vang (Phnom Penh), có lẽ sau đó, mẹ ông giao ông cho giáo sĩ Tám, với sự dìu dắt của vị giáo sĩ nầy, ông học chữ Quốc ngữ, sau đó giáo sĩ Tám mất, có nhà truyền giáo người Pháp tên Việt là linh mục Long, đem về nhà dòng chánh ở Cái Nhum (Bến Tre) cho học chữ La tinh.




    Dưới triều vua Minh Mạng, năm 1835 hạ Chiếu cấm đạo, nên năm 1848, Linh mục Long đưa Trương Vĩnh Ký qua học tại Trung Học Pinhalu ở Campuchea, đây là trường đạo dành để dạy học trò người Việt, Miên, Lào, Thái Lan, Miến Điện và Trung Hoa , nhờ ở chung với học sinh các nước Đông Nam Á mà ông học nói và viết thông thạo các ngôn ngữ kể trên.
    Năm 1851, Trương Vĩnh Ký theo Linh mục Long qua họctại Tổng Chủng Viện Viễn Đông Quốc Ngoại Truyền Giáo ở Poulo-Pénang (Hạ Châu). Trong 6 năm theo học ở Pénang, ông đã học về văn chương, khoa học, triết lý qua chữ La tinh, và ở tại đây, công có dịp học thêm các ngôn ngữ Pháp, Anh, Hy Lạp, Ấn Độ và Nhật.
    Năm 1858, được tin mẹ mất, ông rời Poulo-Pénang trở về Cái Mơn, năm nầy ông được 21 tuổi. Hai năm sau, qua sự giới thiệu của Linh mục Lefèvre, Trương Vĩnh Ký ra làm thông ngôn cho Đại úy Jauréguiberry. Năm 1861, ông lập gia đình với bà Vương Thị Thọ rồi lập gia cư ở Chợ Quán (nay ở ngay tại góc đường Trần Hưng Đạo và Trần Bình Trọng, quận 5 Sàigòn). Năm 1862, ông bị chuyển ra làm việc ở Huế.
    Năm 1863, Trương Vĩnh Ký được Pháp phái theo sứ bộ Nam triều do Phan Thanh Giản làm Chánh sứ, phái bộ sang triều kiến Pháp hoàng Napoléon III. Nhờ sứ trình nầy, ông có dịp viếng các nước Anh, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Ai Cập, Ý, La Mã. Tại La Mã, ông được Giáo hoàng Pio IX tiếp kiến, còn trong lúc ở Paris, ông kết thân với các nhà thông thái, danh vọng nước Pháp như Paul Bert, Duruy, Littré ... Ông được cử vào Hội viên của hội chuyên khảo về Nhân loại, và hội chuyên học tiếng Đông phương.
    Từ năm 1886-1888, Trương Vĩnh Ký được bổ nhậm chức Giám đốc và dạy ngôn ngữ Đông Phương ở Trường Thông Ngôn ( Collège des Interprètes).
    Ngày 16-9-1869, ông được Thống soái Nam Kỳ Ohier bổ nhiệm Chánh Tổng Tài tờ Gia Định Báo. Ông đã điều hành tờ báo nầy cho đến năm 1872, Năm nầy ông được thăng Tri Huyện và được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng trường Sư Phạm (Ecole Normal). Năm 1874, ông là giáo sư dạy chữ Quốc ngữ và chữ hán ở Trường Hậu Bổ (Collège des Stagiaires).
    Từ 1866-1886, khoảng thời gian 20 năm nầy, ông chuyên về vấn đề văn hóa và giáo dục. Nhưng năm 1886, người bạn cũ của ông là Paul Bert sang làm Thống Đốc Nam Kỳ, vì tình bạn ông đã bước sang sân khấu chánh trị, một bước phù du mà cuối cùng cuộc đời ông nghèo nàn, danh vọng một thời đã mai một!
    Trước tiên Paul Bert lấy tình thân hữu nhờ ông giúp cho vài việc liên lạc với triều đình Huế (1), sau sung Cơ Mật Viện và làm Giám quan, cố vấn cho vua Đồng Khánh.
