1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những người lính anh hung trong chiến tranh VN

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi haohoacongtu, 04/02/2014.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. haohoacongtu

    haohoacongtu Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/05/2006
    Bài viết:
    3.736
    Đã được thích:
    5.410
    Đế quốc và ********* không hiểu vì sao chúng thua. Vì VN có những anh hùng.





    Anh hùng liệt sĩ Phan Đình Giót


    Anh hùng Liệt sĩ Phan Đình Giót (1922-13/3/1954), Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân (truy phong; 31/3/1955), Khi hy sinh anh là Tiểu đội phó bộ binh Đại đội 58, Tiểu đoàn 428, Trung đoàn 141, Đại đoàn 312, Đảng viên **********************. Huân chương Quân công hạng Nhì.

    [​IMG]
    Anh sinh nǎm 1922 ở làng Tam Quang, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, trong một gia đình rất nghèo. Bố bị chết đói. Anh phải đi ở từ năm 13 tuổi cực nhọc, vất vả. Cách mạng tháng Tám thành công, anh tham gia tự vệ chiến đấu, đến năm 1950, anh xung phong đi bộ đội chủ lực. Trong cuộc sống tập thể quân đội, Phan Đình Giót luôn tự giác gương mẫu về mọi mặt, hết lòng thương yêu giúp đỡ đồng đội, sẵn sàng nhận khó khăn về mình, nhường thuận lợi cho bạn nên được đồng đội mến phục. Phan Đình Giót tham gia nhiều chiến dịch lớn như: Trung Du, Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên Phủ.

    Mùa đông năm 1953, đơn vị anh được lệnh tham gia chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Hành quân gần 500 km, vượt qua nhiều đèo dốc, mang vác nặng nhưng đồng chí vẫn kiên trì, giúp đồng đội về tới đích. Trong nhiệm vụ xẻ núi, mở đường, kéo pháo lên đèo xuống dốc vào trận địa rất gay go gian khổ, anh đã nêu cao tinh thần gương mẫu, bền bỉ và động viên anh em kiên quyết chấp hành nghiêm mệnh lệnh của cấp trên.

    Chiều ngày 13 tháng 3 năm 1954, quân ta nổ súng tiêu diệt Him Lam. Cả trận địa rung chuyển mù mịt sau nhiều loạt pháo ta bắn chuẩn bị.

    Các chiến sỹ đại đội 58 lao lên mở đường, đã liên tiếp đánh đến quả bộc phá thứ tám. Phan Đình Giót đánh quả thứ chín thì bị thương vào đùi nhưng vẫn xung phong đánh tiếp quả thứ mười. Quân Pháp tập trung hoả lực trút đạn như mưa xuống trận địa ta. Đồng đội bị thương vong nhiều.

    Lửa căm thù bốc cao, anh lao lên đánh liên tiếp hai quả nữa phá toang hàng rào cuối cùng, mở thông đường để đồng đội lên đánh sập lô cốt đầu cầu. Lợi dụng thời cơ địch đang hoang mang, Phan Đình Giót vọt lên bám chắc lô cốt số 2, ném thủ pháo, bắn kiềm chế cho đơn vị tiến lên. Anh lại bị thương vào vai, máu chẩy đầm đìa. Nhưng bất ngờ từ hoả điểm lô cốt số 3 của lính Pháp bắn rất mạnh vào đội hình ta. Lực lượng xung kích bị ùn lại, Phan Đình Giót cố gắng lê lên nhích dần đến gần lô cốt số 3 với ý nghĩ cháy bỏng, duy nhất là dập tắt ngay lô cốt này. Anh đã dùng hết sức mình còn lại nâng tiểu liên lên bắn mạnh vào lỗ châu mai, miệng hô to:

