1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những người có công trong buổi đầu hình thành chữ quốc ngữ

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi fddinh, 23/08/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
  2. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193
    Sao không là Bộ trưởng Văn hóa hay Giáo dục nhìn nhận chính thức với toàn thể học sinh nhỉ ?
  3. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Philiphô Rôsariô cũng gọi là Philipê Bỉnh
    Ông là văn sĩ cuối cùng của giáo đoàn Dòng Tên ở những xứ nói tiếng Việt. Trong khi các tác phẩm của hai người tiền bối của ông đều bị mất, theo lời của Sommervogel, của Cordier cũng như của Streit, không ông nào tìm ra một tác phẩm nào, thì về Philipê Bỉnh, chúng tôi lại tìm được những tác phẩm mà đến bây giờ chưa được ai biết tới. (Một bài của F.L. PULLÉ về Alexandre de Rhodes theo văn kiện Borg. Tonch. 10 trong Studi italiani di filoligia indo-iranica 4, (1904), tr. 127-136 là bài duy nhất mà chúng tôi được biết.)
    Những tác phẩm ấy được lưu trữ tại thư viện tòa thánh Vaticanô. Những sách viết tay thì kiểm tra dưới số Borgiani Tonchinensi 1-21 và 24 và Borgiani Latini, tập 668. Những quyển sách này đều có khổ 80 (20.5cm x 15cm) đóng bìa giống nhau, cùng một thứ giấy xanh xanh, tất cả đều do Bỉnh viết tay bằng tiếng Bồ vụng về, tiếng Latinh hay bằng tiếng mẹ đẻ của ông là tiếng Việt. Ở đầu mỗi tác phẩm, trừ một, đều có câu ghi chú này: ?oEste livro he o? Padre Felippe do Rosario, enviado da Christandade de Tunkim (Quyển sách này là của thầy cả Philipphê do Rosario, gửi từ Giáo hội của xứ Bắc) Sách này là của thầy cả Bỉnh?.
    1. Tiểu sử: các tác phẩm và nhật ký của ông là những nguồn sử liệu chính liên quan đến đời sống của ông. Để tìm hiểu cuộc đời đó ta cần phải lui ngược thời gian để chứng kiến sự tiến triển của giáo hội sau cuộc tử đạo của Ketlâm năm 1663. Năm 1659, Đức Giáo Hoàng biến xứ Bắc và Nam thành hai địa phận đặt trực thuộc Thánh bộ Truyền Giáo mà không đếm xỉa đến chủ quyền của vua xứ Portugal trên, những địa phận ấy (Năm 1493, Đức Giáo Hoàng đã chia những đất mới có thể tìm được cho nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Nhưng vì sợ phân chia ấy không được rõ ràng nên năm 1494, với hòa ước Tordesillas tất cả những lãnh thổ ngoài Âu Châu về phía Tây của kinh tuyến vị trí 370 dặm phía Tây đảo Açore là thuộc về Tây Ban Nha, phía đông của đường ấy thì thuộc về Bồ Đào Nha), hai địa phận này được đặt dưới quyền của hai đức giám mục cùng các giáo sĩ thuộc Hội Thừa sai ngoại quốc vừa mới thành lập. Năm 1664, giáo sĩ thứ nhất người Pháp thuộc Hội Thừa Sai đặt chân lên xứ Nam và năm 1666 đến xứ Bắc. Hậu quả của việc này là cuộc cạnh tranh kéo dài gần một trăm năm giữa Bồ Đào Nha và Thánh bộ Truyền Giáo, giữa các giáo sĩ Dòng Tên Bồ (cùng các giáo sĩ Dòng Tên thuộc nhiều nước khác) và các Thừa Sai người Pháp (giúp đỡ bởi các tu sĩ Yphanho Dòng Đa Minh từ năm 1676 và sau đó bởi các tu sĩ thuộc Dòng Augustin và Phanxicô). Nhờ sự can thiệp của nước Bồ, người ta đi đến một thỏa hiệp. Chia xứ Bắc ra làm hai phần, năm 1678: các tu sĩ Dòng Đa Minh lãnh miền đông và miền tây thuộc các Thừa sai Ba Lê. Còn các giáo sĩ Dòng Tên Bồ Đào Nha, mặc dầu thuộc quyền cai trị của các giám mục, vẫn có thể lưu lại trong nước và cho đến cuối thế kỷ XVIII, giáo đoàn của họ có lẽ hơn tất cả các giáo đoàn khác ở xứ Bắc về diện tích, về số giáo dân (130.000 người) và về lòng tận tâm của những giáo dân đó (Biên bản của nguyên giáo sĩ Dòng Tên Onofrio Villiani (vào năm 1782). Giáo sĩ này đã làm Bề Trên của giáo đoàn xứ Bắc năm 1775 và năm 1784 vào Dòng Capucins với tên là Lorenzo da Faenza - Japsin. 87, I, 8.).
    Nhưng từ lúc các Thừa sai Pháp và Yphanho đến, giáo hội chia ra thành hai phe đối lập. Và khi các giám mục đại diện tông tòa thay đổi những bài kinh cầu đã cho các giáo sĩ Dòng Tên đưa vào các xứ, thì sự phân tách trở thành hoàn toàn, đến nỗi từ đó các giáo dân của hai phe không còn muốn giao thiệp với nhau nữa, như chúng ta được biết bởi một bức thơ do cha Luci, Dòng Tên, gửi cho cha Cả Dòng vào năm 1714 (Japsin. 82, 567).
    Sự giết hại giáo sĩ Dòng Tên bởi Pombal (1757-1760) (Pombal: một chính trị gia xứ Bồ Đào Nha, là người đầu tiên bắt bớ các giáo sĩ Dòng Tên vì ông theo những phong trào triết lý chống đạo) và sự bãi bỏ Dòng ấy bởi Đức Giáo Hoàng Clément XIV công bố năm 1775 ở Viễn Đông là những đòn rất nặng đối với giáo đoàn Dòng Tên. Nhưng giáo dân cấp dưỡng các cha (Villiani, 17-v) và các ?onguyên giáo sĩ Dòng Tên? không những vẫn ở lại chứa mà lại còn được nâng đỡ bởi những lực lượng mới, vì năm 1773, cha cả Dòng Tên là Ricci gởi thêm cho họ các giáo sĩ người Ý (6 người cho xứ Bắc và 2 cho xứ Nam) (Borg. lat., 668). Thánh bộ Truyền Giáo sau lệnh giải tán cũng cho phép một cách minh bạch các giáo sĩ Dòng Tên được giữ và điều khiển giáo đoàn của họ và đã gửi gắm họ cho các giám mục đại diện tông tòa, như ta đọc được trong một bức thư mà Thánh bộ gửi cho cha O. Villiani, Bề trên của giáo đoàn Dòng Tên ngày 16 tháng giêng 1777 (Villiani, 12-v).