    Ngày 11-11-1887, Paul Bert mất, ông có dịp rời khỏi sân khấu chánh trị mà cả phía Pháp cũng như quan lại Nam triều, kẻ không tin cẩn, người lại không ưa ông. Trở về nhà, ông sáng tác và vui thú văn chương.
    Trương Vĩnh Ký thiết tha với nền văn học Quốc ngữ, đọc Ý sách  Chuyện Đời Xưa  để thấy rõ hoài bão của ông:
    Kêu rằng chuyện đời xưa, vì nó là những chuyện kẻ lớn trước ta bày ra để mà khen sự tốt, chê sự xấu cho người ta sửa cách ăn, nết ở cho tử tế.
    Ta cũng có thêm một hai chuyện thiết tích mà có ý vị vui, dễ tức cười, cũng để cho người ta thấy khen mà bắt chước, thấy chê mà lánh.
    Góp nhóp trộn trạo chuyện nọ chuyện kia, in ra để cho con nít tập đọc chữ quốc ngữ, cũng là có ý cho người ngoại quốc muốn học tiếng An Nam, coi mà tập hiểu cho quen.
    Nay ta in sách nầy lại nữa: vì đã hết đi, cũng vì người ta dùng sách nầy mà học tiếng, thì lấy làm có ích. Vì trong sách ấy cách nói là chính tiếng An Nam ròng, có nhiều tiếng nhiều câu thường dùng lắm.
    P.J.B. Trương Vĩnh Ký​
    Năm 1888, ông xuất bản một nguyệt san lấy tên là Thông Loại Khóa Trình ( Miscellanées ou lectures intructives pour les éleves des écoles primaires, communales et cantonales et les familes), nguyệt san nầy số 1 không có ghi ngày tháng xuất bản, chỉ có ghi năm 1888, từ số 3 trở đi có ghi thêm Juillet 1888 và các số sau ghi mỗi số một tháng kế tiếp. Như vậy số 1 có thể ra vào tháng 5 (Mai) 1888 và số sau cùng là số 18 năm 1889, in khổ 16cm X 24cm, mỗi số có 12 trang.
    Sau đây trích trang 3 số 1. ( Có hàng chữ Hán : Thường Bả Nhất Tâm Hành Chánh Đạo)
    (Đạo) (Chánh) (Hành) (Tâm) (Nhất) (Bả) (Thường) (2)
     
    Chẳng những Trương Vĩnh Ký là một nhà văn tiền phong xứng danh của nền văn học chữ quốc ngữ mà ông còn là một học giả rất nổi tiếng, ông đã được các vinh dự:
    1-10-1863: Lãnh huy chương Dõng sĩ cứu thế của Tòa thánh La Mã.27-6-1886: Lãnh huy chương Isabelle la Catholique của Tây Ban Nha.15-2-1876: Được cử làm hội viên Hội chuyên khảo về Văn hóa Á Châu.07-7-1878: Được cử làm hội viên Hội chuyên học địa dư ở Paris.17-5-1883: Lãnh huy chương Hàn Lâm Viện đệ nhị đẳng của nước Pháp.17-5-1886: Lãnh Tứ đẳng Long Tinh, Ngọc Khánh, Long Khánh của Nam triều.04-8-1886: Lãnh Bắc Đẩu Bội Tinh đệ ngũ đẳng của nước Pháp.03-6-1887: Lãnh Hàn Lâm Viện đệ nhất đẳng của nước Pháp.
    Ông cũng có lãnh Hàn Lâm Viện đệ nhất đẳng của Hoàng Gia Cam Bốt.Vua Đồng Khánh ban cho ông chức Hàn Lâm Viện thị giảng học sĩ.Vua Khải Định ban hàm Lễ Bộ Tham Tri.Vua Bảo Đại ban hàm Lễ Bộ Thượng Thư.
    Trong khoảng năm 1873-1874, ông được liệt vào hàng thế giới thập bát văn hào, xếp theo mẫu tự như sau :
    Bác sĩ Allemand, Banadona d" Ambrum, Bonhomme (Honoré), Cazot (Jules), Đại tướng Chambron, Bá tước Chambord, Christophie (Albert), Conte (Casimir), Desmaze (Charles), Duprat (Pascal), Dupuy (Charles), Garnier-Pages, Guizot, Lafayette (Oscar de), Lefèvre-Pontalis (Amédée), Marcon, Pétrus Ký, Thống chế Saldonha Oliveirae Daun.