    "Quyết hy sinh…vì Đảng…vì dân!!.." rồi rướn người lấy đà, lao cả thân mình vào bịt kín lỗ châu mai địch. Hoả điểm lợi hại nhất của quân Pháp đã bị dập tắt, toàn đơn vị ào ạt xông lên như vũ bão, tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam, giành thắng lợi trong trận đánh mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ. Trước khi hy sinh, Phan Đình Giót đã được Tiểu đoàn, Đại đoàn khen thưởng 4 lần
    Lần cập nhật cuối: 04/02/2014
    muamuaha198muamuaha86 thích bài này.
  2. haohoacongtu

    haohoacongtu Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/05/2006
    Bài viết:
    3.736
    Đã được thích:
    5.410
    Anh hùng liệt sĩ Tô Vĩnh Diện



    [​IMG]
    Tô Vĩnh Diện (1924-1953), Liệt sĩ, Anh hùng Lực lượng Vũ Trang Nhân dân (Truy phong; 7/5/1955), khi hy sinh, anh là Tiểu đội trưởng pháo cao xạ 37 ly thuộc Đại đội 827, Tiểu đoàn 394, Trung đoàn 367.Huân chương Quân công hạng Nhì, Huân chương Chiến công hạng Nhất

    Tô Vĩnh Diện sinh trưởng trong một gia đình nghèo, ở xã Nông Trường, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hoá. Lên 8 tuổi đã phải đi ở cho địa chủ. Suốt 12 năm đi ở, anh phải chịu bao cảnh áp bức bất công. Năm 1946, anh tham gia dân quân ở địa phương. Năm 1949, đồng chí xung phong đi bộ đội.

    Tháng 5 năm 1953, quân đội ta thành lập các đơn vị pháo cao xạ để chuẩn bị đánh lớn. Tô Vĩnh Diện được điều về làm tiểu đội trưởng một đơn vị pháo cao xạ. Trong quá trình hành quân cơ động trên chặng đường hơn 1000 km tới vị trí tập kết để tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, anh luôn luôn gương mẫu làm mọi việc nặng nhọc, động viên giúp đỡ đồng đội kéo pháo tới đích an toàn.

    Trong lúc kéo pháo qua những chặng đường khó khăn nguy hiểm, anh xung phong lái để bảo đảm an toàn cho khẩu pháo. Trong lúc kéo pháo cũng như lúc nghỉ dọc đường, Tô Vĩnh Diện luôn luôn nhắc đồng đội chuẩn bị chu đáo và tự mình đi kiểm tra tỉ mỉ đường dây kéo pháo, xem xét từng đoạn đường, từng cái dốc rồi phổ biến cho anh em để tránh những nguy hiểm bất ngờ xẩy ra.

    Kéo pháo vào đã gian khổ, hy sinh, kéo pháo ra càng gay go ác liệt, anh đã đi sát từng người, động viên giải thích nhiệm vụ, giúp anh em xác định quyết tâm cùng nhau khắc phục khó khăn để đảm bảo thắng lợi.

    Qua 5 đêm kéo pháo ra đến dốc Chuối, đường hẹp và cong rất nguy hiểm. Tô Vĩnh Diện cùng đồng đội Ty xung phong lái pháo. Nửa chừng dây tời bị đứt, pháo lao nhanh xuống dốc, anh vẫn bình tĩnh giữ càng, lái cho pháo thẳng đường. Nhưng một trong bốn dây kéo pháo lại bị đứt, pháo càng lao nhanh, anh Ty bị hất xuống suối. Trong hoàn cảnh hiểm nghèo đó, Tô Vĩnh Diện hô đồng đội: “Thà hy sinh, quyết bảo vệ pháo” và anh buông tay lái xông lên phía trước, lấy thân mình chèn vào bánh pháo, nhờ đó đơn vị kịp ghìm giữ pháo dừng lại.