    Nhưng bắt đầu từ ngày Dòng bị bãi bỏ việc luân phiên các giáo sĩ không còn nữa. Năm 1775, giáo đoàn gồm có 10 giáo sĩ Dòng Tên người Âu; 6 người Ý, 2 người Bồ và 2 người Đức ( Ibid., 7-v). Tử thần làm hàng ngũ họ càng thưa thớt. Năm 1782, chỉ còn có 8 giáo sĩ và một vài người trong số đó lại nghĩ đến việc trở về Âu, vì họ không muốn chứng kiến lúc các con chiên họ bị xô xuống vực thẳm. Các giám mục đại diện tông tòa, sau lệnh bãi bỏ Dòng Tên, đã bắt buộc họ nạp bản kê khai tất cả các tài sản của họ và các giám mục cũng tỏ vẻ hối hả tịch thu các tài sản ấy cùng với giáo đoàn của họ ở nhiều nơi, các giám mục còn cất quyền phân phát các phép thánh của các giáo sĩ Dòng Tên và phái đến để cai quản các giáo dân những ?othầy cả người Bắc Việt dốt nát và kém văn minh? (Villiani, 8, 10v-13v) (Toàn địa phận của miền Tây xứ Bắc thuộc chủng viện Paris, chỉ còn có 4 hay 5 giáo sĩ người Âu thôi) ( Ibid., 1). Nhưng các giáo dân thuộc giáo đoàn Dòng Tên không chịu phục tùng những thầy cả đó vì thế nên phần đông chọn việc bỏ nhà thờ hay các phép thánh hơn là tự đặt dưới quyền điều khiển của các thầy cả đó (Ibid., 12v). Năm 1786, xứ Bắc chỉ còn có ba nguyên giáo sĩ Dòng Tên người Âu, còn trong xứ Nam thì vị nguyên giáo sĩ Dòng Tên cuối cùng đã từ trần năm 1783 (Xem J.A. OTTO, Grundung des neuen Jesuit-mission durch General Pater Johann Philipp Roothaan, Freiburg i. B., 1930, tr. 60 (Sự thành lập giáo đoàn Dòng Tên mới do cha bề trên cả J.P.R.)).
    Tình hình đang ở trong giai đoạn này, các giáo dân của giáo đoàn Dòng Tên mới quyết định gửi một phái đoàn đến nhà vua xứ Bồ để xin vua gửi cho họ một giám mục cùng các giáo sĩ Bồ thuộc Dòng Tên nếu được. Philiphê Bỉnh được cử lãnh nhiệm vụ này (Năm 1727, các thầy giảng cùng giáo dân xứ Bắc đã có gửi cho vua xứ Bồ một bức thư, trong đó họ xin vua Bồ gửi cho họ một Đức Giám Mục và các giáo sĩ Dòng Tên. Với điều kiện đó họ có thể làm giáo dân cho xứ Bồ và, luôn thể, chấm dứt một sự cạnh tranh không biết chừng nào mới hết. Japsin, 68, 126v).
    Bỉnh sanh năm 1759 tại Hải Dương, tỉnh lỵ của tỉnh cùng tên, ở phía đông Hà Nội, cha mẹ là người xứ Bắc. Ông vào chủng viện năm 1775 và được phong chức thầy cả sau khi học mãn khóa. Cùng với thầy giảng Liên, ông đáp tàu vào tháng chạp để đi Goa, và vì có chiến tranh với Pháp nên không thể đi ngang qua Macao được. Ở đây, Bỉnh viếng mộ thánh Phanxicô Xaviê là vị thánh ông hâm mộ nhất, nhưng ông lại không tìm được tàu để đi thẳng tới nước Bồ Đào Nha nên ông để thầy Liên ở lại Goa rồi ông trở về xứ Bắc. Cùng với ba thầy giảng Tôma Vincente, José de Rosario và Phanxicô de Rosario, ông qua Macao và từ đó xuống tàu đi thẳng sang nước Bồ. Sau rất nhiều hiểm nguy đã tránh được khỏi nhờ ông cầu xin sự che chở của thánh Phanxicô, Bỉnh và ba người đồng hành đến Lisbôa ngày 20 tháng 6 năm 1796 (Borg. Tonch. 3, 1-63).
    Lúc đó Pombal, kẻ thù số một của Dòng Tên, sau khi bị ruồng bỏ, đã chết năm 1782. D. João, con của nữ hoàng khùng Maria, đang trị vì thay mẹ với tư cách là thái tử nhiếp chính. Các sứ giả đệ đơn lên thái tử. Nhưng tình hình chính trị xứ Bồ không được thuận lợi lắm. Về phía Tây Ban Nha và Pháp, chiến tranh đang đe dọa. Vì đó mà thái tử nhiếp chính phải có nhiều mối lo khác. Rốt cuộc, sau 6 năm chờ đợi, Bỉnh thấy những cố gắng mình thành tựu: ngày 15 tháng 10 năm 1801, nhiếp vương phong tu sĩ Frei Manuel de S. Gualdino thuộc Dòng Đa Minh lên chức giám mục xứ Bắc. Nhưng niềm thất vọng lại theo liền: Đức Giáo Hoàng từ chối không chịu nhìn nhận sự phong chức ấy, viện lẽ rằng xứ Bắc đã có đức giám mục đại diện tông tòa rồi. Vì vậy mà sau khi được phong chức, tu sĩ lại được gửi đến Macao chớ không phải đến Đông Dương và ông đến nơi ngày 3 tháng 9 năm 1803. Lập tức, ông đứng về phía các đức giám mục đại diện tông tòa và cho đến khi ông rời bỏ nơi ấy để sang Goa, cuối năm 1805, ông cố gắng hết sức để thuyết phục giáo dân của giáo đoàn Dòng Tên xứ Bắc và xứ Nam nên phục tùng các đức giám mục đại diện tông tòa. Trong bốn bức thư, ông nêu rõ ràng là bốn sứ giả mà họ gửi sang Lisbôn đã lường gạt thái tử nhiếp chính khi họ thúc đẩy thái tử phong ông lên địa vị giám mục xứ Bắc. Giáo dân không nên tự cho mình là ?omôn đồ của Dòng Tên? vì giáo đoàn này đã bị bãi bỏ từ 30 năm rồi. Họ nên bỏ các sách của những giáo sĩ Dòng Tên cũng như những nhà thờ và những tài sản của những giáo sĩ ấy mà thâu nhận những sách vở mới của các giám mục đại diện tông tòa.
    Những kẻ đã gieo vào lòng giáo dân mầm hy vọng là Dòng Tên sẽ trở lại, đã gạt họ. Cả Đức Giáo Hoàng cũng như quốc vương không ai sẽ cử cho họ một đức giám mục Bồ Đào Nha nào nữa. Vậy họ nên bỏ sự ly giáo và phục tùng các đức giám mục đại diện tông tòa. Ông viết thư về Bồ Đào Nha cho biết các nguyên giáo sĩ Dòng Tên là Tulano Carneiro và Nuncio Horta không chịu tuân lệnh và lôi kéo theo họ một số đông giáo dân ước muốn có ít nữa là một giám mục Bồ Đào Nha cho các ?ogiáo khu Bồ Đào Nha? (F. DE ALMEIDA, Historia da Igreja em Portugal, tập IV, 4 (1921), tr. 420-421 (Lịch sử giáo hội xứ Bồ); R. STREIT, Bibliotheca Missionum, XI, số 43, 48, 52-54 và C.C. DE NAZARETH, Mitras Lusitanas no Oriente II, Lisboa, 1913, tr. 334 và 346).