    Cộng tác với Pháp, nhưng chắc chắn Trương Vĩnh Ký không thích con đường chính trị, ông lại thiết tha với nền văn học chữ quốc ngữ, ông có chủ đích quay về sự nghiệp văn chương của mình, khi Paul bert mất, ông không ngần ngại từ bỏ sân khấu chánh trị, trở lại nghề dạy học, viết sách dạy các thứ tiếnng Đông phương, về phương diện nầy, ông là nhà ngôn ngữ học quảng bác, vì ông có thể nói và viết 15 ngôn ngữ Tây phương và 11 ngôn ngữ Đông phương.
    Viết sách dạy người Pháp học tiếng Việt và ngược lại, dịch bộ Tứ Thư (Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử), cũng như một số sách chữ Hán ra chữ quốc ngữ, cốt để phổ biến ngôn ngữ và tư tưởng Đông phương, chính ở phương diện nầy chúng ta thấy ông là nhà văn hóa, ở sân khấu chánh trị ông mong tạo sự thông cảm giữa người Việt và người Pháp, giữa những xung đột lớn lao về chánh trị, kinh tế, văn hóa giữa hai nước. Tuy theo đạo Thiên chúa nhưng phải nhận ông vẫn giữ được phong hóa Đông phương, thấm nhuần tư tưởng Khổng Mạnh, điểm nầy chúng ta xem lại bài di huấn của ông viết vào ngày 8-11-1870.
    "" Người đời sanh ký tử quy, đàng đi nước bước vắn vỏi lắm. Nhưng ai cũng có phận nấy, hể nhập thế cuộc bất khả vô danh vị, cũng phải làm vai tuồng mình cho xong đã, mới chun vô phòng được. Sự sống ở đời tạm nầy, đỏ như hoa nở một hồi sương sa; vạn sự đều chóng qua hết, tan đi như mây như khóị Nên phải liệu sức, tùy phận mà làm vai tuồng mình cho xong...""
    Và sau đây là bài thơ ông sáng tác lúc gần ngày lâm chung :

    Quanh quanh quẩn quẩn lối đường quai,Xô đẩy người vô giữa cuộc đời.Học thức gửi tên con sách nát,Công danh rốt cuộc cái quan tài.Dạo hòn, lũ kiến men chân bước,Bò xối, con sùng chắt lưỡi hoài !Cuốn sổ bình sanh công với tội,Tìm nơi thẩm phán để thừa khai.
    Ông mất vào ngày 1 tháng 10 năm 1898, thọ 61 tuổi. Mộ của ông hiện ở góc đường Trần Hưng Đạo và Trần Bình Trọng Sàigòn, trong khuôn viên nhà của ông ngày xưa ở Chợ quán. Thời Pháp, tưởng nhớ công nghiệp của ông, người ta đúc tượng ông, một người nho nhã mặc quốc phục, đầu bịt khăn đống, tay cầm quyển sách, tượng đặt trong khuôn viên trước Bộ Ngoại Giao và Dinh Độc Lập.
    Tại Thủ đô Sàigòn, Bộ Giáo Dục dành một trường Trung Học Lớn mang tên ông, Trường Trương Vĩnh Ký nằm cạnh Trường Đại Học Khoa Học Sàigòn.