    Tấm gương hy sinh vô cùng anh dũng của đồng chí Tô Vĩnh Diện đã cổ vũ mạnh mẽ toàn đơn vị vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ, chuẩn bị chiến đấu và chiến đấu thắng lợi.
    muamuaha198muamuaha86 thích bài này.
  3. haohoacongtu

    haohoacongtu Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/05/2006
    Bài viết:
    3.736
    Đã được thích:
    5.410
    Anh hùng liệt sĩ Bế Văn Đàn


    Bế Văn Đàn sinh năm 1931, là người dân tộc Tày, quê ở xã Quang Vinh (nay là xã Triệu Ẩu), huyện Phục Hoà, tỉnh Cao Bằng. Ông xuất thân trong một gia đình nghèo có truyền thống cách mạng, cha làm thợ mỏ, mẹ mất sớm.

    Lớn lên, ông tham gia hoạt động du kích. Tháng l năm 1948, ông xung phong vào bộ đội giữa lúc cuộc chiến tranh Đông Dương đang quyết liệt. Ông tham gia nhiều chiến dịch, luôn nêu cao tinh thần dũng cảm, tích cực vượt qua mọi khó khăn ác liệt, kiên quyết chấp hành mọi chỉ thị mệnh lệnh nghiêm túc, chính xác kịp thời, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.[1]
    [​IMG]

    Mộ Bế Văn Đàn tại nghĩa trang A1thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên
    Cuộc kháng chiến chống Pháp của ********* đang ở giai đoạn quyết liệt, Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định mở chiến dịch Đông Xuân năm 1953 - 1954, đơn vị hành quân đi chiến dịch, Bế Văn Đàn làm liên lạc tiểu đoàn. Một đại đội của tiểu đoàn được giao nhiệm vụ bao vây giữ PhápMường Pồn. Lúc đó, khi thấy lực lượng ********* ít, Pháp tập trung hai đại đội có phi pháo yểm trợ liên tiếp phản kích, nhưng cả hai lần chúng đều bị quân ********* đánh bật. Cuộc chiến đấu diễn ra căng thẳng và quyết liệt. Quân Pháp liều chết xông lên, quân ********* kiên quyết ngăn chặn, chốt giữ.

    Lúc đó có lệnh cho đại đội quyết tâm giữ ở Mường Pồn bằng bất cứ giá nào, để các đơn vị khác triển khai lực lượng, thực hiện các chủ trương của chiến dịch. Mặc dù Bế Văn Đàn vừa đi công tác về nhưng khi thấy chỉ huy thông báo, ông đã xung phong lên đường làm nhiệm vụ. Bế Văn Đàn vượt qua lưới đạn dày đặc của quân Pháp, xuống truyền đạt mệnh lệnh cho đại đội kịp thời, chính xác. Trong khi đó, trận chiến đấu diễn ra ngày càng ác liệt hơn, Bế Văn Đàn được lệnh ở lại đại đội chiến đấu.

    Quân Pháp phản kích lần thứ ba, mở đường tiến, đại đội ********* bị thương vong nhiều, chỉ còn 17 người, bản thân Bế Văn Đàn cũng bị thương, nhưng ông vẫn tiếp tục chiến đấu.[1] Một khẩu trung liên của đơn vị không bắn được vì xạ thủ hy sinh. Khẩu trung liên của Chu Văn Pù cũng chưa bắn được vì không có chỗ đặt súng. Trong tình thế hết sức khẩn trương, Bế Văn Đàn không ngần ngại chạy lại cầm 2 chân khẩu trung liên đặt lên vai mình và hô đồng đội bắn. Pù còn do dự thì Bế Văn Đàn đã nói: Kẻ thù trước mặt, đồng chí có thương tôi thì bắn chết chúng nó đi!.[1] Trong lúc lấy thân mình làm giá súng, Bế Văn Đàn bị hai vết thương nữa và hy sinh, hai tay vẫn còn ghì chặt súng trên vai mình