    Đức cha Jean Labartette, đức giám mục đại diện tông tòa xứ Nam cảm tạ đức giám mục Macao, năm 1804, vì đức giám mục này đã cố hết sức vận động để phá tan sự ?oly giáo? đã kéo dài từ 30 năm. Đức giám mục đại diện tông tòa xứ Bắc là tu sĩ Ignacio Delgado, thuộc Dòng Đa Minh, cũng có lời cảm tạ như vậy nhưng lại có thêm rằng những ?okẻ ly giáo? đã cầu cứu tận thái tử nhiếp chính và ông sợ sẽ có những cuộc vận động mới nữa, nhất là với sự giúp đỡ của thầy cả ?okhốn nạn" Philiphê Bỉnh mà theo những bức thư của hắn, chưa thấy tỏ vẻ hối hận chút nào cả.(R. STREIT, op. cit., XI, số 43 (nơi nào tác giả biên chữ Chinh là phải đọc Bỉnh), 48)
    Trong bức thư cuối cùng của ông gửi cho giáo dân xứ Bắc, tu sĩ FR. Manuel có thêm rằng năm nay (1805) quốc vương đã trục xuất khỏi Bồ Đào Nha ba người Việt xứ Bắc ở đấy từ 10 năm (C.C. DE NAZARETH, op. cit., II, 346). Đấy là ông ám chỉ đến Bỉnh và các người đồng hành. Chúng ta không được biết lời tuyên bố này đúng đến độ nào. Năm 1801, Pháp và Tây Ban Nha đã tuyên chiến với Bồ Đào Nha và năm 1807, Junot, đại tướng của Napôlêông, đã đem bạo quân sang xâm chiếm xứ Bồ, bắt buộc hoàng gia và thái tử nhiếp chính phải chạy trốn sang Ba Tây. Kể từ ngày ấy, Bồ Đào Nha trở thành một chiến trường, nơi ấy Pháp, Anh và Bồ tranh quyền lẫn nhau, chỉ vào năm 1811 quân đội của Napôlêông mới rút khỏi xứ và cũng vào năm ấy, chúng ta lại gặp lại lần thứ nhất Bỉnh tại Lisbôn (Borg. Tonch. 14).
    Trong khoảng thời gian ấy, vị giáo sĩ Dòng Tên chót hết là giáo sĩ Carneiro đã từ trần tại xứ Bắc năm 1809 (R. STREIT, op. cit., XI, số 81), và mỗi năm số các giáo sĩ Tây phương ở Viễn Đông giảm bớt lần hồi. Năm 1812 xứ Bắc chỉ còn có sáu người với số giáo dân là 200.000; năm 1813 ở xứ Nam chỉ còn có bốn người với số giáo dân là 60.000 người. Năm 1817, số các giáo sĩ Tây phương ở xứ Bắc sụt xuống còn ba người (Ibid., số 102, 106 và 114) và đến các địa phận Bồ Đào Nha vị trí về phía đông mũi Hảo Vọng, tình trạng các giáo đoàn cũng đã sụt xuống mức thấp kém nhất (C.C. NAZARETH, op. cit., II, tr. 335-336).
    Nhưng một ngôi sao mới đầy hy vọng mọc lên ở phía Tây: mỗi năm, Bỉnh theo dõi thời cuộc từ khi vừa mới đến Âu Châu và ghi mọi chi tiết vào nhật ký của ông. Ông biết rằng Dòng Tên vẫn còn tồn tại ở nước Nga xa xăm dưới sự cai quản của cha Bề Trên Brzozowsky. Và năm 1418, ông còn được ghi thêm một tin đáng mừng hơn nữa, Đức Giáo Hoàng vừa về tới La Mã vào cuối tháng 5, sau thời gian giam cầm, liền đến nhà thờ Dòng Tên ngày 6 tháng 6 để ban phép lành cho nhà thờ. Đến ngày 7 tháng 8, Đức Giáo Hoàng làm lễ tại bàn thờ thánh Inhatiô và đọc lời tuyên ngôn tái lập Dòng Tên mà không chút e sợ những kẻ thù hay những sứ giả của các triều đình thù nghịch với Dòng Tên.
    ?oTôi không sợ những sứ giả, mà cũng không sợ đến vua nước Tây Ban Nha đang ở tại Rôma. Cũng như thánh Phêrô, tôi lại sợ đàn bà. Trừ ra, tôi không sợ vua, thế gian, cũng không sợ hoàng đế Roma, bởi vì tinh thần của Chúa không khiếp sợ ai cả? (Borg. Lat. 668) rất đỗi vui mừng, Bỉnh viết những câu trên, rồi thêm rằng: ?oCũng trong năm ấy, ngày 14 tháng 11, 40 người xin vào Dòng, trong đó có 20 thầy cả và phần đông lại là giáo sư đại học... và D. Manuel Carlos, vua xứ Sardaigne, cũng vào Dòng tu như thánh Phanxicô đờ Borgia; đó không phải là điềm lành sao?... vào năm 1814, các giáo sĩ Dòng Tên đi giảng đạo ở xứ các người da đen và vua xứ Tunisie lập cho họ một tu viện, đó không phải là điềm lành sao?? (Tất cả đoạn này viết bằng tiếng Bồ Đào Nha).
  4. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Philiphô Rôsariô cũng gọi là Philipê Bỉnh
    Bởi thế nên có niềm hy vọng rằng các giáo sĩ Dòng Tên sẽ trở lại xứ Bắc. Vì đó mà tu sĩ Vincenzo d?TOsimo, Dòng Phanxicô, sau khi được tin tái lập Dòng Tên viết thư về Cha Cả Dòng năm 1817 để xin gửi giáo sĩ Dòng ấy. Ông quả quyết là giáo dân đang đợi chờ ?ocác giáo sĩ Dòng Tên như chờ chính Chúa Cứu Thế vậy?(J.A. OTTO, op. cit., tr. 24). Nhưng Dòng Tên vừa hồi sinh nên vẫn còn ít người và kẻ thù của Dòng Tên lại đã bắt đầu hành động. Năm 1818, các giáo sĩ Dòng Tên bị trục xuất khỏi Hòa Lan. Năm 1820, khỏi nước Nga và Tây Ban Nha, năm 1821 khỏi Mễ Tây Cơ và chỉ đến năm 1829, Dòng mới được trở về xứ Bồ Đào Nha. Tan nát cõi lòng, Cha Bề Trên cả đành từ chối đơn này tiếp theo đơn khác. Bỉnh cũng không tìm thêm được người thợ nào cho đất nước mình cả. Năm 1819, vua João VI gửi một bức thư cho tất cả các Dòng nói sẽ cấp dưỡng cho ai muốn sang Ấn Độ. Năm 1820, lại gửi một bức thư khác cũng cho các Dòng ấy để khuyến khích gửi người sang Ba Tây, nhưng cũng chẳng ai trả lời. Năm 1820, buồn rầu, Bỉnh ghi những dòng cuối cùng như sau:
    ?oHầu tước Pombal có tuyên bố nếu không có giáo sĩ Dòng Tên, ông sẽ gửi các Dòng khác nhưng đến nay chưa gửi ai cả... Chỉ có các tu sĩ Oratoire-Rifoles Người ta gọi các tu sĩ Dòng Oratoire bằng tên Rilhafoles ?" chứ không phải Rifoles ?" vì tu viện của Dòng vị trí tại địa điểm Rilhafoles, bây giờ là một dưỡng trí viện, về phía đông bắc thành Lisbôa. Xem P. LEAL, Portugal Antigo e Moderno, IV, tr. 266. Về sự cạnh tranh giữa Dòng Oratoire, giúp đỡ bởi Pombal và Dòng Tên, xem F. RODRIGUES, Historia da Companhia de Jesus na Assistencia de Portugal IV, 1, Porto, 1950, tr. 327-336, 358-362) mới đi đến Macao và Bắc Kinh vì ở những nơi ấy, họ có nhà cửa và tiền bạc mà các giáo sĩ Dòng Tên đã để lại cho họ. Nhưng đã hơn 30 năm rồi mà chỉ có ba người sang Trung Hoa thôi. Làm sao bây giờ? Đối với giáo dân còn chưa đủ huống hố đối với những người ngoại đạo?.