    Được fddinh sửa chữa / chuyển vào 12:31 ngày 01/09/2008
  6. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    [​IMG]Kê ra những sách và bài của ông đã viết để thấy văn nghiệp của ông đồ sộ, phong phú và đa dạng (4):1. Năm 1865 : Cours pratique de langue Annamite, à l"usage du college des interpretes.2. Năm 1867 : Contes Annamite (Chuyện đời xưa)3. "" : Abrégé de Grammaire Annamite4. Năm 1872 : Grammaire Francaise (Mẹo Luật dạy tiếng Lang sa)5. Năm 1875: Petit cours de Geographie de la Basse-Cochinchine6. "" : Histoire Annamite en vers (Đại Nam quốc sử diễn ca)7.  "" : Cour de Langue Annamite (autographié)8. "" : Cour de Langue Mandarine ou de Caractes Chinois (autographié)9. "" : Kim Vân Kiều-Poème transcrit pour la première fois en quốc ngữ avec des notess explicatives, précédé d"un résumé succinet du sujet en prose et suivi de quelques pièces de vers relatives à la même histoire.10. Năm 1876: Manuel des Écoles Primaires-(Syllabaire quốc ngữ, Histoire Annamite, Histoire Chinoise (en ananmite)11. "" : Quatre livres classiques en caractères Chinois et en annamite (autographié)12. "" : Alphabet quốc ngữ13. Năm 1877: Sơ học vấn tân Répertoire pour les nouveaux étudiants en caractères14. Năm 1879: Cour d" Histoire Annamite, en 2 volumes15. Năm 1881: Voyage au Tonkin en 1876 (Chuyến đi ra Bắc kỳ năm Ất hợi)16. "" : Retraite et Apothésose de Trương Lương.17. "" : Les convenances et les Civilités Annamites.18. Năm 1882: Saigon d"autrefois.19. "" : Saigon d"aujourd"hui.20. "" : Passe-temp (Chuyện khôi hài)21. "" : Apologie de Trương Lương (Trương Lương hầu phú)22. "" : Événement de la vie (Kiếp phong trần, 3è e***ion)23. "" : Fais ce que doit , advienne que pourra (Bất cượng)24. "" : Devois des Filles et des Femmes.25. "" : La Bru (Thơ dạy làm dâu)26. "" : Défaut et Qualités des Filles et des Femmes.27. Năm 1883: Guide de conversation Annamite Francaise (Sách tập nói tiếng An-nam Phangsa)28. "" : École domestique ou un Père et à ses Enfants.29. "" : Caprises de la Fortune (Thạnh suy bỉ thời phú)30. "" : Procription des Corbeaux (Bài hịch con quạ)31. "" : Un lettré pauvre (Hàn nho phong vị phú)32. Năm 1884: Grammaire de la Langue Annamite (Sách mẹo tiếng Annam)33. "" : Tam tự kinh.34. "" : Sơ học vấn tân.35. "" : La Digne (Mắc cúm từ)36. "" : Jeux et Opium (Cờ bạc, nha phiến)37. "" : La Bucheron et la Pêcheur (Ngư tiều trường điệu)38. "" : Huấn mông ca Transcription et traduction en annamite et en francais.39. Năm 1885: Alphabet Francais pour les Annamite.40. Năm 1886: Conférence sur le Souvenir histoirique de Saigon et de ses environs.41. "" : Cours de la Langue Annamite aux Européens-Phrasélogie-Thèmes versions.42. "" : Cours d"Annamite aux Élèves Européens-Explication du Lục Vân Tiên43. "" : Cours d"Annamite aux Élèves Annamites-Explication du Lục Vân Tiên44. "" : Prosodie et Versification Annamite-Cour d"Annamite aux Élèves Annamite.45. Năm 1886: Dispute de Mérite entre les six Animaux domestique (Lục súc tranh công)46. "" : Maitre et Élève sur la Grammaire Francaise (Thầy trò về mẹo luật tiếng Phangsa).47. "" : Kim Vân Kiều en prose-Converti et commenté en langue vulgaire pour les Élèves Annamite.48. "" : Théâtre, Comédies, Chants, Chansons Annamite(Hát lý hò Annam) Cours aux Elèves Annamite.49. Năm 1887: Cours de caractères Chinois, 2è année-Explication du Mencius, Thèmes, Versions et explication des pièces officielles.50. "" : Vocabulaire des Mot usueles, Noms et termes Techniques, Scientifiques, et Administratifs.51. "" : Livres Élémentaire de 3.000 caractères (Tam thiên tự giải nghĩa).52. "" : Résumer de la Chronologie de l"Histoire et de la Production de l"Annam en Tableau Synoptiques (Ước lược sự tíchnước Nam)53. "" : Précis de Géographie54. "" : Les six Annimeaux domestiques (Lục súc)55. Năm 1888: Đại Nam thập nhứt tỉnh thành đồ.56. "" : Miscellanées ou Lectures instructives pour les Élèves des Écoles primaire, communales et cantonales et les Familles.57. Năm 1889: Poème populaire (Lục Vân Tiên)58. "" : Poème populaire (Phan Trần)59. "" : Cours de Siamois60. "" : Cours de Langue Malaise, professé et autographié jusqúà là 7è lecon.61. "" : Đại Nam tam thập nhứt tỉnh địa đồ62. "" : Quatres Livres classiques en Caractères Chinois et en Annamite-Grande Étude Invariable Milieu.63. "" : Grand Dictionnaire Annamite Francaise-1er feuille comme spécimen64. Năm 1890: Cours de Cambodgien (Ecriture et langue)65. "" : Vocabulaire du Cours d"Annamite.66. "" : Vocabulaire du cours de Caractères Chinois.67. Năm 1891: Cours de Littérature Chinoise.68. "" : Cours de Littérature Annamite.69. "" : Programme Générale d"Études des les Écoles Annamites.70. "" : Modèles des Pièces officielles et administratives en caractères.71. "" : Généalogie de la Famille de P. Trương Vĩnh Ký.72. "" : Sĩ viên thi thảo.73. "" : Recueil de Brochures sur l"histoire de la littérature annamite, relié.74. Năm 1894: Cours d"Annamite parlé (vulgaire)75. "" : Grand Dictionnaire Francais-Annamite (invachevé)76. ( 5 ) : Grammaire de la Langue Chinoise (Mẹo chữ Nhu)77. "" : Grammaire Annamite en Annamite (Mẹo tiếng Annam)78. "" : Langage de la Cour en Extrême-Orient79. "" : Vocabulair Francais-Malais80. "" : Guide de la Conversation Malaise-Francaise81. "" : Vocabulair Francais-Cambodgien82. "" : Guide de la Conversation Cambodgienne-Francaise83. "" : Vocabulaire Francais-Siamois84. "" : Vocabulaire Siamoise-Francaise85. "" : Cours de la Langue Birmane86. "" : Vocabulaire Birman-Francais87. "" : Guide de la Conversation Birmane-Francaise88. "" : Cours de Ciampois89. "" : Vocabulaire Ciampois-Francais90. "" : Guide de la Conversation Ciampoise-Francaise91. "" : Cour de la Langue Laotienne92. "" : Vocabulaire Laotien-Francais93. "" : Guide de la Conversation Laotienne-Francaise94. "" : Cours de la Langue Tamoule95. "" : Vocabulaire Tamoul-Francais96. "" : Guide de la Conversation Tamoule-Francaise97. "" : Cours de la Langue Indoustane98. "" : Vocabulaire Indoustan-Francais99. "" : Guide de la Conversation Indoustane-Francaise100. "" : Minh tâm-La précieux Miroir du Coeur (en 2 vol)101. "" : Cours de la Géographie de l"Indochine avec carte générales et partiuculières en six parties: 1. La Cochinchine-francaise, 2. L"Annam central, 3. Le Tonkin, 4. Le Cambodge, 5. Le Siam, 6. La Birmanie.102. "" : Cours d"Annamite écrit (Mandrin ou de caractères chinois)103. "" : Mencius-(Quatre Livres) No 3104. "" : Luận ngữ (Quatre Livres) No 4105. "" : Dictionnaire Chinois-Francais-Annamite.106. "" : Annam Politiqye et Social107. "" : Dictionnaire biographie Annamite (ou De Viris illustribus regni Annamitici)108. "" : Flore Annamite109. "" : Produits de l"Annam110. "" : Dictionnaire Géographie Annamite.111. "" : Les Droits de l"Annam dans la Vallée du Mékong (Mémoire sur)112. "" : Recueil de Chansons populaire Annamites113. "" : Recueil d"Oraisons funèbres Annamites114. "" : Recueil de pièces de théâtre Annamite115. "" : Sujets Histoiriques des Poèmes Annamites116. "" : Étude comparée sur les Langues, Écritures, Croyances, et Religions des Peuples de l"Indochine.117. "" : Combinaisiondes systèmes d"écritures idéographique, hiérogkyphique, phonétique, alphabétique118. "" : Étude comparée des Langues et des Écritures des trois branches linguistique.119. Năm 1937: Petit Dictionnaire Francais-Annamite à l"usage des écoles et des bureaux.