    Hình ảnh "Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng" trở thành một trong những tấm gương tiêu biểu trong Quân đội nhân dân Việt Nam thời kỳ Chiến tranh Đông Dương. Bế Văn Đàn lúc hy sinh là tiểu đội phó, Đảng viên **********************. Ông đã để lại tấm gương chiến đấu dũng cảm, chấp hành nghiêm mệnh lệnh của cấp trên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Do đó, trong đại hội mừng công của đơn vị, đồng chí Bế Văn Đàn được truy tặng Huân chương chiến công hạng nhất và được bình bầu là chiến sĩ thi đua số một của tiểu đoàn. Với những thành tích đặc biệt xuất sắc, ngày 31/8/1955, Bế Văn Đàn được Quốc hội nước Việt Nam truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và Huân chương quân công hạng nhì.
    Để tưởng nhớ tấm gương hy sinh của Bế Văn Đàn,đã sáng tác bài hát "Bế Văn Đàn sống mãi" trong những năm 1960, có những câu:

    ...Mười năm qua anh vẫn còn (vẫn còn) sống mãi.
    Đất nước quê anh lá thắm rừng xanh, cam Mường Pồn quanh mồ anh sây đỏ.

    ....

    Đàn em thơ đang hát ca đời anh.
    ...Anh bước vào trang sách các em thơ
    Bế Văn Đàn một tâm hồn vĩ đại...

    Tại Hà Nội có phố và trường học phổ thông mang tên Bế Văn Đàn. Tại TP Hồ Chí Minh có con đường mang tên Bế Văn Đàn ở Phường 14, quận Tân Bình
    muamuaha198muamuaha86 thích bài này.
  4. haohoacongtu

    haohoacongtu Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/05/2006
    Bài viết:
    3.736
    Đã được thích:
    5.410
    Anh hùng Võ thị Sáu

    Võ Thị Sáu tên thật là Nguyễn Thị Sáu sinh năm (1933- 1953) ở xã Phước Thọ, quận Đất Đỏ, nay là huyện Long Đất, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu. Được sinh ra ở vùng quê giàu truyền thống cách mạng, chị rất vui tính, lúc nào cũng cười cũng hát, chị thích thêu thùa, may vá, rất yêu hoa, nhất là hoa lê- ki- ma. Năm 12 tuổi chị được anh trai giác ngộ cách mạng, chính mắt chị cũng đã chứng kiến cảnh giặc pháp và bọn Việt gian hà hiếp, giết chóc đồng bào, tàn sát quê hương mình.




    Kính thưa các thầy giáo, cô giáo và các bạn học sinh thân mến!

    Chi đội “Võ Thị Sáu” xin giới thiệu tiểu sử anh hùng liệt sĩ Võ Thị Sáu như sau: Võ Thị Sáu tên thật là Nguyễn Thị Sáu sinh năm (1933- 1953) ở xã Phước Thọ, quận Đất Đỏ, nay là huyện Long Đất, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu. Được sinh ra ở vùng quê giàu truyền thống cách mạng, chị rất vui tính, lúc nào cũng cười cũng hát, chị thích thêu thùa, may vá, rất yêu hoa, nhất là hoa lê- ki- ma.

    Năm 12 tuổi chị được anh trai giác ngộ cách mạng, chính mắt chị cũng đã chứng kiến cảnh giặc pháp và bọn Việt gian hà hiếp, giết chóc đồng bào, tàn sát quê hương mình. Vì vậy, chị sớm biết căm thù giặc và theo anh trai trốn lên chiến khu giúp cách mạng trong mọi việc. Năm 1947 khi mới 14 tuổi,chị gia nhập đội công an xung phong quận Đất Đỏ với mong muốn trừng trị bọn ác ôn. Từ đó, chị đã trở thành người chiến sĩ trinh sát làm nhiệm vụ phá tề, trừ gian với nhiều chiến công nỗi tiếng. Năm 1949 chị nhận nhiệm vụ đầu tiên cách mạng giao cho. Về Đất Đỏ chị dùng lựu đạn giết một tên quan ba Pháp và làm bị thương 23 tên lính giặc, sau đó chị ở lại Bà Rịa làm nhiệm vụ điều tra tình hình địch và tiếp tế cho chiến khu.