    Quyển sách chấm dứt như vậy và trên bìa, ông ghi thêm những chữ này: ?oOitocantos os veneraveis Jesuitas Marlyres? ( Borg. Lat. 668) (Tám trăm tu sĩ Dòng Tên tử vì đạo).
    Nhưng Bỉnh khôngbỏ mọi hy vọng, ông đã tận dụng những năm đợi chờ để sáng tạo một nền văn chương công giáo Việt Nam, có thể giúp ích cho các giáo sĩ sau này và cho các đồng bào của ông. Bởi thế nên năm 1818, ông viết một quyển sách rất dày về tiểu sử thánh Phanxicô Xaviê, năm 1819, tiểu sử của thánh Inhatiô đờ Loyola, năm 1820, tiểu sử của Phanxicô Borgia, năm 1822-23, một bộ lịch sử Việt Nam gồm có hai quyển và cũng trong thời gian này, ông khởi đầu tập ký ức. Năm 1830, lại có một tác phẩm vĩ đại về bà thánh Anna. Đó là tác phẩm cuối cùng của ông. Ông tiếp tục tập ký ức cho đến năm 1831, và thêm vào đó một danh sách những tác phẩm của ông và một bản sao hai cái biên lai chứng nhận rằng ?ocha Felippe de Rosario, được gửi từ giáo hội Vương quốc Bắc, ngụ ở nhà thờ Conceição và thánh Antoniô ở Lisbôa, vào đầu năm 1830, 250 thánh lễ cho các linh hồn nơi luyện ngục ( Borg. Tonch. 3, 634). Về năm 1832, ông chỉ ghi tựa thôi và trong quyển sách lịch sử các Đức Giáo Hoàng, ở đoạn nói về cái chết của Piô VIII, với một bàn tay run rẩy ông có ghi thêm tên của người kế vị là Grégorio XVI (1831) (Borg. Tonch. 21, 423). Người bạn Việt Nam đồng hành đã soạn bản chỉ dẫn cho tác phẩm của ông về bà thánh Anna. Và ở đoạn chót, năm 1833, ông thêm vào một tờ trình về cái chết của cha Bỉnh. Philippê Bỉnh chết năm 1832.
  5. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Philiphô Rôsariô cũng gọi là Philipê Bỉnh
    2. Tác phẩm của Philipê Bỉnh.
    Sau đây chúng tôi nêu ra một cách vắn tắt danh sách tác phẩm của cha Bỉnh theo thứ tự thời gian. Những tác phẩm tiếng Việt đều được viết bằng chữ quốc ngữ, nếu chúng tôi không nói chi khác. Trung thành với đề tài, chúng tôi sẽ dẫn chứng, một cách vắn tắt, mỗi lần đến những ghi chú của tác giả liên quan đến thánh bổn mạng chính của ông là thánh Phanxicô Xaviê. Hầu hết mỗi tác phẩm đều có một bản chỉ dẫn bằng tiếng Việt (Trong cách trình bày những quyển sách, chúng tôi sẽ đặt trong dấu ngoặc những trang không có ghi số).
    1/ Borg. Tonch. 7: Ký sự, thư từ, thi thơ (1793-1826). Bằng tiếng Việt (18+) 575 (+5) trang trống; (1-4)157-180, 298-360, 398-424, 468-570, 574 tờ. Trên mỗi trang, đều có ghi tựa: Nhật trình kim thư khất chính chúa giáo. Mục lục: 1. Ký sự 1793-1862, tr. 1-156; 2. Lịch sử phái đoàn cha Bỉnh với tài liệu về việc ấy vào năm 1795-1800, tr. 181-239; 3. Thư từ 1799-1826, tr. 239-297, 361-397; 4. Thi thơ 1793-1802, tr. 425-467. Nói về Xaviê, tr. 77 và 129-130.
    2/ Borg. Tonch. 8: Rhodes, Tự điển (Bản sao, Lisbôa, 1797) (8 tờ +) 820 cột (+96 tờ và chỉ dẫn). Nhan đề: Dictionarium Annamiticum Lusitanum ope Sacrae Congreg. de Prop. Fide in Lucem e***um ab Al. de Rhodes e Soc. Iesu, Roma, nhà in của Thánh bộ Truyền Giáo, 1651.
    3/ Borg. Tonch. 12: Rhodes, Sách giáo lý và bài vắn tắt (Lisbôa, 1797).
    Bằng tiếng Latinh, Bồ và Việt. (18+) 315 trang. Thứ tự số trang đáng lẽ như sau: 313-315, 293-308, (1-18), 1-312. Mục lục: 1. Bản dịch ra Việt ngữ quyển Catechismus của Al. de Rhodes, Roma, 1651, có ghi năm: Lisbôa, 1797, tr. 1-212(Một bản sao của bản dịch này do tay của người bạn đồng hành là Thômê Vincentê Quinh Nhân Ki giữ trong Borg, Tonch. 22, chép tại Lisbôa, năm 1801. Quyển sách này cũng có phiếu ghi thường lệ với lời chú là quyển sách thuộc quyền sở hữu của Philiphê Bỉnh. Vì đó mà ta có thể tin rằng người bạn đồng hành đã từ trần trước Bỉnh); 2. Những bài vắn tắt bằng tiếng Việt về bà thánh Elidabết xứ Bồ, bài bằng tiếng Bồ về Giáng Sinh Chúa Cứu Thế, với danh sách của các Cha Bề Trên Cả, các người sáng lập đầu tiên, và những ông thánh của Dòng Tên, tr. 213-233; 3. Bằng tiếng Bồ, bài trích của M. Bernardes, Luz e Calor (Ánh sáng và sức nóng), Lisbôa, 1696, tr. 234-269; 4. Vida de S. Joze (tiểu sử thánh Giuse) của P.J.B. de Castro, Lisbôa, 1761; nhiều bài bằng tiếng Bồ, tr. 270-315 ?" Về Xaviê: Soneto de S.F. Xavier (sau trang 309), rửa tội 1.200.000 người (tr. 225).
    4/ Borg. Tonch. 21: Lịch sử các Đức Giáo Hoàng (Lisbôa, 1798-1831).
    Bằng tiếng Bồ (30 tờ +) 423 tr. Nhan đề: Historia Chronologica dos Pontifices, (Lịch sử các Đức Giáo Hoàng theo thứ tự thời gian). Mục lục: 1. Lời chỉ dẫn phi lộ trước những trang có đánh số, danh sách các Đức Giáo Hoàng; Đại cương về các tổng giáo nghị hội, bản chỉ dẫn, Phương pháp để viết dễ dàng một quyển sử các Đức Giáo Hoàng, tờ 6v ?" tr. 30; 2. Lịch sử các Đức Giáo Hoàng cho đến năm 1822, với phần phụ lục từ năm 1823 đến 1831, tr. 1-423. Phầnphụ lục, trong đó có nói đến sự tái lập Dòng Tên, là do Bỉnh viết còn phần còn lại thì hình như Bỉnh đã sao chép lại từ một quyển sách khác.