    Huỳnh Ái Tông
    Quanh quanh, quẩn quẩn lối đường quai, Xô đẩy người vô giữa cuộc đời, Học thức giữ tên con mọt sách, Công danh rút lại cái quan tài. Dạo hòn lũ kiến men chân bước, Bò xối con sùng tắc lưỡi hoài. Cuốn sổ bình sinh công với tội, Tìm nơi thẩm phán để thừa khai.Trương Vĩnh Ký - 張永~
    Bài này tác giả viết trước khi lìa cõi thế.
    [​IMG]

    Ảnh của 18 nhà bác học của thế kỷ XIX.
            Trong đó ông Trương vĩnh Ký được xếp hạng thứ 17[​IMG]
    Ảnh Trương vĩnh Ký đang được treo tại nhà xứ  Cái Mơn
     
    Tài liệu được tổng hợp từ nguồn của người Công giáo, nên các bạn phi Công giáo có thể sẽ không vui lòng.
    Theo Website thông tin Kinh tế - Xã hội tỉnh Bến Tre www.bentre.gov.vn
    Trương Vĩnh Ký đọc và nói giỏi 15 ngôn ngữ phương Tây và 11 ngôn ngữ phương Đông, được giới học thuật xếp vào danh sách 18 nhà bác học đương thời của thế giới. Trương đã để lại 118 tác phẩm lớn nhỏ, kể cả tiếng Việt, tiếng Pháp và tiếng Hán, không kể những di cảo dang dở. Điều đó chứng tỏ ông có một sức làm việc không biết mệt mỏi và một tri thức uyên bác, bách khoa. Các tác phẩm của Trương Vĩnh Ký có thể chia thành 6 loại:
    Nghiên cứu về địa lý và lịch sử. Nghiên cứu về các bộ môn khác của ngành khoa học xã hội. Biên soạn từ điển. Dịch sách chữ Hán. Sưu tầm, phiên âm truyện Nôm và các tác phẩm cổ Việt Nam. Sáng tác thơ văn, bút ký. Toàn bộ những công trình biên soạn của ông - kết quả của 40 năm miệt mài lao động ?" đã có những đóng góp nhất định cho một số ngành khoa học đương thời, nhất là với khoa ngôn ngữ học và khoa lịch sử. Riêng đối với văn học dân tộc và văn học Nam Bộ nói riêng, ông đã góp một phần có ý nghĩa trong việc sưu tầm, biên soạn, phiên âm với một ý thức trân trọng một loạt tác phẩm như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên, Đại Nam quốc sử diễn ca, Hịch Quản Định, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Trung nghĩa ca, Gia Định thất thủ vịnh, Chuyện đời xưa nhón lấy những chuyện hay và có ích, Chuyện khôi hài...
    Trong bước giao lưu buổi đầu giữa hai nền văn minh phương Tây và phương Đông ở Việt Nam, trong hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn phương tiện, tài liệu mà làm được như vậy quả là một điều đáng trân trọng và khâm phục. Việc làm của ông còn là một đóng góp có ý nghĩa, nhất là về mặt nghiên cứu văn bản học sau này. Mặc dù hoạt động của họ Trương không thoát khỏi quan điểm "tùy thời" của tác gia lúc bấy giờ, nhưng công bình mà xét, toàn bộ những công trình nghiên cứu, biên soạn kể cả sách dịch hay phiên âm, với một khối lượng đồ sộ đã toát lên một tình yêu quê hương, đất nước, ý thức quý trọng vốn văn hóa dân tộc. Những công trình đó có giá trị tích cực đối với nhiều ngành khoa học hiện nay. Riêng cuốn Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi là "một tập bút ký hiếm hoi bằng chữ quốc ngữ của thế kỷ XIX, ít nhiều cho thấy khả năng viết văn xuôi tiếng Việt của Trương Vĩnh Ký so với thời đó(1). Tập ký mang một bút pháp đặt tả cụ thể, chi tiết và hiện thực, khác hẳn với bút pháp trung đại lúc bấy giờ.