    Tháng 2/1950, chị dẫn đầu một tổ, dùng lựu đạn tập kích diệt hai tên ác ôn Cả Suốt, Cả Đay. Không may chị bị sa vào tay địch. Chúng dùng mọi cực hình tra tấn, nhưng không khai thác được gì nên chúng đã đưa chị về giam tại Khám Chí Hoà, Sài Gòn để tiếp tục khai thác. Sau đó chúng mở phiên toà tuyên án tử hình chị. Biết rõ âm mưu của địch song chị vẫn hồn nhiên, vui tươi, tin tưởng vào tiến đồ tất thắng của cách mạng Việt Nam. Tại phiên toà đại hình, tuy mới 17 tuổi, nhưng chị Võ Thị Sáu đã hiên ngang tỏ rõ khí phách anh hùng của một thiếu nữ Việt Nam làm cho lũ quan toà và đồng bọn đều phải nể sợ. Chị sang sảng khẳng định: “ Yêu nước chống bọn thực dân xâm lược không phải là tội”. Và khi tên quan toà rung chuông ngắt lời chị, tuyên án: “ Tử hình, tịch thu toàn bộ tài sản”, chị đã thét vào mặt y: “ Tao còn mấy thùng rác ở Khám Chí Hoà, tụi bây vô mà tịch thu!”. Tiếp đó là tiếng hô: “Đả đảo thực dân Pháp!”. “ Kháng chiến nhất định thắng lợi!”.Thực dân pháp muốn giết chết ngay người con gái đáng sợ này, nhưng không giám thực hiện bản án tử hình đối với người chưa đến tuổi thành niên. Chúng phải tiếp tục giam chị ở Khám Chí Hoà và rồi đưa ra Côn Đảo.



    Ngày 23/1/1952, chúng thi hành bản án, bắn chết chị sau hai ngày chúng đưa chị ra Côn Đảo ở ngoài một hòn đảo xa đất liền. Biết sắp bị hành hình, suốt đêm 22, chị đã gửi lòng mình với đất nước và nhân dân bằng những bài ca cách mạng: “ Lên đàng”, “ Tiến quân ca”, “ Cùng nhau đi hùng binh” …Bốn giờ sáng ngày 23/1/1952, sau khi tên chánh án làm thủ tục thi hành án, viên cố đạo liền lên tiếng: “ Bây giờ cha rữa tội cho con”. Chị gạt phắt lời viên cha cố: “ Tôi không có tội. Chỉ có kẻ sắp hành hình tôi đây mới là có tội…”. Ông ta kiên nhẫn thuyết phục: “ Trước khi chết, con có điều gì ân hận không?”. Chị nhìn thẳng vào mặt ông ta và mặt tên chánh án, trả lời: “ Tôi chỉ ân hận là chưa tiêu diệt hết bọn thực dân cướp nước và lũ tay sai bán nước”.