    5/ Borg. Tonch. 11: Linh tinh về lễ thức và tu hành (1802).
    Bằng tiếng La tinh, Bồ và Việt (20 +) 76 + (12+) 177 trang. Mục lục: 1. Lễ thức: Stabat Mater (Đức Mẹ đứng dưới Thánh Giá) với lời bình luận, tuần thánh cho đến lễ Chúa Thăng Thiên, tr. 1-76; rồi đến sự tu hành của người Việt; 2. Lề luật của Dòng Marianistes, Thánh lễ, tr. 1-84; 3. Cửu nhật cho thánh Giuse, tr. 85-155; 4. Truyện th?T(anh) Anam tử vì đạo, dịch năm 1802 từ quyển Relacão bằng tiếng Bồ về cuộc tử đạo của cha Kratz, viết năm 1737 và in tại Lisbôa năm 1738, tr. 156-177 ?" Sau số 1 có một bảng kê vắn tắt những biến cố quan trọng trong thế giới, bắt đầu từ ?oChúa Giáng Sinh năm 1802, thánh Xaviê giảng đạo năm 261, Bỉnh sang xứ Bồ năm 10.
    6/ Borg. Tonch. 18: Linh tinh về tu hành (giữa năm 1802-1810?).
    Bản viết tay bằng tiếng Việt và Trung Hoa (19+) 520 (+18) trang. Mục lục: 1. Kinh đọc sáng và chiều, tr. 1-94; 2. Cửu nhật cho bà thánh Anna, tr. 95-222; 3. Cửu nhật cho ông Giuse, tr. 223-326; 4. Cửu nhật cho lễ Giáng Sinh tờ 327; 5. Lòng thờ kính và cửu nhật cho bảy bà Maria đau khổ, tờ 327; 6. Ân xá trong những cuộc thăm viếng các nhà thờ tại Roma, tr. 467; 7. Những phận sự, tờ 477; 8. Kinh cầu Latinh về tên Chúa Giêsu và kinh đọc trong cửu nhật cho thánh Anna và Giuse.
    7/ Borg. Tonch. 19: Kinh trong thánh lễ (giữa năm 1802 và 1810?).
    Bằng tiếng Bồ với giải thích bằng tiếng Việt (4+) 45 (+57) tờ. Nhan đề: Oraliones ou Oracães da Missa. Mục lục: từ đầu, một bài nghị luận rất hay trong đó tác giả nói cha Majorica đã thêm vào kinh cầu tên của thánh Inhatiô cùng tên thánh Xaviê và, sau đó, nêu lên tất cả những lý do tại sao thánh Xaviê được gọi đúng lý là Thánh Bảo Trợ Viễn Đông, tr. 1-4a.
    8/ Borg. Tonch. 17: Phận sự đối với Thánh lễ (giữa năm 1802-1810?).
    Viết tay bằng tiếng Việt và Trung Hoa, (22+) 150 tr. Nhan đề: Về điều răn thứ ba, phải đi xem thánh lễ.
    9/ Borg. Tonch. 13: Ml. Fernandes, Dòng Tên, Alma Instruida 1 ( vào lối năm 1811).
    Bằng tiếng Bồ (37+) 574 (+32) trang. Nhan đề: Alma Instruida na Doutrina e vida christiana, của P.M Ml. Fernandes, Dòng Tên, Lisbôa, 1688 (sic), tr. 1-574. Mấy trang đầu có một bản chỉ dẫn tiếng Việt gồm có 37 trang, những trang sau có một bài phụ lục về Chúa Thánh Thần bằng tiếng Việt, tr. 574-574b, và bằng tiếng Bồ: Arvore da vida, Jesus crucificado, 5 tr.
    10/ Borg. Tonch. 14: Như trên, quyển II (Lisbôn, 1811).
    Bằng tiếng Bồ. Như trên, quyển II, Lisbôn, 1690, trang 1-547. Trước có một bản chỉ dẫn bằng tiếng Việt.
    11/ Borg. Tonch. 15: Như trên, quyển III (Lisbôa, 1812).
    Bằng tiếng Bồ 501 + (24) tr. Như6 trên, quyển III, Lisbôn, 1699, tr. 1-501, ở trang 478, tác giả chép đoạn văn về cái chuông nhỏ trong giáo lý của thánh Xaviê (Chuông đó, nay được gìn giữ tại S. Roch, trong buồng ngủ của cha Bề Trên, đặt trong một cái túi bằng vải, được xem như một bảo vật). Rồi có một bài bằng tiếng Việt về những người Bồ sang Ấn Độ năm 1644 và sau trang 501, một đoạn trích trong sách Escola de Belem, 24 trang.
    12/ Borg. Tonch. 10: Tài liệu để viết sử truyền giáo (1813?).
    Bằng tiếng Bồ, Latinh, Việt (18+) XIV (+9+) 321 trang. Mục lục: 1. Đoạn trích về Rhodes và Majorica từ quyển Bibliotheca Scriplorum, của Soltwellus, Roma, 1676, rồi một bản sao của 2. Relação da Prizão e Morte dos quattro Ven. Padres... J.G. Kratz (Ký sự về việc bắt bớ và sự tử đạo của bốn Thầy Cả... J.B. Kratz), Lisbôa, 1738, tr. 1-122, một đoạn về các giáo sĩ ở xứ Bắc trích của 3. Ant. Franco, S.J. Imaagem da virtute em o Noviciado de Lisbôa, Coimbra, 1717, tr. 123-351 và 4. Franc de Mattos, S.J. Vida de Sancto Ignacio de Loyola, Lisbôn, 1718, tr. 252-270 và sau cùng 5. Livro Mappa do Mundo, tr. 271-319, một quyển sách về địa lý và lịch sử, soạn năm 1813; trong tác phẩm này, Bỉnh vẽ lại một cách vắn tắt sự nghiệp của thánh Xaviê và lịch sử truyền giáo tại Đàng trong và Đàng ngoài. Đoạn chót, trang 291-319, có tựa là Noticias dos Marlyrios, nhưng bằng tiếng Việt.
    13/ Borg. Tonch. 9: Linh tinh về Việt Nam (Lisbôa 1814-1816)
    Bằng tiếng Việt (6+) 217 (+2+) 114+94 (+4) trang. Mục lục: Sách gương truyện, Lisbôa, 1815: nhiều gương mẫu để làm sáng tỏ 10 điều răn, tr. 1-126; 2. Sách này là truyện tú mạt, tr. 126-217; nhiều bài về thánh lễ, ăn năn tội, bản dịch quyển Differença entre o temperal e eterno của J.E. Nuremberg S.J., Coimbra, 1741, soạn tại Lisbôa, 1816 (tr. 1-113); 3. Truyện sách gẫm sự chết, Lisbôa, 1816 (tr. 1-113). 4. Sách truyện các đời Đức Thánh Phapha, bắt đầu từ năm 1814 cho đến đời Lêô XII, tr. 1-94.
    14/ Borg. Tonch. 16: Gương truyện (Portugal, 1815).