    Đây là đoạn tả cảnh hồ Gươm năm 1876 ở giữa Hà Nội: "Ngoài cửa sổ có cái hồ Gươm rộng lớn, giữa hồ lại có cù lao nhỏ có cất cái miếu Ngọc Sơn, cây cối in rợp huyền vũ coi tươi tốt. Nhà thiên hạ phố xá bao lấy cái miệng hồ. Hồ này ở tại ngoài cửa đông nam tỉnh thành. Người ta truyền rằng: vua Lê Thái Tổ ngự thuyền dạo chơi trên hồ, có con qui lớn nổi lên, vua lấy gươm chỉ nó, nó ngậm gươm lặn đi..."(2).
    Còn đây là đoạn ghi chép của ông về khí hậu phía bắc: "Tháng chín, mồng chín có mưa thì được mùa, không mưa thì mất mùa." Có lời ngạn ngữ rằng: "Mồng chín tháng chín có mưa, thì con đi sớm về trưa mặc lòng. Mồng chín tháng chín không mưa, thì con bán cả cày bừa con ăn! Mùa đông rét lạnh, lại có thứ sương muối, hay hại cỏ cây lắm, rét buốt da tay chân như kim châm"(3).
    Lối viết bằng chữ quốc ngữ cách đây hơn một thế kỷ như vậy là khá trong sáng. Với cách quan sát và diễn đạt tinh tế, dễ hiểu, Trương Vĩnh Ký là một trong số tác gia Nam Bộ viết văn xuôi bằng chữ quốc ngữ đầu tiên, có đóng góp vào tiến trình phát triển của văn học dân tộc. Bình luận về vấn đề này, ông Vũ Ngọc Phan, tác giả quyển Nhà văn hiện đại, viết: "Ông (tức Trương Vĩnh Ký ?" BS) có cái óc của nhà bác học, vì ngay trong ông đã để ý tìm tòi đối với những điều trông thấy, ông không chịu chỉ biết qua loa mà muốn biết đến tận nơi, tận chốn?(4). Xin lưu ý một điều là, theo quan niệm văn chương thời ấy - thời Trương Vĩnh Ký ?" ?oviết quốc ngữ mà viết trơn tuồn tuột như lời nói, ai cũng cho là dễ dàng, đã được kể là văn đâu?(5).
    Chú thích
    (1) Từ điển văn học, Nxb KHXH, H., tập II, tr. 465.(2) Bản in của nhà hàng C. Guillaud et Martinon, S., 1881, tr.6.(3) Bản in của nhà hàng C. Guillaud et Martinon, Sđd, tr.6.(4) Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, tập 1, Nxb KHXH, H., 1989, tr. 21.(5) Vũ Ngọc Phan, Sđd.
  7. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193
    Lại vu cáo rồi nhé. Vào thời điểm 1775 thì làm gì có cái gọi là "nước mẹ"...Hơn nữa xét về mặt ý thức và nhận thức tại thời điểm ấy thì hẳn ông Bỉnh vẫn đi trước thời đại. Cũng nên so sánh ông Rốt là một người gốc Do Thái vốn bị kỳ thị ở châu Âu, ông ta có ý thức rất cao về tính dân tộc, chủng tộc...với Mác cũng là một người gốc Do Thái cùng thời với Bác....
    Bạn lại vu vạ về qua từ "nhồi sọ". Chữ Latinh chẳng có tội gì trong việc này, nó hoàn toàn tuỳ ý người sử dụng....
  8. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Trời, bạn không hiểu nổi thời kỳ ấy nước Pháp chưa có tuổi gì vươn đến Đông Nam Á sao? Phải sau khi ông đờ Rốt của bạn lập được Hội Thừa sai Paris rất lâu Pháp mới lợi dụng việc Bồ suy yếu mà tranh phần của Bồ làm nước mẹ nhé.
    Thứ nữa, người Bồ vì muốn lập công mở rộng nước Chúa, muốn công cuộc nhồi cái ông ngự trên thánh giá vào sọ dân Việt được nhanh chóng thuận lợi, nên mới tìm cách mà quẳng chữ Nôm chữ Hán đi (chỉ kém tàn bạo hơn thời Tần Thủy Hoàng đế đốt chữ Khoa Đẩu của người Lạc Việt một bậc thôi) chính sách đó của họ ở Đông Á thành công nhất là tại xứ An Nam mà. Sau này là Pháp hưởng lợi từ công sức của người Bồ vậy.