    Đã được mật báo về hành động anh hùng của chi Võ Thị Sáu và cả ngày giờ giặc Pháp hành hình chị- một nữ tù đầu tiên và duy nhất ở côn đảo từ trước tới thời điểm này. Hàng ngàn trái tim những người tù chính trị từ banh I đến banh II đã thổn thức suốt đêm. Khi lắng nghe thấy bước chân bọn đao phủ giải chi Sáu đến nơi hành hình, tất cả anh em cùng đứng dậy hát vang bài chiến sĩ ca- bài hát thời ấy dành để bày tỏ lòng cảm phục, tiếc thương và tiễn đưa những người đồng đội ra pháp trường. Ra đến pháp trường, tên chánh án hỏi chị: “ Còn yêu cầu gì trước khi chết?”. Chị nói: “ Không cần bịt mắt tôi. Hãy để cho đôi mắt tôi được nhìn đất nước thân yêu đến giây phút cuối cùng và tôi có đủ can đảm để nhìn thẳng vào họng súng của các người”.Nói xong, chị bắt đầu cất cao tiếng hát. Chị hát bài tiến quân ca. Giọng hát của người con gái Đất Đỏ lúc này thiết tha bay bổng, say sưa át cả tiếng tên chánh án đọc lệnh thi hành án tử hình. Khi tên chỉ huy ra lệnh cho bọn lính chuẩn bị nổ súng thì chị lập tức ngưng hát và thét lên: “Đả đảo thực dân Pháp!”. “ Việt Nam độc lập muôn năm!”. “ Hồ Chủ Tịch muôn năm!”.]Chị Sáu đã hy sinh, nhưng chị để lại trong lòng mỗi người dân Côn Đảo nói riêng và người dân Việt Nam nói chung, lòng ngưỡng mộ một vị anh hùng nhỏ tuổi hồn nhiên, gan dạ, dũng cảm giám đối đầu với kẻ thù và không chịu khuất phục trước những thế lực ********* bán nước và cướp nước.

    Để tỏ lòng biết ơn các anh hùng đã hy sinh cho độc lập dân tộc. Chúng em, chi đội “ Võ Thị Sáu” nói riêng và toàn thể đội viên ĐTNTP HCM trường THCS Đak Đoa nói chung nguyện ra sức học tập, rèn luyện phấn đấu để sau này trở thành những người có ích cho quê hương, cho đất nước. Tiếp bước cha anh xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp hơn. Sau đây chi đội “ Võ Thị Sáu” xin gửi đến quý thầy cô giáo và các bạn bài hát múa phụ hoạ : “ Biết ơn chị Võ Thị Sáu”…
    muamuaha198, muamuaha86yetkieu thích bài này.
  5. haohoacongtu

    haohoacongtu Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/05/2006
    Bài viết:
    3.736
    Đã được thích:
    5.410
    Anh hùng La Văn Cầu
    La Văn Cầu sinh năm 1932, dân tộc Tày, quê ở xã Quang Thành, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là Tiểu đội trưởng bộ binh thuộc Đại đội 671, Tiểu đoàn 73, Đại đoàn 316, đảng viên **********************.


    La Văn Cầu sinh ra và lớn lên trong một gia đình vốn có mối thù sâu với đế quốc, phong kiến. Cha bị giặc Pháp bắt, đánh dập dã man, sau kiệt sức rồi chết. Đồng chí phải sống vất vả cực khổ ngay từ nhỏ. Cách mạng tháng Tám thành công, được cán bộ tuyên truyền giác ngộ, đồng chí hiểu rõ nguồn gốc sự khổ cực của người nghèo và người dân mất nước. Năm 1948, La Văn Cầu mới 16 tuổi đã khai tăng lên 18 để vào bộ đội. Được toại nguyện, đồng chí rất phấn khởi, trong đời sống hàng ngày, luôn gương mẫu tự rèn luyện, giúp đỡ dìu dắt những đồng chí yếu cùng tiến bộ, được anh em rất quý mến. Đồng chí đã chiến đấu 29 trận, trận nào cũng thể hiện rõ tinh thần gương mẫu, dũng cảm, kiên quyết vượt qua khó khăn, chấp hành nghiêm mệnh lệnh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

    Trong trận phục kích địch ở Bông Lau (năm 1949), đồng chí đã xung phong vào tổ xung kích. Khi nổ súng, có lệnh xung phong, đồng chí dũng cảm xông lên, khi phát hiện 1 tên Pháp ngồi trên xe tăng, đồng chí nhanh chóng tiêu diệt và nhanh nhẹn nhảy lên xe cướp súng. Ngoảnh lại sau đã thấy 3 tên lính Pháp khác chạy đến, đồng chí liền dùng khẩu súng vừa cướp được bắn gục cả 3 tên rồi nhảy xuống xe, tiếp tục truy lùng, diệt thêm 6 tên nữa.