    Bằng tiếng Việt, 507 trang và bản chỉ dẫn. Nhan đề: Sách gương truyện. Bàn về đời sống của ba thượng đẳng thiên thần, 12 thánh tông đồ, kinh về Đức Mẹ, thiên ân, sự thương khó Chúa Cứu Thế... Có nói về thánh Xaviê ở trang 72.
    15/ Borg. Tonch. 20: Mendes Pinto (Lisbôn 1817).
    Bằng tiếng Việt 195 (+7) trang. Nhan đề: Truyện nhật trình ông Fernão Mendès Pinto. Trong lời tựa, Bỉnh cho biết ông chỉ trích một vài đoạn trong những tác phẩm mà ông Mendès Pinto đã cho xuất bản, rồi thuật lại sự thành lập, phát triển và duy trì của Dòng Tên tại nước Nga, sự tái lập của Dòng Tên và sự vãn hồi của Dòng Tên tại Tây Ban Nha năm 1815. Tác giả có ghi thêm danh sách của các cha Bề Trên Dòng từ thánh Inhatiô cho đến Brzozowsky, cùng với một bài về tình trạng của giáo hội xứ Bắc, tr. 1-42. Trong đoạn chót, tác giả tuyên dương công trạng của thánh Xaviê tại Nhật Bản mà Pinto là người đã mục kích. Về những chi tiết khác ông căn cứ trên tiểu sử của thánh Xaviê mà ông ước ao rằng sẽ hoàn thành được với sự giúp đỡ của thánh bổn mạng của ông. Phải có một sự lựa chọn, vì nếu ta muốn kê khai tất cả các đức tánh củ ông thánh ấy thì không thể nào đi tới cùng được, dẫu cho ta muốn giảng dạy hàng ngày trong năm tròn. Rồi ông nói vắn tắt về Xaviê với tư cách là thánh tiên tri, tử vì đạo, tu sĩ, tông đồ, giảng đạo và làm phép lạ: thánh Xaviê đã làm sống lại 62 người chết và mặt trời cũng đã vâng lời ông như đã vâng lời Josuê. Xaviê vẫn sống sau cái chết của ông, và cũng như Chúa đã giữ xác chết của Môi-sen, Chúa đã giữ trọn xác của Xaviê, để toàn thế giới được biết xác ấy ở đâu và đến cầu nguyện trước xác ấy, trước thân mình của ông bên Á Đông và trước cánh tay của ông tại Rôma, tr. 185-188.
    16/ Borg. Tonch. 6: Tiểu sử của thánh Phanxicô Xaviê (Lisbôa, 1818).
    Bằng tiếng Việt (22+) 599 trang. Nhan đề: Tự truyện ông thánh Phanchicô Xavter. Đây là một tiểu sử đầy đủ và chắc chắn nhất của thánh ấy bằng tiếng Việt. Một bản mục lục tất cả các chương và một mục lục phân tích khởi đầu quyển sách, và trong lời tiểu dẫn, soạn giả một cách khiêm tốn có viết rằng: ?oTôi không thể nào sưu tầm được tất cả những tài liệu, và cũng không thể nhìn ánh sáng mặt trời của giờ ngọ, cũng như trong bóng tối... Xaviê từ trần tại Trung Hoa lúc nửa đêm ngày 2 tháng chạp năm 1552. Xác của ông được giữ ở Á Đông trong một thánh đượng thành Gôa, một cách tay ở La Mã, trung tâm điểm của thế giới. Mặc dầu sự chia sẻ đó, xác của ông ở trong một tình trạng rất khả quan. Phép lạ đó là một bằng chứng sau cái chết của ông cũng như những phép lạ của ông làm đã là những bằng chứng trong khi ông còn sống. Không đủ lời để diễn tả tất cả những sự huyề diệu! ?oTôi là Thầ Cả Bỉnh?. Chúng tôi thấy cần phải nêu ra một cách vắn tắt những tựa của 62 chương trong quyển sách:
    1. Gia đình.
    2. Lúc ra đời và giáo dục.
    3. Paris.
    4. Hành trình đến Venezia.
    5. và Rôma.
    6. Yết kiến Phaolo III (Đức Giáo Hoàng).
    7. Lễ chịu chức thầy cả.
    8. Những công trình đầu tiên.
    9. Giảng dạy tại Bôlônha và Rôma.
    10. Hành trình sang Bồ Đào Nha.
    11. Công nghiệp tại xứ Bồ.
    12. Hành trình sang Ấn Độ.
    13. Mozambique và Gôa.
    14. Học viện Phaolồ.
    15. Miền duyên hải với những người đánh cá.
    16. Đạo Bà-la-môn.
    17. Làm sống lại hai người chết.
    18. Đuổi người Badagas.
    19. 600 người tử vì đạo ở Manaar.
    20. Thánh Tômê.
    21. Rời khỏi Meliapur.
    22. Đến Malacca, Ninive thứ nhì.
    23. Ambiono.
    24. Ternate và Moro.
    25. Giáo dân Moro bị bốn quốc vương bắt bớ.
    26. Phép lạ về bịnh ung thư (?)
    27. Phép lạ Achin.
    28. Sứ mệnh của thánh tông đồ.
    29. Phép lạ trong lúc rước Thánh Thể và phép rửa tội.
    30. Nhìn lại tất cả các cuộc hành trình của Xaviê.
    31. Tin tức từ Nhật Bản.
    32. Chuẩn bị cuộc hành trình sang Nhật Bản.
    33. Cuộc hành trình sang Nhật Bản.
    34. Phong tục Nhật Bản.
    35. Bài giảng ở Cangoxima.
    36. Các tu sĩ Phật giáo chống lại tại Satsuma.
    37. Hành trình tới Firando.
    38. Tại Amanguchi, kinh đô của Nangato.
    39. Đến Miaco.
    40. Trở về Firando.
    41. Trở lại Amanguchi.
    42. Một phép lạ nơi đó.
    43. Đi Bungo.
    44. Yết kiến nhà vua.
    45. Gây gỗ với các sư.
    46. Fucarandono.
    47. Từ biệt nhà vua.
    48. Sanchão.
    49. Đoán trước sự chống cự của ma quỉ.
    50. Tại Sanchão, ông nói cho Velho biết trước là sẽ có một đời sống dài lâu.
    51. Chết và đám tang.
    52. Đưa xác về Malacca và Goa.
    53. Phép lạ sau khi chết: Melchior Nunes Barreto, João de Britto, Travancore, Mastrilli, cửu nhật tạ ơn, Potami; Urbain VIII, Grêgôriô XIII, Maluco, Mani...
    54. Chuyện một đứa trẻ biết ơn và một đức trẻ bạc nghĩa. (Miaco và Bungo).
    55. Chuyện tu sĩ Gaspar Barzaeus, người anh cả (Ormuz).
    56. Hành trình của P. Matthaeus Ricci và của những người kế tiếp tại Trung Hoa.
    57. Lịch sử những giáo sĩ tại Đàng trong (Buzomi...)
    58. Chuyện những người David, Đê linh và Nghè (tử vì đạo).
    59. Lịch sử những người tử vì đạo tại Đàng trong.
    60. Lịch sử các giáo sĩ Đàng ngoài.
    61. Lịch sử các vị tử đạo tại Đàng ngoài trong cuộc bắt đạo thứ nhất.
    62. Lịch sử bốn vị tử đạo trong cuộc bắt đạo thứ nhì (1725-1737)
    Quyển sách chấm dứt với sự bãi bỏ Dòng Tên tại sứ Bồ Đào Nha năm 1759 và với sự tái lập Dòng ấy tại Roma năm 1814 với những phụ lục cho đến năm 1820.