    Và bởi vậy trong đầu giáo dân Việt khi ấy, nước mẹ là Bồ chứ chưa có Pháp à nghe bạn.
    Chính quyền đô hộ Pháp sau này đẩy mạnh hơn nữa công cuộc tẩy phá chữ Nôm, chữ Hán và chính các nhà báo, trên kia có bài về ông TVK đó bạn là những người tận tâm tận lực nhất cho công cuộc này. Cuối cùng thì người Pháp cấm hẳn chữ Nôm chữ Hán bằng việc bắt bộc nhân viên người Việt phải biết sử dụng tốt chữ Quốc Ngữ mới nhận vào cho làm việc, con bài cuối cùng là ngừng hẳn việc thi cử bằng chữ Hán đó thôi.
    Cuối cùng thì người Việt ta vẫn thực hiện câu lấy vũ khí định mà đánh địch và điển hình là Đông Kinh Nghĩa Thục của các Cụ Phan, rồi đến phong trào Bình Dân Học Vụ của Chính phủ VNDCCH, và ngày nay, ai có thể thay chữ Quốc Ngữ bằng một loại chữ khác nào?
    Biết bạn thế nào cũng bẻ tớ, tớ đã có chuẩn sẵn một chút tài liệu nữa nè, bạn coi chơi nha!
    Trích tài liệu "Những kỉ niệm về thầy N. Nikulin (Tưởng niệm 1 năm ngày mất GS.TS. N.Nikulin, 31-12-2005 - 2006)"
    Châu Hồng Thủy - Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam tại Liên bang Nga
  9. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193
    À như thế đờ Rốt cũng chỉ mang văn hóa phương Tây nói chung mà phổ biến khắp thế giới, chưa dùng đến vũ lực tàn bạo như bạn so sánh với Tần thủy Hoàng...Đi sâu hơn nữa, cũng như C. Colomb, mệnh danh phụng sự nữ hoàng và nước Bồ để có kinh phí chu du khám phá...Các chúa đàng trong ngoài đã có đến 6 lần trục xuất thì chắc đã quá cả nể uy danh ông ta, trong khi với quyền hành của họ thì có lẽ không có lần cảnh cáo thứ 2....
    Bạn có thể trưng tài liệu nói về 1"nước mẹ" mà giáo dân hay giáo sĩ tự xưng không ? Nhưng nếu có thì với trình độ của thời Ga-li-le hay Co-pec-nic, tính sùng đạo cũng dễ hiểu, một "nước mẹ" của tôn giáo nó khác với 1 "nước mẹ" của thực dân sau này chứ. Đạo Phật cũng hướng về Tây Trúc, đạo Hồi cũng hướng về Thánh địa đấy thôi...Còn nước ta thì bao lâu vẫn xem Trung Nguyên là trung tâm...Trong chính thời kỳ ấy chính châu Âu cũng có bao nhiêu biến động : cách mạng tư sản, tuyên ngôn nhân quyền Mỹ, cách mạng Pháp...Kín cửa như nước Nhật sau cũng phải mở cửa...
  10. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Hờ hờ, V1, tớ viết là kém TTH cơ mà.
    V2, vụ nước mẹ thì bạn đọc lại trong các bài về ông Bỉnh là 1, thứ nữa, nếu vẫn chưa cảm thấy thoải mái, tớ còn tài liệu đấy, mỗi tội nó nhạy cảm, tớ trưng ra sẽ có khối người chụp mũ cho tớ, mà tớ suốt ngày đội mũ bảo hiểm, nóng lắm, tối về bỏ đc cái mũ ra 1 tí lại phải bị chụp cái mũ ấy vào thì ... thêm nữa, mod lại tặng tớ cái khóa hay thậm chí ưu ái dọn chỗ cho tớ trên cây thì tớ không được tranh luận với bạn, buồn lắm!
    V3, giá như các vua nhà Nguyễn mà dũng cảm được như các vua bên Nhật thì đến ngày nay chúng ta đâu mất bao nhiêu máu tiền nhân cho hơn 100 năm ngoại thuộc nhỉ!

Chia sẻ trang này