    Trong chiến dịch Biên Giới, trận đánh đồn Đông Khê lần thứ nhất (năm 1950), đồng chí bị đau chân nhưng vẫn kiên quyết xin đi chiến đấu. Khi trận đánh gặp khó khăn, đơn vị bạn bị thương vong nhiều, đồng chí đã động viên anh em trong tiểu đội, hầu hết là tân binh, băng bó và cõng hết thương binh về nơi an toàn. Trên đường rút về, địch nhảy dù phản kích ta, mặc dù chân đau và rất mệt, đồng chí vẫn cố vác khẩu 12 ly 7 thu được của địch về tới đơn vị.

    Trận Đông Khê lần thứ hai (năm 1950), La Văn Cầu được phân công chỉ huy tổ bộc phá làm nhiệm vụ phá hàng rào và đánh lô cốt đầu cầu. Phá được hai hàng rào thì tổ bị thương hai đồng chí. Địch tập trung bắn dữ dội vào cửa mở, phá hủy mất một số bộc phá ống. Để dành bộc phá đánh lô cốt, đồng chí đã động viên anh em trong tổ tháo gỡ mìn của địch và dũng cảm xông lên dùng mìn phá nốt hai hàng rào cuối cùng. Khi tiến đánh lô cốt thì tổ bị thương hết, chỉ còn lại một mình, nhưng đồng chí không ngần ngại vẫn hăng hái tìm cách xông lên hoàn thành nhiệm vụ của tổ bộc phá. Vượt rào được đến hào giao thông thứ ba thì đồng chí bị thương và ngất đi. Tỉnh dậy thấy cánh tay phải bị đạn bắn gãy nát, nghĩ đến nhiệm vụ chưa hoàn thành, đồng chí đã cố quay trở lại, gặp đồng đội, đồng chí khẩn thiết yêu cầu chặt hộ cánh tay để khỏi vướng rồi lại tiếp tục ôm bộc phá xông lên, phá tan lô cốt đầu cầu, mở đường cho đơn vị xung phong diệt gọn vị trí địch. Tấm gương của La Văn Cầu đã cổ vũ phong trào thi đua diệt giặc lập công trong đơn vị, là lá cờ đầu trong phong trào thi đua sử dụng bộc phá công đồn, một hình thức chiến thuật mới của bộ đội chủ lực ta từ chiến dịch Biên Giới.

    La Văn Cầu đã được tặng thưởng 1 Huân chương Quân công hạng ba. Trong Đại hội liên hoan Anh hùng và Chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất tháng 5 năm 1952, đồng chí được Chính phủ và Hồ Chủ tịch tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhất.

    Ngày 19 tháng 5 năm 1952, La Văn Cầu được ************* Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
    muamuaha198muamuaha86 thích bài này.
  6. onelove114

    onelove114 Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    19/11/2010
    Bài viết:
    1.025
    Đã được thích:
    810
    muamuaha86yetkieu thích bài này.
  7. Teo Nguyen

    Teo Nguyen Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/01/2014
    Bài viết:
    12
    Đã được thích:
    2
    [​IMG]
    [​IMG]

    Chân dung lãnh tụ Nguyễn Thái Học
    Nguyễn Thái Học (chữ Hán: 阮太學; 1 tháng 12, 190217 tháng 6, 1930) là sinh viên và nhà cách mạng Việt Nam chủ trương dùng vũ lực lật đổ chính quyền thuộc địa Pháp để thành lập một nước độc lập Việt Nam Dân Quốc. Ông sáng lập Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) năm 1927 và lãnh đạo cuộc Khởi nghĩa Yên Bái năm 1930. Cuộc khởi nghĩa thất bại, ông bị Pháp áp giải từ ngục thất Hỏa LòHà Nội lên Yên Bái chặt đầu cùng với 12 đảng viên VNQDĐ sáng sớm ngày 17 tháng 6 năm 1930.
    muamuaha86 thích bài này.

Chia sẻ trang này