  6. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Philiphô Rôsariô cũng gọi là Philipê Bỉnh
    2. Tác phẩm của Philipê Bỉnh.
    17/ Borg. Tonch. 5: Tiểu sử thánh Inhatiô de Loyola (Lisbôa, 1819).
    Bằng tiếng Việt (11+) 723 trang. Nhan đề: Truyện ông thánh Ignacio de Loyola. Cũng có chép nhiều chi tiết xảy ra sau khi thánh qua đời và lịch sử Dòng của thánh ấy sáng lập cho đến năm 1820 với nhiều phần phụ lục bằng những mảnh giấy dán thêm vào cho đến năm 1826.
    18/ Borg. Tonch. 4: Tiểu sử thánh Phanxicô Borgia (Lisbôa, 1820).
    Bằng tiếng Việt (7+) 601 (+36) trang. Nhan đề: Truyện ông thánh Phanxicô de Borja.
    19/ Borg. Lat. 668: Về Dòng Tên (1820)
    Bằng tiếng Bồ (79 tờ). Mục lục: 1. Estatutos e Governoda Campanhia de Jesus confirmado por constituicão do Smo N. Sr. Gregorio Papa XIX. (Điều lệ và cách quản trị của Dòng Tên, được nhìn nhận bởi Đức Giáo Hoàng Grêgôriô XIV). 2. Hai số báo Gazeta da Lisbôa, số 215 ngày 12 tháng 9 năm 1814 với nguyên văn của nghị định tái lập Dòng Tên và số 133 ngày 8 tháng 6 năm 1815 nói về sự thành lập lại Dòng Tên tại nước Tây Ban Nha. 3. Một mảnh giấy có viết những chữ: ?oKinh của V.P. Petri Canisii để nguyện cho chính thân mình và cho người khác?. 4. Taboada curiosa, Bỉnh thoạt tiên kể lại những năm đầu của các tà thuyết, rồi nói đến sự thành lập Dòng Tên, sau cùng kể lại công nghiệp của thánh Xaviê. Thánh đã trải qua 33.000 dặm, rửa tội cho 1.200.000 linh hồn, là người thứ nhất đã mang Phúc Âm đến cho 7 nước, đã làm 33.000 phép lạ (Bỉnh nêu ra đây những con số không đúng lắm, nhưng là những con số phổ thông trong thời đại đó. Con số 33.000 phép lạ có lẽ được lầm lẫn với con số 33.00 dặm). Bỉnh cũng có nói là năm 1717, Dòng Tên có 736 học viện và 25.325 hội viên và chỉ từ Lisbôa cho đến năm 1683 có tới 1129 giáo sĩ Dòng Tên đi giảng đạo ở miền Đông Ấn Độ, Bỉnh kể lại sự thành lập giáo hội tại Nhật Bản do Xaviê, sự thành lập giáo hội tại Trung Hoa do Ruggieri và Rucci (nơi đó năm 1681, đã có hơn một triệu người trở lại đạo), đoạn Bỉnh viết về Việt sử: Việt Nam thoát khỏi nền đô hộ Trung Hoa năm 800, sự chia sẻ làm hai vương quốc trong thế kỷ XV, những người Âu thứ nhất tới Việt Nam năm 1516, sự thành lập giáo đoàn Dòng Tên năm 1615 và tình trạng của giáo đoàn ấy đến năm 1773. Trong những giáo sĩ Dòng Tên mà Pombal đã bỏ tù và gửi đến ở xứ Bồ Đào Nha, có một ?ocon chiên của xứ Đàng Ngoài? cũng bị bắt vì không chịu từ bỏ chiếc áo nhà tu và người ấy từ trần tại Rôma (Người ta thường nói người đó là giáo sĩ P. Machado thuộc Dòng Tên, mà thường được mệnh danh là ?ongười xứ Đàng Ngoài?. Sanh năm 1709, vào Dòng năm 1728, trở thành phó bề trên giáo đoàn Nhật Bản năm 1753 (Japsin,. 25, 291). Năm 1760, ông bị bắt tại Macao cùng với nhiều giáo sĩ khác thuộc Dòng Tên và bị giải về Lisbôa ?" Nơi đây ông bị giam, cùng với những người khác, tại hầm ngục thánh Julien. Rồi ông được tha nhưng trục xuất khỏi nước Bồ Đào Nha. Ông tới Civitavecchio ngày 7 tháng 9 năm 1797 (Lus. 42, 92) và từ trần ngày 12 tháng chạp năm ấy tại Castel Gandolfo (Ibid., 192)). Bỉnh cũng có kể lại việc tám giáo sĩ Dòng Tên được gửi sang Đàng Trong và Đàng Ngoài vào năm 1772 và tại sao những người giáo sĩ cuối cùng đã từ trần. Rồi Bỉnh thuật lại với rất nhiều chi tiết sự tái lập Dòng Tên năm 1814 và những cố gắng vô hiệu quả của vua xứ Portugal để gửi các giáo sĩ đi ngoại quốc.
    20/ Borg. Tonch. 1: Lịch sử Việt Nam (Bồ Đào Nha, 1822).
    Bằng tiếng Việt (18+) 739 tr. Nhan đề: Truyện nước Annam. Một bài phụ lục kể lịch sử cho đến năm 1824. Viết quyển sách này dâng cho Giêsu, Maria, Giuse, Doakim, Anna, Inhtiô và Phanxicô Xaviê.
    21/ Borg. Tonch. 2: Lịch sử Việt Nam II (Bồ Đào Nha, 1822).
    Bằng tiếng Việt (18+) 691 (+12) trang. Phần thứ nhì này chép đến năm 1822.
    22/ Borg. Tonch. 3: Nhật ký (Lisbôa, 1822-1832).
    Bằng tiếng Việt (20+) 626 tr. Nhan đề: Sách sổ sang chép các việc. Bỉnh kể lại với nhiều chi tiết đời sống của ông và cuộc hành trình từ Macao sang Lisbôa (1-63). Sau đó, những sự xảy ra trong Hội Thánh và các giáo đoàn trong những năm 1824-1831. Về năm 1832, ông chỉ đề tựa: 1832. Ông có thêm vào đó bảng chỉ dẫn và ở những trang 598, 599 và 601 danh sách những tác phẩm ông sáng tác, trong số đó có rất nhiều tác phẩm bằng tiếng Việt mà chúng tôi chưa tìm thấy được, chẳng hạn như quyển tiểu sử của thánh Phanxicô đờ Hiêrônymô, Antôniô Vieira. Giuse Anchieta, Stanislao Antoniô (Truyện ông th?T. P. de Jeronimo, Truyện thầy cả Antonio Vieira, Truyện thầy cả José Anchieta, Truyện thầy Irmão Phêrô Basto, Sách kinh Novena ong th?T. Ignacio, Sách kinh Novena ong th?T. P. Xavier, Sách kinh Novena ong th?T. P.B (orja), Sách kinh Novena ong th?T. Luis C (onzaga), Sách kinh Novena ong th?T. Estanislao, Sách kinh Novena ong th?T. Anton). Trang 624-625 chép lại hai biên lai năm 1830 về sự xin thánh lễ của ông. Những trang 323-324, 529-533, 600, 602-617, 623, 626-627 hoàn toàn trắng.
    23/ Borg. Tonch. 24: Tiểu sử thánh Anna và Doakim (Lisbôa, 1830).
    Bằng tiếng Việt XXVIII +599 trang. Nhan đề: Truyện bà thánh Anna ông thánh Joaquim. Trước hết, Bỉnh kể lại cuộc hành trình của ông tới xứ Bồ Đào Nha năm 1794-1795. Sau đó, là tiểu sử của bà thánh Anna dưới hình thức một kinh cầu cửu nhật. Mảnh giấy ghi nhận quyển sách đó là của ông không còn tìm thấy. Bảng chỉ dẫn có một lối viết khác, là lối viết của người bạn đồng hành của ông, cũng là người xứ Đàng Ngoài. Người ấy, sau rốt, thêm vào đó bài tường thuật lúc từ trần của Bỉnh. Viết tại Lisbôa năm 1833 (597-599).
    Với cái chết của Bỉnh là cũng mất đi luôn người đại diện cuối cùng của giáo đoàn cũ Dòng Tên tại Viễn Đông. Nhưng những người nối nghiệp không quên vị thánh bảo trợ truyền giáo là thánh Phanxicô Xaviê.
    Trích: GEORG SCHURHAMMER, Annamitisch Xavierius Literatur, Missionswissenschaftliche Studien,Aacher (Aix-la-Chapelle), 1951,pp. 300-314. (Nguyên bản tiếng Đức) Phiên dịch từ bản dịch Pháp văn. (In trong Tập san Việt Nam Khảo Cổ số 2, Sài Gòn, 1960) bởi Đỗ Văn Anh và Trương Bửu Lâm.
  7. trahoanhat06

    trahoanhat06 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/09/2006
    Bài viết:
    23
    Đã được thích:
    1
    Cám ơn bạn fddinh đã đưa ra nhiều thông tin về lịch sử hình thành chữ quốc ngữ ở Việt Nam. Trên thực tế, không phải chỉ có mình chữ quốc ngữ VN có liên quan đến môi trường truyền giáo. Trước kia mình học tiếng Nga văn học, cũng phải học về lịch sử hình thành bảng chữ cái tiếng Nga hiện nay, còn được gọi là chữ Kiril (tên của cha cố lập ra bảng chữ cái này). Nhằm dịch kinh thánh ra một loại chữ phổ biến hơn dùng trong các nước theo chính thống giáo (với thủ đô khi đó là Konstantinople- Hy Lạp), Kiril đã vay mượn nhiều ký tự Hy Lạp cho bản chữ cái hiện nay nhiều nước Svalo vẫn sử dụng, trong đó có chữ Nga.
    Trong giáo trình về lịch sử tiếng Nga văn học, đoạn về bảng chữ cái này cũng chỉ chiếm một phần nhỏ (ai là người tạo ra, dựa vào hệ chữ nào, năm bao nhiêu). Điều quan trọng là phân tích các văn bản chữ quốc ngữ qua các thời kỳ xem nó được phát triển ra sao, các phụ âm và nguyên âm, dấu... được ghi lại thế nào. Như vậy các ghi chép của Cha Philip Bỉnh sẽ là những tài liệu vô cùng quan trọng, cần lựa chọn để mọi người thấy được sự tiến triển của chữ quốc ngữ.
    Theo mình, không cần quá sa đà vào lịch sử truyền giáo (vì việc xây dựng và phát triển tiếng Việt không phải mục tiêu của họ, họ chỉ dùng chữ quốc ngữ để ghi lại kinh thánh và các bài giảng đạo), họ chỉ có công duy nhất là tạo ra bảng chữ cái mà thôi.
    Những chữ cái vô hồn ấy đã được người Việt dùng để ghi lại lời nói, thổi vào đấy những ngữ nghĩa mới, sử dụng như thế nào trong các loại văn bản khác nhau mới là điều mà mình thật sự quan tâm.
    Rất cám ơn tác giả topic
  8. trahoanhat06

    trahoanhat06 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/09/2006
    Bài viết:
    23
    Đã được thích:
    1
    Chẳng hiểu sao cái topic này cứ ám ảnh và mình thấy cần phải viết thêm một chút. Mặc dù chữ Quốc ngữ do các cố đạo tạo ra đã lâu nhưng cho đến những năm thập kỷ 20 thế kỷ 20, vẫn rất ít người dân thường Việt Nam sử dụng chữ Quốc ngữ. Nguyên nhân là do họ không biết sử dụng chữ Quốc ngữ làm gì. Trong nhà trường thì chữ Pháp chiếm vị trí độc tôn. Đến nỗi năm 1922, ông Trần Trọng Kim khi đó là thanh tra các trường Tiểu học Pháp-Việt khi vào lớp hỏi học trò bằng tiếng Việt ''Ở đây có học Nam sử không?'' thì học trò trả lời ''Không, chúng tôi chỉ học Histoire d''An-Nam" (Theo Nam Phong). Đến năm 1924, mới có quy định các trường Tiểu học buộc phải dạy bằng tiếng quốc ngữ. Ở bên ngoài xã hội, sách vở bằng chữ quốc ngữ rất hiếm hoi, vậy nên biết chữ quốc ngữ đôi khi trở nên "thừa thãi". Còn ở làng quê, học đến mấy năm chữ Pháp, chữ quốc ngữ mà các cụ nhờ đọc giấy tờ ghi chép việc làng cũng đành chịu vì các cụ ghi bằng chữ Nho, thế là cái việc học bằng đổ xuống sông xuống bể.
    Bi kịch của chữ Quốc ngữ còn ở chỗ nó được phát động bởi chính quyền thực dân, do đó học chữ quốc ngữ còn bị coi là ''điều sỉ nhục''. Không hiểu cụ Tú Xương có tâm trạng này không nhưng cụ nhất quyết không chịu học thứ chữ ''bút chì, bút sắt'' này.
    Những năm đầu thế kỷ 20, văn viết tiếng quốc ngữ mới bắt đầu như "đứa trẻ bập bẹ tập nói" mà chỉ đến đầu những năm 1930s, chữ quốc ngữ bắt đầu phát triển rầm rộ và đạt đến đỉnh cao thông qua báo chí, văn học, phê bình. Giai đoạn mấy chục năm này đáng phải nghiên cứu học tập nhiều
  9. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Vâng, chia sẻ với sự ám ảnh và cảm ơn bạn đã tham gia viết bài, ý của bạn đã có trong sườn bài của tôi, tuy nhiên theo thời gian thì cong một khoảng xa nữa mới tới thời gian bạn đề cập, tôi sẽ sớm rút ngắn để trình bày, à mà trước mấy trang có đề cập tới ông Vĩnh, ảnh huởng của ông trong sự phổ cập chữ Quốc ngữ thời nửa đầu thế kỷ XX, bạn có thể xem lại, và nếu có thể, mời bạn đóng góp sự quan tâm của bạn, coi như để giải tỏa sự ám ảnh.
  10. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Tôi có thêm bài về A. de Rhodes, tuy nhiên lại không phù hợp với topic này, bạn nào muốn tham khảo xin mời xem tại đây: http://ttvnol.com/forum/f_533/1088024/trang-59.ttvn#15024840

Chia sẻ trang này